Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Khát quát về Marketing điện tử tại Việt Nam hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Hoạt động marketing điện tử trên thế giới và giải pháp phát triển marketing điện tử Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.1. Cơ sở ứng dụng và phát triển Marketing điện tử
TMĐT và thế giới. Để có hoà các yếu tố, Marketing điện tử hiện đang phát triển nhanh tại nhiều quốc gia trên được sự phát triển như vậy, mỗi quốc gia đều cần phải kết hợp hài nền tảng cơ sở sau:
2.1.1. Hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin
Bất kỳ quốc gia nào muốn ứng dụng Marketing điện tử vào trong các hoạt động thương mại thì đều cần có một nền tảng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, truyền thông đủ mạnh, có khả năng tính toán, xử lý, truyền thông tin và dữ liệu nhanh, ổn định. Luận văn: Khát quát về Marketing điện tử tại Việt Nam
Cơ sở hạ tầng công nghệ bao gồm các chuẩn của doanh nghiệp, của nhà nước và sự liên kết của các chuẩn ấy với các chuẩn quốc tế, với kỹ thuật ứng dụng và các thiết bị ứng dụng không chỉ của riêng doanh nghiệp mà phải là một hệ thống quốc gia với tư cách là phân hệ của hệ thống công nghệ thông tin, khu vực và toàn cầu (trên nền tảng của Internet )
Hạ tầng công nghệ cũng bao gồm hạ tầng mạng, hạ tầng ngôn ngữ và nội dung, các kênh phân phối thông tin và các dịch vụ thương mại điện tử. Mỗi bộ phận lại là tập hợp của nhiều phần cứng và phần mềm khác nhau.
Hạ tầng cơ sở công nghệ không chỉ có ý nghĩa là tính hiện hữu (availability) mà còn phải có tính kinh tế sử dụng (affordability), nghĩa là các chi phí trang bị các phương tiện công nghệ thông tin (điện thoại, máy tính, máy chủ, switch, router, modem…) và các chi phí dịch vụ truyền thông (phí điện thoại, phí nối mạng, phí truy cập mạng…) phải đảm bảo tính kinh tế, hiệu quả và đủ rẻ để đông đảo người sử dụng có thể tiếp cận được. Mặt khác, hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin chỉ có thể có và hoạt động đáng tin cậy dựa trên nền tảng một nền công nghiệp điện năng vững chắc, đảm bảo cung cấp điện năng đầy đủ, ổn định và với mức giá hợp lý.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Marketing
2.1.2 Hạ tầng cơ sở pháp lý Luận văn: Khát quát về Marketing điện tử tại Việt Nam
Môi trường kinh doanh dù thực hay ảo cũng đều phải hoạt động trong một khuôn khổ pháp lý nhất định và hoạt động Marketing điện tử cũng vậy. Các quốc gia muốn điều chỉnh hoạt động Marketing điện tử thì phải xây dựng các văn bản pháp quy điều chỉnh hoạt động này và các hoạt động có liên quan khác như thanh toán điện tử, bảo mật thông tin, bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Các quy định, văn bản pháp quy điều chỉnh phải phù hợp với các đặc điểm, tính chất, cơ chế hoạt động riêng của marketing điện tử.
Marketing điện tử là một loại hình kinh doanh còn khá mới mẻ và liên tục thay đổi do sự đổi mới không ngừng của môi trường kinh doanh số hoá, do vậy việc xây dựng hệ thống văn bản pháp quy điều chỉnh lĩnh vực này phải tính đến nhiều yếu tố và điều kiện của quốc gia cũng như thế giới
Hơn nữa, hoạt động TMĐT nói chung và hoạt động Marketing điện tử nói riêng diễn ra chủ yếu trên mạng Internet, nơi mà khái niệm biên giới quốc gia không còn tồn tại, khiến cho những hoạt động này không còn bó hẹp trong phạm vi lãnh thổ của một nước nên khung pháp lý điều chỉnh những hoạt động này cũng đòi hỏi phải có sự thống nhất toàn cầu. Tuy nhiên cho đến nay, vấn đề này vẫn chưa thể thực hiện được, do đó khi một doanh nghiệp muốn sử dụng Internet để tiến hành kinh doanh với đối tác nước ngoài thì họ còn phải quan tâm dến những quy định của nước đối với lĩnh vực, hình thức kinh doanh của họ.
Như vậy, để tạo dựng một môi trường pháp lý ổn định, tạo điều kiện cho sự phát triển của hoạt động Marketing điện tử, mỗi quốc gia cần chú ý đến những vấn đề như: thừa nhận tính pháp lý của chữ ký điện tử và đề ra các thiết chế thích hợp cho việc chứng thực, xác nhận chữ ký điện tử; bảo vệ pháp lý các hoạt động thanh toán điện tử; bảo vệ pháp lý đối với quyền sở hữu, các chính sách an ninh mạng…
2.1.3. Hệ thống thanh toán điện tử
Sự phát triển của TMĐT và Marketing điện tử gắn liền với sự phát triển của hệ thống thanh toán điện tử, bởi thanh toán điện tử là cơ sở, là nền tảng hỗ trợ và thúc đẩy hoạt động TMĐT cũng như các hoạt động Marketing điện tử. Trong thương mại truyền thống, việc thanh toán gặp rất nhiều khó khăn do những trở ngại về không gian và thời gian. Các phương tiện điện tử xuất hiện, đặc biệt là Internet đã tạo một bước tiến mới trong hoạt động thanh toán, nó thúc đẩy các hoạt động giao dịch diễn ra thường xuyên hơn, rộng rãi hơn.
Tuy nhiên, hệ thống thanh toán điện tử đòi hỏi chế độ bảo mật rất cao, phải thoả mãn các yêu cầu về sự tin cẩn (confidentiality ), sự trung thực (intergrity), và sự xác nhận (authentication).
Ngoài ra, để hỗ trợ cho hệ thống thanh toán điện tử, mỗi quốc gia cần phải thiết lập một hệ thống mã hoá thương mại thống nhất và phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Các mã vạch cho phép mã hoá các sản phẩm dịch vụ bằng một dãy số gồm 13 chữ số, nhờ đó máy tính có thể dễ dàng đọc tên sản phẩm và việc giao dịch, luân chuyển hàng hoá đơn giản hơn rất nhiều.
2.1.4. Vấn đề bảo mật và an toàn thông tin Luận văn: Khát quát về Marketing điện tử tại Việt Nam
An toàn thông tin nghĩa là thông tin được bảo vệ và các hệ thống thông tin có khả năng chống lại những tai họa, lỗi và sự tác động không mong đợi hay các thay đổi. Thông tin chỉ có giá trị cao khi đảm bảo tính chính xác và kịp thời. Mục tiêu của an toàn, bảo mật thông tin trong công nghệ thông tin là đưa ra một số tiêu chuẩn an toàn và ứng dụng các tiêu chuẩn an toàn này vào hoạt động Internet để loại trừ hoặc giảm bớt các nguy hiểm. Vấn đề bảo mật bao gồm bảo mật về giao dịch và bảo mật về những thông tin của khách hàng. Khi tiến hành kinh doanh trên mạng, các thông tin về khách hàng và thông tin liên quan đến các nghiệp vụ thanh toán, giao dịch…sẽ trở thành những yếu tố nhậy cảm. Mặc dù Internet là công cụ hỗ trợ đắc lực cho những người làm Marketing trong việc thu nhập những thông tin về khách hàng, nhưng việc này cũng đụng chạm tới vấn đề tế nhị là tính riêng tư cá nhân. Điều này đặt ra một số yêu cầu đối với những thông tin được thực hiện trên mạng như:
Yêu cầu bảo mật: bao gồm yêu cầu về tính bí mật và yêu cầu về tính toàn vẹn. Yêu cầu về tính bí mật là yêu cầu về việc bảo vệ những thông tin cá nhân của khách hàng. Đó là những thông tin như: tên, địa chỉ, số điện thoại, địa chỉ hòm thư… hay số thẻ tín dụng. Việc để lộ những thông tin này có thể gây tổn thất cho khách hàng về mặt vật chất hoặc tinh thần. Thực tế hiện nay cho thấy tình trạng tin tặc lấy cắp những thông tin cá nhân của khách hàng để làm thẻ tín dụng giả, hay thực hiện những giao dich bất hợp pháp đang ngày càng trở thành vấn đề nhức nhối, nhất là ở các nước phát triển, nơi mà giao dịch qua mạng đã trở nên phổ biến. Việc bảo mật những thông tin này giúp doanh nghiệp chiếm được lòng tin của khách hàng và đây là cơ sở để có được lòng trung thành của khách hàng đối với doanh nghiệp. Luận văn: Khát quát về Marketing điện tử tại Việt Nam
Yêu cầu về tính toàn vẹn của thông tin: là việc thông tin được bảo đảm một cách toàn vẹn mà không bị thay đổi trong suốt quá trình lưu chuyển. Phổ biến nhất là tình trạng thư điện tử bị thay đổi nội dung trong quá trình gửi đi, hay việc các trang web bị thay đổi nội dung, kết cấu… gây mất lòng tin của khách hàng, ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế hiện nay các biện pháp bảo mật thông tin như: sử dụng mã khoá bí mật, bức tường lửa, phong bì số đang được sử dụng rộng rãi.
Vấn đề sở hữu trí tuệ: Sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin đã dẫn đến sự ra đời của hàng loạt các sản phẩm số hoá. Vấn đề về quyền sở hữu trí tuệ đối với những sản phẩm này cũng phải được quan tâm giống như những sản phẩm truyền thống khác. Với xu hướng phát triển như hiện nay, các sản phẩm mang tỷ lệ trí tuệ nhiều hơn tỷ lệ vật chất, vì thế vấn đề liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ có tầm quan trọng rất lớn, tạo tiền đề cho các thành phần tham gia vào xã hội thông tin an tâm phát triển.
2.1.5. Vấn đề nhận thức
Với sự hình thành và phát triển nhanh chóng của Internet thì việc kinh doanh, giao dịch của con người đã thay đổi rất nhiều so với cách thức kinh doanh trước kia.
Thương mại điện tử và Marketing điện tử diễn ra trong một môi trường mới khác hẳn so với thương mại và marketing truyền thống, do đó cách thức tiến hành Marketing điện tử cũng có sự khác biệt, đòi hỏi những nhà Marketing phải tiếp cận và ứng dụng những công nghệ hoàn toàn mới. Hơn nữa, với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế số hoá, Marketing điện tử đang dần chiếm ưu thế so với Marketing truyền thống. Do đó không chỉ nhận thức của doanh nghiệp mà nhận thức của người tiêu dùng cũng phải thay đổi cho phù hợp với môi trường mới.
Trước hết, người tiêu dùng phải tạo được thói quen mua sắm qua các phương tiện điện tử, đặc biệt là trên Internet. Họ cũng phải làm quen với khái niệm thanh toán qua mạng hay bảo mật và an toàn trên mạng. Đối với nhà nước nói chung và đối với các doanh nghiệp nói riêng, yêu cầu đặt ra là phải đào tạo được một đội ngũ chuyên gia tin học nhanh nhạy, thường xuyên bắt kịp những công nghệ mới phát triển để phục vụ cho hoạt động TMĐT nói chung và hoạt động Marketing điện tử nói riêng, cũng như có khả năng thiết kế các công cụ phần mềm đáp ứng được nhu cầu hoạt động của một nền kinh tế số hoá, tránh bị động phụ thuộc vào nước khác. Vấn đề này liên quan trực tiếp tới hệ thống giáo dục đào tạo và phổ cập Internet cũng như cần phải được đầu tư thích đáng cả về mặt thời gian và tiền bạc.
2.2. Tình hình phát triển Marketing điện tử tại các doanh nghiệp trên thế giới Luận văn: Khát quát về Marketing điện tử tại Việt Nam
2.2.1. Tại các doanh nghiệp Mỹ
Internet ra đời và được ứng dụng sớm nhất tại Mỹ, điều này đã tạo điều kiện cho việc phát triển hoạt động TMĐT tại quốc gia này. Mỹ đã chính thức mở cửa mạng internet công chúng vào tháng 1/1991, đây thực sự là một bước ngoặt thúc đẩy cuộc cách mạng tin học, thương nghiệp và điều chỉnh ngành nghề ở Mỹ. Theo số liệu của Liên minh Viễn thông quốc tế (International Telecommunication Union) ITU, đến tháng 9 năm 2005 có tới 68% dân số Mỹ sử dụng Internet và chiếm tới 90% trong tổng số người sử dụng Internet ở khu vực Bắc Mỹ. [22] Với một thị trường rộng lớn như vậy, các công ty kinh doanh trên mạng của Mỹ đang mở rộng hoạt động trên tất cả các lĩnh vực. Cụm từ “ Thương mại điện tử” không còn xa lạ gì với nhiều người dân Mỹ bởi từ lâu họ đã hình thành thói quen tra cứu thông tin và mua sắm trên mạng.
Trong marketing điện tử, ở Mỹ có rất nhiều công ty hoạt động rất thành công. Ví dụ như trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường có thể kể tên hàng trăm công ty khác nhau, trong đó có những công ty có uy tín như Taylor Nelson, Forrester Research, e-Marketer, Nielsen Media Research, O’Reilly& Associates, Georgia Tech….Đội ngũ hùng hậu những nhà làm marketing này đang cung cấp cho các công ty dot.com (một cách gọi các công ty hoạt động kinh doanh trên mạng) của Mỹ những thông tin thị trường quý giá để hoạch định chiến lược kinh doanh của mình.
Không chỉ trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường, hoạt động marketing ở Mỹ còn rất phát đạt với những hoạt động bán lẻ hàng hoá và quảng cáo trên mạng. Theo thống kê của Bộ thương mại Mỹ, trong năm 2006, người dân nước này đã dành tới 102,1 tỷ USD để mua hàng trên mạng, tăng 24% so với năm 2005. Dự đoán đến năm 2008, thương mại điện tử ở Mỹ sẽ đạt gần 230 tỉ USD [33]. Tham gia đáp ứng nhu cầu của thị trường rộng lớn này là vô số các công ty khác nhau cung cấp đủ các loại sản phẩm, dịch vụ. Có thể kể tên một số cửa hàng ảo đang hoạt động thành công ở Mỹ như: www.amazon.com chuyên về mặt hàng sách; www.cdnow.com chuyên về các loại CD ca nhạc hay www.dell.com hoạt động trong lĩnh vực máy tính…
Có thể kể ra đây 10 cửa hàng bán lẻ và marketing hiệu quả nhất trên thế giới hiện nay. Điều đặc biệt là cả 10 cửa hàng này đều là các cửa hàng của Mỹ: [23]
Câu trả lời cho cửa hàng lớn nhất của công ty BestBuy chính là website Bestbuy.com. Với uy tín là một nơi lý thú cho khách hàng khi tìm mua đồ điện tử gia dụng trên mạng, BestBuy quyết tâm đưa cảm giác thú vị đó tới tận ngôi nhà của người mua hàng. Website này được nâng cấp vào năm 2002 và cho phép đưa ra các dịch vụ mang tính cá nhân hoá cao hơn với người mua dựa trên những ghi chép về lịch sử mua hàng của khách hàng. Ngoài ra, hệ thống mới chạy trên hệ điều hành
UNIX cũng giúp BestBuy trình bày các đợt xúc tiến bán hàng đa sản phẩm trên web giống như các quảng cáo của công ty trên các báo ra hàng tuần. Người mua hàng sẽ bị “tấn công” bằng các biện pháp marketing cả ngoài đời lẫn trên mạng.
Ngoài ra, Phó Giám đốc Marketing của BestBuy, ông Barry Judge, khẳng định BestBuy sẽ giúp cho khách hàng mua hàng tại bất kỳ nơi nào mà họ muốn. Theo các chuyên gia, vai trò lớn nhất của website BestBuy.com trong những năm qua là thu hút khách hàng đến với các cửa hàng ngoài đời thực. Tuy nhiên, với chính sách giao hàng miễn phí với tất cả các đơn hàng, dù lớn hay nhỏ, website BestBuy.com đang thực sự đóng một vị trí ngày càng quan trọng trong doanh thu của công ty
Cho tới nay, chiến lược kinh doanh trên web của BestBuy đã thực sự có hiệu quả với trên 10 triệu lượt viếng thăm (visit)/tháng và theo kinh nghiệm của BestBuy.com, có những mặt hàng bán đặc biệt chạy qua mạng như máy ảnh kỹ thuật số và máy quay video cá nhân. Ngoài ra, sự kết hợp giữa cửa hàng thực và cửa hàng ảo của BestBuy là tuyệt vời. Khi không thể tìm được hàng tại cửa hàng thực, khách hàng có thể tìm mua trên các website của BestBuy thông qua các kiosk truy cập Internet đặt tại cửa hàng thật và một điều thú vị khác với khách hàng là chi phí vận chuyển được miễn phí. Luận văn: Khát quát về Marketing điện tử tại Việt Nam
Dell là hãng bán máy tính theo mô hình trực tiếp tới khách hàng song họ thành công trên web là nhờ những phản hồi từ chính khách hàng của họ. Ông Sam Decker, nhà quản lý cao cấp phụ trách bộ phận kinh doanh điện tử của Dell phát biểu “Chúng tôi có được rất nhiều thông tin về khách hàng như các số liệu về số lượng người truy cập website, cơ sở dữ liệu email, các nghiên cứu khác và những thông tin này đã giúp chúng tôi thiết một trang web giúp khách hàng dễ sử dụng”.
50% doanh thu của Dell (32,1 tỷ USD) có được từ bán hàng qua mạng và site bán hàng B2C này có tới khoảng 2 triệu khách hàng viếng thăm hàng tuần. Những điểm mạnh của website là những đợt xúc tiến bán hàng và khuyến mãi được tiến hành thường xuyên, sự thuận tiện cũng như cảm giác dễ chịu cho người mua trong quá trình tự lựa chọn cấu hình trên mạng. Nhận ra rằng, quá trình lựa chọn cấu hình là khá phức tạp và các khách hàng tiếp cận quá trình này với những trình độ và kinh nghiệm mua hàng khác nhau, Dell.com đã giúp khách hàng thực hiện quá trình này dễ dàng hơn thông qua cơ sở dữ liệu khách hàng và các công cụ trên website.
Dell.com đưa ra một số cấu hình máy và thiết bị thông dụng nhất cho những khách hàng không có nhiều hiểu biết còn với những khách hàng có trình độ hơn, họ có thể tự mình đưa ra cấu hình như mong muốn.
Việc nghiên cứu kỹ những số liệu về khách hàng giúp Dell thực hiện những cải tiến tuy nhỏ nhưng lại rất có hiệu quả. Lấy 1 ví dụ: các nghiên cứu của Dell cho thấy quá trình tự đặt cấu hình trên mạng gồm 1 bước cần phải được chẻ nhỏ hơn nữa. Ông Decker cho biết “Chúng tôi thấy rằng, người mua hàng muốn quá trình diễn ra theo 2 bước. Đầu tiên là họ muốn lên cấu hình cơ bản cho chiếc máy của mình sau đó tìm kiếm xem họ muốn bổ sung thêm thiết bị gì. Ngay lập tức, chúng tôi thiết kế lại quá trình lựa chọn theo như cách suy nghĩ của khách hàng và kết quả là mức độ thoả mãn của khách hàng tăng mạnh.
Công ty bán lẻ quà tặng 1-800-flowers.com từ lâu đã biết rằng họ có thể kinh doanh nhiều mặt hàng quà tặng ngoài mặt hàng hoa. Sau khi tin tưởng vào dịch vụ chuyển hoa của công ty, khách hàng còn đặt mua nhiều mặt hàng quà tặng khác với nhu cầu ngày một lớn.
Công ty đã lập tức đáp ứng nhu cầu này với việc đưa ra những dịch vụ 1-800-Candies, 1-800- Baskets và các sản phẩm khác song họ đã phải nhanh chóng từ bỏ các mặt hàng này do chi phí cho các tờ rơi, yếu tố để thu hút khách hàng trực tiếp, là quá cao. Tuy nhiên, công ty đã đưa một số mặt hàng quà tặng lên trên trang web của mình và sau đó là của CompuServe và AOL. Thật không ngờ, cơ sở khách hàng này lại là báu vật quý giá cho công ty vào thời bùng nổ của thương mại điện tử và công ty có trang web riêng của mình vào năm 1996. Giờ đây, trang web là kênh bán hàng phát triển nhanh nhất.
Trang web không chỉ là một công cụ marketing tiết kiệm hay mang lại nhiều đơn hàng mà còn giúp công ty gắn kết hơn nữa với khách hàng. Lấy ví dụ, một dịch vụ nhắc nhở khách mua hàng trên mạng giúp công ty đối thoại với khách hàng không chỉ vào những ngày lễ mà giờ đây là quanh năm. Ông McCann cho biết “Chúng tôi thường làm điều này ngoài đời nhưng nhờ có webiste, chúng tôi đã nhận được nhiều phản hồi từ phía khách hàng hơn và thực sự mối quan hệ với chúng tôi và khách hàng đã có được tính tương tác rất cao”
Ngoài ra, theo 1 nhà phân tích của công ty nghiên cứu Jupiter Research, thành công của 1-800-flowers.com phần lớn là do việc thực hiện đơn hàng thông qua một mạng lưới mạng ngoại bộ (extranet) kết nối với hàng ngàn nhà cung cấp. Dựa trên mạng lưới này, 1-800-flowers.com có ưu thế trong việc thực thi đơn hàng. Họ rất mạnh trong việc dự đoán số lượng đơn hàng và giao hàng trong ngày nghỉ, một thách thức cho tất cả các nhà bán lẻ nhưng lại là yếu tố tất yếu trong ngành kinh doanh quà tặng.
Các họạ sỹ thời trung cổ có những hiệp hội để đại diện cho lợi ích của mình, ngày nay có lẽ họ chỉ cần có Internet và Toni Sikes. Ông Sike, người sáng lập ra nhà xuất bản các tác phẩm nghệ thuật Guild Publishing, đã tung ra website Guild.com vào năm 1999 với mục tiêu thu hút thêm khách hàng đến với các nghệ sĩ được Guid giới thiệu trong các cuốn sách của mình. Vậy mà giờ đây, Guild là một trong những bảo tàng các tác phẩm nghệ thuật chính hiệu trên mạng lớn nhất của hơn 800 nghệ sỹ.
Ông Sikes cho biết “Nghệ thuật và marketing chưa bao giờ đi đôi với nhau một cách hoàn hảo và kết quả là khách hàng có rất ít cơ hội tiếp cận với nghệ thuật. Nhưng tình hình sẽ đổi khác với Guild.com”. Thật vậy, gallery Guild.com trưng bày tới hơn 10.000 tác phẩm của các nghệ nhân đương đại theo một cách thức rất thân thiện với người dùng. Người thiết kế website đưa ra rất nhiều sự lựa chọn khác nhau và hợp lý cho người sử dụng trong việc tìm kiếm và chiêm ngưỡng các tác phẩm. Người mua hàng có thể xem toàn bộ bộ sưu tập tranh hoặc chỉ thưởng thức tranh theo giá tiền, kích cỡ, chủ đề hoặc thậm chí cả màu sắc. Còn khi khách hàng chuyển sang chủng loại hàng trang sức thì các lựa chọn trong việc tìm kiếm là chất liệu, loại trang sức và giá cả.
Các site bán đồ nghệ thuật cũng cần học tập Guild.com trong việc tổ chức kinh doanh. Công ty Guild không hề có nhà kho. Họ kiểm tra lượng hàng sẵn sàng để bán cũng như tình trạng đơn hàng bằng một mạng ngoại bộ (extranet) kết nối tất cả các nghệ sĩ mà họ đại diện. Ông Sike cho biết “Chúng tôi không bán tranh của các nghệ sỹ không có địa chỉ email”. Ngay khi một khách hàng đặt hàng qua mạng hay qua điện thoại, hệ thống kinh doanh sẽ tự động tạo ra và chuyển đơn hàng đó tới người nghệ sỹ (Guild yêu cầu các hoạ sỹ kiểm tra email mỗi ngày vài lần). Ngay lập tức, nhân viên dịch vụ khách hàng của Guild sẽ có thể thấy ngay số liệu về việc loại tranh nào có thể sẵn sàng xuất đi hay người hoạ sỹ đó sẵn sàng sản xuất thêm bao nhiêu mặt hàng còn thiếu.
Công ty bán đồ trang sức trên Internet, Ice.com biết rằng, phụ nữ thường thích mua đồ trang sức rẻ tiền để tự thưởng cho mình. Để đáp ứng nhu cầu này, Ice.com đã xây dựng một cửa hàng gồm khoảng 700 đồ nữ trang trên mạng với giá thấp hơn giá ở ngoài cửa hàng bách hoá tới 70%.
Tại website này, khách hàng có thể tìm kiếm hàng hóa theo loại đá, loại trang sức và theo mức giá song phần quan trọng trong thành công của Ice.com là cách phân bổ hàng hoá theo mục đích riêng của mình. Họ biết rằng, nhiều khách hàng không đến với website để tìm mua một mặt hàng cụ thể nào mà là tìm tòi và khám phá. Ice.com đã đưa ra những bộ sưu tập với những cái tên rất kêu “Lựa chọn đáng giá”, “Có gì mới ?” và “Hàng bán chạy nhất”
Ngoài ra, Ice.com còn thành công nhờ lựa chọn thanh toán phong phú – cho phép người mua hàng trả tiền kéo dài trong thời gian vài tháng. Theo nghiên cứu, lựa chọn này có thể làm tăng đột biến lượng hàng bán ra. Phó Giám đốc marketing của công ty cho rằng “Người ta rất thích chính sách cho phép dùng thử 30 ngày và sau đó có thể hoàn trả tiền nếu không thích. Tuy nhiên, khi họ phải mua hàng với giá 300 USD, thậm chí ngay cả khi họ thích vật đó và biết rằng họ có thể hoàn trả hàng thì họ vẫn rất ngại khi trả lại món hàng trị giá lớn như vậy. Nếu họ chỉ phải trả ngay 75 USD hay 50 USD và vẫn có thể hoàn trả sau 30 ngày thì họ sẵn sàng mua mặt hàng đó.”
Bên cạnh đó, Ice.com cũng rất thành công trong việc mang lại lòng tin đối với khách hàng. Ice thường xuyên để xuất hiện thông điệp “Tại sao bạn chọn Ice.com” trong suốt quá trình đặt mua hàng trên mạng cũng như trên trang chủ của Ice.com. Thông điệp này cùng với các chính sách giao hàng miễn phí, hộp đựng quà miễn phí và chính sách có thể hoàn trả tiền trong vòng 30 ngày, là những yếu tố giúp khách hàng luôn nhớ tới Ice.com. Nếu khách hàng tỏ ra lưỡng lự khi mua hàng, những yếu tố này sẽ giúp thúc đẩy quá trình mua hàng diễn ra dễ dàng hơn. Sự kết hợp thành công các yếu tố này chứng tỏ Ice.com đã thấu hiểu rất kỹ tâm lý khách hàng trong quá trình bán hàng.
Đa dạng hoá từ lời khuyên của khách hàng Drugstore.com chứng tỏ họ đã tồn tại được trong cơn lũ sụp đổ của các công ty dotcom. Với chính sách đa dạng hoá kênh bán hàng (khách hàng của Drugstore.com có thể nhận được đơn thuốc từ cửa hàng của Rite-Aid), Drugstore đã cho thấy cách thức họ tồn tại trên Web. Giờ đây, điều họ quan tâm là làm thế nào để phát triển và cạnh tranh với các cửa hàng thuốc lớn ngoài đời. Câu trả lời của họ đó là Website cần là nơi mà khách hàng lui tới một cách thường xuyên.
Để thực hiện chính sách này, Drugstore.com bổ sung thêm các quầy đặt tạp chí trên mạng và các cửa hàng bán đồ khác như sản phẩm dùng cho thú nuôi trong nhà. Thậm chí họ còn cung cấp các dịch vụ mà các cửa hàng thuốc không và có lẽ sẽ không bao giờ cạnh tranh đó là dịch vụ du lịch. Vượt lên mọi lời xì xào về vấn đề lợi nhuận, Chủ tịch và là Giám đốc điều hành của Drugstore ông Kal Raman cho biết “Chúng tôi đã có lãi vào năm 2003 và đó là một mốc thời gian cực kỳ thú vị, đặc biệt là với một công ty dotcom”. Phải chăng dịch vụ du lịch là một sự mở rộng hợp lý với Drugstore? Tuy nhiên, ý tưởng mở rộng này cho thấy lý do khiến Drugstore thành công đó là họ biết lắng nghe khách hàng. Ông Raman nói “Khách hàng của chúng tôi nói rằng họ ưa chuộng các sản phẩm sang trọng mà cửa hàng cung cấp và muốn biết chúng tôi có thể làm tương tự với dịch vụ du lịch được không ?” Drugstore đã liên kết với một công ty chuyên cung cấp dịch vụ với mức giá thấp và theo Raman, nếu như dịch vụ không chạy, Drugstore có thể chấm dứt mối quan hệ với công ty kia mà không hề có rủi ro gì. Còn về dịch vụ cho thú nuôi, Drugstore.com phát triển dịch vụ từ việc quan tâm sát sao tới khách hàng. Ông Raman cho biết “Chúng tôi nhận thấy nhiều mật khẩu (password) của khách hàng được đặt theo tên của các con vật nuôi. Ngoài ra, nhiều người cho biết, nếu Drugstore bày bán các loại thuốc chữa bệnh chấy rận cho thú nuôi thì họ sẵn sàng mua”. Drugstore nổi tiếng không chỉ vì có nhiều chủng loại sản phẩm – kể cả những mặt hàng nhỏ mà các cửa hàng không bày bán vì không đủ nhu cầu – mà còn vì cách thức họ bày hàng hoá và khiến việc tìm kiếm trở nên giản tiện hơn. Một nhà phân tích cho biết “Họ là một trong những công ty bán lẻ hàng đầu thế giới, xét về việc bày hàng. Họ biết rằng với hàng nghìn mặt hàng của mình, khách hàng không có thời gian để nhìn ngắm tất cả”. Thật đáng kỳ lạ khi ông Raman cho biết “Chúng tôi sẽ tiếp tục có những thông báo mới về việc mở rộng chủng loại hàng hoá trong thời gian tới”. Luận văn: Khát quát về Marketing điện tử tại Việt Nam
Amazon.com lại tiếp tục đưa ra những biện pháp mới để nâng cao hiệu qủa hoạt động trên web. Trước tiên, công ty này phá vỡ những rào cản đối với việc bán sách trên mạng và sau đó phát triển thành một siêu thị bán sách khổng lồ trên mạng, cung cấp hạ tầng bán hàng cho các công ty bán lẻ khác trên mạng và hiện nay đang dần thu được lợi nhuận.
Xuất phát ban đầu là một nhà buôn ít kinh nghiệm, sẵn sàng tham gia vào thế giới bán lẻ rộng lớn và dường như không mấy quan tâm tới lợi nhuận, giờ đây Amazon trở thành lão đại gia của giới bán lẻ trên mạng. Amazon là 1 điểm sáng trên bầu trời bán lẻ: Doanh thu và lợi nhuận hoạt động của họ liên tục gia tăng.
Theo đánh giá của Jupiter Research, “Sức mạnh của Amazon nằm ở khả năng bán lẻ và họ đang thực hiện rất tốt công việc thúc đẩy năng lực này”
Chính quá trình cải tiến công nghệ nền cho thương mại điện tử của mình và thực hiện các đơn hàng đã giúp Amazon tăng doanh thu đồng thời cắt giảm chi phí. Với việc sử dụng công nghệ nền đáng tin cậy của mình để cho thuê các cửa hàng trên mạng tới các đối tác của mình như Target Corp và Toys ‘R Us, Amazon đã thu được hiệu quả kinh tế từ quy mô. Ví dụ, do khả năng kiểm soát chặt chẽ chi phí vận tải hơn, Amazon gặp nhiều thuận lợi trong việc giao hàng miễn phí và có một chính sách giá vững mạnh hơn.
Một bí quyết khác của Amazon là gần đây, Amazon đã áp dụng một hệ thống tìm kiếm cho tất cả các chủng loại mặt hàng, của mình và của các đối tác. Hệ thống này do công ty Inktomi cung cấp, cho phép cập nhật các nội dung chi tiết về mặt hàng với tần suất 2 ngày/lần. Bên cạnh khả năng cung cấp cho khách hàng thông tin chính xác hơn, hệ thống tìm kiếm này cho phép Amazon nhanh chóng biết được kết quả của chính sách xúc tiến bán hàng.
Tóm lại, Amazon đang trong giai đoạn hoạt động thực sự chứ không còn chỉ ở bước phát triển công nghệ.
Sự hồi sinh của Buy.com là một trong những câu chuyện đáng nhắc tới trong lịch sử bán lẻ trên mạng. Tưởng như Buy.com đã sụp đổ khi một loạt các công ty dotcom tuyên bố phá sản vào đầu những năm 2000, thì bằng một loạt bước đi mạnh bạo đã mang lại cho Buy.com hơi thở của cuộc sống. Bí quyết đó là việc thực hiện các chính sách táo bạo như giao hàng miễn phí, cam kết bán hàng thấp hơn giá của Amazon cùng với những tấm biển quảng cáo lớn tại tờ báo Thời báo Phố Wall.
Tất cả những quyết định cương quyết này đã giúp doanh số của Buy.com tăng mạnh. Doanh thu bán sách tăng 500%, tổng doanh thu tăng 25% chỉ 1 tháng sau khi chính sách giao hàng miễn phí được công bố.
Hiện nay, Buy.com đang tiến hành đa dạng hoá kênh tuyên truyền về sản phẩm thông qua hệ thống TV cáp, chuyên phỏng vấn những nhân vật nổi tiếng đi kèm với một sản phẩm nào đó. Theo nhà phân tích Ken Cassar của Jupiter Research, việc lăng xê trên TV thực sự thu hút sự chú ý của lượng công chúng rộng lớn (điều mà website không thể làm được) và thu hút họ đến với website. Tuy nhiên, ông Cassar cũng tỏ ra thận trọng vì cho rằng việc sử dụng TV là quá tốn kém và rủi ro cao.
Tuy nhiên, ông Scott Blum, ông chủ của Buy.com, cho rằng lợi ích từ TV xứng đáng để ông bỏ tiền ra. Ông cho rằng, nếu mọi việc tiến hành trôi chảy, chỉ khoảng 25% doanh thu của Buy.com đến từ Internet trong vòng 3 năm tới. Tuy nhiên, không phải 75% còn lại đến từ TV mà qua một hệ thống nhận đơn hàng thông qua một trung tâm điện thoại. Trung tâm này được độc giả biết tới từ một tạp chí (gần như là một cuốn catalogue giới thiệu sản phẩm) trên mạng mà người dùng Internet có thể đọc và sau đó đặt hàng qua điện thoại.
eBay.com giống như một chú sử tử trẻ đột nhiên nhận ra mình còn có những sức mạnh chưa được khám phá, eBay.com đang quần thảo một mình trong rừng rậm. Trên thực tế, thậm chí eBay đang thực sự thay đổi cả cách mua hàng của người dùng trên mạng.
Tại một số chủng loại mặt hàng, eBay liên tục tự mình tạo ra các con số doanh thu đáng khâm phục: 3 tỷ USD với mặt hàng ô tô đã qua sử dụng, 2,2 tỷ USD đối với máy vi tính và đồ điện tử, 1,4 tỷ USD với đồ trang trí nội thất. Không những thế, theo Jeff Jordan, Phó Chủ tịch và nhà quản lý của eBay tại Mỹ, eBay sẽ cố mở rộng thêm chủng loại mặt hàng được bày bán trên site đấu giá lớn nhất thế giới này.
Điều cốt lõi đối với eBay là sắp xếp các mặt hàng mới theo những chủng loại phù hợp vì nó giúp khách hàng tìm kiếm mặt hàng họ muốn dễ dàng và nhanh chóng hơn. Cùng lúc đó, eBay còn chưa thoả mãn với một số lĩnh vực mà mình đang rất mạnh. Ông Jordan cho rằng “Thị trường xe hơi cũ ở Mỹ lên tới 400 tỷ USD/năm và 3 tỷ USD của chúng tôi thậm chí chưa đạt được 1% của số đó. Cơ hội vẫn còn rất lớn” eBay đang thắng lợi nhờ những lĩnh vực mà ban đầu công ty không hề nghĩ mình sẽ phục vụ. Chẳng hạn như doanh thu bán hàng của eBay tăng trưởng nhanh nhờ các hoạt động của các nhà sản xuất và bán lẻ khổng lồ như Home Depot, HP và IBM. Những công ty này thông qua eBay để bán hàng tồn kho thay vì tiến hành thanh lý như thường lệ. Chính điều này đã làm tăng uy tín của eBay vì người mua hàng thấy sự xuất hiện của các nhãn hiệu lớn tại đây.
Ngoài ra, sự đa dạng hoá dịch vụ cũng mang lại điều bất ngờ. Người bán và người mua đang bỏ qua sàn đấu giá truyền thống của eBay mà sử dụng dịch vụ Mua ngay !(Buy It Now) để mua bán trực tiếp. Các chuyên gia đều đồng ý là eBay sẽ tiếp tục tăng trưởng với số lượng người truy cập khổng lồ vào site eBay.com. Hiện eBay có tới 55 triệu người đăng ký trên toàn thế giới và số người truy cập vào site đạt khoảng 5,8 triệu người/tháng. Với sự hiện diện tại 40 quốc gia trên thế giới hiện eBay xử lý các giao dịch với trị giá lên tới 60 triệu USD mỗi ngày. Luận văn: Khát quát về Marketing điện tử tại Việt Nam
Ebags.com hiểu được sức mạnh của các nhãn hiệu. Họ chào bán trên 170 nhãn mác đồ dùng và hành lý nổi tiếng trên thế giới và kết quả hoạt động của Ebags.com gắn liền với sức mạnh của các công ty du lịch nổi tiếng như hãng hàng không Northwest Airlines và khách sạn Hilton.
Mối quan hệ này theo đúng như hoạt cảnh marketing mà các quan chức của Ebags từng tưởng tượng: Sau khi lên kế hoạch đi du lịch bằng máy bay và ăn nghỉ ở các khách sạn theo dịch vụ của site Expedia.com, du khách sẽ vào ở tại khách sạn Hilton và ở đây họ sẽ bắt gặp một tấm card mang nhãn hiệu của cả Hilton và eBags chào bán một loại hành lý nào đó. Sau khi quan sát logo của Ebags trên tấm card, du khách này sẽ nhớ ra rằng, biểu tượng này có cả ở trên site expedia.com lẫn site của Northwest Airlines. Nếu như trước đó du khách chưa hề nghe thấy tên của Ebags thì họ sẽ thấy rằng nó đi kèm với những công ty làm ăn tốt.
Ông Peter Cobb, Phó Chủ tịch marketing và là đồng sáng lập của Ebags phát biểu :”Khi họ tháo hành lý của mình ra và thấy rằng mình cần mua thêm hành lý, những nhãn hiệu nổi tiếng sẽ giúp chúng tôi có được khách hàng”. Nhờ mối quan hệ đối tác với nguyên tắc cùng chung nhãn hiệu với khách sạn DoubleTree và nhiều hãng hàng không tên tuổi khác, doanh thu của Ebags.com đã có được tốc độ tăng trưởng 40%/năm kể từ khi ra đời tháng 4/1999. Ngoài ra, Ebags cũng mở rộng phương cách tiếp cận thế giới bằng cuốn catalogue dày 40 trang được gửi tới 250.000 hộ gia đình.
Nhờ chiến dịch marketing rầm rộ và những nhãn hiệu nổi tiếng của các đối tác, mỗi tháng, có từ 1 – 2 triệu lượt khách viếng thăm website Ebags.com
Ngoài các cửa hàng bán lẻ nổi tiếng này, Mỹ còn là quốc gia hàng đầu trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ tìm kiếm với các công ty nổi tiếng như Google, Yahoo, MSN…Năm 2006 chứng kiến sự phát triển hàng loạt các dịch vụ của Google như Google Calendar, Google Checkout (một hệ thống thanh toán trực tuyến của Google) và các dịch vụ tin tức khác. Năm 2006 cũng là năm thành công của gã khổng lồ Google khi thực hiện một hợp đồng kinh doanh lớn với MySpace nhằm cung cấp dịch vụ tìm kiếm và quảng cáo trên trang web xã hội nổi tiếng này và đã mua lại trang web chia sẻ video trực tuyến lớn nhất trên thế giới YouTube. Còn đối với Yahoo thì năm 2006 cũng là năm của những hợp đồng lớn như hợp đồng với eBay đem đến cho Yahoo quyền sử dụng PayPal trong các dịch vụ của Yahoo và một bản hợp đồng với Microsoft cho phép người sử dụng của hai hệ thống nhắn tin nhanh được cho nhau.
Theo tính toán của hãng đầu tư Cowen (Mỹ), TMĐT tại Mỹ sẽ tiếp tục tăng 20% trong năm nay và đạt 225 tỷ trong năm 2011. Điều này có nghĩa là trong vòng năm nữa, thị trường Internet sẽ tăng từ 2,7% cuối năm 2006 lên 4,7% tổng số bán lẻ tại Mỹ.[18, tr. 64]
2.2.2. Tại các doanh nghiệp Nhật Bản
Nhật Bản là một trong những nước đứng đầu về công nghệ thông tin cũng như Internet ở Châu Á nói riêng và trên toàn thế giới nói chung. Là nước sớm nhận thức được tầm quan trọng của Internet đối với hoạt động kinh doanh, Nhật Bản đã tiến hành kết nối Internet vào tháng 9/1993. [31] Vào năm 2000, Chính phủ Nhật Bản đã quyết định chi khoảng 11 triệu Yên cho chiến lược “Cải cách chính sách nhằm phục hồi nền kinh tế Nhật Bản”, trong đó tập trung vào việc thúc đẩy sự phát triển của công nghệ thông tin. Kể từ đó đến nay, số người sử dụng internet tại Nhật Bản đã lên tới trên 81 triệu người, chiếm 64,31% dân số (đây là tỷ lệ số người sử dụng internet trên tổng số dân cao vào loại nhất nhì thế giới )
Dự kiến đến năm 2010, số người sử dụng Internet tại Nhật sẽ đạt con số 94 triệu người, chiếm 74% dân số. [30] Các số liệu này cho thấy Nhật Bản đang là quốc gia có tiềm năng rất lớn cho việc ứng dụng Marketing trực tuyến và thực hiện các chiến lược thâm nhập thị trường trực tuyến Luận văn: Khát quát về Marketing điện tử tại Việt Nam
Hiện nay tại Nhật Bản có rất nhiều công ty kinh doanh trực tuyến rất thành công như Nikkei, NTT DoCoMo, Asahi.com, ValueCommerce, TKAI, Acara và BIGlobe, Yahoo! Japan…[32]
Năm vừa qua chứng kiến sự hợp tác giữa hai công ty lớn của Nhật Bản là McDonald’s Holdings và NTT DoCoMo nhằm thúc đẩy hoạt động Marketing điện tử dựa trên nền tảng dịch vụ ví điện tử DoCoMo Osaifu-Keitai. Hai công ty sẽ cùng nhau lập kế hoạch và quản lý các hoạt động Marketing điện tử tới các thành viên của câu lạc bộ McDonald’s và giới thiệu nền tảng DoCoMo’s ID cho dịch vụ thẻ tín dụng sử dụng tại các cửa hàng của McDonald’s. Sự hợp tác này cũng nhằm hướng tới việc tung ra thị trường các dịch vụ trên nền tảng Marketing điện tử đến cho khách hàng của cả DoCoMo và MaDonald’s.
Công ty TKAI, Inc. (một công ty chuyên về tư vấn TMĐT của Nhật Bản) cũng đã kinh doanh rất phát đạt với việc nhận được nhiều yêu cầu về dịch vụ và tăng trưởng mạnh trong suốt 7 năm vừa qua. Ông Tim Clark, chủ tịch hãng công ty TKAI, Inc đã cho biết “Doanh thu của chúng tôi sẽ tăng 250% trong năm nay và thu nhập ròng của chúng tôi sẽ tăng gấp hơn 20 lần. Chúng tôi đã thu được lợi nhuận kể từ khi mới bắt đầu thành lập nhưng doanh thu lúc đó của chúng tôi còn khá khiêm tốn”
Nói tới các công ty kinh doanh trong lĩnh vực Marketing điện tử của Nhật không thể không nói đến công ty ValueCommerce, một nhà cung cấp dịch vụ Marketing điện tử khá nổi tiếng của Nhật Bản hiện nay. Công ty này chuyên về ba lĩnh vực là liên kết quảng cáo trực tuyến, tìm kiếm thông tin và tạo dựng cơ sở hạ tầng công nghệ. Đây là một trong những công ty cung cấp dịch vụ Marketing trực tuyến lớn nhất Nhật Bản với khả năng quảng cáo tới 330 mục mỗi ngày và đưa thông tin quảng cáo tới 50% lượng người sử dụng Internet tại Nhật Bản.
Ngoài ra có thể kể đến công ty Yahoo!JAPAN, một công ty cung cấp cổng Internet cho khoảng 38,79 triệu người sử dụng mỗi tháng và có khoảng 1.030 triệu người tra cứu trang web này mỗi ngày. Công ty này chuyên hoạt động trong lĩnh vực tìm kiếm thông tin, TMĐT, và dữ liệu số.
Các nhà kinh doanh và người tiêu dùng Nhật Bản hiện nay thường gặp khó khăn khi tham gia vào việc giao dịch trực tuyến do sự bất đồng về ngôn ngữ (không nhiều người Nhật biết tiếng anh) và sự bất đồng về văn hóa, cách thức kinh doanh và các quy định phức tạp về xuất nhập khẩu…Số lượng người có thể hiểu tiếng anh trong kinh doanh trực tuyến chỉ chiếm khoảng 1% trên tổng số dân của Nhật Bản. Do vậy để có thể phát triển tại thị trường này thì đòi hỏi các doanh nghiệp thường phải xây dựng các website với ngôn ngữ chủ yếu là tiếng Nhật.
2.2.3. Tại các doanh nghiệp EU Luận văn: Khát quát về Marketing điện tử tại Việt Nam
Nhờ có cơ sở kỹ thuật vững vàng và hệ thống viễn thông hiện đại, các nước EU đã đạt được khá nhiều thành tựu trong việc phát triển hoạt động marketing internet. Tuy nhiên, hoạt động marketing ở các nước thuộc liên minh Châu Âu có một số đặc điểm khác biệt so với ở Mỹ. Ví dụ như, các website của các công ty Châu Âu được thiết kế chủ yếu phục vụ cho hoạt động trao đổi buôn bán giữa các doanh nghiệp trong khi đó ở Mỹ chủ yếu theo hướng doanh nghiệp – người tiêu dùng. Ngoài ra, do đặc trưng về văn hoá và ngôn ngữ, một số các trang web ở Châu Âu có sử dụng 2 ngôn ngữ hoặc nhiều hơn.
Hoạt động marketing internet ở Châu Âu đặc biệt được ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực như công nghiệp ô tô, chế biến kim loại, điện tử, hoá chất…[19] Riêng trong ngành công nghiệp ô tô, các hãng ô tô của Đức dường như tích cực tham gia vào hoạt động marketing internet nhất, trong đó có cả những hãng có tên tuổi như Daimler – Chrysler, BMW…
Năm nay (2007) theo ước tính của eMarketer ( một công ty chuyên nghiên cứu thị trường trên Internet) thì có khoảng 136,1 triệu người châu Âu nối mạng tại 5 nước lớn nhất châu Âu là Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha và Anh – và các nhà quảng cáo sẽ tiêu khoảng 7,5 tỷ đô để tiếp cận được với tất cả các khách hàng trên toàn khu vực Tây Âu, tăng 25% so với năm ngoái. Theo phân tích của “Europe Online Advertising” thì có rất nhiều yếu tố đa dạng đã tác động tới tăng trưởng quảng cáo trên Internet tại châu Âu. Tất nhiên, việc sử dụng Internet đang tăng lên nhanh chóng tại các nước châu Âu. Có tới 45% người sử dụng Internet tại Châu Âu vào mạng hàng ngày và sử dụng tới 11 giờ 20 phút lên mạng mỗi tuần, so với 10 giờ và phút mỗi tuần vào năm 2005. Dân số trẻ châu Âu đang đóng vai trò là lực lượng thúc đẩy Internet phát triển tại khu vực này với hơn 3/4 dân số từ độ tuổi 16-24 sử dụng Internet hàng ngày. Khu vực Tây Âu cũng là khu vực dẫn đầu thế giới trong việc đăng ký sử dụng dịch vụ broadband (băng thông rộng), 27% so với 24% của khu vực Bắc Mỹ. [35]
Theo báo cáo từ cơ quan nghiên cứu Internet của châu Âu, Pro Active International, dân số Internet ở châu Âu đã đạt đến con số 10,78 triệu người. Với tổng số dân châu Âu là 31,8 triệu người, mật độ sử dụng Internet đạt mức 34%, trong đó những người sử dụng thường xuyên đạt tới 24% (7,6 triệu người). Số người sử dụng cụ thể của từng nước cho thấy 74% dân số Thụy Điển, 76% dân số Ailen, 54% dân số Đan Mạch, 53% dân số Phần Lan, 77% dân số Thụy Sỹ, 48% dân số Hà Lan, 55% dân số Anh, 40% dân số Áo, 57% dân số Đức, 33% dân số Tây Ban Nha và 32% dân số Pháp sử dụng Internet. Các nước Bắc Âu chiếm lĩnh bốn vị trí đầu tiên. Báo cáo cho thấy Internet đang nhanh chóng chở nên phổ biến ở châu Âu, với số lượng người sử dụng Internet phát triển nhanh nhất trên thế giới. Điều này có được là do “Châu Âu đã tự do hóa thị trường viễn thông nên một ngành cung cấp dịch vụ Internet mở sẽ nhanh chóng trở thành hiện thực. Cước phí viễn thông cao mà trước đây thường ngăn cản sự phát triển của Internet sẽ giảm xuống và mật độ người sử dụng Internet sẽ bùng nổ” [16, tr. 43] Luận văn: Khát quát về Marketing điện tử tại Việt Nam
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: