Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghề luật sư là một nghề đặc thù riêng, không giống như các ngành nghề kinh doanh, thương mại và dịch vụ khác. Người hành nghề luật sư không dựa trên nguồn vốn mà cần phải có kiến thức pháp luật và kỹ năng hành nghề. Đặc điểm hoạt động nghề nghiệp của luật sư là hành nghề độc lập và chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt động nghề nghiệp của mình. Tuy nhiên, để hỗ trợ, giúp đỡ nhau, đồng thời đáp ứng nhu cầu của khách hàng, nâng cao uy tín trước khách hàng, các luật sư có thể hợp tác với nhau trong các tổ chức hành nghề nhất định. Pháp luật nhiều nước trên thế giới quy định hình thức hành nghề của luật sư phổ biến là văn phòng luật sư cá nhân và công ty luật.Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
- một số nước như Hy Lạp, Achentina, Brazil, Thụy Sỹ, Nhật Bản hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn không được chấp nhận, vì không phù hợp với chế độ trách nhiệm vô hạn của luật sư trong hoạt động nghề nghiệp. Đối với nghề luật sư ở Anh, Mỹ, thì hình thức hành nghề phổ biến là công ty hợp danh. Một số nước như Pháp, Canada, Bỉ, Singapore, Thái Lan, Đức không bắt buộc phải hành nghề dưới hình thức nhất định. Hình thức hành nghề luật sư của các nước này tương đối đa dạng, bên cạnh công ty hợp danh, các luật sư có thể chọn những hình thức kinh doanh thông thường như công ty liên doanh… Ngoài ra, còn quy định luật sư có thể hành nghề độc lập, mà không cần thành lập văn phòng hay công ty.
- Việt Nam, theo quy định của Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987, thì Đoàn luật sư vừa là tổ chức mang tính xã hội – nghề nghiệp của luật sư, vừa là nơi hành nghề của luật sư. Hình thức tổ chức này không phù hợp với tính chất của nghề luật sư, chưa phát huy được tính năng động, tự chủ của luật sư và chưa đề cao trách nhiệm của cá nhân luật sư. Sau khi Quốc hội thông qua Luật Doanh nghiệp năm 1999, thì một vấn đề được đặt ra là liệu luật sưcó được hành nghề theo các loại hình doanh nghiệp được quy định trong Luật Doanh nghiệp hay không? Có ý kiến cho rằng, luật sư được lựa chọn các hình thức hành nghề theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Nhưng có ý kiến khác lại cho rằng, do đặc thù của nghề luật sư là phải chịu trách nhiệm vô hạn, nên chỉ có hình thức công ty hợp danh là phù hợp với nghề luật sư. Dựa vào mô hình bố trí các loại hình doanh nghiệp của Luật Doanh nghiệp năm 1999, Pháp lệnh Luật sư năm 2001 đã xác định các hình thức tổ chức hành nghề luật sư với đặc trưng riêng của nghề luật sư, theo đó, luật sư có thể tự mình thành lập văn phòng luật sư riêng của mình, cùng với các luật sư khác thành lập văn phòng luật sư hoặc công ty luật hợp danh. Theo Pháp lệnh này, công ty luật hợp danh là hình thức hành nghề của luật sư, song vì công ty luật hợp danh là hình thức kinh doanh không phù hợp với hoạt động tham gia tố tụng, đặc biệt với điều kiện của Việt Nam thời điểm đó, nên Pháp lệnh quy định công ty luật hợp danh được thực hiện tư vấn pháp luật, dịch vụ pháp lý khác, nhưng không được thực hiện dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực tố tụng (khoản 2 Điều 18 Pháp lệnh Luật sư).Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Luật Doanh nghiệp năm 2005 được ban hành đã quy định cụ thể hơn về các loại hình doanh nghiệp, theo đó hình thức hành nghề của luật sư cũng đã có bước tiến mới. Luật Luật sư năm 2006 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư năm 2012 đã có các quy định theo hướng đưa các tổ chức hành nghề luật sư xích lại gần với các loại hình doanh nghiệp. Theo quy định của Luật Luật sư, thì tổ chức hành nghề luật sư bao gồm: (i) Văn phòng luật sư là tổ chức hành nghề luật sư do một luật sư thành lập được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân; luật sư thành lập văn phòng luật sư là trưởng văn phòng và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi nghĩa vụ của văn phòng. Trưởng văn phòng là người đại diện theo pháp luật của văn phòng; (ii) Công ty luật bao gồm công ty luật hợp danh và công ty luật trách nhiệm hữu hạn. So với Pháp lệnh Luật sư năm 2001, Luật Luật sư đã quy định thêm loại hình công ty luật trách nhiệm hữu hạn. Hơn nữa, để phù hợp với quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Luật sư còn quy định công ty luật trách nhiệm hữu hạn có thể là công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên hoặc công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Thành viên của công ty luật phải là luật sư. Công ty luật hợp danh do ít nhất hai luật sư thành lập và không có thành viên góp vốn. Công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên do ít nhất hai luật sư thành lập. Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên do một luật sư thành lập và là chủ sở hữu. Các thành viên công ty luật hợp danh, công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên thỏa thuận cử một thành viên làm giám đốc công ty. Luật sư làm chủ sở hữu công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên làm giám đốc công ty. Văn phòng luật sư, công ty luật có các quyền, nghĩa vụ theo quy định của Luật Luật sư, Luật Doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Qua thời gian thực hiện và thi hành Luật Luật sư, có thế thấy về mô hình tổ chức hành nghề luật sư của Việt Nam hiện tại là chưa hợp lý, còn nhiều bất cập, cụ thể: (i) Luật Luật sư hiện hành mở rộng hình thức tổ chức hành nghề luật sư theo hướng cho phép thành lập công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên và công ty luật trách nhiệm một thành viên là chưa hợp lý. Bởi lẽ, nghề luật sư là một nghề đặc thù không giống các ngành nghề kinh doanh khác. Đặc điểm hoạt động nghề luật sư là hành nghề độc lập và chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt động nghề nghiệp của mình. Hình thức công ty luật trách nhiệm hữu hạn không phù hợp với chế độ trách nhiệm vô hạn của luật sư trong hoạt động nghề nghiệp; (ii) Có sự không thống nhất, mâu thuận giữa Luật Luật sư, Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Luật sư và Luật Doanh nghiệp. Đây là mâu thuận khá nghiêm trọng bởi Luật Doanh nghiệp không cho phép chuyển đổi công ty hợp danh thành công ty trách nhiệm hữu hạn và ngược lại. Ngoài ra còn một số bất cập trong quy định pháp luật về công ty luật như vấn đề áp dụng pháp luật…Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Xuất phát từ những đòi hỏi của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và thực trạng của tổ chức và hoạt động của các công ty luật ở nước ta, việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam” là cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Thông qua việc nghiên cứu sẽ bổ sung thêm cơ sở lý luận và thực tiễn đối với việc hoàn thiện pháp luật về công ty luật ở Việt Nam trong điều kiện cải cách tư pháp , xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đó cũng là lý do mà tác giả đa ̃lựa chọn đề tài này để nghiên cứu và làm Luận văn Thạc sĩ luật học.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Luật
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Pháp luật về hình thức tổ chức hành nghề luật sư nói chung và pháp luật về công ty luật nói riêng là đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học và đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này.
- Trong lĩnh vực luật sư và hành nghề luật sư đã có một số công trình: – Đề tài khoa học cấp Bộ: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở Việt Nam”do đồng chí Nguyễn Văn Thảo, Vụ trưởng Vụ Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp làm chủ nhiệm đề tài, năm 2003;
- Đề tài khoa học cấp Bộ: “Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam, thực trạng, nhu cầu, và định hướng phát triển” do TS. Nguyễn Văn Tuân, Tổng biên tập Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp làm chủ nhiệm đề tài, năm 2005;
- Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Dương Đình Khuyến về: “Vấn đề xã hội hóa về hoạt động luật sư và tư vấn pháp luật”, năm 2001.Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
(ii) Nghiên cứu pháp luật về hình thức tổ chức hành nghề luật sư:
- Luận án Tiến sĩ luật học của Luật sư Phan Trung Hoài với đề tài:
“Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở Việt Nam”, năm 2003;
- Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Anh Minh với đề tài
“Luật sư và tổ chức hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay”, năm 2009.
(iii) Nghiên cứu về các loại hình công ty, đã có một số công trình cụ thể:
- Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Thùy Giang “Pháp luật Việt Nam về công ty hợp danh”, năm 2012;
- Luận án Tiến sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Huế với đề tài:
“Pháp luật về công ty hợp danh ở Việt Nam”.
Những công trình nghiên cứu khoa học trên đây đề cập nhiều về các vấn đề lý luận liên quan đến tổ chức luật sư và hành nghề luật sư ở Việt Nam, góp phần làm rõ hơn lý luận và thực tiễn về tổ chức luật sư và hành nghề luật sư, trong đó, có nhiều kiến giải, luận điểm khoa học đã được vận dụng vào thực tiễn. Tuy nhiên, chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện pháp luật về công ty luật ở Việt Nam với tư cách là hành lang pháp lý cho hình thức hành nghề của luật sư, những kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố sẽ là các tư liệu quý giá để tác giả kế thừa và tham khảo trong quá trình nghiên cứu đề tài.Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Mục đích của Luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về công ty luật ở Việt Nam, để từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về công ty luật, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty luật ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn được xác định là:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận pháp luật về công ty luật;
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật về công ty luật ở Việt Nam;
- Đề xuất các định hướng và giải pháp để hoàn thiện pháp luật về công ty luật ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hệ thống các quy định pháp luật về công ty luật ở Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn cũng tham khảo kinh nghiệm pháp luật của một số nước về vấn đề này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu pháp luật về công ty luật từ khi Luật Luật sư năm 2006 được ban hành đến nay.
- Về không gian: Pháp luật của Việt Nam và tham khảo kinh nghiệm pháp luật của một số nước trên thế giới.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Để tiếp cận nghiên cứu đề tài này một cách hệ thống và hiệu quả , tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cƣ́u chủ yếu là phân tích , tổng hợp, suy luận logic, so sánh đối chiếu, thống kê và dùng sự kiện để chứng minh nhận định dựa trên nền tảng phương pháp tư duy của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử theo tư tưởng Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Về mặt khoa học, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận pháp luật về công ty luật, đồng thời làm phong phú thêm cơ sở khoa học về áp dụng pháp luật trong quá trình thực thi. Luận văn có thể là tài liệu tham khảo có giá trị trong việc nghiên cứu, giảng dạy về pháp luật, đáp ứng yêu cầu của tiến trình cải cách tư pháp.
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện pháp luật về công ty luật, các quy định của Luật Luật sư, Luật Doanh nghiệp cho phù hợp với đặc trưng của nghề luật sư cũng như thông lệ trên thế giới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận pháp luật về công ty luật
Chương 2: Thực trạng pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Chương 1. NHƯNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY LUẬT
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY LUẬT
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của công ty luật
1.1.1.1. Khái niệm công ty luật Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Khái niệm chung về công ty: Công ty (company) có thể mang những tên gọi khác nhau như tổ hợp (corporation), hãng (firm), tập đoàn (group), doanh nghiệp hay xí nghiệp (enterprise), nhà máy (factory) hoặc tổ chức (organization)… Trong khoa học pháp lý, khi nghiên cứu, tìm hiểu về công ty, pháp luật các quốc gia trên thế giới đưa ra không ít khái niệm.
Bộ luật Dân sự Công hòa Pháp quy định: “Công ty là một hợp đồng thông qua đó hai hay nhiều người thỏa thuận với nhau sử dụng tài sản hay khả năng của mình vào một hoạt động chung nhằm chia lợi nhuận thu được qua hoạt động đó”.[28] Nhà luật học Kubler Cộng hòa Liên bang Đức quan niệm rằng: “Khái niệm công ty được hiểu là sự liên kết của hai hay nhiều cá nhân hoặc pháp nhân bằng một sự kiện pháp lý nhằm tiến hành các hoạt động để đạt một mục tiêu chung nào đó”.[19]
Theo Luật của bang Georgia – Mỹ, thì “công ty là một pháp nhân được tạo ra bởi luật định nhằm một mục đích chung nào đó nhưng có thời hạn về thời gian tồn tại, về quyền hạn, về nghĩa vụ và các hoạt động được ấn định trong điều lệ”. Theo luật của bang Lousiana – Mỹ, “công ty là một thực thể được tạo ra bởi luật định bao gồm một hoặc nhiều cá thể dưới một tên chung. Những thành viên có thể kế nghiệp lẫn nhau, vì thế công ty là một khối thống nhất. Tuy nhiên, sự thay đổi của những các thể trong công ty cho một mục đích cụ thể nào đó được xem xét như một con người cụ thể”.
Việt Nam, tuy không đưa ra một khái niệm chung về công ty, nhưng qua định nghĩa chung về công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn được quy định tại Điều 2 Luật Công ty năm 1990 thì: “Công ty… là doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn, cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp và chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn của mình góp vào công ty”.
Qua một số khái niệm trên cho thấy, các quy định về công ty có những nét tương đồng, bên cạnh đó cũng có những điểm khác nhau, nhưng tổng hợp chung lại có khái niệm tổng quát như sau: “Công ty là sự liên kết của hai hay nhiều người (cá nhân hay pháp nhân) bằng một sự kiện pháp lí trong đó các bên thoả thuận với nhau sử dụng tài sản hay khả năng của họ nhằm tiến hành các hoạt động để đạt mục tiêu chung”.Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Với khái niệm này, công ty có ba đặc điểm cơ bản: (i) Sự liên kết của hai hay nhiều người hoặc tổ chức, sự liên kết này thể hiện ở hình thức bên ngoài là một tổ chức; (ii) Sự liên kết được thực hiện thông qua một sự kiện pháp lý (hợp đồng, điều lệ, quy chế), các thành viên bỏ ra một số tài sản của mình để góp vào công ty; (iii) Sự liên kết nhằm mục đích chung.
Có nhiều sự liên kết giống công ty nhưng không do luật công ty điều chỉnh như cộng đồng kinh tế, các hiệp hội. Theo khái niệm trên, thì có rất nhiều loại công ty với các mục đích khác nhau, trong đó có các loại công ty thương mại hay công ty kinh doanh là phổ biến, ngoài ra còn có các công ty dân sự. Có thể phân loại công ty theo các các tiêu chí sau:
- Theo lĩnh vực hoạt động, thường có: Công ty thương nghiệp/thương mại, công ty vận tải, công ty công nghiệp, công ty tài chính, ngân hàng, công ty luật, công ty bảo hiểm…
- Theo chế độ sở hữu, có: Công ty nhà nước, công ty tư nhân.
- Theo phạm vi kiểm soát hay tư cách pháp nhân, có công ty nội địa,công ty nước ngoài, công ty hỗn hợp…
- Theo tính chất giao dịch, thường có công ty môi giới, công ty đại lý,công ty bán buôn, công ty bán lẻ…
- Theo phân định trách nhiệm, có công ty trách nhiệm hữu hạn (các thành viên chỉ chịu trách nhiệm về phần vốn đóng góp của mình), công ty trách nhiệm vô hạn (một số ít thành viên chính còn phải chịu trách nhiệm về những tài sản khác ngoài phần vốn đóng góp của mình).Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Khái niệm công ty luật: Công ty là chủ thể (subject) tiến hành hoạt động kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận. Theo Perter Drucker, thuật ngữ “kinh doanh” (business) còn có nghĩa “khai thác” (exploitation). Kinh doanh là các hoạt động theo đuổi lợi nhuận. Như vậy, bản thân thuật ngữ kinh doanh đã bao gồm các hoạt động thuộc nhiều lĩnh vực như: Tìm kiếm, thăm dò, khai thác (nguyên liệu, năng lượng), pháp lý (pháp luật), sản xuất (công nghiệp, nông nghiệp), lưu thông phân phối, tiêu thụ sản phẩm (gọi chung là thương mại). Với quan niệm đó, nếu nói “trong sản xuất và kinh doanh”, thì chưa chính xác, bởi vì bản thân sản xuất cũng là một khâu của kinh doanh. Trong kinh doanh, mỗi công ty đương nhiên có chủ sở hữu (owner). Ngược lại, một chủ sở hữu có thể có nhiều công ty hay xí nghiệp khác nhau, ở những lĩnh vực khác nhau (chủ sở hữu công ty có thể tuyển giám đốc điều hành hay người quản lý công ty thay mình bằng quan hệ hợp đồng thoả thuận).
Kinh doanh dịch vụ pháp lý là một ngành, nghề kinh doanh mà cá nhân phải đáp ứng đủ điều kiện luật định, thì mới được phép lựa chọn thành lập các loại hình công ty để tiến hành hoạt động kinh doanh. Người muốn thành lập công ty luật để kinh doanh dịch vụ pháp lý phải là luật sư. Nghề luật sư rất chú ý đến vai trò cá nhân, uy tín nghề nghiệp của luật sư và tính chất của nghề tự do trong tổ chức hành nghề luật sư. Vì tính chất đặc thù đó, có thể đưa ra khái niệm về công ty luật như sau: Công ty luật là một loại hình công ty gồm một hoặc hai thành viên trở lên là luật sư, tự bỏ vốn hoặc cùng nhau góp vốn để thành lập một pháp nhân với mục đích chung là kinh doanh dịch vụ pháp lý. Tùy theo loại hình công ty, thành viên công ty có thể chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty hoặc chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty.Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Mỗi quốc gia có một hệ thống pháp luật riêng, các hình thức công ty luật phổ biến trên thế giới gồm các loại hình sau: (i) Công ty luật hợp danh;
- Công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên; (iii) Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Công ty luật là một loại hình công ty hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ pháp lý, các nước trên thế giới quy định các loại hình công ty luật khác nhau, nhưng chủ yếu là ba loại hình:
- Công ty luật hợp danh: Là một loại hình công ty đối nhân, có ít nhất hai luật sư là chủ sở hữu chung, cùng nhau kinh doanh dịch vụ pháp lý dưới một tên chung. Thành viên hợp danh cùng liên đới chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Tuy nhiên, một số nước như Mỹ, công ty luật hợp danh bao gồm hợp danh thông thường và hợp danh hữu hạn. Công ty hợp danh thông thường do các luật sư cùng nhau thành lập, điều hành công ty cũng như cùng chịu trách nhiệm và cùng hưởng lợi nhuận thu được. Các luật sư trong công ty hợp danh thông thường chịu trách nhiệm cá nhân và liên đới đối với các nghĩa vụ của công ty. Công ty hợp danh hữu hạn do ít nhất hai luật sư trở lên thành lập , trong đó có ít nhất một luật sư chịu trách nhiệm vô hạn về các nghĩa vụ của công ty (hội viên nhận vốn), còn các luật sư khác chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn góp vào công ty (hội viên hùn vốn).
- Công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên: Là một loại hình công ty có ít nhất hai thành viên trở lên là luật sư cùng góp vốn để thành lập một pháp nhân nhằm kinh doanh dịch vụ pháp lý. Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn cam kết góp vào công ty.
- Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên: Là công ty do một luật sư thành lập và làm chủ sở hữu nhằm kinh doanh dịch vụ pháp lý. Chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
Ở Đức, còn cho phép luật sư thành lập công ty luật liên doanh. Luật về Luật sư năm 1996 của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, sửa đổi ngày 28/10/2007 quy định: Công ty luật có thể được thành lập dưới hình thức công ty luật tư nhân, công ty luật hợp danh và công ty luật có vốn đầu tư nhà nước. Qua nghiên cứu cho thấy, bản chất của công ty luật là hình thức tổ chức hành nghề luật sư, do các luật sư tự thành lập hoặc tham gia thành lập nhằm thực hiên hoạt động nghề nghiệp của luật sư, góp phần bảo vệ công lý và tiến bộ xã hội.
1.1.1.2. Đặc điểm của công ty luật Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Không có khái niệm chung về công ty luật, do đó đương nhiên không có những quy định khuôn mẫu, thống nhất về đặc điểm pháp lý của loại hình liên kết này trong các hệ thống pháp luật trên thế giới. Luật mỗi quốc gia đưa ra những quy chế pháp lý riêng cho công ty luật, tuy nhiên tựu trung lại, các quy định đều tương đối đồng nhất với nhau ở một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, thành viên thành lập hoặc tham gia thành lập công ty là luật sư. Đặc điểm này thể hiện tính chất nghề nghiệp của luật sư là hành nghề độc lập và chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt động nghề nghiệp của mình.
Thứ hai, là hình thức công ty hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ pháp lý, là công ty đối nhân, chịu trách nhiệm vô hạn.
Thứ ba, tính chất đối vốn của công ty không đặt ra, vì việc hành nghề luật sư không dựa trên nguồn vốn, mà dựa vào kiến thức pháp luật và kỹ năng hành nghề của luật sư.
Thứ tư, tư cách pháp lý của thành viên không thể chuyển nhượng hay thừa kế, điều này xuất phát từ tính chất nghề nghiệp của luật sư, vì thế khi một thành viên ra khỏi công ty hoặc chết nếu không đủ số thành viên theo quy định, công ty phải chuyển đổi loại hình hoặc chấm dứt hoạt động.Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Thứ năm, công ty luật chịu sự quản lý trực tiếp của cơ quan tư pháp (Sở Tư pháp) và tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư.
Thứ sáu, công ty không được phát hành cổ phiếu ra công chúng để huy động vốn.
1.1.1.3. Vai trò của công ty luật
Là một trong những loại hình công ty xuất hiện sớm trong lịch sử, có vai trò vô cùng quan trọng trong xã hội. Bên cạnh vai trò chung như các loại hình công ty khác, công ty luật có ý nghĩa riêng khiến cho nó không thể thiếu được trong xã hội.
Thứ nhất, công ty luật góp phần quan trọng trong việc tham gia tuyên truyền, phổbiến, giáo dục pháp luật
Luật sư là một nghề cao quý trong xã hội, người muốn hành nghề luật sư phải có kiến thức pháp luật chuyên sâu. Luật sư trước hết là một chuyên gia pháp luật, một cố vấn pháp luật có những kỹ năng hành nghề thực thụ. Hoạt động hành nghề của luật sư tiếp xúc với mọi đối tượng, hỗ trợ về mặt pháp lý cho mọi tổ chức và cá nhân. Công ty luật là nơi liên kết của các luật sư, cùng chung một mục đích hành nghề, thông qua hoạt động hành nghề của luật sư thành viên, công ty luật góp phần tuyên truyền , phổbiến giáo duc̣ pháp luật cho tổ chức, cá nhân và công̣ đồng xa ̃hôị.Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Thứ hai, công ty luật có vai trò trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền của bị can, bị cáo và các đương sự trước Toà
Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi công dân thường có nhiều mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với cơ quan, tổ chức. Những mối quan hệ này nhiều khi phát sinh những mâu thuẫn, xâm phạm đến quyền và lợi ích của mỗi bên. Đặc biệt là những mâu thuẫn phải giải quyết bằng con đường Tòa án. Khi đó những quyền cơ bản của công dân dễ bị xâm phạm, vì có những trường hợp công dân hạn chế về trình độ văn hóa, không hiểu biết pháp luật nên khó có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình một cách đầy đủ và toàn diện. Công ty luật được thành lập để giúp cho công dân về mặt pháp lý, vì luật sư là người am hiểu pháp luật, có kinh nghiệm trong hoạt động pháp luật, nên sẽ giúp cho công dân về mặt pháp lý có hiệu quả nhất khi có những vụ việc xảy ra liên quan đến pháp luật, nhất là những vụ việc ở Tòa án.
Thông qua công ty luật, luật sư có nhiệm vụ bảo vệ quyền, lơị ich́ hơp̣ pháp của cá n hân, cơ quan, tổchƣ́c vàg óp phần bảo vê ̣pháp chế xã hội chủ nghĩa. Hoạt động hành nghề của luật sư góp phần bảo đảm thực hiện tốt nguyên tắc tranh tụng tại Tòa án và trong việc thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp. Thực tiễn thời gian qua cho thấy, việc tham gia tố tụng của các luật sư không những bảo đảm tốt hơn quyền bào chữa của bị can, bị cáo, các đương sự khác, mà còn giúp các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, sửa chữa những thiếu sót, làm rõ sự thật khách quan, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Thông qua hoạt động bào chữa, tranh tụng tại Tòa án, luật sư đã góp phần làm giảm thiểu các vụ án oan, sai, đã xuất hiện nhiều tấm gương luật sư xuất sắc trên diễn đàn “Pháp đình”, vị thế của luật sư trong xã hội cũng vì thế mà ngày càng được nâng cao.
Thứ ba, công ty luật có vai trò quan trọng trong hoạt động tư vấn pháp luật, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức
Để người dân tuân thủ pháp luật và tin tưởng vào sự công bằng, bình đẳng của pháp luật, thì những người hành nghề luật sư phải tự mình tôn trọng pháp luật. Đó là lý do vì sao nghề luật sư phải được pháp luật điều chỉnh chặt chẽ để duy trì lòng tin của toàn xã hội.Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Thông qua hoạt động tư vấn pháp luật của các luật sư thành viên, công ty luật có vai trò quan trọng trong việc giải quyết những tranh chấp xảy ra trong đời sống xã hội, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật, giảm bớt phiền hà cho cơ quan nhà nước khi người dân thiếu hiểu biết pháp luật.
Hoạt động tư vấn pháp luật và dịch vụ pháp lý khác của luật sư là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh minh bạch, lành mạnh theo đúng pháp luật, đồng thời hỗ trợ tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển thị trường dịch vụ, tăng thu ngân sách, giải quyết việc làm; góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Thứ tư, công ty luật có vai trò trong việc tham gia xây dựng chính sách, pháp luật của Nhà nước
Là người hiểu biết pháp luật, thông qua việc hành nghề, luật sư phải trau dồi kiến thức và sử dụng kiến thức đó để tăng cường giáo dục và phát triển hệ thống pháp luật. Thông qua tổ chức xã hội nghề nghiệp của mình, luật sư tham gia xây dưng̣ chính sách , pháp luật của Nhà nước. Một dự án luật muốn đạt chất lượng cần phải có nhiều tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng và đóng góp ý kiến. Luật sư là người hiểu biết pháp luật, việc tham gia xây dựng pháp luật của luật sư là một nhân tố quan trọng góp phần đảm bảo cho các đạo luật đạt chất lượng cao.
1.1.2. Mối quan hệ giữa công ty luật với luật sư, khách hàng Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
1.1.2.1. Mối quan hệ giữa công ty luật với luật sư
Công ty luật có mối quan hệ mật thiết với luật sư thành viên. Trong mối quan hệ này công ty luật đóng vai trò quan trong, công ty là nơi để các luật sư thành viên hội tụ với nhau để hành nghề. Thông qua công ty luật mà uy tín của các luật sư đối với khách hàng ngày càng được đề cao. Trong mối quan hệ này công ty luật đóng vai trò quyết định. Khi luật sư ký hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng, luật sư nhân danh công ty để ký hợp đồng, do đó nếu khi có tranh chấp xẩy ra thì đương nhiên khách hàng sẽ tranh chấp với công ty. Vấn đề trách nhiệm của luật sư đối với công ty đến đâu tùy thuộc vào loại hình công ty luật TNHH hay công ty luật hợp danh hoặc hợp đồng lao động ký giữa luật sư với công ty. Ngoài ra công ty luật còn là nơi hội tụ các luật sư học nghề, là môi trường đào tạo nghề luật sư, thông qua đó hình thành các luật sư giỏi. Công ty có trách nhiệm mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho luật sư của công ty theo quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm.
Luật sư có vai trò thúc đẩy công ty luật phát triển, các luật sư giỏi, hành nghề một cách chuyên nghiệp thì sẽ tạo ra uy tín cho luật sư nói riêng và công ty luật nói chung. Qua uy tín của các luật sư dần tạo nên thương hiệu cho công ty luật. Thực tế khi khách hàng tìm đến luật sư họ thường quan tâm đến các thông tin: Tên luật sư, công ty luật…Nghề luật sư là một nghề hoạt động dựa vào uy tín cá nhân, do đó khi thành lập công ty luật, luật sư thường dùng tên riêng của mình để đặt tên cho công ty luật. Vì vậy, thương hiệu của luật sư thường đi đôi với thương hiệu của công ty luật.
1.1.2.2. Mối quan hệ giữa công ty luật với khách hàng Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Trong mối quan hệ giữa công ty luật với khách hàng, công ty luật đóng vai trò là chủ thể cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng. Khách hàng có quyền lữa chon luật sư của công ty luật để thỏa thuận ký hợp đồng dịch vụ pháp lý. Ngoài ra khách hàng có thể thỏa thuận với đại diện của công ty luật để ký hợp đồng dịch vụ pháp lý, khi đó công ty luật sẽ thỏa thuận, phân công cho các luật sư thực hiện công việc mà công ty đã ký hợp đồng với khách hàng. Như vậy trong mối quan hệ này hai công ty luật và khách hàng đều có quyền và nghĩa vụ với nhau. Công ty có quyền yêu cầu khách hàng cung cấp các tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ việc, thực hiện thanh toán phí dịch vụ pháp lý theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ…
Trong quan hệ với khách hàng công ty luật có nghĩa vụ và trách nhiệm sau: Thực hiện đúng hợp đồng dịch vụ pháp lý đối với khách hàng, giữ bí mật cho khách hàng, bồi thường thiệt hại do lỗi mà luật sư của công ty gây ra cho khách hàng…
Khách hàng có mối quan hệ mật thiết đối với công ty luật. Khách hàng có toàn quyền lữa chọn công ty luật để sự dụng dịch vụ pháp lý, lựa chọn của khách hàng đối với dịch vụ pháp lý của một công ty luật phụ thuộc rất nhiều yếu tố, không chỉ liên quan đến chất lượng dịch vụ mà còn liên quan đến sự tin tưởng, tính bản địa, các mối quan hệ cộng tác trước đó. Khách hàng thường chọn công ty luật dựa trên các tiêu chí: (i) Sự tin tưởng (chọn công ty luật của quốc gia mình, có mối quan hệ hợp tác trước đo, có quan hệ hợp tác của công ty mẹ/công ty con đối,…); (ii) Khả năng xuất sắc, kinh nghiệm trong lĩnh vực cần tư vấn; (iii) Mức phí hợp lý có mang lại giá trị cho thân chủ (khác với khái niệm phí rẻ). Khi sử dụng dịch vụ pháp lý, khách hàng sẽ có những đánh giá, nhận xét về sự hài lòng, không hài lòng đối với công ty luật, quá đó công ty luật hoàn thiện dịch vụ pháp lý một cách tốt hơn.
Khách hàng của các công ty luật có thể chia thành hai nhóm chính: các khách hàng nội địa và các khách hàng quốc tế. Khi xem xét sử dụng dịch vụ pháp lý của một công ty luật trong nước và một công ty luật nước ngoài,khách hàng trong nước và khách hàng nước ngoài sẽ có những phản ứng khác nhau. Các công ty luật nội địa đã có sẵn được sự tin tưởng của khác hàng vì khả năng hiểu và thông thạo các điều kiện về văn hóa, luật pháp, thói quen pháp luật, các mối quan hệ với chính quyền tại chính nước mình. Tuy nhiên, vẫn còn những đối tượng khách hàng có tâm lý “sính ngoại” và chọn lựa dịch vụ pháp lý của một công ty luật nước ngoài, có khi chỉ để gây uy thế với đối tác. Điều này cũng có thể ví như việc người Việt Nam tích dùng hàng hiệu nước ngoài. [21]
Sự tin tưởng của các khách hàng đối với công ty luật thường được xây dựng lâu dài thông qua các mối quan hệ hợp tác đã có trước đó giữa hai bên, hoặc giữa công ty luật với công mẹ/công ty con cần tư vấn. Để giữ gìn và phát triển các mối quan hệ hợp tác này, các công ty luật cần chú ý đến việc kết nối với các công ty khác để tạo mạng lưới cho việc giới thiệu khác hàng.
1.1.3. Sự ra đời của các loại hình công ty luật Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
1.1.3.1. Sự ra đời của các loại hình công ty luật ở các nước trên thế giới
Vào khoảng thế kỷ thứ XIII, ở một số thành phố lớn của các nước châu Âu có điều kiện địa lý thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán, đã xuất hiện các công ty thương mại đối nhân đầu tiên. Sang đầu thế kỷ XVII, các công ty đối vốn ra đời. Sự ra đời của các công ty kinh doanh kéo theo đó là nhu cầu cần phải có luật lệ về công ty. Lịch sử luật công ty gắn liền với các quy định về liên kết, hợp đồng và các quan hệ nợ nần trong luật La Mã. Các công ty hoạt động theo luật tư và chịu rất ít sự giám sát của nhà nước. Năm 1807, Pháp ban hành Bộ luật Thương mại, thể chế hóa quan điểm tự do hoạt động kinh doanh, sau đó nhiều nước châu Âu đã ban hành Luật Thương mại. Mặc dù vậy, việc thành lập công ty vẫn cần giấy phép của nhà nước. Đến năm 1870, hầu hết các nước đều bải bỏ thủ tục cấp giấy phép thành lập, công dân hoàn toàn có quyền tự do thành lập công ty và tự do hoạt động. Nhà nước chỉ đưa ra các quy định bắt buộc công ty có nghĩa vụ đăng ký theo quy định của pháp luật, căn cứ vào kết quả thẩm định của các chuyên gia kiểm toán độc lập. Do sự tự do hóa kinh doanh nên đã xảy ra nhiều vụ lừa đảo trong công chúng, đặc biệt là trong chiến tranh, vì vậy mà người ta đã hoàn thiện luật lệ. Đức là một trong những nước xuất hiện công ty sớm: Năm 1870, ban hành Luật Công ty cổ phần, sau đó được bổ sung, sửa đổi bởi Bộ luật Thương mại năm 1897, sau này thay thế bằng Luật Công ty cổ phần; từ năm 1937 đến năm 1965 ban hành Luật Công ty cổ phần mới và hiện nay vẫn có giá trị pháp lý; năm 1892 ban hành Luật Công ty trách nhiệm hữu hạn. Cùng với việc ban hành các luật công ty nhằm điều chỉnh hoạt động trong lĩnh vực thương mại, các nước đã ban hành luật công ty nhằm điều chỉnh hoạt động hành nghề luật sư, quy định các hình thức tổ chức hành nghề luật sư như: Văn phòng luật sư, công ty luật hợp danh. Có thể khái quát về sự ra đời của các hình thức công ty luật trên thế giới qua một số nước sau:Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Mỹ, nghề luật sư ra đời muộn hơn so với các nước ở châu Âu như Anh, Pháp, Đức… Thường là các luật sư một số nước châu Âu khi sang Mỹ làm ăn sinh sống mang theo luật, kiến thức pháp luật của nước mình và áp dụng luôn trong phạm vi lãnh địa mà họ chiếm cứ. Nước Mỹ sau khi giành độc lập đã lựa chọn áp dụng hệ thống luật án lệ, nhưng không muốn rập khuôn hoàn toàn như mô hình của nước Anh. Ở Mỹ, không có sự phân biệt giữa 2 nghề luật sư như ở Anh. Nước Mỹ với chế độ liên bang, tính đa dạng của các bang thành viên, tính đa dạng về sắc tộc đòi hỏi phải có mô hình tư pháp riêng và mô hình một nghề luật sư duy nhất. Mô hình một nghề luật sư duy nhất ra đời ở Mỹ trong một môi trường pháp lý và xã hội đặc thù, trong bối cảnh của một nhà nước liên bang, theo chính sách tự do, nhà nước giảm thiểu sự can thiệp vào đời sống xã hội, ở đó quyền tự do kinh doanh được khuyến khích. Hệ thống luật của Mỹ là hệ thống luật không thành văn, là hệ thống luật án lệ làm cho người dân rất khó hiểu vì tính phức tạp của nó. Vì không hiểu biết pháp luật cho nên chỉ khi ra Toà, người dân mới biết mình đúng hay sai. Số lượng các bản án, quyết định của Toà án mang tính án lệ ngày càng nhiều làm cho việc tìm hiểu pháp luật ngày càng khó khăn hơn. Đó là lý do giải thích tại sao trong một hệ thống pháp luật phức tạp như vậy người dân lại rất cần đến sự giúp đỡ của luật sư. Sau những cải cách được tiến hành từ năm 1933, nhà nước liên bang can thiệp nhiều hơn vào đời sống kinh tế xã hội, chính quyền của từng bang cũng muốn giảm bớt sự tự do quá trớn trong bang của họ. Vai trò của luật sư không ngừng tăng lên vì càng có nhiều luật, thì người dân càng khó khăn hơn để biết được hết các luật. Xuất phát từ đặc thù riêng của nước Mỹ, nên phạm vi hoạt động của luật sư rất rộng. Luật sư Mỹ được hoạt động trong một khuôn khổ hết sức tự do, có thể can thiệp vào mọi lĩnh vực của pháp luật. Từ thực trạng đó, chính quyền Mỹ đã ban hành nhiều đạo luật để điều chỉnh lĩnh vực luật sư. Trong các đạo luật đó, quy định cho phép luật sư thành lập các công ty luật hợp danh, văn phòng luật sư hoặc luật sư hành nghề tự do. Ngoài ra, luật sư có thể làm công ăn lương cho Chính phủ, doanh nghiệp, tổ chức… Với tư cách là luật sư làm công ăn lương (in house lawyer), luật sư có thể chịu trách nhiệm toàn bộ, một phần hoặc không chịu trách nhiệm gì tuỳ theo hợp đồng được hai bên ký kết. Luật sư có thể mở văn phòng luật sư do cá nhân mình làm chủ, tự quản lý điều hành và chịu trách nhiệm về mọi nghĩa vụ của văn phòng.
“Công ty luật hợp danh bao gồm hợp danh thông thường và hợp danh hữu hạn. Công ty luật hợp danh thông thường do các luật sư cùng nhau thành lập, điều hành, cũng như cùng chịu trách nhiệm và cùng hưởng lợi nhuận thu được. Các luật sư trong công ty luật hợp danh thông thường chịu trách nhiệm cá nhân và liên đới đối với các nghĩa vụ của công ty. Công ty luật hợp danh hữu hạn do ít nhất hai luật sư trở lên thành lập, trong đó có ít nhất một luật sư chịu trách nhiệm vô hạn về các nghĩa vụ của công ty (hội viên nhận vốn), còn các luật sư khác chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn góp vào công ty (hội viên hùn vốn)”.[5, tr-45] Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Cùng với đó, các hội nghề nghiệp của luật sư cũng được thành lập như hội luật sư về luật công ty, hội luật sư trên internet… và ở từng bang đều có hội nghề nghiệp của luật sư. Một số bang quy định việc gia nhập đoàn luật sự là không bắt buộc, hoàn toàn do ý nguyện của luật sư (18 bang). Nhưng có bang quy định muốn hành nghề luật sư phải gia nhập đoàn luật sư. Luật sư tham gia các hội nghề nghiệp để được cung cấp các thông tin pháp luật, bồi dưỡng về nghiệp vụ, trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp… Ở cấp liên bang có Hội Luật gia Mỹ được thành lập năm 1878 tại NewYork. Thành viên Hội Luật gia Mỹ bao gồm luật sư, thẩm phán, công tố viên, giáo sư luật, công chức chính phủ có liên quan đến hoạt động pháp luật.
Đức, cũng giống như ở các nước khác, hoạt động cơ bản của luật sư là hoạt động độc lập của mỗi luật sư. Các luật sư cũng có thể liên kết với nhau trong các văn phòng hợp danh (tiếng Đức là Sozietọt) (hoặc hợp vốn nhưng ít xảy ra) hoặc trong văn phòng chung (tiếng Đức là Bỹrogemeinschaft). Văn phòng hợp danh là một hình thức pháp lý về mặt tổ chức để nhận và thực hiện các công việc của luật sư dưới danh nghĩa văn phòng, trong khi các luật sư trong văn phòng chung vẫn hoạt động hoàn toàn độc lập. Văn phòng chung là địa chỉ chung. Văn phòng luật sư phải có ít nhất là một luật sư phụ trách điều hành. Thông thường cũng có những văn phòng hợp danh có trụ sở ở nhiều nơi khác nhau. Cho đến đầu những năm 1990, kể từ khi có phán quyết của Tòa án liên bang mở ra khả năng cho việc thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn luật sư cũng như việc thay đổi quy tắc hành nghề, cho phép thành lập các văn phòng hợp danh quốc tế. Đến nay, tại Đức có những văn phòng hợp danh có hàng trăm thành viên. Đó là các văn phòng luật sư quốc tế, trong đó luật sư Đức liên danh với các văn phòng luật sư nước ngoài như Anh, Mỹ.
Công ty luật trách nhiệm hữu hạn phải đáp ứng đầy đủ các đòi hỏi của pháp luật, đặc biệt là không được ở trong tình trạng phá sản và phải làm đầy đủ nghĩa vụ bảo hiểm nghề nghiệp. Các cổ đông của một công ty trách nhiệm hữu hạn luật sư chỉ có thể là luật sư hoặc chuyên gia tư vấn về thuế, người được ủy quyền về thuế, kế toán, kiểm toán đã tuyên thệ. “Trong xu hướng hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư hiện nay, theo thống kê trong tổng số luật sư hiện đang hành nghề tại Đức, công ty luật là loại hình được ưa chuộng nhất. Con số các công ty luật tăng từ 324 lên 401 (hơn 23,8%). Các công ty hợp danh tăng khoảng 13,6% (lên 2.703 công ty hợp danh)”.[14]
1.1.3.2. Sự ra đời của các loại hình công ty luật ở Việt Nam Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Ngày 18/12/1987, Hội đồng Nhà nước đã thông qua Pháp lệnh Tổ chức luật sư. Pháp lệnh cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về chế định luật sư, tạo cơ sở cho việc hình thành và phát triển đội ngũ luật sư ở Việt Nam. Theo quy định của Pháp lệnh, thì đoàn luật sư vừa là tổ chức mang tính xã hội nghề nghiệp của luật sư, vừa là nơi hành nghề của luật sư. Hình thức tổ chức này không phù hợp với tính chất của nghề luật sư, chưa phát huy được tính năng động, tự chủ của luật sư và chưa đề cao trách nhiệm của cá nhân luật sư. Mặt khác, hình thức tổ chức này hạn chế khả năng tiếp cận, lựa chọn luật sư đối với cá nhân và tổ chức. Vì vậy, cần phân biệt rõ hình thức tổ chức hành nghề với hình thức tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư, đồng thời cho phép các luật sư được lựa chọn hành nghề dưới hình thức văn phòng hoặc công ty là một nhu cầu khách quan và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Sau khi Quốc hội thông qua Luật Doanh nghiệp năm 1999, thì một vấn đề được đặt ra là liệu luật sư có được hành nghề theo các loại hình doanh nghiệp được quy định trong Luật Doanh nghiệp hay không? Có ý kiến cho rằng luật sư được lựa chọn các hình thức hành nghề theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Như có ý kiến khác lại cho rằng do đặc thù của nghề luật sư là phải chịu trách nhiệm vô hạn, nên chỉ có hình thức công ty hợp danh là phù hợp với nghề luật sư. Sau khi Pháp lệnh Luật sư năm 2001 được thông qua, công ty luật hợp danh được thừa nhận là một trong các hình thức tổ chức hành nghề luật sư, theo đó luật sư có thể tự mình thành lập văn phòng luật sư của riêng mình, cùng với các luật sư khác thành lập văn phòng luật sư hoặc công ty luật hợp danh. Công ty luật hợp danh là hình thức tổ chức hành nghề luật sư do ít nhất hai luật sư thành lập và chịu trách nhiện liên đới bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi nghĩa vụ của công ty. Công ty luật hợp danh chỉ gồm các thành viên hợp danh. Việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của công ty hợp danh được thực hiện theo quy định của Pháp lệnh Luật sư; trong trường hợp Pháp lệnh Luật sư không quy định thì tuân theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Để phù hợp với tình hình mới, sau khi Luật Doanh nghiệp đã được ban hành và đáp ứng yêu cầu của hội nhập khu vực và quốc tế về dịch vụ pháp lý, đồng thời căn cứ vào nguyện vọng của nhiều luật sư, Pháp lện Luật sư quy định công ty luật hợp danh là hình thức hành nghề của luật sư. Song vì công ty luật hợp danh là hình thức kinh doanh không phù hợp với hoạt động tham gia tố tụng, đặc biệt với điều kiện của Việt Nam thời điểm đó, nên Pháp lệnh quy định công ty luật hợp danh được thực hiện tư vấn pháp luật, dịch vụ pháp lý khác, nhưng không được thực hiện dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực tố tụng (khoản 2 Điều 18 của Pháp lệnh Luật sư), đó là điểm khác nhau cơ bản giữa văn phòng luật sư và công ty luật hợp danh. Pháp lệnh chỉ quy định những đặc thù của công ty luật hợp danh với tính chất, đặc điểm của nghề luật sư, còn những vấn đề chung khác được điều chỉnh bởi Luật Doanh nghiệp.Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Sau khi Quốc hội ban hành Luật Doanh nghiệp năm 2005, để phù hợp với quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Luật sư năm 2006 đã mở rộng hình thức hành nghề của luật sư, theo đó luật sư có thể lựa chọn một trong các hình thức hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư hoặc hành nghề với tư cách cá nhân. Luật Luật sư quy định hai hình thức tổ chức hành nghề luật sư là văn phòng luật sư và công ty luật. Công ty luật bao gồm: Công ty luật hợp danh và công ty luật trách nhiệm hữu hạn. Qua nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài cho thấy, nhiều nước trên thế giới hiện đã và đang có xu hướng đa dạng hóa hình thức hành nghề luật sư. Do đó, ngoài hình thức hành nghề luật sư mang tính truyền thống như công ty trách nhiệm vô hạn còn quy định hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Việc cho phép luật sư được thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn để hành nghề nhằm đảm bảo sự phù hợp giữa quy định của Luật Luật sư với Luật Doanh nghiệp. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp thì kinh doanh dịch vụ pháp lý là một ngành, nghề kinh doanh mà cá nhân phải đáp ứng đủ điều kiện luật định thì mới được phép lựa chọn thành lập các loại hình doanh nghiệp để tiến hành hoạt động kinh doanh. Hơn nữa, việc mở rộng hình thức tổ chức hành nghề luật sư cũng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư lựa chọn hình thức tổ chức hành nghề phù hợp với khả năng thực tế của mình. Công ty luật bao gồm công ty luật hợp danh và công ty luật trách nhiệm hữu hạn là các hình thức tổ chức hành nghề luật sư. So với Pháp lệnh Luật sư năm 2001, Luật Luật sư đã quy định thêm loại hình công ty luật trách nhiệm hữu hạn. Hơn nữa, để phù hợp với quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Luật sư còn quy định công ty luật trách nhiệm hữu hạn có thể là công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên hoặc công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên. [20]
Như vậy, theo pháp luật hiện hành, công ty luật ở Việt Nam gồm ba loại hình: Công ty luật hợp danh, công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên và công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
1.2. PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY LUẬT Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm pháp luật về công ty luật
1.2.1.1. Khái niệm
Pháp luật là một hiện tượng vừa mang tính giai cấp lại vừa thể hiện tính xã hội. Hai thuộc tính này có mối liên hệ mật thiết với nhau. Xét theo quan điểm hệ thống, không có pháp luật chỉ thể hiện duy nhất tính giai cấp, ngược lại cũng không có pháp luật chỉ thể hiện tính xã hội. Tuy nhiên, mức độ đậm nhạt của hai tính chất đó của pháp luật rất khác nhau và thường hay biến đổi tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội, đạo đức, quan điểm, đường lối và các trào lưu chính trị xã hội trong mỗi nước, ở một thời kỳ lịch sử nhất định.
Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật của Trường Đại học Luật Hà Nội định nghĩa: “Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội”.[23] Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Mỗi quốc gia có một hệ thống pháp luật riêng, hiện nay trên thế giới tồn tại hai hệ thống pháp luật đó là hệ thống pháp luật châu Âu lục địa (Civil Law) và hệ thống pháp luật Anh – Mỹ (Common Law). Nhiều nước trên thế giới có đạo luật riêng điều chỉnh về tổ chức và hành nghề luật sư với tên gọi gắn với thuật ngữ “luật sư” hoặc “hành nghề luật sư”, ví dụ: Đạo luật về hành nghề luật sư năm 1984 (được sửa đổi năm 2011) của Singapore; Đạo luật về luật sư (B.E 2528) năm 1995 của Thái Lan; Luật về luật sư năm 1996 của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, sửa đổi ngày 28/10/2007; Luật về hành nghề luật sư số 205 năm 1949 của Nhật Bản, sửa đổi ngày 24/6/2011; Luật Hành nghề luật sư số 3594 năm 1982 của Hàn Quốc; Bộ luật về hành nghề của Đoàn luật sư Vương quốc Anh và xứ Wales; Luật về cải cách hành nghề luật sư năm 1991 của Cộng hòa Pháp; Luật về hành nghề pháp lý số 109 năm 1987 của Bang New South Wales của Australia, sửa đổi ngày 19/8/2000.
Qua tên gọi và phạm vi điều chỉnh của lĩnh vực hoạt động hành nghề luật sư, có thể đưa ra một khái niệm chung nhất pháp luật về công ty luật như sau: Pháp luật về công ty luật là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ phát sinh trong quá trình thành lập, tổ chức, hoạt động và chấm dứt hoạt động của công ty luật.
1.2.1.2. Đặc điểm
Mỗi quốc gia trên thế giới có một hệ thống chính trị riêng, điều này đã dẫn đến hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia là khác nhau. Chính hệ thống chính trị quyết định chính sách thông qua pháp luật. Tuy mỗi quốc gia có một hệ thống pháp luật về công ty luật riêng, nhưng tựu chung lại có thể thấy pháp luật về công ty luật có những đặc điểm chung sau:
Thứ nhất, pháp luật về công ty luật chịu sự điều chỉnh trực tiếp của Luật Doanh nghiệp và Luật Luật sư. Luật Doanh nghiệp đưa ra khung pháp lý về các loại hình doanh nghiệp. Luật Luật sư dựa trên Luật Doanh nghiệp, quy định những vấn đề riêng đặc thù cho nghề luật sư.
Thứ hai, pháp luật về công ty luật gồm những quy phạm gắn liền với tính chất hoạt động nghề nghiệp của luật sư là hành nghề độc lập và chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt động nghề nghiệp của mình.
1.2.2. Thành lập, tổ chức, hoạt động, quản trị công ty luật
1.2.2.1. Thành lập công ty luật Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
- hầu hết các nước phát triển, việc thành lập công ty luật hoàn toàn là quyền của luật sư. Đó là quyền tự do lập hội và họ thực hiện quyền này theo quy định của pháp luật. Pháp luật chỉ điều chỉnh hoạt động của công ty từ giai đoạn đăng ký thành lập. Để công ty luật ra đời và đi vào hoạt động, thì một trong những vấn đề quan trọng mà các luật sư không thể bỏ để tạo nên tính hợp pháp cho công ty, đó là tiến hành thực hiện thủ tục thành lập công ty.
Thành lập công ty luật là một thủ tục pháp lý được thực hiện tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuỳ thuộc vào loại hình công ty (công ty đó thuộc sở hữu nhà nước hay sở hữu tư nhân); tuỳ thuộc vào mức độ cải cách hành chính và thái độ của nhà nước đối với quyền tự do kinh doanh của công dân, mà thủ tục pháp lý này đơn giản hay phức tạp. Theo đó, thủ tục thành lập công ty luật bao gồm thủ tục cho phép thành lập công ty và thủ tục đăng ký hoạt động hoặc chỉ một thủ tục duy nhất là đăng ký hoạt động. Việc đăng ký hoạt động là thủ tục bắt buộc, nó cho phép xác lập tư cách pháp lý của công ty luật.
Chủ thể muốn thành lập công ty luật phải đáp ứng một số điều kiện nhất định về mục đích hoạt động, chủ thể, trụ sở và tên công ty.
- Về chủ thể
Đa số các nước trên thế giới đều quy định, người muốn thành lập công ty luật hoặc tham gia thành lập, thì phải là luật sư. Điều này xuất phát từ đặc điểm của nghề luật sư là hành nghề độc lập và chịu trách nhiệm cá nhân. Ở Việt Nam, ngoài điều kiện trên, luật sư thành lập hoặc tham gia thành lập công ty luật phải có ít nhất hai năm hành nghề liên tục làm việc theo hợp đồng lao động cho tổ chức hành nghề luật sư hoặc hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng lao động cho cơ quan, tổ chức. Một luật sư chỉ được thành lập hoặc tham gia thành lập một công ty luật. Trong trường hợp luật sư ở các đoàn luật sư khác nhau cùng tham gia thành lập một công ty luật, thì có thể lựa chọn thành lập và đăng ký hoạt động tại địa phương nơi có đoàn luật sư mà một trong các luật sư đó là thành viên.
Tuy nhiên, một số nước như Trung Quốc, Đức quy định điều kiện chủ thể thành lập hoặc tham gia thành lập công ty luật có những điểm khác so với các nước. Tại Chương 3 Luật về Luật sư năm 1996 của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, sửa đổi ngày 28/10/2007 quy định về việc thành lập và hoạt động của công ty luật, theo đó, công ty luật có thể thành lập dưới hình thức công ty tư nhân, công ty luật hợp danh và công ty luật có vốn đầu tư nhà nước. Như vậy, có thể thấy, ở Trung Quốc chủ thể tham gia thành lập công ty luật có cả sự đóng góp vốn của nhà nước.Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Theo pháp luật của Đức, các cổ đông muốn tham gia thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn luật chỉ có thể là luật sư hoặc chuyên gia tư vấn về thuế, người được ủy quyền về thuế, kế toán, kiểm toán đã tuyên thệ.
- Về điều kiện về trụ sở và tên công ty
Luật sư hành nghề và chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt động của mình, nghề luật sư là một nghề tự do. Tuy nhiên, hầu hết pháp luật các nước trên thế giới đều quy định, khi các luật sư liên kết lại với nhau thành lập một công ty luật, thì công ty luật đó phải có địa chỉ và trụ sở làm việc trên thực tế. Quy định về điều kiện phải có trụ sở làm việc là nhằm tránh các công ty luật hoạt động động nhỏ lẻ, manh mún, không bảo đảm chất lượng dịch vụ khi cung cấp cho khách hàng. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và tính chuyên nghiệp của nghề luật sư.
Đức, “theo khoản 1 câu 1 Điều 3 Luật Công ty TNHH Đức, thì trụ sở công ty phải được ghi trong hợp đồng công ty. Việc ghi rõ trụ sở trong điều lệ công ty là nhu cầu tất yếu cho việc xác định cơ quan tòa án có thẩm quyền, cũng như thông lệ tư pháp quốc tế (Điều 7 Luật Công ty TNHH và Luật Tố tụng dân sư Đức). Trụ sở phải là địa điểm trên lãnh thổ Đức, tất cả các trường hợp khác với quy định này tất yếu sẽ không được vào sổ đăng ký hoạt động. Việc lựa chọn địa điểm đặt trụ sở không do luật điều chỉnh, mà do lãnh đạo công ty và thông lệ hành chính quyết định. Mỗi công ty chỉ có một trụ sở,những địa điểm khác để thực hiện hoạt động sẽ áp dụng theo các quy định tại Điều 12 Luật Công ty TNHH.”[13]
Tên công ty thể hiện loại hình công ty luật, vì vậy pháp luật các nước trên thế giới quy định công ty luật phải có tên cụ thể. Quy định này xuất phát từ tính chất pháp lý của từng loại hình công ty luật. Thông qua tên công ty, khách hàng có thể biết được trách nhiệm pháp lý của công ty đối với khác hành đến đâu. Tùy theo hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia, quy định về điều kiện về trụ sở làm việc và tên công ty khác nhau. Theo pháp luật Việt Nam, thì ngoài điều kiện về chủ thể, luật sư muốn thành lập công ty luật phải có trụ sở làm việc và tên công ty. Trụ sở làm việc phải có địa chỉ rõ ràng trên thực địa, tên công ty phải bao gồm cụm từ “công ty luật hợp danh” hoặc “công ty luật trách nhiệm hữu hạn”, không được trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên của tổ chức hành nghề luật sư khác đã được đăng ký hoạt động.Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Điều 4 Luật Công ty TNHH của Cộng hòa Liên bang Đức quy định việc đặt tên hãng có thể căn cứ vào đối tượng kinh doanh, tên gọi của các thành viên công ty hay tên tương xứng với mảng quan hệ kinh doanh có ý nghĩa nhất định. Song bất luận tên hãng như thế nào, cũng phải kèm theo đuôi là “chịu trách nhiệm hữu hạn”.
Ngoài điều những điều kiện trên, pháp luật một số nước còn quy định người muốn thành lập công ty luật còn phải có một tải sản nhất định. Ví dụ như Trung Quốc quy định, người muốn thành lập công ty luật phải có tài sản từ 100.000 nhân dân tệ trở lên.
- Trình tự, thủ tục, thành lập công ty luật
Trình tự, thủ tục thành lập công ty luật là các quy định của pháp luật quy định về hồ sơ, thủ tục và cơ quan có thẩm quyền tiến hành đăng ký thành lập công ty luật.
Về hồ sơ đề nghị thành lập công ty luật, đó là những giấy tờ, văn bản, tài liệu để chứng mình cho chủ thể có đủ điều kiện thành lập công ty luật. Tùy theo pháp luật của các nước, mà thành phần hồ sơ đề nghị thành lập công ty luật là khác nhau. Hồ sơ đề nghị thành lập công ty luật có thể khái quát một cách chung nhất gồm: (i) Giấy đề nghị đăng ký hoạt động; (ii) Dự thảo điều lệ của công ty luật; (iii) Bản sao chứng chỉ hành nghề luật sư, bản sao thẻ luật sư của luật sư thành lập hoặc tham gia thành lập công ty luật; (iv) Giấy tờ chứng minh về trụ sở của công ty luật.Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
- Về trình tự thành lập và cơ quan có thẩm quyền đăng ký thành lâp:
Chủ thể muốn thành lập công ty luật phải nộp hồ sơ đề nghị thành lập công ty luật tại cơ quan có thẩm quyền. Trong một khoảng thời gian do luật quy định, cơ quan có thẩm quyền xem xét, nếu đủ điều kiện, thì cấp giấy phép hoạt động cho công ty luật.
Pháp luật các nước quy định cơ quan có thẩm quyền cấp giấy đăng ký hoạt động công ty luật là khác nhau. Ở Việt Nam, cơ quan có thẩm quyền cấp giấy đăng ký hoạt động là Sở Tư pháp ở địa phương nơi có đoàn luật sư mà giám đốc công ty luật là thành viên. Công ty luật do luật sư ở các đoàn luật sư khác nhau cùng tham gia thành lập, thì đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp ở địa phương nơi có trụ sở của công ty.
Theo Luật về Luật sư năm 1996 của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, sửa đổi ngày 28/10/2007, thì việc cấp giấy phép thành lập công ty luật do Sở Tư pháp tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện trên cơ sở xem xét các điều kiện: (i) Có tên gọi, trụ sở thường trú, điều lệ hoạt động; (ii) Có tài sản từ 100.000 nhân dân tệ trở lên; (iii) Có luật sư đủ điều kiện hành nghề theo quy định của Luật về Luật sư. Sở Tư pháp còn có chức năng xử lý vi phạm đối với luật sư và công ty luật. Hình thức xử lý vi phạm đối với luật sư bao gồm: Cảnh cáo, đình chỉ hành nghề, huỷ bỏ chứng chỉ hành nghề. Đối với công ty luật, hình thức xử lý vi phạm bao gồm: Buộc sửa chữa vi phạm, tịch thu khoản thu bất hợp pháp, phạt tiền, đình chỉ hoạt động, huỷ bỏ giấy phép thành lập. Trường hợp không đồng ý với quyết định xử lý vi phạm của Sở Tư pháp, đương sự có thể khiếu nại lên Bộ Tư pháp. Nếu vẫn không đồng với quyết định của Bộ Tư pháp, đương sự có thể khiếu kiện ra Toà án nhân dân.
1.2.2.2. Tổ chức, hoạt động công ty luật Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
- Tổ chức quản lý công ty
Có thể nói, thủ tục thành lập công ty luật là thủ tục khai sinh ra một pháp nhân. Pháp nhân đó muốn đi vào hoạt động phải được tổ chức chặt chẽ, có sự kiểm soát, điều hành của một bộ máy thống nhất. Tổ chức, hoạt động của công ty luật tùy thuộc vào hình thức công ty mà nó được thiết lập bộ máy tổ chức phù hợp. Mỗi quốc gia có một hệ thống pháp luật riêng, do vậy, pháp luật quy định về loại hình công ty luật cũng có sự khác nhau. Trên thế giới tồn tại phổ biến nhất là công ty luật hợp danh, công ty luật trách nhiệm hữu hạn.
- Công ty luật hợp danh:
Công ty luật hợp danh là công ty luật đối nhân, chỉ có thành viên hợp danh, không có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn về toàn bộ nghĩa vụ của công ty. Công ty luật hợp danh được tổ chức dưới hình thức một hãng luật chung. Hãng này thường mang tên của một thành viên hoặc tất cả các thành viên. Hầu hết pháp luật các nước đều quy định công ty luật hợp danh không có tư các pháp nhân, một số nước như Việt Nam quy định công ty luật hợp danh có tư các pháp nhân. Xuất phát từ đặc trưng này có thể thấy công ty luật hợp danh được tổ chức, quản lý như sau:
Hội đồng thành viên là cơ quan quản lý cao nhất trong công ty luật hợp danh. Hội đồng thành viên bầu một thành viên hợp danh làm chủ tịch đồng thời kiêm giám đốc hoặc tổng giám đốc (nếu điều lệ công ty không có quy định khác). Việc tiến hành họp hội đồng thành viên do chủ tịch hội đồng thành viên triệu tập hoặc theo yêu cầu của thành viên hợp danh. Trường hợp chủ tịch hội đồng thành viên không triệu tậo họp theo yêu cầu của thành viên hợp danh, thì thành viên đó có quyền triệu tập họp hội đồng. Cuộc họp của hội đồng thành viên phải được ghi vào sổ biên bản của công ty. Hội đồng thành viên có quyền quyết định tất cả các công việc liên quan đến hoạt động của công ty.Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Như vậy, trong công ty hợp danh, hội đồng thành viên là cơ quan có quyền hạn cao nhất, trong đó, các thành viên hợp danh nắm giữ mọi quyền hành đối với việc quản lý và điều hành các công việc kinh doanh của công ty. Vai trò của người đứng đầu công ty luật hợp danh cũng có sự khác biệt so với vị trí, vai trò của người đứng đầu trong công ty luật trách nhiệm hữu hạn. Nếu chủ tịch, giám đốc hoặc tổng giám đốc của công ty luật trách nhiệm hữu hạn có một vị trí quan trọng so với các thành viên khác trong công ty, có quyền thực hiện những công việc liên quan đến hoạt động của công ty nhân danh chức vụ của bản thân, thì chủ tịch, giám đốc hoặc tổng giám đốc trong công ty luật hợp danh là một thành viên hợp danh và không có quyền cao hơn các thành viên hợp danh còn lại, không có quyền tự quyết định một vấn đề gì nếu không có sự thông qua của hội đồng thành viên.
Chủ tịch hội đồng thành viên, giám đốc hoặc tổng giám đốc của công ty luật hợp danh chỉ có quyền điều phối các hoạt động vạch sẵn, sự thoả thuận và nhất trí của tất cả các thành viên hợp danh. Nói cách khác, người nắm giữ các chức vụ quản lý trong công ty luật hợp danh đơn giản chỉ là một thành viên hợp danh với những quyền và nghĩa vụ như bao thành viên hợp danh khác.
Chủ tịch hội đồng thành viên, giám đốc hoặc tổng giám đốc có nhiệm vụ quản lý và điều hành hoạt động hàng ngày của công ty với tư cách là thành viên hợp danh; phân công, phối hợp công việc giữa các thành viên hợp danh; đại diện cho công ty trong quan hệ với cơ quan nhà nước; đại diện cho công ty với tư cách là bị đơn hoặc nguyên đơn trong các vụ kịên, tranh chấp thương mại hoặc các tranh chấp khác.
Việc điều hành các hoạt động của công ty, các thành viên hợp danh có quyền đại diện theo pháp luật và tổ chức điều hành hoạt động hàng ngày của công ty. Mọi hạn chế đối với thành viên hợp danh trong thực hiện các hoạt động hàng ngày của công ty chỉ có hiệu lực đối với bên thứ ba khi người đó biết được về hạn chế đó. Trong khi điều hành, các thành viên hợp danh phân công nhau đảm nhận các chức danh quản lý và kiểm sát công ty. Khi một số hoặc tất cả các thành viên hợp danh cùng thực hiện những công việc hàng ngày, thì quyết định được thông qua theo nguyên tắc đa số. Hoạt động do thành viên hợp danh thực hiện ngoài phạm vi hoạt động đã đăng ký của công ty đều không thuộc trách nhiệm của công ty, trừ trường hợp đã được các thành viên còn lại chấp thuận.Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Pháp luật Việt Nam thừa nhận công ty luật hợp danh được thực hiện các hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý, tư vấn pháp luật và cung cấp dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực tranh tụng.
Anh, luật sư được chia làm hai loại là luật sư tư vấn và luật sư tranh tụng. Công ty luật hợp danh ở Anh chỉ hoạt động trong lĩnh vực tư vấn. Hiện nay, có khoảng 9.800 hãng luật của luật sư tư vấn được thành lập ở Anh và xứ Wales. “Luật sư tranh tụng của Anh không thể hành nghề dưới hình thức hãng luật cá nhân hay hãng luật hợp danh, mà chỉ được hành nghề độc lập với tư cách của chính bản thân họ mà thôi. Các luật sư tranh tụng ở Anh có thể cùng nhau làm việc trong một phòng luật sư (chamber) thuộc Toà án, nơi họ đăng ký hành nghề, nhưng thực chất họ hành nghề một cách độc lập và không có nghĩa vụ, trách nhiệm với nhau. Các luật sư tranh tụng cũng phải đóng một khoản phí nhất định cho chamber, nơi họ hành nghề”.[5]
- Công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên:
Theo pháp luật của nhiều nước, hình thức tổ chức hành nghề luật sư phổ biến là: (i) Văn phòng luật hành nghề độc lập (sole practitioner/principal) Công ty hợp danh (partnership). Ngoài ra, thì ở nhiều nước cho phép luật sư thành lập công ty luật trách nhiệm hữu hạn (Mỹ, Pháp, Canada, Bỉ, Singapore, Thái Lan, Đức). Bên cạnh đó, một số nước như Hy Lạp, Arhentina, Italia, Mexico, Đài Loan, Brazil, Thuỵ Sỹ, Nhật Bản, hình thức công ty luật trách nhiệm hữu hạn không được chấp nhận, vì không phù hợp với chế độ trách nhiệm vô hạn đối với luật sư trong hoạt động nghề nghiệp. Còn ở Anh, Mỹ, thì hình thức công ty luật hợp danh lại rất phổ biến.Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Công ty luật trách nhiệm hữu hạn là loại hình công ty đối vốn, trong đó các thành viên chỉ chịu trách nhiệm về mọi khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn mà họ đã góp vào công ty. Luật của các nước còn thừa nhận công ty luật trách nhiệm hữu hạn một chủ. Công ty một chủ là kết quả pháp lý đặc biệt của quá trình phát triển. Các công ty đối vốn vẫn có khả năng tồn tại và phát triển khi toàn bộ tài sản của công ty chuyển về tay một thành viên duy nhất và trở thành công ty một người. Ở Việt Nam, pháp luật thừa nhận công ty luật trách nhiệm hữu hạn (gồm công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên và công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên).
Tổ chức, quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên gồm các cơ quan sau: Hội đồng thành viên, chủ tịch hội đồng thành viên, giám đốc hoặc tổng giám đốc. Khi công ty có trên mười một thành viên, thì phải có ban kiểm soát. Trường hợp có ít hơn mười một thành viên, có thể thành lập ban kiểm soát phù hợp với yêu cầu quản trị công ty.
Hội đồng thành viên: Là cơ quan có quyền quyết định cao nhất của công ty, bao gồm tất cả các thành viên công ty. Là cơ quan tập thể, hội đồng thành viên không làm việc thường xuyên, mà chỉ tồn tại trong thời gian họp và ra quyết định trên cơ sở biểu quyết tại cuộc họp hoặc lấy ý kiến của các thành viên bằng văn bản. Với tư cách là cơ quan quyết định cao nhất của công ty, hội đồng thành viên có quyền xem xét và quyết định những vấn đề chủ yếu, quan trọng nhất của công ty như: Phương hướng phát triển công ty, tăng, giảm vốn điều lệ, cơ cấu tổ chức quản lý công ty, chuyển đổi, chấm dứt hoạt động của công ty…
Đức và Hungari, hội đồng thành viên có tên gọi là hội nghị các thành viên công ty. Ở Pháp, được gọi là phiên họp toàn thể các thành viên công ty,là cơ quan tối cao, hội nghị các thành viên công ty TNHH thể hiện sự tập trung thống nhất ý nguyện, ý chí của toàn thể các thành viên tham gia công ty. Bên cạnh lãnh đạo quản lý hoạt động hàng ngày của công ty, chức năng nhiệm vụ của hội nghị các thành viên công ty còn được cụ thể hóa trong luật của mỗi nước.Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Pháp, các nghị quyết, phán quyết của công ty TNHH, về cơ bản cũng được thực hiện trong khuôn khổ hội nghi toàn thể các thành viên công ty. Nếu như trong hợp đồng công ty không có quy định gì khác, thì các phán quyết của hội nghị toàn thể các thành viên công ty đó được quy tụ dưới hình thức các văn bản mới được coi là hợp lệ. Đối với việc phán xét, phê chuẩn báo cáo tổng kết năm bao giờ cũng được thực hiện trong hội nghị. Hội nghị được tiến hành với sự triệu tập được tất cả các thành viên. Một hoặc nhiều thành viên đại diện của 1/3 số vốn kinh doanh hay thấp nhất là 1/4 số thành viên công ty cũng có thể đủ yêu cầu để triệu tập hội nghị toàn thể các thành viên công ty. Tất cả mọi sự chống đối lại các quy định trên đây đều coi là không hợp pháp. Ban lãnh đạo điều hành hội nghị toàn thể các thành viên công ty theo luật đã được quy định trước. Người có thẩm quyền ký vào các văn bản phán quyết của hội nghị phải có đăng ký chữ ký chuẩn tại cơ quan tòa án có thẩm quyền. Việc ký kết các hợp đồng chịu sự chi phối chặt chẽ bởi sự biểu quyết của hội nghị. Các vấn đề về báo cáo tổng kết năm trong vòng 6 tháng sau khi kết thúc kỳ hoạt động năm phải được hội nghị xem xét và phê chuẩn. Nghị quyết về việc sửa đổi điều lệ phải được ít nhất 3/4 đại đa số các thành viên nhất trí tán thành, trường hợp ngoại lệ phải sửa đổi vì yếu tố Nhà nước.
Đức, trong thực tế, các công ty TNHH hình thành một tiểu ban của các thành viên công ty, có chức năng lập các chương trình nghị sự cũng như các hoạt động khác liên quan của hội nghị các thành viên công ty, tiểu ban này nhiều khi cũng đóng vai trò tư vấn cho lãnh đạo trong hoạt động của công ty, nhất là lập các chương trình bảo đảm sự ổn định và an toàn nội bộ.
Chủ tịch Hội đồng thành viên: Hội đồng thành viên bầu một thành viên làm chủ tịch. Chủ tịch hội đồng thành viên có thể kiêm giám đốc hoặc tổng giám đốc công ty. Nhiệm kỳ của chủ tịch hội đồng thành viên không quá 05 năm. Chủ tịch hội đồng thành viên có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế. Chủ tịch hội đồng thành viên có thể là người đại diện theo pháp luật của công ty nếu điều lệ công ty quy định. Trong trường hợp này các giấy tờ giao dịch của công ty phải ghi rõ tư cách đại diện theo pháp luật cho công ty của chủ tịch hội đồng thành viên. Chủ tịch hội đồng thành viên có các quyền và nhiệm vụ sau đây: Chuẩn bị hoặc tổ chức việc chuẩn bị chương trình, kế hoạch hoạt động của hội đồng thành viên; chuẩn bị hoặc tổ chức việc chuẩn bị chương trình, nội dung, tài liệu họp hội đồng thành viên hoặc để lấy ý kiến các thành viên; triệu tập và chủ trì cuộc họp hội đồng thành viên hoặc tổ chức việc lấy ý kiến các thành viên; giám sát hoặc tổ chức giám sát việc thực hiện các quyết định của hội đồng thành viên; thay mặt hội đồng thành viên ký các quyết định của hội đồng thành viên; các quyền và nhiệm vụ khác theo quy định của điều lệ công ty.
Giám đốc hoặc tổng giám đốc: Giám đốc hoặc tổng giám đốc là người điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty do hội đồng thành viên bổ nhiệm và chịu trách nhiệm trước hội đồng thành viên về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ của mình. Giám đốc hoặc tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty, trừ trường hợp điều lệ công ty quy định chủ tịch hội đồng thành viên là đại diện theo pháp luật của công ty.Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Ở Đức và Hungari, chủ tịch hội đồng thành viên hay giám đốc công ty được gọi là lãnh đạo công ty. Ở Pháp, Luật Công ty TNHH không quy định hình thức người đại diện duy nhất của công ty. Lãnh đạo kinh doanh là người đại diện của công ty TNHH (SARL). Theo luật của Pháp, trong công ty có nhiều lãnh đạo kinh doanh, song quyền lực cá nhân bao giờ cũng được đề cao. Tuy vậy, trong sổ quản lý đăng ký kinh doanh, thì lại không có chi tiết nào nói về quyền lực của các nhà lãnh đạo kinh doanh công ty. Đối với quan hệ nội bộ của công ty, thì việc phân quyền quản lý của các nhà lãnh đạo kinh doanh được quy định cụ thể và chi tiết. Song có điểm đặc biệt là một khi người lãnh đạo nào đó thực hiện các phương pháp kinh doanh đối lập với cách thức kinh doanh của các lãnh đạo kinh doanh khác trong công ty hay trong trường hợp người đó đã thực hiện các giao dịch vượt quá thẩm quyền của mình, thì hậu quả pháp lý phát sinh sẽ không thuộc về trách nhiệm của công ty trước các khách hàng.
Những quy định về lãnh đạo công ty TNHH ở Đức được quy định tại Điều 6, Điều 35 đến Điều 44 Luật Công ty TNHH. Trong công ty TNHH có thể có từ một đến nhiều người trong ban lãnh đạo công ty. Lãnh đạo công ty được tiến cử thông qua nghị quyết chung của các thành viên công ty hoặc chiểu theo quy định được ghi trong điều lệ. Trong trường hợp một lãnh đạo công ty bị bãi miễn, thì người lãnh đạo thay thế có thể được tiến cử theo con đường Tòa án. Lãnh đạo công ty TNHH ở Đức được tiến cử theo con đường tòa án, tập hợp thành cơ quan và là người đại diện hợp pháp của công ty. Lãnh đạo công ty là người đại diện cho công ty theo kiện trước tòa án và các hoạt động bên ngoài không liên quan đến tòa án. Về cơ bản, quyền lực đại diện của lãnh đạo công ty đối với công ty là không có giới hạn (trừ các vấn đề thuộc về văn kiện xã hội của các thành viên công ty). Lãnh đạo công ty sẽ phải chịu trách nhiệm trước các thành viên công ty về việc thực hiện các nghĩa vụ và chức trách kinh doanh của công ty.
Ban kiểm soát: Về mặt pháp lý, ban kiểm soát là cơ quan thay mặt các thành viên công ty kiểm soát các hoạt động của công ty. Pháp luật chỉ bắt buộc công ty trách nhiệm hữu hạn trên 11 thành viên phải có ban kiểm soát. Quyền, nghĩa vụ, tiêu chuẩn, điều kiện và chế độ làm việc của ban kiểm soát,trưởng ban kiểm soát do điều lệ công ty quy định.
Pháp luật các nước gọi là hội đồng giám sát. Ở Pháp, không bắt buộc có hội đồng giám sát trong các công ty TNHH cỡ nhỏ, còn việc tiến cử hội đồng giám sát vào hệ thống cơ cấu của công ty TNHH hoàn toàn không bắt buộc phải có. Ở Pháp có quy định khống chế số thành viên công ty là 50 người và trong một số văn bản có liên quan đề cập đến hội đồng giám sát, thì trong luật công ty TNHH hoàn toàn không có quy định nào về hội đồng giám sát. Trong luật của Đức và Hungaria quy định rất cụ thể về hội đồng giám sát đối với công ty TNHH.Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Đức, trước hết cần phân biệt hội đồng giám sát mang tính chính quy và hội đồng giám sát được thành lập và tiến cử chỉ theo quy định trong hợp đồng công ty. Theo Điều 52, thì các quy định về hội đồng giám sát được xây dựng trên cơ sở những quy định về loại hình cơ quan này trong công ty cổ phần. Trong hội đồng giám sát tối thiểu phải có 3 thành viên. Việc lựa chọn các thành viên của hội đồng giám sát do hội nghị các thành viên công ty quyết định. Hội đồng giám sát bảo đảm ít nhất một quý một lần triệu tập họp. Nhiệm vụ của hội đồng giám sát là giám sát hoạt động hàng ngày của công ty, có quyền thanh tra, kiểm soát việc thực hiện các chế độ về hạch toán, kế toán, tài chính, báo cáo tổng kết năm. Trong số thành viên của hội đồng giám sát có một chủ tịch hội đồng và phải chọn ít nhất một phó chủ tịch.
- Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên:
Do đặc trưng của nghề luật sư là hành nghề độc lập và chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt động nghề nghiệp của mình, nên pháp luật quy định công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên phải do cá nhân thành lập, đồng thời là chủ sở hữu công ty.
Tổ chức quản lý công ty như sau: Công ty có chủ tịch, giám đốc hoặc tổng giám đốc. Chủ sở hữu công ty đồng thời là chủ tịch công ty. Chủ tịch công ty, giám đốc hoặc tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty theo quy định tại điều lệ công ty.
Chủ sở hữu công ty có các quyền: Quyết định nội dung điều lệ công ty, sửa đổi, bổ sung điều lệ công ty; quyết định đầu tư, kinh doanh và quản trị nội bộ công ty, trừ trường hợp điều lệ công ty có quy định khác; quyết định việc sử dụng lợi nhuận sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác của công ty; quyết định tổ chức lại, tạm ngừng hoạt động, chấm dứt hoạt động; thu hồi toàn bộ giá trị tài sản của công ty sau khi công ty hoàn thành chấm dứt hoạt động; các quyền khác theo quy định của pháp luật và điều lệ công ty. Quyền, nghĩa vụ, nhiệm vụ cụ thể của giám đốc được quy định tại điều lệ công ty (khoản 2, Điều 64 Luật Doanh nghiệp).Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Tại Điều 1 Luật công ty TNHH của Đức có quy định cho phép thành lập công ty TNHH một người. Công ty TNHH một người hình thành ở Pháp từ năm 1985 (viết tắt là EURL) và được điều chỉnh bởi các quy định từ các Đạo luật từ số 85 đến số 697 ngày 11/7/1985. Về cơ bản, tổ chức quản lý công TNHH cũng giống như ở Việt Nam. Lãnh đạo công ty là chủ sở hữu công ty đồng thời là chủ tịch công ty. Lãnh đạo công ty có quyền quyết định tất cả các vấn đền liên quan đến hoạt động của công ty.
- Hoạt động của công ty
Hoạt động của công ty luật là những hoạt động được đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. Ngoài ra, công ty luật còn hoạt động để duy trì sự phát triển và phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước đối với nghề luật sư.
Pháp luật nước ta cũng như các nước đều quy định các loại hình công ty luật đều được đăng ký hoạt động kinh doanh tất cả các dịch vụ pháp lý. Cụ thể là: Tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, các dịch vụ pháp lý khác và đại diện ngoài tố tụng.
Tham gia tố tụng là việc công ty luật nhận và ký dịch vụ pháp lý với khách hàng để tiến hành giải quyết vụ việc tại Tòa án. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tất cả các loại hình công ty luật đều được đăng ký hoạt động tham gia tố tụng. Một số nước trên thế giới có quy định riêng về hoạt động tham gia tố tụng của luật sư. Ở Anh, luật sư được phân làm luật sư tư vấn và luật sư tranh tụng.
Hoạt động tư vấn pháp luật: Hiện nay, còn có nhiều cách tiếp cận và định nghĩa khác nhau về tư vấn pháp luật. Tuy nhiên, từ góc độ lý luận và thực tiễn, tư vấn pháp luật được hiểu là việc giải đáp pháp luật, hướng dẫn cá nhân, tổ chức trong nước và nước ngoài xử sự đúng pháp luật; cung cấp dịch vụ pháp lý giúp cho các cá nhân, tổ chức thực hiện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hoạt động tư vấn pháp luật không chỉ bao gồm việc chuyển tải nội dung của một điều luật, một văn bản pháp luật hoặc cung cấp thông tin về những quy định pháp luật có liên quan, mà còn là việc sử dụng kiến thức pháp luật và kinh nghiệm của các chuyên gia pháp là luật sư của công ty luật để đưa ra một lời khuyên, giúp khách hàng có một hướng giải quyết đúng đắn.Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Anh, luật sư tư vấn có thể hành nghề dưới các hình thức sau: Hãng luật cá nhân; hãng luật hợp danh (partnership); làm thuê cho hợp danh; làm thuê cho cơ quan nhà nước hoặc tổ chức thương mại.
Hoạt động đại diện ngoài tố tụng: Là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền để xác lập, thực hiện giao dịch ngoài phạm vi tố tụng do Toà án tiến hành. Công ty luật cử luật sư nhân danh và vì lợi ích của người khác, theo quy định pháp luật hoặc theo ủy quyền, xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động… Có hai hình thức đại diện là:
Luật sư đại diện theo pháp luật: Là đại diện do pháp luật quy định,như: Đại diện cho pháp nhân; đại diện hộ gia đình; đại diện tổ hợp tác; đại diện cho người mất năng lực hành vi hay hạn chế năng lực hành vi; đại diện của cha mẹ đối với con chưa thành niên; đại diện của người giám hộ đối với người được giám hộ….
Luật sư đại diện theo ủy quyền: Là đại diện được xác lập bằng hợp đồng ủy quyền, theo quy định của pháp luật liên quan đến lĩnh vực đại diện.
Hoạt động cung cấp các dịch vụ pháp lý khác: Là hoạt động giúp cá nhân, tổ chức thực hiện các thủ tục pháp lý như thủ tục thành lập doanh nghiệp, chuyển nhượng bất động sản, xuất nhập cảnh…
Ngoài ra, công ty luật còn hoạt động trong tổ chức nội bộ văn phòng như: Tuyển dụng nhân lực, pháp triển nhân lực, chăm sóc khách hàng và thực hiện các hoạt động thuộc về nghĩa vụ của công ty như: Mua bảo hiểm nghề nghiệp cho luật sư, nộp thuế, thực hiện chế độ báo cáo…
1.2.2.3. Quản trị công ty luật Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Theo IFC, quản trị công ty là “những cơ cấu và những quá trình để định hướng và kiểm soát công ty”. Vào năm 1999, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD – Organization for Economic Co-operation and Development) đã xuất bản một tài liệu mang tên “Các nguyên tắc quản trị công ty” (OECD Principles of Corporate Governance), trong đó đưa ra một định nghĩa chi tiết hơn về quản trị công ty như sau:
“Quản trị công ty là những biện pháp nội bộ để điều hành và kiểm soát công ty [….], liên quan tới các mối quan hệ giữa ban giám đốc, hội đồng quản trị và các cổ đông của một công ty với các bên có quyền lợi liên quan. Quản trị công ty cũng tạo ra một cơ cấu để đề ra các mục tiêu của công ty và xác định các phương tiện để đạt được những mục tiêu đó, cũng như để giám sát kết quả hoạt động của công ty. Quản trị công ty chỉ được cho là có hiệu quả khi khích lệ được ban giám đốc và hội đồng quản trị theo đuổi các mục tiêu vì lợi ích của công ty và của các cổ đông, cũng như phải tạo điều kiện thuận lợi cho việc giám sát hoạt động của công ty một cách hiệu quả, từ đó khuyến khích công ty sử dụng các nguồn lực một cách tốt nhất”.[25]
Khái niệm quản trị công ty khác với khái niệm quản lý công ty. Quản trị công ty tập trung vào các cơ cấu và quy trình của công ty nhằm đảm bảo sự công bằng, tính minh bạch, tính trách nhiệm và tính giải trình. Trong khi đó, quản lý công ty tập trung vào các công cụ cần thiết để điều hành doanh nghiệp. Quản trị công ty được đặt ở một tầm cao hơn nhằm đảm bảo rằng, công ty sẽ được quản lý theo một cách sao cho nó phục vụ lợi ích của các cổ đông. Có một mạng chung giữa hai lĩnh vực này là mạng chiến lược, một vấn đề được xem xét cả ở cấp độ quản trị công ty và quản lý công ty.
Như vậy, khái niệm quản trị công ty ở trên chỉ nói đến quản trị công ty cổ phần. Xét về bản chất, quản trị công ty là những biện pháp nội bộ để điều hành và kiểm soát giữa các cơ quan quản lý và điều hành trong công ty. Yêu cầu quản trị công ty đặt ra đối với công ty đối vốn, khi mà các nhà đầu tư bỏ vốn ra để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, thì phải có cơ quan điều hành và phải có sự kiểm soát đối với nguồn vốn đó.Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Dựa vào đặc trưng của nghề luật sư, mà pháp luật các nước không thừa nhận công ty luật được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần. Vậy quản trị công ty luật được thiết lập như thế nào? Có thể dựa vào quy tắc chung về quản trị công ty để đưa ra một mô hình quản trị công ty luật (công ty luật hợp danh và công ty luật trách nhiệm hữu hạn).
Có thể thấy, hệ thống quản trị công ty luật được thiết lập qua các cơ quan quản lý giám sát, điều hành sau:
Hội đồng thành viên (đại diện cho các thành viên, đưa ra các quyết định quan trọng như chiến lược phát triển công ty…): Là cơ quan có quyền quyết định cao nhất của công ty luật (công ty luật hợp danh và công ty luật TNHH), bao gồm tất cả các thành viên công ty. Là cơ quan tập thể, hội đồng thành viên không làm việc thường xuyên, mà chỉ tồn tại trong thời gian họp và ra quyết định trên cơ sở biểu quyết tại cuộc họp hoặc lấy ý kiến của các thành viên bằng văn bản.
Hội đồng thành viên là cơ quan có quyền xem xét, quyết định và giám sát những vấn đề chủ yếu, quan trọng nhất của công ty như: Quyết định chiến lược phát triển và kế hoạch kinh doanh hằng năm của công ty; quyết định tăng hoặc giảm vốn điều lệ, quyết định thời điểm và phương thức huy động thêm vốn; thông qua hợp đồng vay, cho vay, bán tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính tại thời điểm công bố gần nhất của công ty hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại điều lệ công ty; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm chủ tịch hội đồng thành viên; quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, ký và chấm dứt hợp đồng đối với giám đốc hoặc tổng giám đốc, kế toán trưởng và người quản lý khác quy định tại điều lệ công ty; quyết định mức lương, thưởng và lợi ích khác đối với chủ tịch hội đồng thành viên, giám đốc hoặc tổng giám đốc, kế toán trưởng và người quản lý khác quy định tại điều lệ công ty; thông qua báo cáo tài chính hằng năm, phương án sử dụng và phân chia lợi nhuận hoặc phương án xử lý lỗ của công ty; quyết định cơ cấu tổ chức quản lý công ty; quyết định thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện; sửa đổi, bổ sung điều lệ công ty; quyết định tổ chức lại công ty; quyết định tạm ngừng hoạt động, chấm dứt hoạt động của công ty; các quyền và nhiệm vụ khác theo quy định của điều lệ công ty.
Như vậy có thể thấy Hôi đồng thành viên là cơ quan tập thể của công ty, quyết định những vấn đề quan trọng nhất của công ty và giám sát thực thi những quyết định đó.
Chủ tịch Hội đồng thành viên (chịu trách nhiệm chỉ đạo và giám sát chung, đề ra chiến lược và giám sát giám đốc hoặc tổng giám đốc): Để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, hội đồng thành viên bầu một thành viên làm chủ tịch. Chủ tịch hội đồng thành viên có thể kiêm giám đốc hoặc tổng giám đốc công ty và có thể là người đại diện theo pháp luật của công ty nếu điều lệ công ty quy định.Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Chủ tịch hội đồng thành viên thực hiện các quyền và nhiệm vụ sau đây: Giám sát hoặc tổ chức giám sát việc thực hiện các quyết định của hội đồng thành viên; chuẩn bị hoặc tổ chức việc chuẩn bị chương trình, kế hoạch hoạt động của hội đồng thành viên; chuẩn bị hoặc tổ chức việc chuẩn bị chương trình, nội dung, tài liệu họp hội đồng thành viên hoặc để lấy ý kiến các thành viên; triệu tập và chủ trì cuộc họp hội đồng thành viên hoặc tổ chức việc lấy ý kiến các thành viên; thay mặt hội đồng thành viên ký các quyết định của hội đồng thành viên; các quyền và nhiệm vụ khác theo quy định của điều lệ công ty.
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc: Là người điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty do hội đồng thành viên bổ nhiệm, chịu trách nhiệm trước hội đồng thành viên về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ của mình. Là người đại diện theo pháp luật của công ty, trừ trường hợp điều lệ công ty quy định chủ tịch hội đồng thành viên là đại diện theo pháp luật của công ty. Là người điều hành hoạt động hàng ngày của công ty, giám đốc có quyền và nghĩa vụ: Tổ chức thực hiện các quyết định của hội đồng thành viên; quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh hằng ngày của công ty; tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh và phương án đầu tư của công ty; ban hành quy chế quản lý nội bộ công ty; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh quản lý trong công ty, trừ các chức danh thuộc thẩm quyền của hội đồng thành viên; ký kết hợp đồng nhân danh công ty (trừ trường hợp thuộc thẩm quyền của chủ tịch hội đồng thành viên); kiến nghị phương án cơ cấu tổ chức công ty; trình báo cáo quyết toán tài chính hằng năm lên hội đồng thành viên; kiến nghị phương án sử dụng lợi nhuận hoặc xử lý lỗ trong kinh doanh; tuyển dụng lao động; các quyền và nhiệm vụ khác được quy định tại điều lệ công ty.
Ban kiểm soát (áp dụng đôi với công ty luật TNHH hai thành viên trở lên) là cơ quan thay mặt các thành viên công ty kiểm soát các hoạt động của công ty. Pháp luật chỉ bắt buộc công ty trách nhiệm hữu hạn trên 11 thành viên phải có ban kiểm soát. Ban kiểm soát kiểm soát các hoạt động của công ty như: Thu chi, sổ sách kế toán, trích lập các loại quỹ… Trưởng ban kiểm soát có trách nhiệm báo cáo về kết quả kiểm soát cho hội đồng thành viên về việc thực hiện nhiệm vụ của mình.
Như vậy, có thể thấy quản trị công ty luật được thiết lập trên một hệ thống gồm các cơ quan có chức năng nhiệm vụ riêng. Các cơ quan này thực hiện nhiệm vụ và kiểm soát lẫn nhau để đi đến mục tiêu chung là khuyến khích công ty sử dụng các nguồn lực một cách tốt nhất.
1.2.2.4. Hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi và chấm dứt hoạt động công ty luật
- Hợp nhất công ty luật
“Hợp nhất công ty là biện pháp tổ chức lại công ty được áp dụng cho tất cả các loại hình công ty, theo đó hai hoặc một số công ty cùng loại (gọi là công ty bị hợp nhất) hợp thành một công ty mới (gọi là công ty hợp nhất), bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty hợp nhất đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các công ty bị hợp nhất”.
Sau khi đăng ký hoạt động các công ty bị hợp nhất chấm dứt sự tồn tại. Công ty hợp nhất được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của các công ty bị hợp nhất.Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Như vậy, có thể nói, hợp nhất công ty luật là một cách tổ chức lại công
Điều kiện để có thể hợp nhất phải là công ty cùng loại. Theo đó, hai hoặc nhiều công ty luật trách nhiệm hữu hạn có thể thỏa thuận hợp nhất thành một công ty luật trách nhiệm hữu hạn mới bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty luật hợp nhất, đồng thời chấm dứt tồn tại của các công ty luật bị hợp nhất. Hai hoặc nhiều công ty luật hợp danh có thể thỏa thuận hợp nhất thành một công ty luật hợp danh mới bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty luật hợp nhất, đồng thời chấm dứt tồn tại của các công ty luật bị hợp nhất.
Về quyền và nghĩa vụ của công ty luật hợp nhất: Sau khi công ty luật hợp nhất được cấp giấy đăng ký hoạt động, các công ty luật bị hợp nhất chấm dứt hoạt động. Công ty luật hợp nhất được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về toàn bộ các khoản nợ chưa thanh toán, các hợp đồng dịch vụ pháp lý đang thực hiện, hợp đồng lao động đã ký với luật sư, người lao động khác và các nghĩa vụ tài sản khác của các công ty luật bị hợp nhất.
Về thủ tục tiến hành hợp nhất: Các công ty luật muốn hợp nhất phải làm thủ tục gửi cơ quan có thẩm quyền. Hồ sơ hợp nhất công ty luật được gửi đến Sở Tư pháp nơi công ty luật đăng ký hoạt động, bao gồm: Giấy đề nghị hợp nhất công ty luật; hợp đồng hợp nhất, trong đó phải quy định rõ về thủ tục, thời hạn và điều kiện hợp nhất; phương án sử dụng lao động; việc kế thừa toàn bộ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của các công ty luật bị hợp nhất; giấy đăng ký hoạt động của các công ty luật bị hợp nhất; điều lệ của công ty luật hợp nhất. Hầu hết pháp luật các nước trên thế giới đều thừa nhận việc hợp nhất công ty luật. Điều kiện và thủ tục để hợp nhất về cơ bản như quy định của pháp luật Việt Nam.Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Ở Mỹ, nhiều công ty luật rất lớn có tới hàng ngàn luật sư. Các công ty này hiện nay có xu hướng hợp nhất với nhau thành những công ty khổng lồ không chỉ ở phạm vi một quốc gia, mà còn mang tính toàn cầu. Với xu hướng như vậy, dễ xảy ra nguy cơ các công ty lớn không muốn nhận các vụ việc nhỏ, những vụ việc mang lại ít lợi nhuận và điều đó dễ dẫn đến tình trạng nền công lý mất cân đối. Công lý của những người nhiều tiền và công lý của những người nghèo không có cùng chuẩn mực, nhưng phải chăng nguy cơ này không tồn tại ở các nước phát triển khác?
- Sáp nhập công ty luật
Sáp nhập công ty là biện pháp tổ chức lại công ty được áp dụng cho tất cả các loại hình công ty, theo đó một hoặc một số công ty cùng loại (gọi là công ty bị sáp nhập) sáp nhập vào một công ty khác (gọi là công ty nhận sáp nhập), bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty nhận sáp nhập đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhập. Sau khi đăng ký hoạt động, công ty nhận sáp nhập được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị sáp nhập. Theo khái niệm chung đó, có thể khái quát về sáp nhập công ty luật như sau: (i) Một hoặc nhiều công ty luật trách nhiệm hữu hạn có thể sáp nhập vào một công ty luật trách nhiệm hữu hạn khác bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty nhận sáp nhập đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhập; (ii) Một hoặc nhiều công ty luật hợp danh có thể sáp nhập vào một công ty luật hợp danh khác bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty nhận sáp nhập đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhập.
Về quyền và nghĩa vụ của công ty nhận sáp nhập: Sau khi công ty luật nhận sáp nhập được cấp giấy đăng ký hoạt động, các công ty luật bị sáp nhập chấm dứt hoạt động.Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Về thủ tục tiến hành sáp nhập: Khi có kế hoạc sáp nhập, đại diện các công ty bị sáp nhập và công ty nhận sáp nhập phải tiến hành họp và lập hợp đồng sáp nhập công ty. Hoàn thiện hồ sơ sáp nhập gửi cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuỳ theo quy định của pháp luật các nước, mà hồ sơ và thủ tục, cơ quan có thẩm quyền giải quyết thủ tục sáp nhập là khác nhau. Theo pháp luật Việt Nam, hồ sơ sáp nhập công ty luật được gửi đến Sở Tư pháp nơi công ty luật nhận sáp nhập đăng ký hoạt động, gồm có: Giấy đề nghị sáp nhập công ty luật; hợp đồng sáp nhập công ty luật, trong đó phải quy định rõ về thủ tục, thời hạn và điều kiện sáp nhập; phương án sử dụng lao động; việc kế thừa toàn bộ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của các công ty luật bị sáp nhập; giấy đăng ký hoạt động của các công ty luật bị sáp nhập và công ty luật nhận sáp nhập.
- Chuyển đổi công ty luật
Chuyển đổi công ty là một biện pháp tổ chức lại công ty được áp dụng cho công ty luật trách nhiệm hữu hạn và công ty luật hợp danh.
Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên (gọi là công ty được chuyển đổi) có thể chuyển đổi sang hình thức công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên (gọi là công ty chuyển đổi) hoặc ngược lại. Công ty luật trách nhiệm hữu hạn (gọi là công ty được chuyển đổi) có thể chuyển đổi sang hình thức công ty luật hợp danh (gọi là công ty chuyển đổi) hoặc ngược lại.
Như vậy, có thể thấy chuyển đổi công ty luật là chuyển đổi hình thức công ty, công ty mới được chuyển đổi sẽ phải thực hiện quy chế pháp lý riêng cho từng loại hình công ty. Sau khi đăng ký hoạt động công ty được chuyển đổi chấm dứt tồn tại. Công ty chuyển đổi được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty được chuyển đổi. Trước khi chuyển đổi, công ty muốn chuyển đổi phải có phương án chuyển đổi, trong đó cần nêu rõ: Mục đích, lý do chuyển đổi và cam kết về việc kế thừa toàn bộ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của các công ty luật được chuyển đổi.Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Về thủ tục tiến hành chuyển đổi: Pháp luật của các nước quy định về thủ tục, hồ sơ và cơ quan giải quyết hồ sơ chuyển đổi là khác nhau. Theo pháp luật Việt Nam, hồ sơ chuyển đổi công ty luật được gửi đến Sở Tư pháp nơi công ty luật chuyển đổi đăng ký hoạt động, gồm có: Giấy đề nghị chuyển đổi trong đó nêu rõ mục đích, lý do chuyển đổi và cam kết về việc kế thừa toàn bộ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của các công ty luật được chuyển đổi; dự thảo điều lệ của công ty luật chuyển đổi; giấy đăng ký hoạt động của công ty luật được chuyển đổi; danh sách thành viên hoặc luật sư chủ sở hữu; bản sao thẻ luật sư của các luật sư thành viên hoặc luật sư chủ sở hữu của công ty luật chuyển đổi; bản sao giấy tờ chứng minh về trụ sở trong trường hợp có thay đổi về trụ sở.
- Chấm dứt hoạt động công ty luật
Chấm dứt hoạt động của công ty là việc chấm dứt sự tồn tại, hoạt động của công ty. Chấm dứt hoạt động của công ty trước hết là quyền của các thành viên công ty. Mặt khác, công ty còn bị chấm dứt hoạt động trong những trường hợp do pháp luật quy định: (i) Tự chấm dứt hoạt động; (ii) Bị thu hồi giấy đăng ký hoạt động; (iii) Giám đốc công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc tất cả các thành viên của công ty luật hợp danh, thành viên của công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên bị thu hồi chứng chỉ hành nghề luật sư; (iv) Công ty luật bị hợp nhất, bị sáp nhập; (v) Giám đốc công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên chết.
Pháp luật các nước quy định về điều kiện để chấm dưt hoạt động của công ty luật cũng khác nhau: Ở Đức, các quy định về chấm dứt hoạt động của công ty được ghi nhận từ Điều 60 đến Điều 70 Luật Công ty TNHH. Điều 60 quy định căn cứ (lý do) bắt buộc công ty phải chấm dứt hoạt động khi: Thời hạn cụ thể ghi trong hợp đồng công ty đã trôi qua; nghị quyết của hội nghị (đại hội) các thành viên công ty với ¾ đại đa số nhất trí tán thành; quyết định phán xử của tòa án, tòa án hành chính hay cơ quan chấp hành, hành chính trong các trường hợp chiểu theo quy định tại Điều 61 và Điều 62 Luật Công ty TNHH; việc công bố phá sản (theo trình tự công bố phá sản); với hiệu lực quyết định của tòa án quản lý đăng ký hoạt động có thẩm quyền về việc phán quyết đó với các trường hợp hợp đồng công ty vi phạm pháp luật.
Ngoài ra, theo pháp luật của Đức, thì trong hợp đồng công ty cũng có thể ghi trước những căn cứ của việc chấm dứt hoạt động như do sự kiện chết của thành viên công ty, do phải chỉnh đốn lại tình trạng sa sút trong hoạt động của công ty, hay trong trường hợp công ty thành lập đã không bảo đảm tuân thủ các trình tự, quy định của pháp luật (công ty không hợp pháp) sẽ bị chấm dứt hoạt động thông qua phán quyết tòa án.Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Về nghĩa vụ của công ty trước khi chấm dứt hoạt động: Khi công ty được thành lập, pháp luật đã quy định công ty có quyền và nghĩa vụ trong tổ chức và hoạt động. Vì vậy, khi công ty chấm dứt hoạt động, công ty phải thực hiện các nghĩa vụ với nhà nước và khách hàng.
- Trong trường hợp tự chấm dứt: Trước thời điểm chấm dứt hoạt động, công ty luật phải nộp đủ số thuế còn nợ; thanh toán xong các khoản nợ khác; làm xong thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động đã ký với luật sư, nhân viên của công ty luật; thực hiện xong các hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ký với khách hàng. Trong trường hợp không thể thực hiện xong hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ký với khách hàng thì phải thoả thuận với khách hàng về việc thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý đó.
- Trong trường hợp chấm dứt do quyết định của cơ quan nhà nước: Công ty luật phải nộp đủ số thuế còn nợ; thanh toán xong các khoản nợ khác; làm xong thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động đã ký với luật sư, nhân viên của công ty luật; đối với hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ký với khách hàng nhưng chưa thực hiện xong, thì phải thoả thuận với khách hàng về việc thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý đó.
- Trong trường hợp giám đốc công ty luật TNHH một thành viên chết: Sở Tư pháp có trách nhiệm thông báo bằng văn bản với đoàn luật sư, cơ quan thuế ở địa phương nơi tổ chức hành nghề luật sư đăng ký hoạt động và nơi có trụ sở của chi nhánh về việc thu hồi giấy đăng ký hoạt động. Việc giải quyết quyền, nghĩa vụ về tài sản được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự.
1.2.3. Công ty luật trong mối liên hệ với đào tạo luật sư, Tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
1.2.3.1. Công ty luật trong mối liên hệ với đào tạo luật sư
Để luật sư là một nghề tự do, ngoài đào tạo luật cơ bản thì việc đào tạo nghề luật sư là rất quan trọng. Công ty luật có vai trò rất quan trọng trong việc đào tạo nghề luật sư, các luật sư thành viên và các luật sư tập sự được tiếp xúc, thực hành các vụ việc thực tế, qua đó hình thành kinh nghiệm, kỹ năng hành nghề cho các luật sư. Ở nước ta Luật Luật sư quy định quy trình trở thành luật sư theo hướng một người đáp ứng đủ các điều kiện luật định có thể đăng ký việc tập sự hành nghề luật sư tại một tổ chức hành nghề luật sư (công ty luật, văn phòng luật sư) thuộc Đoàn luật sư để tập sự hành nghề luật sư. Người tập sự hành nghề không được nhận và thực hiện dịch vụ pháp lý cho khách hàng; chỉ được thực hiện những công việc do luật sư hướng dẫn phân công và chịu trách nhiệm trước luật sư hướng dẫn về những công việc đó. Luật sư hướng dẫn chịu trách nhiệm trước khách hàng và trước pháp luật về kết quả những công việc mà mình đã phân công cho người tập sự.
Sau khi hoàn thành thời gian tập sự, người đó được tham dự kỳ kiểm tra hết tập sự để đánh giá khả năng hành nghề luật sư do Đoàn luật sư tổ chức. Người đạt yêu cầu kỳ kiểm tra hết tập sự hành nghề luật sư và người được miễn thời gian tập sự hành nghề luật sư thì được Bộ Tư pháp cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư.Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Như vậy có thể thấy vai trò của công ty luật là rất quan trọng trong việc đào tạo nghề luật sư. “Một số nước quy định người muốn trở thành luật sư vừa phải qua thời gian đào tạo nghề, vừa phải qua thời gian tập sự hành nghề luật sư như Singapore, Pháp, bang New South Wales của Úc . Ở Singapore, Uỷ ban giáo dục pháp luật Singapore là cơ quan tiến hành công tác đào tạo và kiểm tra đối với những người có đủ điều kiện trở thành luật sư. Để trở thành luật sư, ứng viên phải trải qua khoá đào tạo nghề năm tháng và sau đó phải qua một kỳ thi. Sau khi hoàn thành khoá học, ứng viên phải qua thời gian tập sự là sáu tháng nếu tập sự cùng với một luật sư hành nghề tư nhân và ba năm nếu tập sự với một luật sư làm việc cho Chính phủ. Trong thời gian tập sự hành nghề luật sư, người tập sự không được phép mở văn phòng riêng của mình hay làm thuê, cộng tác để hành nghề luật dưới bất kỳ hình thức nào, trừ khi được Uỷ ban giáo dục pháp luật Singapore chấp thuận bằng văn bản. Thời gian tập sự có thể được xét giảm nếu người tập sự là luật sư tư vấn của Anh, Bắc Ai-Len hay đã hành nghề luật trong Khối thịnh vượng chung”. [5, tr-6]
1.2.3.2. Công ty luật trong mối liên hệ với Tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư
Tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư (tổ chức luật sư toàn quốc) có vai trò rất quan trọng và liên quan rất nhiều đến mỗi luật sư cũng như công ty luật. Ở nước ta Tổ chức luật sư toàn quốc sẽ ban hành Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư (thay thế Quy tắc mẫu do Bộ Tư pháp ban hành như hiện nay ); phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc ban hành quy chế tập sự hành nghề luật sư, đào tạo nghề luật sư, kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư. Tổ chức luật sư toàn quốc cấp, thu hồi Thẻ luật sư, quy định mẫu trang phục luật sư tham gia phiên toà… Việc tổ chức bồi dưỡng thường xuyên về kiến thức pháp luật, kỹ năng hành nghề và tổng kết, trao đổi kinh nghiệm hành nghề luật sư trong cả nước cũng thuộc thẩm quyền của Tổ chức luật sư toàn quốc. Việc giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật và các quyết định khác của Ban chủ nhiệm các Đoàn luật sư cũng được giao cho Tổ chức luật sư toàn quốc.Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
Công ty luật tham gia xây dựng chính sách, đóng góp các kiến nghị góp phần để Tổ chức luật sư toàn quốc hoạt động hiệu quả. Giữa công ty luật và Tổ chức luật sư toàn quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó Tổ chức luật sư toàn quốc đóng vai trò quyết định đến hiệu quả hoạt động của công ty luật nói chung và luật sư thành viên nói riêng.
- các nước khác nhau, tên gọi của tổ chức luật sư toàn quốc cũng rất khác nhau, phổ biến nhất là: Hiệp hội luật sư (ở Trung Quốc, Thái Lan, Singapore, Hoa Kỳ), hoặc Liên đoàn luật sư (ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Thụy Điển), Hội đồng quốc gia các Đoàn luật sư (Pháp). Đây là tổ chức đại diện cho các Đoàn luật sư/Hội luật sư và luật sư trong phạm vi toàn quốc; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên; thực hiện một số chức năng quản lý luật sư và hành nghề luật sư được pháp luật quy định nhằm thúc đẩy việc thực thi sứ mạng của luật sư; hỗ trợ phát triển nghề luật sư nhằm tăng cường vai trò của luật sư trong xã hội. Mối liên hệ giữa Tổ chức luật sư toàn quốc với tổ chức hành nghề luật sư là giống nhau. Trong đó tổ chức luật sư toàn quốc đóng vai tro quan trọng đối với tổ chức hành nghề luật sư.
Tiểu kết Chương 1
Trong thời kỳ đổi mới, hệ thống pháp luật về công ty luật ở nước ta đã từng bước được xây dựng và hoàn thiện. Các đạo luật như: Luật Doanh nghiệp, Luật Luật sư và nhiều đạo luật khác được ban hành và đi vào cuộc sống, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của các doanh nghiệp, luật sư, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
Lý luận pháp luật về công ty luật là những vấn đề chung nhất, cơ bản nhất về công ty luật và pháp luật về công ty luật. Qua việc nghiên cứu các khái niệm, đặc điểm công ty luật và pháp luật về công ty luật sẽ cho chúng ta cái nhìn đúng đắn, khoa học về công ty luật và pháp luật về công ty luật. Những vấn đề pháp luật về công ty luật như: Khái niêm, tổ chức, hoạt động, quản trị và tổ chức lại công ty luật được luận giải, có so sánh với pháp luật của một số nước trên thế giới là cơ sở khoa học để hoàn thiện pháp luật về công ty luật Việt Nam hiện nay. Công cuộc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về công ty luật yêu cầu các nhà làm luật phải nghiên cứu các vấn đề lý luận khoa học một cách có hệ thống, có đánh giá, so sánh với pháp luật các nước trên thế giới, từ đó xây dựng hệ thống pháp luật về công ty luật đảm bảo chất lượng cao, mang tính đồng bộ, thống nhất, đáp ứng được yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp.Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận văn: Thực trạng Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam