Luận văn: kinh doanh cửa hàng tiện lợi VinMart tại Hà Nội

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: kinh doanh cửa hàng tiện lợi VinMart tại Hà Nội hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Văn hóa kinh doanh tại chuỗi cửa hàng tiện lợi VinMart tại Hà Nội dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, thị trường bán lẻ Việt Nam được mở cửa cho các doanh nghiệp nước ngoài theo cam kết hội nhập. Một mặt, đây là cơ hội cho các doanh nghiệp bán lẻ trong nước tự đổi mới từ kinh doanh theo mô hình truyền thống sang kinh doanh mô hình hiện đại, phải từng bước chủ động phát triển hệ thống phân phối, gắn kết ổn định hệ thống cung cấp để đáp ứng nhu cầu phong phú và đa dạng của các tầng lớp người tiêu dùng trong nước. Mặt khác trong những năm gần đây, thị trường bán lẻ Việt Nam không còn giữ được vị thế hàng đầu thế giới về tốc độ tăng trưởng, thị trường bán lẻ khá chật chội tại những thành phố lớn do đã có rất nhiều các “ông lớn” bán lẻ nước ngoài đến đầu tư kinh doanh tại Việt Nam, đẩy các doanh nghiệp bán lẻ trong nước vào hoàn cảnh cực kỳ khó khăn do phải chịu sức ép cạnh tranh to lớn. Luận văn: kinh doanh cửa hàng tiện lợi VinMart tại Hà Nội

Tuy nhiên, có một doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam không những tồn tại được mà còn nổi lên như một biểu tượng quốc gia, không chỉ với doanh thu và thị phần ấn tượng, mà còn với một khát vọng chiến thắng tuyệt vời, đó chính là Chuỗi cửa hàng tiện lợi VinMart+.

VinMart+ là thương hiệu bán lẻ thuộc Công ty VinCommerce (đơn vị thành viên của Tập đoàn đoàn kinh tế đa ngành hàng đầu Việt Nam và trong khu vực – VinGroup). Khai trương cửa hàng đầu tiên vào tháng 11 năm 2014, cho đến tháng 6 năm 2018 số cửa hàng tiện lợi VinMart+ đã lên tới trên 2.600 cửa hàng, phủ rộng gần 50 tỉnh tại Việt Nam, mang đến cho người tiêu dùng sự lựa chọn đa dạng về chất lượng hàng hóa và dịch vụ, đáp ứng nhu cầu trải nghiệm mua sắm từ bình dân đến cao cấp của mọi khách hàng. Cũng chỉ trong thời gian này, hệ thống VinMart+ cũng đã được nhận nhiều giải thưởng cao như “Top 100 sản phẩm, dịch vụ tốt nhất cho gia đình và trẻ em” , “Top 2 nhà bán lẻ được người tiêu dùng nghĩ đến nhiều nhất”; “Top 10 những nhà bán lẻ uy tín nhất”, v.v.

Về mặt tài chính, theo Báo cáo tài chính soát xét cho nửa đầu năm 2019, doanh thu bán hàng tại siêu thị và các chuỗi bán lẻ của VinGroup đạt 14.020 tỷ đồng, tăng trưởng mạnh 72% so với cùng kỳ 2018. Còn so với các năm trước, doanh thu mảng bán lẻ của VinGroup đều tăng nhanh cực kỳ ấn tượng. Cụ thể năm 2014, VinGroup chỉ thu về khoảng 420 tỷ từ việc thâu tóm hệ thống siêu thị Oceanmart. Sang năm 2015, doanh thu mảng này của VinGroup đã đạt 4.300 tỷ đồng và 2016 là hơn 9.200 tỷ đồng, tiếp theo trong 2 năm 2017 và 2018, VinGroup thu lần lượt hơn 13.000 tỷ và 19.300 tỷ đồng.

Sự tăng trưởng thần tốc của VinGroup về doanh thu bán lẻ đến từ việc doanh nghiệp này liên tục thâu tóm và mua lại các hệ thống siêu thị trên thị trường như Oceanmart (2014), Fivimart (2018), Shop & Go và Queenland Mart (2019). Mới đây trong tháng 9 năm 2019, Tập đoàn VinGroup đã công bố về việc Quỹ đầu tư Chính phủ Singapore (GIC) đầu tư 500 triệu USD vào Công ty CP Phát triển thương mại và dịch vụ VCM.

Câu hỏi được đặt ra là trong bối cảnh toàn cầu hóa và thị trường trong nước cực kỳ khắc nghiệt, yếu tố nào đã giúp VinMart+ không những vượt qua những thương hiệu quốc tế tên tuổi mà còn thâu tóm được những chuỗi cửa hàng cạnh tranh để dẫn đầu thị trường với những con số về doanh thu ấn tượng cùng với độ phủ rộng lớn đi cùng với uy tín và chất lượng.

Trong tác phẩm Nghệ thuật quản trị Nhật Bản và Kinh nghiệm doanh nghiệp tốt nhất của Mỹ, hai nhà nghiên cứu Pascale và Althos, đã phát hiện ra rằng bất cứ doanh nghiệp nào cũng đều phải kết hợp nhuần nhuyễn 7 nhân tố theo mô hình 7S của McKinsey. Với mô hình này, trong ba chữ “S cứng” đầu tiên, tức là phương diện “Chiến lược”, “Kết cấu”, “Thể chế” các doanh nghiệp Nhật và Mỹ có sự tương đồng nhau. Nhưng với bốn chữ “S mềm” sau, tức là: “Nhân viên”, “Phong cách”, “Kỹ năng”, “Các giá trị được chia sẻ” đã có sự khác biệt rõ rệt. Chính các “S mềm” đã giúp cho các doanh nghiệp Nhật Bản vươn lên một bậc cả về hiệu quả SXKD lẫn khả năng tồn tại bền vững và lợi thế cạnh tranh độc tôn. (Lê Hồng Lôi, Đạo quản trị, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004, trang 320). Đánh giá về kết quả nghiên cứu này, trong cuốn “Ra quyết định quản trị” Hoàng Văn Hải đã nhận định như sau: “Sở dĩ có sự khác biệt tạo nên lợi thế độc tôn như vậy, bởi các nhà quản trị Nhật Bản đã khai thác một cách hiệu quả các yếu tố văn hóa Nhật vào quản trị kinh doanh, biến chúng thành nghệ thuật quản trị kiểu Nhật” (Ra quyết định quản trị, trang 161).

Vậy nên, nếu Văn hoá là giá trị cốt lõi làm nền tảng tinh thần đảm bảo sự phát triển hài hòa trong mọi lĩnh vực của xã hội loài người nói chung của mỗi quốc gia nói riêng, thì VHKD chính là cốt cách bên trong để dẫn lối cho mọi hoạt động của chủ thể kinh doanh. Biểu hiện của VHKD chính là biểu hiện ra những cốt cách tốt đẹp làm cho chủ thể kinh doanh phát triển bền vững, lâu dài. Cốt cách chưa hoàn thiện sẽ làm chủ thể kinh doanh gặp lúng túng trong việc ra quyết định, người tiêu dùng hoài nghi và có hành vi tiêu cực. Trong cốt cách văn hóa của mỗi một chủ thể kinh doanh lại bị ảnh hưởng sâu sắc từ bản sắc riêng của văn hóa lãnh thổ, vùng miền, nơi mà chủ thể đó hình thành. Không nằm ngoài nguyên lý đó, bản sắc VHKD của các chủ thể kinh doanh quốc tịch Việt Nam cũng luôn sẵn có và luôn tác động vào hành vi, biểu hiện, tư duy và tình cảm của từng con người trong các doanh nghiệp Việt Nam. Đặc biệt đối với cửa hàng bán lẻ, nơi mà việc giao tiếp giữa người mua và người bán theo phương thức tuyền thống (offline) thì những biểu hiện, hành vi, tư duy, tình cảm mang màu sắc văn hóa bản địa đã và đang mang lại sức thu hút nhất định đối với người tiêu dùng.

Và đây cũng chính là sự cần thiết mà Luận văn này cần nghiên cứu, đó là các biểu hiện VHKD của VinMart+ được nhận biết như thế nào và với mức độ vận dụng văn hóa dân tộc ra sao mà đã giúp VinMart+ dành được lợi thế cạnh tranh và có được lợi thế độc tôn trên chính thị trường Việt Nam.

Để làm rõ cho sự cần thiết này, luân văn nghiên cứu với những câu hỏi như sau:

Câu hỏi 1: Những biểu hiện VHKD tại chuỗi cửa hàng tiện ích VinMart+ tại Hà Nội như thế nào?.

Câu hỏi 2: Chuỗi cửa hàng bán lẻ VinMart+ cần những giải pháp nào để hoàn thiện và phát triển VHKD nhằm giữ vững lợi thế cạnh tranh độc tôn trên thị trường Việt Nam.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:   

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Kinh Doanh

2. Mục tiêu nghiên cứu

2.1. Mục tiêu chung

Chỉ ra những biểu hiện VHKD thuộc chuỗi cửa hàng VinMart+ tại Hà Nội.

2.2. Mục tiêu cụ thể

Luận văn tìm hiểu về những biểu hiện VHKD thuộc chuỗi cửa hàng tiện lợi VinMart+ tại Hà Nội, từ đó đưa ra những đề xuất nhằm phát huy và thay đổi những giá trị văn hóa của Việt Nam tại chuỗi cửa hàng bán lẻ này.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn: kinh doanh cửa hàng tiện lợi VinMart tại Hà Nội

3.1. Đối tượng nghiên cứu:

Các biểu hiện VHKD tại chuỗi cửa hàng tiện lợi VinMart+ tại Hà Nội.

3.2. Phạm vi nghiên cứu:

3.2.1. Về nội dung: Nghiên cứu những biểu hiện VHKD.

3.2.2. Về không gian và thời gian: Trong chuỗi cửa hàng tiện lợi VinMart+ tại Hà Nội giai đoạn từ 2017-2019.

4. Đóng góp của luận văn

4.1. Các đóng góp về mặt lý luận

Luận văn hệ thống hóa góp phần làm rõ thêm vai trò của VHKD đối với các thương hiệu nội địa; đề xuất định nghĩa về biểu hiện VHKD cũng như đưa ra mô hình nghiên cứu và phương pháp xác định các biểu hiện VHKD và mô hình các bước sàng lọc để tìm ra các biểu hiện của VHKD.

4.2. Đóng góp mới về thực tiễn:

Qua kết quả nghiên cứu sẽ đề xuất được giải pháp làm nâng cao VHKD của Chuỗi cửa hàng tiện lợi VinMart+, hạn chế được những điểm yếu và hoàn thiện hơn lợi thế cạnh tranh bằng việc áp dụng những biểu hiện văn hóa tốt đẹp truyền thống của người Việt trong hoạt động kinh doanh.

5. Kết cấu luận văn

Ngoài Phần mở đầu và Kết luận, Luận văn có 04 chương như sau:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận về VHKD.

Chương 2: Phương pháp nghiên cứu.

Chương 3: Nhận diện các biểu hiện VHKD tại Chuỗi cửa hàng tiện lợi VinMart+ tại Hà Nội.

Chương 4: Những giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển VHKD tại chuỗi cửa hàng tiện lợi VinMart+ tại Hà Nội.

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA KINH DOANH

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu Luận văn: kinh doanh cửa hàng tiện lợi VinMart tại Hà Nội

Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về VHKD nói chung và bản sắc VHKD Việt Nam nói riêng. Có thể tổng thuật một số các nghiên cứu điển hình quốc tế và trong nước như sau:

1.1.1. Phân tích một số nghiên cứu quốc tế

VHKD là một trong những nội dung đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm từ những năm 70 của thế kỷ trước. Trong các giáo trình giảng dạy tại các trường đại học quản trị của Mỹ và các nước phát triển phương Tây đã xuất hiện, được đưa ra thảo luận kỹ và được coi như một phần không thể thiếu những kiến thức được trang bị cho doanh nhân. Có thể kể đến một vài công trình nghiên cứu như:

  • Tác giả Edgar Schein là tác giả cuốn Văn hóa tổ chức và lãnh đạo (Organizational Culture and Leadership) được xuất bản năm 2010, 415 trang, đây được coi là một trong những cuốn sách quản lý có ảnh hưởng nhất mọi thời đại, ấn bản thứ tư này đã biến khái niệm trừu tượng của văn hóa thành một công cụ có thể được sử dụng để định hình tốt hơn sự năng động của tổ chức và thay đổi. Phiên bản này của Edgar Schein tập trung vào thực tế kinh doanh phức tạp ngày nay và dựa trên một loạt các nghiên cứu đương đại để chứng minh vai trò quan trọng của các nhà lãnh đạo trong việc áp dụng các nguyên tắc của văn hóa để đạt được mục tiêu của tổ chức của họ. Trong cuốn sách của mình, Edgar Schein đã khám phá cách lãnh đạo và văn hóa đan xen một cách cơ bản và tiết lộ những phát hiện chính về lãnh đạo và văn hóa bao gồm: Lãnh đạo là doanh nhân và kiến trúc sư chính của văn hóa; Một khi các nền văn hóa được hình thành, chúng ảnh hưởng đến kiểu lãnh đạo nào; Nếu các yếu tố của văn hóa trở nên rối loạn, thì trách nhiệm của người lãnh đạo là phải làm gì đó để tăng tốc độ thay đổi văn hóa. Ngoài ra, cuốn sách còn chứa thông tin mới phản ánh văn hóa ở các cấp độ phân tích khác nhau từ vĩ mô quốc gia và dân tộc đến vi mô dựa trên các nhánh văn hóa.
  • Hai tác giả Fons Trompenaars & Charles Hampden- Turner trong cuốn sách Chinh phục các làn sóng văn hóa (Riding the Waves of Culture), xuất bản 1998, cuốn sách đã trở thành cẩm nang cần thiết cho các nhà quản lý, các nhà lãnh đạo của các tổ chức đa quốc gia, cũng như cho bất kỳ ai thực hiện công việc kinh doanh ra nước ngoài. Chinh phục các làn sóng văn hóa trở thành hướng dẫn tiêu chuẩn để dẫn đầu hiệu quả trong bối cảnh kinh doanh quốc tế, đưa ra những nhận thức đa văn hóa để tận dụng lợi thế chiến lược của sự khác biệt văn hóa trong môi trường kinh doanh. Tận dụng cơ sở dữ liệu văn hóa có được cũng như các kết quả nghiên cứu để đưa ra cách xây dựng các kỹ năng, sự nhạy cảm và nhận thức văn hóa cần thiết để quản lý hiệu quả xuyên biên giới văn hóa và nắm bắt tất cả các cơ hội đa dạng mang đến cho một tổ chức.
  • Tác giả Nelson Lichtenstein, năm 2010 ông đã cho xuất bản cuốn “Cuộc cách mạng bán lẻ” (The Retail Revolution), 432 trang. Là một trong những chuyên gia hàng đầu của Mỹ về lao động và chính trị và là biên tập viên của một bộ sưu tập các bài tiểu luận được trích dẫn nhiều về Wal-Mart nên trong cuốn sách của mình, tác giả đã đưa ra những nghiên cứu và dẫn chứng sức ảnh hưởng rộng lớn của Wal-Mart đối với toàn cầu khi mà Doanh nghiệp đã đặt được ra luật chơi, một hệ thống tiêu chuẩn trong cả lĩnh vực xã hội và thương mại – cho một vùng rộng lớn của nền kinh tế toàn cầu. Wal-Mart thậm chí đã truyền bá đạo Tin lành vào nơi làm việc, biến Nam Trung Quốc nhuộm màu văn hóa và chính trị của Mỹ. Đồng thời, ông dự đoán khi những thách thức đối với cách Wal-Mart đang thực hiện trong và ngoài nước, có khả năng sẽ làm thay sâu sắc và nguyên bản thị trường bán lẻ toàn cầu khi Wal-Mart đang tạo ra một cuộc cách mạng bán lẻ định hình lại thương mại quốc tế.

1.1.2. Phân tích một số nghiên cứu trong nước Luận văn: kinh doanh cửa hàng tiện lợi VinMart tại Hà Nội

Hiếm có dân tộc nào trên thế giới mà suốt quá trình lịch sử của mình luôn phải đối mặt và phải vượt qua quá nhiều khó khăn, biến cố như dân tộc Việt Nam, vừa dựng nước, giữ nước, vừa xây dựng phát triển và gìn giữ bản sắc văn hóa. Cũng chính vì vậy, mà con người Việt Nam luôn quan tâm, xây dựng và hun đúc văn hóa dân gian, văn hóa truyền thống của mình, dành cho văn hóa một chỗ đứng quan trọng những giai đoạn hòa bình hiếm hoi có được. Văn hóa dân gian luôn có mặt và ảnh hưởng sâu sắc trong mọi hoạt động sinh hoạt thường ngày như mua bán trao đổi, canh tác, nuôi trồng đến các hoạt động lễ hội, thờ cúng, tâm linh…

Giai đoạn sau giải phóng thống nhất đất nước, trước thời kỳ chuyển dịch cơ cấu kinh tế năm 1986, cùng với cơ chế quản lý quan liêu bao cấp, và một phần ảnh hưởng từ văn hóa làng xã còn nặng nề, nền kinh tế bị siêu lạm phát hoành hành. Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê, suốt trong thời kỳ 1976-1985 chỉ số giá bán lẻ hàng hóa năm sau so năm trước luôn tăng ở mức hai con số và dao động ở mức 19-92%. Năm 1986, lạm phát đạt đỉnh điểm với tốc độ tăng giá 774,7%. Đời sống nhân dân hết sức khó khăn thiếu thốn. Sau quyết định cải cách và mở cửa từ năm 1986, kinh tế dần phục hồi và có những bước phát triển nhất định. Kể từ đây, các làn sóng văn hóa từ các nước trên thế giới bắt đầu thâm nhập vào Việt Nam và đã có tác động mạnh mẽ đến xã hội nói chung và đến hành vi người tiêu dùng Việt nói riêng. Đặc biệt, kể từ khi Việt Nam gia nhập chính thức WTO (tháng 11 năm 2007) thì những ảnh hưởng của văn hóa du nhập đã bắt đầu có những tác động rõ rệt từ thị hiếu tiêu dùng đến điều chỉnh hành vi, lối sống của người Việt, buộc các nhà học giả đã phải bắt tay vào nghiên cứu không chỉ về lý luận về văn hóa, bản sắc văn hóa mà còn nghiên cứu vể VHKD và tác động của văn hóa, bản sắc văn hóa đến hoạt kinh doanh. Điển hình như:

Tác giả Trần Ngọc Thêm trong cuốn “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam”, được xuất bản năm 1996, với 664 trang, tác giả đã xây dựng cơ sở lý luận cách nhìn hệ thống về loại hình văn hóa Việt Nam, đặc biệt tác giải đã hệ thống, phân tích tìm ra các đặc trưng riêng có của văn hóa người Việt từ quan điểm, tính cách, giao tiếp, kiến trúc, ăn mặc, sinh hoạt, ứng phó biến động môi trường, đến tổ chức xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng, v.v… Mặc dù, cuốn sách đã xây dựng được một bức tranh tổng quan về văn hóa với một khối kiến thức khổng lồ, nhưng do nghiên cứu tổng hợp nhiều lĩnh vực nên yếu tố VHKD chưa được tác giả đề cập.

Tác giả Dương Thị Liễu và cộng sự trong cuốn “Giáo trình VHKD”, được tái bản lần 2 vào năm 2013, với 559 trang, ngoài việc kế thừa và hệ thống cơ sở lý luận về văn hóa tổng quát từ các nghiên cứu trong nước trước đây, giáo trình đã tổng hợp và đưa vào các lý luận về văn hóa tiêu biểu trên thế giới, cũng như đã phân tích được sự đa dạng và phong phú của VHKD quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa. Các tác giả cũng phát triển nghiên cứu sâu về văn hóa trong hoạt động kinh doanh bao gồm các kiến thức tổng quan và đưa ra phân tích 5 yếu tố cấu thành nên VHKD. Đặc biệt, tác giả đã tìm hiểu sự gắn kết giữa cái lợi với những giá trị chân, thiện, mỹ trong các hoạt động kinh doanh của các thế hệ người Việt qua những giai đoạn lịch sử, từ đó nhận diện được VHKD Việt Nam và nhận diện được một số biểu hiện VHKD của từng khu vực kinh tế qua từng thời kỳ. Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu đã lâu nên một số nhận định về doanh nghiệp khu vực nhà nước và tư nhân thời kỳ đổi mới đã không còn phù hợp với bối cảnh thực tế dẫn đến nhận định biểu hiện VHKD không còn thích hợp. Mặt khác, giáo trình chưa đi sâu vào nghiên cứu các biểu hiện VHKD cho các doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ hàng tiêu dùng vốn rất phổ biến trong hoạt động kinh doanh từ trước đến nay. Luận văn: kinh doanh cửa hàng tiện lợi VinMart tại Hà Nội

Tác giả Nguyễn Viết Lộc, trong Luận văn thạc sỹ của mình với đề tài “VHKD trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư Hàn Quốc

Việt Nam”, được thực hiện năm 2008, với 104 trang được coi như một trong những đề tài về VHKD đầu tiên ngay sau thời kỳ Việt Nam gia nhập chính thức WTO (tháng 11 năm 2007). Đây là thời kỳ mà làn sóng các công ty mang quốc tịch Hàn Quốc đến đầu tư ồ ạt tại Việt Nam và kéo theo tạo ra cơn sốt văn hóa Hàn Quốc trong xã hội Việt Nam thời bấy giờ. Vì vậy, ngoài việc nghiên cứu mang tính thời sự, luận văn cũng đã hệ thống được các cơ sở lý luận về VHKD, tìm ra được một số điểm còn chưa thống nhất trong khái niệm và các yếu tố cấu thành nên VHKD của các tác giả như Phạm Xuân Nam – 1996; Đỗ Minh Cương – 2001; Nguyễn Hoàng Anh – 2002; Dương Thị Liễu – 2004. Đặc biệt, Luận văn qua phân tích đặc trưng văn hóa doanh nghiệp Hàn Quốc từ đó tìm ra những khác biệt văn hóa giữa doanh nhân Hàn Quốc và người lao động Việt Nam nhằm giải thích các xung đột thường xuyên xảy ra trong môi trường bên trong doanh nghiệp dưới góc nhìn văn hóa và đề xuất các gợi ý để các doanh nghiệp Hàn Quốc xây dựng được một VHKD phù hợp khi kinh doanh tại Việt Nam. Tuy nhiên, Luận văn mới chỉ nghiên cứu một chiều về VHKD Hàn Quốc, những biểu hiện mà các ông chủ Hàn Quốc thường hay ứng xử với người lao động mà chưa xem xét đến yếu tố văn hóa bên trong doanh nghiệp FDI tại Việt Nam với ảnh hưởng nhất định của bản sắc văn hóa của người lao động Việt Nam, từ đó chưa đưa ra được các gợi ý cho các nhà kinh doanh, người lao động Việt Nam sử dụng bản sắc văn hóa của mình làm lợi thế trong hợp tác kinh doanh hoặc đàm phán bảo vệ quyền lợi của mình trong doanh nghiệp Hàn Quốc.

Tác giả Lê Thị Việt Hà, trong Luận án tiến sỹ của mình, với đề tài “Văn hóa Doanh nhân Hàn Quốc và kinh nghiệm đối với Việt Nam”, được thực hiện năm 2018, với 148 trang. Luận án đã hệ thống hóa các nghiên cứu trong và ngoài nước để đưa ra các khái niệm về văn hóa doanh nhân và xây dựng một mô hình hệ giá trị văn hóa Hàn Quốc thông qua phân tích, đánh giá các biểu hiện văn hóa của cộng đồng doanh nhân Hàn Quốc tiêu biểu. Từ đó, tác giả đề xuất, kiến nghị các cơ quan chức năng xây dựng chính sách quản lý đối với các doanh nghiệp Hàn Quốc hoạt động tại Việt Nam và những quy tắc ứng xử của doanh nghiệp Việt Nam hợp tác với doanh nghiệp Hàn Quốc. Mặc dù Luận án đã làm rõ được bản chất vai trò của cộng đồng người làm kinh doanh ở

Hàn Quốc và những yếu tố VHDN Hàn Quốc thông qua xác định hệ giá trị doanh nhân Hàn Quốc gồm năm yếu tố từ đó đưa ra được những giải pháp nhằm xây dựng VHDN Việt Nam thông qua bài học từ Hàn Quốc. Tuy nhiên, luận án chưa làm nổi bật được VHDN dưới góc độ văn hóa, hành vi ứng xử của các doanh nhân với các bên liên quan mà chỉ cơ bản thiên về ca ngợi năng lực kinh doanh, phẩm chất đạo đức của các doanh nhân thành đạt tiêu biểu. Và cũng như các nghiên cứu trước đây, luận văn luôn lấy sự thành đạt của các doanh nghiệp, doanh nhân nước ngoài làm thước đo để áp đặt doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam học hỏi mà chưa có đánh giá nhận xét nào về các doanh nghiệp, doanh nhân nước ngoài ứng xử, điều chỉnh hành vi khi đối diện với những tác động văn hóa mang bản sắc riêng đến từ các bên liên quan tại Việt Nam.

1.1.3. Khoảng trống cần nghiên cứu

Qua tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước nêu trên, có thể thấy rằng đa số các tài liệu nghiên cứu của các tác giả mới chỉ đề cập đến các khái niệm VHKD nói chung và văn truyền thống dân tộc Việt Nam nói riêng, những biểu hiện văn hóa, những vấn đề mà văn hóa truyền thống phải đối mặt trong thời kỳ hội nhập. Một số đề tài đã nghiên cứu sâu một trong những yếu tố cấu thành nên VHKD như văn hóa doanh nhân, văn hóa doanh nghiệp, v.v., ít có đề tài nghiên cứu về ảnh hưởng của văn hóa truyền thống tại địa phương tác động vào doanh nghiệp và chưa có nghiên cứu nào về những biểu hiện văn hóa mang màu sắc truyền thống riêng có của dân tộc tại doanh nghiệp địa phương thành công trên chính trên đất nước sở tại. Luận văn: kinh doanh cửa hàng tiện lợi VinMart tại Hà Nội

Về VHKD trong lĩnh vực kinh doanh bán lẻ, một số nghiên cứu đã chỉ cho rằng các tập đoàn bán lẻ quốc tế lớn đã và đang sử dụng yếu tố văn hóa để xây dựng, áp đặt VHKD từ quốc tịch công ty mẹ đến các công ty chi nhánh tại các địa bàn quốc tế như giải pháp gây ảnh hưởng văn hóa tạo nên làn sóng cách mạng dẫn dắt lối sống, văn hóa tiêu dùng, nhằm giảm thiểu ảnh hưởng từ văn hóa địa phương tác đốc tiêu cực đến tổ chức.

Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào đưa ra mô hình nghiên cứu và phương pháp xác định các biểu hiện VHKD mang bản sắc văn hoá Việt Nam và mô hình các bước để tìm ra các biểu hiện của VHKD cũng như chỉ ra được mối liên hệ của VHKD tới sự hài lòng của khách hàng để đi đến thành công hay đón nhận sự thất bại cho các doanh nghiệp bán lẻ nội địa. Từ kết quả trên, Luận văn mong muốn rằng có thể tạo ra được những làn sóng mới nhằm khơi dậy tâm thức cho các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam vận dụng yếu tố văn hóa truyền thống như một yếu tố cạnh tranh quyết định để dành lại được thị phần từ các tập đoàn kinh doanh bán lẻ quốc tế.

Đây chính là khoảng trống nghiên cứu mà học viên mong muốn thực hiện bằng cách tìm ra được một số các biểu hiện mang bản sắc Việt Nam trong VHKD, nguyên nhân đã và đang mang đến những lợi thế cạnh tranh góp phần vào thành công của chuỗi cửa hàng tiện lợi thương hiệu Việt Nam tại thị trường Việt Nam.

1.2. Cơ sở lý luận

1.2.1. Khái quát chung về văn hóa Luận văn: kinh doanh cửa hàng tiện lợi VinMart tại Hà Nội

1.2.1.1. Khái niệm về văn hóa

Văn hóa là một thuật ngữ đa nghĩa và trên thế giới đã có nhiều học giả đưa ra nhiều định nghĩa dưới những góc nhìn riêng theo cách tiếp cận mà họ đang theo đuổi nghiên cứu.

Với phạm vi và dưới góc độ của luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh chủ đề văn hóa doanh nghiệp, tác giả xin lựa chọn một số định nghĩa về văn hóa theo cách tiếp cận về quan niệm – cách hiểu và hệ thống – cấu trúc. Các định nghĩa này không mang tính liệt kê, không quá chung chung xa rời mục tiêu của luận văn, mà được lựa chọn để làm cơ sở phân tích các vấn đề VHKD trong doanh nghiệp cụ thể như sau:

  • Định nghĩa Văn hóa theo cách tiếp cận về quan niệm và cách hiểu tác giả đưa ra định nghĩa về văn hóa do Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà cách mạng, nhà văn hóa thiên tài của dân tộc Việt Nam đã đưa ra năm 1942, như sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng như vì mục đích cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn hóa, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn ở và các phương tiện, phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [10, trang 431].
  • Định nghĩa văn hóa theo cách tiếp cận hệ thống cấu trúc tác giả đưa ra định nghĩa của GS.TS Trần Ngọc Thêm trong cuốn “Giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam dùng chung cho các trường đại học” như sau: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”.

1.2.1.2. Khái niệm Bản sắc văn hóa Việt Nam

Việc có một khái niệm đúng và đầy đủ về bản sắc văn hóa sẽ là cơ sở khoa học để nhận diện ra được các biểu hiện VHKD và mức độ vận dụng bản sắc văn hóa Việt Nam là việc hết sức cần thiết. Có thể nêu ra ở đây hai khái niệm về bản sắc văn hóa. Một là của Đỗ Minh Cương được đưa ra trong cuốn VHKD và triết lý kinh doanh như sau: “Bản sắc văn hóa là một hệ thống các giá trị tinh hoa, bền vững và có tính di tồn trong lịch sử của một dân tộc. Nó có khả năng quy định, chi phối hoạt động của mọi thành viên trong dân tộc và là đặc điểm nhận diện, phân biệt dân tộc này với dân tộc khác.” (2001, trang 174). Khái niệm thứ hai là của Nguyễn Đình Hòa: “Bản sắc văn hóa dân tộc là một hệ thống liên kết các giá trị từ văn hóa nội sinh, những phẩm chất, đặc trưng được hình thành, bồi bổ, nuôi dưỡng kết hợp với văn hóa ngoại sinh trong quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa, hun đúc nên linh hồn, sức sống mãnh liệt có tính chất bền vững của một dân tộc, tạo nên những sắc thái riêng có tính chất ổn định trong quá trình, lịch sử xây dựng và đấu tranh bảo vệ Tổ quốc của dân tộc” (2015, trang 376).

1.2.2. Văn hóa kinh doanh

1.2.2.1. Khái niệm Văn hóa kinh doanh Luận văn: kinh doanh cửa hàng tiện lợi VinMart tại Hà Nội

Lịch sử xã hội loài người đã chứng minh rẳng văn hóa tham gia và tác động vào mọi quá trình hoạt động của con người trong mọi lĩnh vực đặc thù như văn hóa chính trị, văn hóa pháp luật, văn hóa giáo dục, VHKD, v.v. Kinh doanh là một nghề chính đáng là một nhu cầu của xã hội và cũng là một trong các hoạt động phong phú, phức tạp nhất của con người, là hoạt động cơ bản của con người, xuất hiện đồng thời cùng với hàng hóa và thị trường. Kinh doanh không chỉ có nghĩa là buôn bán mà còn có nghĩa tổ chức sản xuất để tạo ra lợi nhuận cho chủ thể. Tuy nhiên, việc kinh doanh như thế nào, lợi ích và giá trị đem lại cho cộng đồng ra sao thì đó chính là vấn đề của VHKD.

Với cách tiếp cận như trên, trong cuốn VHKD và triết lý kinh doanh (2001, trang 70), Đỗ Minh Cương đã nhận diện ra hai thành tố chính của hệ thống VHKD là kiểu kinh doanh có văn hóa và lối sống có văn hóa của chủ thể kinh doanh và đã đưa ra khái niệm về VHKD như sau: “Văn hóa kinh doanh là việc sử dụng các nhân tố văn hóa vào trong hoạt động kinh doanh của chủ thể, là cái văn hóa mà các chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình kinh doanh, hình thành nên những kiểu kinh doanh ổn định và đặc thù của họ”.

Trong cuốn Giáo trình Văn hóa kinh doanh, Dương Thị Liễu (2013, trang 43) cũng đã đưa ra khái niệm về VHKD như sau:

“Văn hóa kinh doanh là một hệ thống các giá trị, các chuẩn mực, các quan niệm và hành vi do chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình kinh doanh, được thể hiện trong cách ứng xử của họ với xã hội, tự nhiên ở một cộng đồng hay một khu vực. Văn hóa kinh doanh là toàn bộ các giá trị văn hóa được chủ thể kinh doanh sử dụng và tạo ra trong hoạt động kinh doanh tạo nên bản sắc kinh doanh của chủ thế đó”.

Như vậy có thể nhận ra, hai khái niệm trên khá tương đồng. Định nghĩa của Dương Thị Liễu đã làm rõ hơn ba vấn đề sau:

  • Một là “Cái văn hóa” của trong khái niệm của Đỗ Minh Cương được làm rõ chính là “hệ thống các giá trị, các chuẩn mực, các quan niệm hành vi” của chủ thể kinh doanh;
  • Hai là nhìn nhận VHKD là quá trình kế thừa, thích nghi, học hỏi, sáng tạo và hình thành nên thói quen, lối ứng xử của chủ thể kinh doanh thể hiện ra trong môi trường kinh doanh. Nhà nghiên cứu đã đưa ra nhận định VHKD “được thể hiện trong cách ứng xử của họ với xã hội, tự nhiên ở một cộng đồng hay một khu vực”.
  • Ba là nhận định “Kiểu kinh doanh ổn định và đặc thù” trong khái niệm của Đỗ Minh Cương là “bản sắc kinh doanh của chủ thể”.

1.2.2.2. Các yếu tố chính cấu thành Văn hóa kinh doanh

Trong cuốn giáo trình VHKD (2013) Dương Thị Liễu đã nhận diện được 5 yếu tố chính tạo nên VHKD như sau:

  • Triết lý kinh doanh: Là lý tưởng, phương châm hành động, các giá trị mục tiêu chung của chủ thể kinh doanh.
  • Đạo đức kinh doanh: là tập hợp các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh, đánh giá hành vi của các chủ thể kinh doanh trong môi trương kinh doanh cụ thể.
  • Văn hóa doanh nhân: Là một hệ thống các giá trị, chuẩn mực, quan niệm và hành vi của doanh nhân trong quá trình SXKD.
  • Văn hóa doanh nghiệp: Là một hệ thống các giá trị, chuẩn mực, quan niệm, hành vi của doanh nghiệp, được phổ biến chung hoặc được ngầm định chi phối hoạt động của các thành phần liên quan trong doanh nghiệp và tạo nên bản sắc kinh doanh riêng của doanh nghiệp.
  • Văn hóa ứng xử trong hoạt động kinh doanh: Là một hệ thống các giá trị, chuẩn mực, quan niệm và hành vi của các thành phần liên quan trong doanh nghiệp đối xử với nhau và với khách hàng và tạo nên bản sắc kinh doanh riêng của doanh nghiệp.

1.2.2.3. Các đặc trưng riêng của Văn hóa kinh doanh Luận văn: kinh doanh cửa hàng tiện lợi VinMart tại Hà Nội

Kinh doanh là một trong các hoạt động đặc thù nên đặc trưng của VHKD sẽ có những điểm khác biệt hơn các hoạt động khác như chính trị, pháp luật gia đình nên ngoài tám đặc trưng như văn hóa nêu trên, VHKD còn có hai nét đặc trưng riêng để phân biệt với văn hóa ở các lĩnh vực khác, đó là:

  • VHKD xuất hiện cùng với sự xuất hiện thị trường: VHKD chỉ xuất hiện khi kinh doanh trở thành một hoạt động phổ biến và chính thức được xã hội coi như một nghề, và một tầng lớp mới ra đời là đó là doanh nhân. Chính vì lẽ đó, khi xã hội xuất hiện hoạt động kinh doanh thì VHKD ở đó ra đời cùng với một hệ thống giá trị, ứng xử mang tính đặc trưng phù hợp với bối cảnh xã hội lúc đó.
  • VHKD phải phù hợp với trình độ kinh doanh của chủ thể kinh doanh: VHKD là sự thể hiện phong cách, tài năng, đạo đức, thói quen và văn hóa của doanh nhân, vì vậy VHKD phải phù hợp với trình độ kinh doanh của chủ thể đó. Chúng ta không thể phê phán, nhận xét VHKD của chủ thể kinh doanh nào đó tốt hay xấu vì cần phải xét đến yếu tố bối cảnh lịch sử và trình độ phát triển kinh doanh chung của thị trường. Vì vậy, các chủ thể kinh doanh cần phải biết chấp nhận, học hỏi để có thể hợp tác và hội nhập cùng phát triển đặc biệt trong môi trường toàn cầu hóa như hiện nay. (Dương Thị Liễu, 2013, trang 50-51).

1.2.2.4. Các nhân tố tác động đến VHKD

VHKD chịu tác động bởi nhiều nhân tố, cụ thể là:

Văn hóa xã hội, văn hóa dân tộc: VHKD là một bộ phận của Văn hóa xã hội và văn hóa dân tộc. Do vậy, bản chất và biểu hiện của VHKD là sự phản chiếu của văn hóa xã hội và văn hóa dân tộc, khi mà mỗi cá nhân trong doanh nghiệp mang trong mình một nền văn hóa xã hội cụ thể, chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của các giá trị của dân tộc họ thuộc về. Có thể kể đến như mức độ coi trọng tính cá nhân hay tính tập thể, mức độ phân biệt giai cấp trong xã hội, bình đẳng giới, v.v… là những yếu tố văn hóa xã hội tác động mạnh mẽ lên VHKD.

Khi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong một môi trường xã hội nhất định, đương nhiên nó chịu sự ảnh hưởng của văn hóa xã hội tại nơi đó như hệ giá trị, phong tục tập quán, lễ nghi, tôn giáo, cơ cấu dân số, các yếu tố kinh tế xã hội, v.v… Những yếu tố này tác động mạnh mẽ cả 2 mặt tích cực và tiêu cực vào kết quả SXKD của doanh nghiệp.

Thể chế xã hội: Một trong các nhân tố hàng đầu tác động và chi phối mạng mẽ vào VHKD của Doanh nghiệp đó là thể chế xã hội. Đối tượng của thể chế chính là quan hệ xã hội bào gồm thể chế chính trị, thể chế văn hóa xã hội, thể chế kinh tế, thể chế hành chính, v.v. Những thể chế này chính là môi trường kinh doanh của các Doanh nghiệp và quy định mọi hoạt động SXKD của các Doanh nghiệp, qua đó ảnh hưởng sâu sắc tới việc hình thành và phát triển VHKD.

Sự ổn định chính trị thông qua các yếu tố pháp luật, ngoại giao, hệ thống chính sách, v.v. được coi là một tiền đề quan trọng cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường chính trị, mức độ hoàn thiện luật pháp có thể thuận lợi cho một nhóm doanh nghiệp hoặc kìm hãm một nhóm doanh nghiệp khác, ảnh hưởng lớn đến việc hoạch định và tổ chức thực hiện chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.

Thông qua quan hệ kinh doanh mà các chủ thể kinh doanh hình thành nên bản sắc văn hóa riêng từ việc kế thừa, tiếp thu văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại và thể hiện được những giá trị đó thông qua sản phẩm dịch vụ mà các chủ thể đó cung cấp cho xã hội. Ngày nay, khi chất lượng hàng hóa, các quy tắc dịch vụ đã được chuẩn hóa theo chuẩn quốc tế thì sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi các chủ thể kinh doanh cần quan tâm nhiều hơn về VHKD để phát triển bền vững,

Quá trình toàn cầu hóa: Xu thế toàn cầu hóa hầu như đã bao phủ các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Các dòng tiền vốn được luân chuyển, kỹ thuật công nghệ được chuyển giao và việc phát triển mở rộng thị trường được thực hiện mạnh mẽ. Điều này dẫn đến các nền kinh tế hòa nhập với nền kinh tế thế giới làm cho chúng trở nên phụ thuộc và chịu tác động qua lại với nhau, dù chỉ là những biến động nhỏ nhất tại mỗi quốc gia. Toàn cầu hóa về kinh tế cũng đã tạo ra sự giao lưu giữa các nền VHKD từ đó gây ảnh hưởng, cũng như bổ sung làm phong phú thêm giá trị cho VHKD của mỗi nước. Từ đó, các chủ thể kinh doanh biết cách thích nghi, chấp nhận những quy tắc kinh doanh chung quốc tế để cùng hòa hợp phát triển. Ngoài việc có ý thức về bảo tồn và phát huy VHKD truyền thống, chủ thể kinh doanh cũng biết tìm cách tiếp thu những tinh hóa văn hóa địa phương để dễ dàng thâm nhập thị trường, lấy được lòng tin của người tiêu dùng, qua đó làm giàu thêm bản sắc kinh doanh của doanh nghiệp mình. Luận văn: kinh doanh cửa hàng tiện lợi VinMart tại Hà Nội

Nền kinh tế toàn cầu đã làm thay đổi sâu sắc môi trường kinh doanh, khả năng cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt đòi hỏi các chủ thể kinh doanh phải khai thác triệt để các thế mạnh của mình trong đó văn hóa là một yếu tố quan trọng, điều đó đòi hỏi các chủ thể phải xây dựng cho mình một VHDN có tính thích nghi, mức độ tín nhiệm cao để cạnh tranh thành công.

Sự khác biệt và sự giao lưu văn hóa: Luôn có có sự khác biệt văn hóa giữa VHKD của các quốc gia, giữa các chủ thể kinh doanh trong mỗi quốc gia, thậm trí trong mỗi doanh nghiệp các cá nhân luôn có sự khác biệt về văn hóa. Sự khác biệt này luôn là nguyên nhân dẫn đến xung đột văn hóa và tác động khá mạnh đến việc hình thành nên một bản sắc VHKD phù hợp. Vì vậy, các chủ thể kinh doanh không thể duy trì độc tôn văn hóa của mình như một lãnh địa đóng mà phải chấp nhận mở cửa để tiếp nhận và giao lưu về văn hóa nhằm lựa chọn được cho doanh nghiệp mình những khía cạnh văn hóa tốt đẹp cả từ bên trong lẫn bên ngoài thâm nhập để phát triển VHDN của mình.

Khách hàng: Khách hàng luôn đóng vai trò tạo ra doanh thu của doanh nghiệp. Ngày nay, khách hàng luôn đòi hỏi nhiều hơn, “thông minh” hơn, quyết định lựa chọn hàng hóa dịch vụ của doanh nghiệp trong bối cảnh văn hóa và thông tin đa chiều từ đó quyết định lợi nhuận lâu dài và bền vững của doanh nghiệp. Do đó văn hóa, trình độ dân trí, lối sống của khách hàng sẽ tác động trực tiếp tới VHKD của các doanh nghiệp.

Các yếu tố nội bộ doanh nghiệp: VHKD không tự nó sinh ra, mà nó được hình thành qua lịch sử phát triển của doanh nghiệp. Nó bị ảnh hưởng từ văn hóa bản địa, quan hệ sở hữu và ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp đó. VHKD cũng ảnh hưởng lớn từ văn hóa doanh nhân của những người thành lập doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp qua các thời kỳ và cũng từ văn hóa vùng miền, văn hóa cá nhân của những người lao động trong nội bộ doanh nghiệp.

1.2.2.5. Vai trò của Văn hóa kinh doanh:

Dưới ảnh hưởng của mỗi nền văn hóa mà nhân cách, niềm tin, thái độ và hệ thống các giá trị ở mỗi cộng đồng nơi mà các chủ thể kinh doanh thuộc về khác nhau. Điều này sẽ tác động và tạo ra phong cách và phương pháp quản trị của mỗi chủ thể kinh doanh và cũng sẽ chi phối việc họ xây dựng chiến lược kinh doanh cũng như quyết định hành vi và cách thức ứng xử trong quá trình hoạt động kinh doanh. Vì thế, VHKD có vai trò rất quan trọng đối với chủ thể kinh doanh, cụ thể như sau:

  • VHKD là giải pháp hiệu quả và duy nhất để phát triển doanh nghiệp bền vững: Xét cho cùng hoạt động kinh doanh hướng tới mục đích là lợi nhuận. Tuy nhiên, theo tháp nhu cầu của Maslow ngoài nhu cầu có được lợi nhuận, doanh nhân cũng có nhu cầu cao hơn đó là nhu cầu được xã hội tôn trọng, được khẳng định bản thân mình. Đó chính là đích đến của kinh doanh có văn hóa, tức là ngoài lợi nhuận cái hướng tới cũng phải có cái đẹp, cái thiện. Kinh doanh có văn hóa có thể không thể đạt lợi nhuận cao trong ngắn hạn, nhưng việc có được chữ tín, được thị trường tôn trọng là lợi thế trong đầu tư dài hạn giúp cho chủ thể kinh doanh sẽ có những bước phát triển lâu dài và bền vững. Trong thời đại bùng nổ kỹ thuật thông tin, chữ tín và những nét đẹp văn hóa sẽ lan truyền một cách nhanh chóng, ngược lại nếu chủ thể kinh doanh có biểu hiện kinh doanh không văn hóa sẽ sụp đổ nhanh chóng những nỗ lực nhiều năm gây dựng. Vì vậy, kinh doanh có văn hóa là giải pháp hiệu quả và duy nhất phải thực hiện đến nay và trong tương lai.
  • VHKD là nguồn lực mới và quyết định để phát triển kinh doanh: Trong thời kỳ hội nhập và thông tin 4.0 hiện nay, mọi sản phẩm dịch vụ đều phải hướng tới những tiêu chuẩn nhất định mới được thị trường toàn cầu chấp nhận. Điều đó dẫn đến yếu tố cạnh tranh trên thị trường không còn quyết định bởi nguồn lực tài chính, nguồn nhân lực, hay các nguyên vật liệu đầu vào v.v., mà còn cần có một nguồn lực mạnh mẽ nữa, đó chính là những hiểu biết về văn hóa, yếu tố bản sắc dân tộc được các bên liên quan xây dựng và vun đắp, đó chính là đạo đức kinh doanh và các quy tắc về cách thức ứng xử của doanh nghiệp. Đặc biệt hơn, đó là trách nhiệm của doanh nghiệp đối với xã hội nói chung và cộng đồng nơi SXKD nói riêng. Nguồn lực nói trên chính là VHKD và được hiểu như là nguồn lực mới, quyết định cho sự phát triển kinh doanh của các chủ thể kinh doanh thời kỳ 4.0;
  • VHKD là cơ hội đẩy mạnh hội nhập kinh doanh quốc tế: Trong thời kỳ hội nhập việc giao tiếp trao đổi giữa các doanh nghiệp có quốc tịch khác nhau trên thế giới là một xu thế không thể không thực hiện. Trong quá trình giao tiếp, việc hiểu biết văn hóa lẫn nhau sẽ là một lợi thế quan trọng trong quá trình đàm phán thương mại. Mặt khác, việc phổ biến trao đổi văn hóa tốt đẹp để tạo ra xu thế ảnh hưởng đến mọi mặt của cuộc sống sẽ dần dần làm thay đổi thói quen, hành vi, sở thích của người tiêu dùng bản địa và mở ra những cơ hội mới cho việc phát triển sản phẩm hay mở rộng thị trường. (Dương Thị Liễu, 2013).

1.2.3. Biểu hiện và phương diện nhận biết Văn hóa kinh doanh Luận văn: kinh doanh cửa hàng tiện lợi VinMart tại Hà Nội

Theo từ điển Tiếng Việt (2009) định nghĩa danh từ “biểu hiện” là: “cái biểu hiện ra ở bên ngoài” và từ đây, ta có thể xác định rằng: Những biểu hiện VHKD chính là những biểu hiện ra bên ngoài về VHKD của chủ thể trong quá trình hoạt động kinh doanh. Các biểu hiện đó có thể là những tư duy, là lời nói, là các hành động, ứng xử cụ thể, v.v. của chủ thể, nói tóm lại chính là các giá trị, sản phẩm văn hóa được chủ thể kinh doanh sáng tạo và tích lũy trong quá trình hoạt động kinh doanh. Các biểu hiện VHKD được nhận diện từ biểu hiện ra bên ngoài của những yếu tố cấu thành nên VHKD như triết lý kinh doanh, đạo đức kinh doanh, văn hóa doanh nhân, văn hóa doanh nghiệp, văn hóa ứng xử của chủ thể kinh doanh.

Tuy nhiên, không phải các biểu hiện nào xuất phát từ các yếu tố cấu thành nên VHKD của chủ thể đều được coi là những biểu hiện VHKD (mang nghĩa tích cực), mà chúng cần được xem xét, đánh giá đầy đủ từ việc tuân thủ pháp luật, tôn trọng đạo đức kinh doanh, tôn trọng và kế thừa giá trị, bản sắc văn hóa dân tộc, v.v. Từ đó, có thể sàng lọc ra những biểu hiện văn hóa tốt đẹp, nhằm tôn vinh và làm bài học kinh nghiệm cho các chủ thể kinh doanh khác kế thừa, phát huy, sáng tạo, cùng tạo ra môi trường kinh doanh ổn định, tin cậy, phát triển mạnh mẽ và đậm đà bản sắc dân tộc.

Để nhận biết VHKD của chủ thể kinh doanh như thế nào, Dương Thị Liễu (2013) cho rằng cần xem xét từ hai phương diện nhận biết đó là:

  • Cách thức và mức độ vận dụng các nhân tố văn hóa (hệ giá trị, tâm lý dân tộc, triết lý chung) mà chủ thể lựa chọn từ văn hóa dân tộc được đưa vào hoạt động kinh doanh tạo ra sản phẩm dịch vụ đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của khách hàng có văn hóa. Phương diện này được Đỗ Minh Cương gọi là “lối kinh doanh có văn hóa phù hợp với văn hóa dân tộc” (2001, trang 70);

Các giá trị, sản phẩm văn hóa (hệ giá trị, triết lý, tập tục, nghệ thuật, vv…) mà chủ thể kinh doanh tạo ra để cổ vũ, theo đuổi lối kinh doanh mà họ đã lựa chọn. Đây, được Đỗ Minh Cương gọi là “lối sống có văn hóa của chủ thể kinh doanh” (2001, trang 70).

Từ những nghiên cứu nêu trên, tác giả đề xuất khái niệm về Biểu hiện VHKD như sau: “Biểu hiện VHKD là những biểu hiện xuất phát từ những yếu tố cấu thành nên VHKD, được thể hiện ra bên ngoài, phản ảnh lối sống, kiểu kinh doanh có văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, tuân thủ pháp luật, có trách nhiệm với xã hội của chủ thể trong quá trình hoạt động kinh doanh”.

Như vậy, để nhận biết VHKD của chủ thể kinh doanh như thế nào ta cần nhận diện, quan sát và đánh giá các biểu hiện VHKD trong quá trình hoạt động kinh doanh của chủ thể đó. Ở mức độ sâu hơn, nếu ta muốn nghiên cứu về các biểu hiện VHKD mang bản sắc văn hóa Việt Nam, thì ta cần phải làm rõ hơn về Bản sắc VHKD Việt Nam là gì. Vấn đề này được Dương Thị Liễu đưa ra như sau: “Nếu văn hoá kinh doanh Việt Nam – một phần quan trọng của văn hoá Việt Nam – là sự tiếp thu có chọn lọc và phát huy những tinh hoa văn hoá kinh doanh của các dân tộc khác trên thế giới và của cha ông, vận dụng phù hợp với đặc điểm xã hội Việt Nam hiện đại, thì có thể coi, bản sắc văn hoá kinh doanh Việt Nam là sự nhạy cảm, tinh tế trong các quan hệ kinh doanh, giàu nghĩa khí và có ý thức dân tộc cao”. (trang 169, 2005) Luận văn: kinh doanh cửa hàng tiện lợi VinMart tại Hà Nội

Từ đây, ta có thể nhận biết được những biểu hiện VHKD của các doanh nghiệp Việt Nam được tôn vinh có bản sắc dân tộc là “những biểu hiện VHKD qua đó thể hiện sự nhạy cảm, tinh tế trong quan hệ kinh doanh, giàu nghĩa khí và có ý thức dân tộc cao”.

Trên cơ sở tổng hợp các lý luận nêu trên, theo quan điểm của tác giả có thể xây dựng mô hình nghiên cứu và phương pháp xác định các biểu hiện VHKD mang bản sắc văn hoá Việt Nam như hình 1.3 dưới đây. Cụ thể của mô hình này như sau:

  • Vòng trong cùng: Thể hiện VHKD mang bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam của chủ thể kinh doanh với 04 đặc trưng là sự nhạy cảm, tinh tế trong quan hệ kinh doanh, giàu nghĩa khí và có ý thức dân tộc cao.
  • Vòng tròn tiếp theo: Phản ánh hệ quả đến từ cách thức và mức độ vận VHKD mang bản sắc văn hóa dân tộc vào hoạt động sản xuất kinh doanh, hình thành nên kiểu kinh doanh và lối sống có văn hóa của chủ thể kinh doanh.
  • Năm cánh ngoài cùng: Thể hiện 5 nhóm biểu hiện VHKD (tương ứng với 5 yếu tố cấu thành nên VHKD) được chủ thể kinh doanh thể hiện ra ngoài xuất phát từ Kiểu kinh doanh và Lối sống có văn hóa.

Như vậy với mô hình này, chúng ta có thể tìm ra được các biểu hiện VHKD mang bản sắc văn hóa dân tộc bằng việc quan sát lối sống và kiểu kinh doanh có văn hóa của chủ thể kinh doanh và được phân biệt thành 5 nhóm biểu hiện tương ứng với 5 yếu tố cấu thành nên VHKD bao gồm:

  • Các biểu hiện về Triết lý kinh doanh: Là những biểu hiện ra bên ngoài của chủ thể kinh doanh phản ánh rõ ràng lý tưởng, phương châm hành động, các giá trị mục tiêu chung của chủ thể kinh doanh trong suốt quá trình hình thành và phát triển doanh nghiệp.
  • Các biểu hiện về Đạo đức kinh doanh: Là những biểu hiện ra bên ngoài của chủ thể kinh doanh bằng hệ thống các nguyên tắc, quy tắc nhằm điều chỉnh, đánh giá hành vi trong môi trường bên trong và bên ngoài của doanh nghiệp.
  • Các biểu hiện về Văn hóa doanh nhân: Là những biểu hiện được thể hiện ra bên ngoài của doanh nhân phản ánh các giá trị, chuẩn mực, quan niệm và hành vi của doanh nhân đó trong quá trình SXKD.
  • Các biểu hiện về Văn hóa doanh nghiệp: Là các biểu hiện được thể hiện ra bên ngoài của chủ thể kinh doanh phản ánh hệ thống các giá trị, chuẩn mực, quan niệm, hành vi của doanh nghiệp, được phổ biến chung hoặc được ngầm định chi phối hoạt động của các thành phần liên quan trong doanh nghiệp và tạo nên bản sắc kinh doanh riêng của doanh nghiệp.
  • Các biểu hiện về Văn hóa ứng xử: Là các biểu hiện được thể hiện ra bên ngoài của các bên liên quan trong doanh nghiệp cho thấy rõ các giá trị, chuẩn mực, quan niệm và hành vi của các bên liên quan đối xử với nhau và với khách hàng và tạo nên bản sắc kinh doanh riêng của doanh nghiệp.

Các biểu hiện này nếu thể hiện được sự nhạy cảm, tinh tế trong quan hệ kinh doanh, giàu nghĩa khí và có ý thức dân tộc cao của chủ thể kinh doanh thì được gọi là các biểu hiện VHKD mang bản sắc văn hóa dân tộc. Quan sát thấy nếu chủ thể kinh doanh thể hiện ra các biểu hiện VHKD có bản sắc càng nhiều và được người tiêu dùng và các cơ quan quản lý đánh giá cao thì chứng tỏ chủ thể kinh doanh đó đã biết vận dụng văn hóa dân tộc với mức độ cao và đã tạo ra nhiều sản phẩm có văn hóa cho xã hội. Mô hình này, cũng là khung nghiên cứu của tác giả để nhận diện ra các biểu hiện VHKD mang bản sắc văn hóa dân tộc tại chuỗi các cửa hàng tiện lợi VinMart+ tại Hà Nội.

1.3. Cơ sở thực tiễn

Do hạn chế về thời gian và kinh phí, tác giả sẽ không tìm ra các biểu hiện VHKD xuất phát từ cả 5 yếu tố hình thành nên VHKD như mô hình đã nêu ra mà chỉ tập trung nghiên cứu tìm ra một số biểu hiện VHKD xuất phát từ 3 yếu tố: Triết lý kinh doanh, Đạo đức kinh doanh và Văn hóa ứng xử của VinMart+ tại Hà Nội.

1.3.1. Biểu hiện về triết lý kinh doanh.

Chúng ta biết rằng triết lý kinh doanh là lý tưởng, phương châm hành động, các giá trị mục tiêu chung của chủ thể kinh doanh. Vì vậy, những quốc gia phát triển, những doanh nghiệp bền vững đều có cho mình một triết lý kinh doanh không những mang nhiều ý nghĩa giá trị mà còn có sự khác biệt với nhiều lý thuyết được giảng dạy. Ta có thể lấy ví dụ điển về Biểu hiện triết lý kinh doanh của công ty Kyocera Corp như sau: Luận văn: kinh doanh cửa hàng tiện lợi VinMart tại Hà Nội

Công ty CP Kyocera do ông Kazuo Inamori thành lập năm 1959 tại thành phố Kyoto, Nhật Bản với tên gọi ban đầu là Công ty TNHH Gốm Kyoto. Kyocera chủ yếu sản xuất các sản phẩm gốm kỹ thuật, thiết bị in và thiết bị ngành ảnh. Năm 1983, công ty có được hợp đồng độc quyền với hãng thiết bị quang học Carl Zeiss của Đức, rồi bắt đầu sản xuất ra nhiều dòng máy ảnh chụp phim, máy ảnh kỹ thuật số chất lượng tốt mang các nhãn hiệu Contax,Yashica. Năm 2000, hãng mua lại Công ty công nghiệp Mita, một nhà sản xuất máy photocopy và nhánh sản xuất điện thoại di động từ hãng Qualcomm của Hoa Kỳ lập thành Công ty thiết bị không dây Kyocera.

Ông Kazou Inamori đã theo đuổi triết lý kinh doanh là thay vì tập trung vào lợi ích các cổ đông, ông đã dành nhiều thời gian và nguồn lực để khiến nhân viên của mình cảm thấy hạnh phúc khi được làm việc tại công ty. Kazou Inamori từng nói: “Nếu muốn có trứng, hãy chăm sóc cho những con gà mái. Một khi bạn hành hạ hay giết nó thì điều đó sẽ chẳng thể thực hiện được”. Ý nghĩa của câu nói này là nhân viên là người trực tiếp làm ra sản phẩm để tạo nên giá trị và mang lại lợi nhuận cho công ty. Vì vậy, việc công ty đối xử và quan tâm tương xứng với nhân viên trở thành động lực để họ có thể tận tâm cống hiến và cảm thấy mình được coi trọng và hài lòng với những đãi ngộ đúng giá trị làm ra. Nhờ theo đuổi triết lý kinh doanh này mà Kyocera Corp đã điều hành nhà mạng trị giá cả chục tỷ đô KDDI Corp, mà còn vực dậy Japan Airlines khỏi nguy cơ phá sản vào năm 2010.

1.3.2. Biểu hiện về Đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội

Các hoạt động của doanh nghiệp được thực hiện trên sự định hướng của triết lý kinh doanh và tuân thủ các chuẩn mực đạo đức mà doanh nghiệp đã đặt ra. Những hoạt động như lựa chọn, bổ nhiệm, chất lượng sản phẩm, kế toán tài chính, quảng cáo marketing, v.v. đều gắn liền với chuẩn mực về đạo đức kinh doanh. Một doanh nghiệp có đạo đức kinh doanh là một doanh nghiệp công khai, minh bạch trong các hoạt động SXKD, không tham ô, tham nhũng, không kiếm lợi nhuận bằng sự lừa dối, hay hủy hoại môi trường, bóc lột người lao động. Một trong những ví dụ điển hình về Biểu hiện về Đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội tại Công ty Honda Việt Nam như sau:

Công ty Honda Việt Nam được thành lập từ năm 1996 và là liên doanh giữa 3 bên, gồm: Công ty Honda Motor Nhật Bản (42%); Tổng Công ty Máy Động lực và Máy Nông nghiệp Việt Nam (30%); Công ty Asian Honda Motor (28%). Trong quá trình hoạt động ở Việt Nam, Honda đã đầu tư hơn 290 triệu USD cho nhà máy thứ nhất, 65 triệu USD cho nhà máy thứ hai, 120 triệu USD xây dựng nhà máy thứ ba và khoảng 60 triệu USD đầu tư cho nhà máy ô tô. Bên cạnh đó, Honda Việt Nam còn dành hàng trăm triệu đô la để đầu tư cho các phân xưởng và kho chứa phục vụ hoạt động sản xuất và xuất khẩu. Sự đầu tư đó là minh chứng rõ ràng nhất cho sự phát triển thịnh vượng cũng như cam kết đầu tư nghiêm túc của công ty.

Ngay từ những ngày đầu, công ty luôn hoạt động theo nguyên tắc sự phát triển bền vững là luôn gắn kết với đóng góp xây dựng cộng đồng với phương châm: “Phấn đấu đề mang lại niềm vui và an toàn cho người dân Việt Nam”. Vì vậy hơn 20 năm qua, Honda Việt Nam luôn chú trọng vào các hoạt động thể hiện trách nhiệm của một nhà sản xuất đối với xã hội, thông qua các chương trình đào tạo và tuyên truyền lái xe an toàn “Tôi yêu Việt Nam”; các hoạt động giáo dục vì tương lai của thế hệ trẻ Việt Nam (Cuộc thi Ý tưởng trẻ thơ – Children’s Idea Contest, Giải thưởng dành cho Kỹ sư và nhà Khoa học trẻ Việt Nam – Honda Y-E-S Award, chuỗi giải đua Motorsport); các hoạt động hỗ trợ cộng đồng (Quỹ từ thiện Honda, tài trợ xe máy cho lực lượng CSGT và các hoạt động hỗ trợ cộng đồng khác khác như ủng hộ đồng bào lũ lụt, trao tặng xe lăn cho trẻ em khuyết tật, ủng hộ quỹ từ thiện dành cho Viện Nhi Trung ương, trao tặng bộ dụng cụ và máy phẫu thuật tim dành cho trẻ em, hay hỗ trợ các gia đình chính sách và có hoàn cảnh khó khăn, v.v., với tổng số tiền hỗ trợ cho các hoạt động này lên đến 8,4 tỷ đồng. Những nỗ lực đó của Honda Việt Nam được Đảng và Nhà nước Việt Nam ghi nhận, chiếm được niềm tin của khách hàng và từ đó đã tạo nên hàng loạt cột mốc kỷ lục về doanh số bán theo năm. Ngoài ra, rất nhiều năm hoạt động tại thị trường Việt Nam, Honda Việt Nam đã vinh dự dẫn đầu hoặc lọt vào top dẫn đầu về chỉ số hài lòng dành cho Dịch vụ bán hàng (SSI) và Dịch vụ sau bán hàng (CSI) theo khảo sát của tổ chức J.D. Power Asia Pacific.

1.3.3. Biểu hiện về Văn hóa ứng xử Luận văn: kinh doanh cửa hàng tiện lợi VinMart tại Hà Nội

Văn hóa ứng xử trong hoạt động kinh doanh là một hệ thống các giá trị, chuẩn mực, quan niệm và hành vi của các thành phần liên quan trong doanh nghiệp đối xử với nhau và với khách hàng và tạo nên bản sắc kinh doanh riêng của doanh nghiệp. Có thể điểm Biểu hiện Văn hóa ứng xử của chuỗi cửa hàng tiện lợi Circle K Việt Nam, một chuỗi cửa hàng bán lẻ mang đậm VHKD phương Tây tại thị trường Việt Nam. Qua quan sát, ta có thể thấy rằng biểu hiện ở Circle K về ứng xử của nhân viên là khá niềm nở với khách hàng và biết chào hỏi lễ phép. Khi kinh doanh tại Việt Nam Circle K đã nghiên cứu và biết đến quan niệm ứng xử của người Việt là “Lời chào cao hơn mâm cỗ”. Tuy nhiên, do đặc tính văn hóa phương Tây, ưa sự tự do, tôn trọng sự riêng tư của khách hàng mà nhân viên Circle K thường để cho khách hàng tự do, thư giãn một cách chậm rãi và riêng tư lựa chọn sản phẩm mà mình muốn. Một điều đặc biệt mang phong cách rất “Mỹ” là nhân viên của Circle K luôn đội mũ khi phục vụ khách hàng, để biểu hiện sử nghiêm túc, vệ sinh, an toàn lao động rất “tác phong công nghiệp”.

Tuy nhiên, biểu hiện này thường không phù hợp với người tiêu dùng lớn tuổi. Trong chuỗi cửa hàng của Circle K, vị trí việc làm, chức năng nhiệm vụ, giới hạn không gian phục vụ của các nhân viên buộc phải tuân thủ theo đúng bản mô tả công việc. Giới hạn này nhằm tránh các nhân viên làm việc tùy tiện, chồng chéo, không rõ trách nhiệm khi phục vụ khách hàng, việc ra quyết định hoàn toàn theo phân cấp, các khiếu nại, đền bù, đổi trả được giải quyết theo thẩm quyền, và trình tự đã được quy định chung của doanh nghiệp. Tuy nhiên, dưới góc độ người tiêu dùng Việt Nam, mang đặc trưng cơ bản là “ưa hài hòa” do đó thường thích xuề xòa, đại khái và thường có thái độ tiêu cực khi không được người bán hàng đáp ứng mong muốn cá nhân ngay lập tức, do vậy sự phục vụ theo phong cách này đã tạo ra sự xung đột văn hoá giữa khách hàng và nhân viên bán hàng. Mặc dù Circle K đã dần thay đổi khác biệt này, tuy nhiên thị trường Việt Nam vẫn chưa hài lòng. Năm 2016, Buzzmetrics đã tổ chức đánh giá và phân tích sức khỏe thương hiệu toàn diện của Circle K trên social media, trong khoảng thời gian Quý II đến Quý III năm 2016, kết quả cho thấy có 15% ý kiến đánh giá là tiêu cực, trong đó có đến 14% là phàn nàn về thái độ phục vụ không tốt.

Tóm tắt Chương 1

Trong Chương 1, tác giả đã tổng thuật một số công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu trước đây ở trong và ngoài nước về VHKD và các yếu tố cấu thành nên VHKD, qua đó chỉ ra được khoảng trống để tiến hành nghiên cứu. Cũng tại Chương này, tác giả cũng đã khái chỉ ra được cơ sở lý luận về văn hóa và VHKD thông qua hệ thống các khái niệm, các đặc trưng tiêu biểu, các yếu tố cấu thành, hệ giá trị văn hóa và nội hàm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, các yếu tố cấu thành, vai trò, các nhân tố tác động vào VHKD, v.v., từ đó làm rõ hơn và đưa ra được khái niệm, cách nhận biết các biểu hiện VHKD. Trong phần cơ sở thực tiễn, Luận văn cũng đã nhận diện được các biểu hiện VHKD của các doanh nghiệp tiêu biểu trên thị trường Việt Nam xuất phát từ một số yếu tố cấu thành nên VHKD. Đây cũng là các cơ sở thực tiễn cần thiết để tác giả có thể tham khảo, làm cơ sở cho quá trình quan sát chuỗi cửa hàng tiện lợi VinMart+ nhằm tìm ra được những biểu hiện của VHKD đã tạo ra lợi thế cạnh tranh độc tôn trên thị trường Việt Nam. Luận văn: kinh doanh cửa hàng tiện lợi VinMart tại Hà Nội

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY

===>>> Luận văn: Khái quát phương pháp nghiêm cứu cửa hàng tiện lợi

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x