Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Khái quát về nghiên cứu thanh khoản cổ phiếu hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Nghiên cứu tác động thanh khoản cổ phiếu đến đầu tư của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.1. Thanh khoản và đầu tư
2.1.1. Thanh khoản
Thanh khoản là một khái niệm phức tạp trong kinh tế học. Có nhiều định nghĩa tính thanh khoản, trong đó định nghĩa được chấp nhận rộng rãi nhất là chỉ mức độ mà một tài sản hoặc chứng khoán được mua hoặc bán trên thị trường mà không ảnh hưởng đến giá trị tài sản. Một tài sản có tính thanh khoản cao nếu nó có thể bán nhanh chóng mà không bị giảm giá. Thanh khoản được đặc trưng bởi khối lượng giao dịch. Luận văn: Khái quát về nghiên cứu thanh khoản cổ phiếu
Theo Amihud, Mendelson và Pedersen (2005), thị trường thanh khoản giúp việc kinh doanh chứng khoán được dễ dàng, vì thế nó là một trong những yếu tố chính nhà đầu tư dựa vào khi ra quyết định đầu tư. Bởi vì nhờ có tính thanh khoản mà nhà đầu tư khi đầu tư vào các tài sản có tính thanh khoản cao thì sẽ dễ dàng thu hồi vốn đầu tư hơn.
Phương pháp đo tự nhiên nhất của tính thanh khoản là chênh lệch giá hỏi mua và giá chào bán. Theo Amihud (2002), đối với một thị trường vốn phát triển, thước đo tốt nhất và lâu đời nhất của tính thanh khoản là chênh lệch giá hỏi mua – giá chào bán. Trong thị trường này, các nhà tạo lập thị trường, các công ty hoặc cá nhân đặt giá mua hoặc bán chứng khoán cố gắng để thu thập lợi nhuận từ chênh lệch giá hỏi mua – giá chào bán. Nếu các nhà tạo lập thị trường đặt giá quá cao, họ có thể tích lũy cổ phiếu, ngược lại nếu họ đặt giá quá thấp sẽ gây ra sự thiếu hụt cổ phiếu. “Chênh lệch” phải đủ lớn để bù đắp chi phí và đem lại một lợi nhuận hợp lý cho các nhà tạo lập thị trường. Người ta so sánh các mức chênh lệch đó giữa các công ty với nhau để thu thập về tính thanh khoản. Nếu chênh lệch này nhỏ, tức là tài sản này vừa dễ bán, mà tổng khối lượng giao dịch thường rất lớn nên giao dịch mua hay bán của một cá nhân nhà đầu tư không ảnh hưởng đến giá cả thị trường. Tuy nhiên đối với các thị trường mới nổi, chênh lệch giá hỏi mua và giá chào bán thường không có sẵn, do đó không thể áp dụng phương pháp này để đo lường tính thanh khoản. Có bốn yếu tố quan trọng để xác định tính thanh khoản (Wyss 2004), thứ nhất đó là thời gian giao dịch hay khả năng thực thi ngay của các giao dịch tại mức giá hiện tại, thứ hai là mức độ khó khăn của việc mua hoặc bán cổ phiếu tại cùng một thời gian và một mức giá, thứ ba là khả năng mua hoặc bán chứng khoán mà không ảnh hưởng đến sự tăng trưởng hay suy giảm của giá chứng khoán và cuối cùng là khả năng phục hồi khả năng mua hoặc bán một khoản chứng khoán nhất định mà không ảnh hưởng đến giá chứng khoán. Dựa vào các đặc điểm này, có nhiều học giả đã đưa ra nhiều phương pháp đo lường khác nhau. Trong đó Phương pháp phổ biến nhất là sử dụng các tỷ số khối lượng giao dịch (Trading volume). Amihud (2002) cho rằng, khối lượng giao dịch trong quá khứ có thể cung cấp những thông tin quan trọng về cổ phiếu. Phương pháp khối lượng giao dịch là cố gắng biết được thông tin số lượng cổ phiếu để đo được mức độ tính thanh khoản và sự gia tăng của tính thanh khoản. Một cổ phiếu có khối lượng giao dịch lớn thì có tính thanh khoản hơn, và có “độ chêch lệch” nhỏ hơn. Dưới đây là một số phương pháp đo lường tính thanh khoản thường được sử dụng.
Theo Siniša Bogdan và cộng sự (2012) đã tính toán tính thanh khoản bằng lượng giao dịch hằng ngày Turnover (VK). Turnover (VK) được tính toán bằng giá cả cổ phiếu nhân với khối lượng giao dịch trong mỗi ngày của mỗi cổ phiếu. Công thức tính như sau:
VK bằng giá cả pn trong giao dịch n tại thời gian t nhân với số lượng cổ phiếu giao dịch vn trong giao dịch n, Nt là số lượng giao dịch tại thời gian t.
Tunover đôi lúc còn được tính toán bằng tổng số lượng cổ phiếu giao dịch chia cho tổng số cổ phiếu phát hành, đó được gọi là tổng lượng giao dịch (aggregate turnover AT (Lo và cộng sự, 2000). Trong công thức này, vit là khối lượng cổ phiếu giao dịch của cổ phiếu i tại thời gian t và Ii là tổng số lượng cổ phiếu phát hành của cổ phiếu i. Giá trị này càng cao thì cổ phiếu này càng có tính thanh khoản.
Một thước đo khác của Amihud được gọi là ILQ. Đây là giá trị tuyệt đối của tỷ số tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu trên khối lượng giao dịch của cổ phiếu đó hằng ngày, lấy trung bình trong một khoảng thời gian. Đó cũng là phương pháp đo lường thô của tác động của giá cả (Amihud 2002).
Ridy là lợi nhuận của cổ phiếu i vào ngày d của năm y. VKidy đại diện cho khối lượng giao dịch của cổ phiếu. Diy là số ngày mà dữ liệu có sẵn cho cổ phiếu i trong năm y.
Thước đo tiếp theo là tỷ lệ thanh khoản được gọi là phương pháp Amivest của thanh khoản hoặc tỷ lệ thanh khoản (LR), liên quan đến sự thay đổi đơn vị trong giá cả chứng khoán, tỷ lệ này càng cao cho thấy thanh khoản thị trường càng cao (Amihud, và cộng sự, 1997). Tỷ số Amivest theo một khái niệm rằng một lượng lớn chứng khoán của một cổ phiếu có tính thanh khoản có thể được giao dịch mà không có bất kỳ thay đổi quan trọng nào trong giá cổ phiếu.
VKid là khối lượng giao dịch hằng ngày, Rid là lợi nhuận của cổ phiếu i trong ngày d. Nhiều mục đích của phương phát đo lường tính thanh khoản này là giải thích lượng giao dịch liên kết với 1% thay đổi trong giá cả hoặc so sánh khối lượng giao dịch trên trị tuyệt đối của thay đổi giá cả suốt trong một thời kỳ. Nói cách khác chỉ số này có nghĩa là cần bao nhiêu khối lượng giao dịch để làm tăng hoặc giảm 1% giá cả cổ phiếu.
Một phương pháp khác là tỷ lệ thanh khoản 2 (LR2) của Ranaldo (2000), ông tính vốn hóa cổ phiếu và số lượng cổ phần thuộc sở hữu của công ty. Nó được thể hiện bằng công thức sau:
(I-Ic) đại diện cho số lượng cổ phần và số lượng của phần được công ty nắm giữ, các biến còn lại của công thức cũng tương tự như các công thức tính phía trên.
Francisco Muñoz đo lường tính thanh khoản theo khối lượng giao dịch. Thước đo này được tạo ra bằng cách sử dụng dữ liệu hàng ngày về số lượng cổ phiếu được giao dịch và tổng số cổ phiếu của công ty. Phương pháp được tính theo công thức sau:
Trong đó DQ là số ngày giao dịch trong quý. Traded Sharest là số lượng cổ phiếu giao dịch và total Shares là tổng số lượng cổ phiếu phát hành của công ty.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế
2.1.2. Đầu tư
Đầu tư là sự bỏ ra, sự hy sinh những nguồn lực ở hiện tại (tiền, sức lao động, của cải vật chất, trí tuệ …) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho chủ đầu tư trong tương lai. Nói cách khác, đầu tư một tài sản được mua với hy vọng rằng nó sẽ tạo ra thu nhập hay đánh giá cao trong tương lai. Trong một ý nghĩa kinh tế, đầu tư là việc mua hàng không phải là tiêu thụ hiện nay nhưng được sử dụng trong tương lai để tạo ra của cải. Trong tài chính, đầu tư là một tài sản tiền tệ được mua với ý tưởng rằng các tài sản sẽ cung cấp thu nhập trong tương lai hay đánh giá cao và được bán với giá cao hơn.
Thông thường, các nghiên cứu về các công ty ở Mỹ sử dụng chi tiêu vốn (capital expenditure) là thước đo của đầu tư. Tuy nhiên, trong trường hợp ở các thị trường mới nổi, dữ liệu này không được các công ty công bố. Do đó trong các bài nghiên cứu khác ở các quốc gia có thị trường mới nổi, các tác giả sử dụng tài sản cố định để tính toán chi tiêu vốn. Trong bài nghiên cứu của mình năm 2012, Francisco Muñoz sử dụng ba thước đo để có được ước lượng chính xác về đầu tư của công ty.
Ba thước đo lần lượt là tăng trưởng tổng tài sản, sự tăng trưởng tài sản cố định, tăng trưởng trong hàng tồn kho
2.2. Tác động của tính thanh khoản đến đầu tư Luận văn: Khái quát về nghiên cứu thanh khoản cổ phiếu
Các bằng chứng thực nghiêm cho thấy có các luồng ý kiến khác nhau về tác động của tính thanh khoản lên đầu tư của công ty, Theo Francisco Muñoz (2012) có thể phân chia các luồng ý kiến thành ba nhóm như sau: tính thanh khoản có tác động cùng chiều lên đầu tư, tính thanh khoản có tác động ngược chiều lên đầu tư và tính thanh khoản có tác động lên đầu tư nhưng không đưa ra dấu cụ thể.
2.2.1. Thanh khoản của cổ phiếu tác động cùng chiều đến đầu tư
Với ý kiến cho rằng thanh khoản của cổ phiếu có tác động cùng chiều đến đầu tư, các tác giả tập trung vào hai lập luận chính liên quan đến chi phí phát hành và định giá sai để giải thích tác động này.
Đầu tiên, với lập luận liên quan đến chi phí phát hành, trong bài nghiên cứu “Tính thanh khoản của thị trường chứng khoán và chi phí phát hành cổ phần” của Butler và cộng sự (2005) cho thấy rằng thanh khoản của thị trường chứng khoán là một yếu tố quyết định quan trọng của chi phí huy động vốn bên ngoài. Theo các tác giả, khi doanh nghiệp tiếp cận thị trường vốn bên ngoài tính thanh khoản của cổ phiếu ảnh hưởng đến chi phí giao dịch, cụ thể là phí của ngân hàng đầu tư liên quan đến việc phát hành cổ phiếu mới. Khi ngân hàng đầu tư bảo lãnh cho việc phát hành cổ phiếu mới, ngân hàng chịu nhiều rủi ro như rủi ro không bán hết cổ phiếu, chi phí chìm trong việc tìm ra các nhà đầu tư và xử lý các giao dịch. Đối với công ty đã có cổ phiếu lưu hành trên thị trường và cổ phiếu có thanh khoản cao hơn, thì các ngân hàng dễ dàng hơn trong việc phát hành thêm cổ phiếu mới và giảm các chi phí trung gian. Việc thực hiện phát hành cổ phiếu trong thị trường có thanh khoản tốt sẽ dễ dàng hơn so với việc phát hành một cổ phiếu trong thị trường thanh khoản thấp, do đó ngân hàng sẽ tính phí phát hành thấp hơn. Bài nghiên cứu sử dụng mẫu bao gồm 2.387 công ty niêm yết trên các sàn chứng khoán Nasdaq, Amex, và NYSE trong suốt giai đoạn từ 1993 – 2000, sử dụng phương pháp ước lượng OLS để kiểm tra mối liên hệ giữa tính thanh khoản của cổ phiếu đến chi phí phát hành. Kết quả nghiên cứu cho thấy, đối với các công ty có cổ phiếu thanh khoản cao, chi phí đầu tư của ngân hàng là thấp hơn đáng kể. Các tác giả ước tính rằng sự khác biệt trong chi phí ngân hàng đầu tư cho các công ty trong nhóm thanh khoản cao nhất so với các nhóm thanh khoản thấp nhất là khoảng 101 điểm cơ bản, hay 21 phần trăm của các khoản phí ngân hàng đầu tư trung bình trong mẫu nghiên cứu. Các ngân hàng đầu tư tính lệ phí phát hành thấp hơn cho các công ty có cổ phiếu thanh khoản hơn bởi vì một công ty có cổ phiếu thanh khoản cao thì dễ dàng phát hành cổ phần hơn công ty có cổ phiếu thanh khoản thấp. Do đó công ty có cổ phiếu thanh khoản cao thì sẽ dễ dàng phát hành cổ phiếu và công ty sử dụng nguồn tài chính này để đầu tư nhiều hơn. Luận văn: Khái quát về nghiên cứu thanh khoản cổ phiếu
Thêm vào đó, Lipson và Mortal (2009) trong bài nghiên cứu “Tính thanh khoản và cấu trúc vốn” cũng tìm thấy bằng chứng thực nghiệm chứng tỏ rằng những công ty có cổ phiếu thanh khoản cao thường có chi phí phát hành thấp hơn, do đó, những công ty này sử dụng nguồn vốn từ việc phát hành cổ phiếu để đầu tư đồng thời có một mức đòn bẩy thấp hơn.
Thứ hai, với lập luận liên quan đến việc định giá sai giá trị cổ phiếu, Gilchrist và cộng sự trong bài nghiên cứu “Bong bóng giá cổ phiếu có tác động đến đầu tư của công ty” năm 2005 giả định nhu cầu của nhà đầu tư đối với cổ phiếu sẽ dẫn đến chênh lệch của giá cổ phiếu và giá trị của nó. Tác giả tập trung vào dự báo mối quan hệ nhân quả giữa mức độ phân tán ý kiến của nhà đầu tư và phát hành cổ phiếu, Tobin’s Q và đầu tư của các công ty niêm yết trên sàn NYSE và Nasdaq trong giai đoạn từ năm 1986 – 2000. Tác giả đã xây dựng một mô hình trong đó sự gia tăng trong chỉ số thể hiện sự phân tán trong niềm tin nhà đầu tư và những hạn chế bán khống có thể dẫn đến bong bóng giá trên thị trường chứng khoán, tức là giá cổ phiếu tăng vượt quá giá trị cơ sở của nó. Mô hình dựa trên ý tưởng là hầu hết các chứng khoán được theo dõi bởi hơn một nhà phân tích và những nhà phân tích này hiếm khi đạt được sự đồng thuận trong dự báo của họ về mức thu nhập trong tương lai của công ty. Vì vậy các tác giả sử dụng phương sai của thu nhập dự kiến mà các
nhà phân tích đưa ra để đại diện cho sự phân tán niềm tin nhà đầu tư về giá trị nội tại của công ty. Kết quả thực nghiệm của nghiên cứu cho thấy rằng việc gia tăng sự phân tán niềm tin của các nhà đầu tư làm gia tăng phát hành cổ phiếu mới, Tobin’s Q, và đầu tư. Các tác giả lập luận rằng các công ty có thể lợi dụng bong bóng giá bằng cách phát hành cổ phiếu mới với giá cao, điều này làm giảm chi phí vốn và tăng chi tiêu vốn, tăng đầu tư.
Không giống như các mô hình trước đây dựa trên phát hành chứng khoán để đầu tư, Polk và Sapienza (2009) trong bài nghiên cứu “Thị trường cổ phiếu và đầu tư của doanh nghiệp: Kiểm tra lý thuyết Catering” trình bày một mô hình lý thuyết có liên quan tới việc định giá sai cổ phiếu tác động đến đầu tư, mà không quan tâm đến phát hành cổ phiếu. Polk và Sapienza thực hiện nghiên cứu thực nghiệm trên mẫu các công ty Mỹ trong giai đoạn 1963 – 2000, với hầu hết các dữ liệu được lấy từ cơ sở dữ liệu của Compustat, loại bỏ các công ty có số liệu về giá trị sổ sách của tài sản, số liệu về vốn và đầu tư âm, doanh thu bán hàng nhỏ hơn 10 triệu USD. Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp ước lượng bình phương bé nhất, với yếu tố tác động cố định công ty và yếu tố tác động cố định thời gian (
Kết quả bài nghiên cứu chỉ ra rằng quyết định đầu tư của một công ty bị tác động bởi việc định giá sai cổ phiếu ngay cả khi các dự án đầu tư không được tài trợ bằng việc phát hành cổ phiếu mới. Cứ 1% thay đổi trong chỉ số đại diện cho việc định giá sai sẽ dẫn đến 2% thay đổi trong đầu tư. Kết quả cũng chỉ ra rằng công ty có hệ số Tobin’s Q cao hơn thì đầu tư nhiều hơn. Cứ 1% thay đổi trong Q sẽ dẫn đến 0,05% thay đổi trong đầu tư. Tác giả lập luận rằng cho rằng lợi nhuận giữ lại mới là nguồn vốn chính để đầu tư chứ hiếm khi nguồn vốn từ phát hành cổ phiếu mới được dùng cho đầu tư. Mô hình giả định thời gian của việc định giá sai là khá dài, trong khi đó nhà đầu tư chỉ gắn bó với công ty trong thời gian ngắn. Các tác giả cho thấy trong một kịch bản mà giá cổ phiếu được định giá quá cao, sự giàu có của “các bên liên quan” sẽ phụ thuộc vào việc định giá quá giá trị chứng khoán. Vì người quản lý sẽ quyết định mức vốn đầu tư tối ưu để tối đa hóa sự giàu có của “các bên liên quan”, do đó việc định giá quá cao giá sẽ dẫn đến một mức vốn đầu tư cao hơn.
Trong bài nghiên cứu “Tính thanh khoản và đầu tư của công ty, bằng chứng của các nước ở Mỹ Latin” của Francisco Muñoz (2012), tác giả dựa trên mô hình của Miller (1977) và nghiên cứu của Hong và Stein (2007) để suy ra mối quan hệ cùng chiều giữa khối lượng giao dịch và đầu tư của doanh nghiệp. Trong mô hình của Miller, trong điều kiện hạn chế bán khống và các nhà đầu tư có kỳ vọng khác nhau về lợi nhuận trên đầu tư. Ví dụ một nhà đầu tư quá lạc quan, anh ta sẽ đưa nhiều thông tin cá nhân vào giá chứng khoán hơn là các thông tin thị trường. Vì có các ràng buộc về bán khống, những nhà đầu tư bi quan (những người kỳ vọng lợi nhuận trên tài sản thấp) còn lại sẽ ra khỏi thị trường và giá cả phản ánh việc định giá của các nhà đầu tư lạc quan (những người kỳ vọng lợi nhuận trên tài sản cao). Trong bối cảnh này, các công ty phải quyết định phát hành bao nhiêu cổ phiếu để tài trợ cho dự án của mình. Công ty cho rằng có một sự khác biệt ý kiến giữa các nhà đầu tư, và nhu cầu đối với cổ phiếu sẽ bị ảnh hưởng một cách cùng chiều bởi những bất đồng này. Do đó, số lượng cổ phiếu mà công ty quyết định phát hành và tổng mức đầu tư sẽ phụ thuộc và có mối quan hệ cùng chiều vào sự khác biệt về quan điểm này giữa các nhà đầu tư. Mặc khác, bài nghiên cứu “Sự bất đồng ý kiến và thị trường cổ phiếu” của Hong và Stein phát triển từ lý thuyết về thanh khoản thị trường chứng khoán đã chứng minh rằng bất đồng ý kiến giữa các nhà đầu tư có thể giải thích bằng các mẫu quan sát về khối lượng giao dịch trên thị trường chứng khoán. Sadka và Scherbina (2007) tán đồng việc sử dụng khối lượng giao dịch làm đại diện cho sự bất đồng quan điểm. Nhóm tác giả đã chỉ ra rằng các công ty mà bất đồng giữa các nhà phân tích về lợi nhuận trong tương lai của công ty càng cao thì cũng có khối lượng giao dịch càng cao, do đó hiện có một mối tương quan cùng chiều giữa khối lượng giao dịch và sự bất đồng quan điểm giữa các nhà phân tích. Như vậy khối lượng giao dịch như là một chỉ báo của sự bất đồng quan điểm và nó tác động đến đầu tư. Sử dụng kết quả này và dự đoán của mô hình Miller; Francisco Muñoz cho rằng các bất đồng của các nhà đầu tư càng cao liên quan đến khối lượng giao dịch càng cao, tạo ra một mối quan hệ cùng chiều giữa khối lượng giao dịch và đầu tư của doanh nghiệp.
Nghiên cứu thực nghiệm của Francisco Muñoz về mối quan hệ giữa tính thanh khoản và đầu tư của các công ty của bốn quốc gia Mỹ la tinh (Argentina, Brazil, Chile và Mexico) trong giai đoạn 1990 – 2010 cũng đã tìm ra bằng chứng cho thấy những công ty có tính thanh khoản cao thì có đầu tư cao hơn. Tác giả sử dụng phương pháp hồi quy với biến công cụ. Kết quả hồi quy cho thấy hệ số mang dấu dương và có ý nghĩa thống kê khi sử dụng lần lượt cả ba phương pháp đo lường đầu tư ở độ trễ 1, 2 và 3 năm. Kết quả về dấu và ý nghĩa tương tự khi sử dụng tỷ lệ khối lượng giao dịch của công ty i trên khối lượng giao dịch trung bình ngành làm thước đo tính thanh khoản. Điều này cho thấy tính thanh khoản có tác động cùng chiều đến đầu tư. Ngoài ra tác giả đưa thêm vào mô hình các biến tính thanh khoản tương tác với công ty phát hành cổ phiếu, tính thanh khoản tương tác với biến giả phân biệt công ty có hoặc không có hạn chế tài chính, tính thanh khoản tương tác với biến giả phân biệt công ty giá trị và công ty tăng trưởng để kiểm tra cách thức và tác động của tính thanh khoản đến đầu tư. Kết quả hồi qui cũng tìm thấy bằng chứng cho thấy rằng tác động của tính thanh khoản của cổ phiếu lên đầu tư được thể hiện rõ ràng hơn đối với những công ty phát hành thêm cổ phiếu mới, trong trường hợp công ty có nhiều hạn chế tài chính và công ty có nhiều cơ hội đầu tư.
2.3. Thanh khoản của cổ phiếu tác động ngược chiều đến đầu tư Luận văn: Khái quát về nghiên cứu thanh khoản cổ phiếu
Bên cạnh cách ý kiến cho rằng thanh khoản của cổ phiếu có tác động cùng chiều đến đầu tư, một số ý kiến cũng lập luận rằng thành khoản có tác động ngược chiều đến đầu tư dựa trên lý thuyết về bất cân xứng thông tin.
Trong bài nghiên cứu “Thị trường vốn hiệu quả, công ty không hiệu quả: một mô hình về hành vi thiển cận trong quản lý doanh nghiệp” năm 1989 của Stein phát triển mô hình lý thuyết về vấn đề này dựa vào hành vi quản lý không hiệu quả của thị trường hiệu quả. Ý tưởng cơ bản của nghiên cứu là thị trường chứng khoán sử dụng thu nhập để đưa ra một dự báo hợp lý về giá trị công ty. Stein cho thấy sự hiện diện của thông tin bất đối xứng giữa nhà quản lý và các nhà đầu tư, có thể gây ra áp lực làm cho các nhà quản lý phải hy sinh hiệu quả hoạt động của công ty trong dài hạn (như đầu tư) vì mức lợi nhuận cao hơn ở hiện tại để giữ cho cổ phiếu khỏi bị đánh giá thấp.
Bên cạnh đó, Porter (1992) cho rằng do chi phí giao dịch thấp hơn, những cổ phiếu có tính thanh khoản cao tạo điều kiện tốt hơn cho việc gia nhập hoặc rút rui của nhà đầu tư tổ chức, những người giao dịch dựa trên thông tin về lợi nhuận hiện tại và do đó các giao dịch này có thể dẫn đến định giá sai và ít đầu tư vào đổi mới (đầu tư dài hạn).
Fang và cộng sự (2012) trong bài nghiên cứu “ Tính thanh khoản của cổ phiếu thúc đẩy hay cản trở đổi mới công ty” nghiên cứu về mối quan hệ của thị trường chứng khoán và sự “đổi mới” của doanh nghiệp (liên quan đến việc đầu tư dài hạn). Bài nghiên cứu được thực hiện cho mẫu bao gồm các công ty niêm yết trên ba sàn NYSE, AMEX và NASDAQ trong giai đoạn từ 1994 đến 2005. Phương pháp hồi quy được sử dụng là Mô hình hồi quy yếu tố cố định Poolde.
Kết quả hồi qui cho thấy hệ số b có dấu dương và có ý nghĩa thống kê cho thấy rằng tính thanh khoản của cổ phiếu tăng làm cho các nhà đầu tư dễ dàng bán cổ phiếu nếu nhà đầu tư không hài lòng với hiệu quả hoạt động của công ty, hoặc tính thanh khoản cao thu hút các nhà đầu tư thời gian ngắn, những người theo đuổi lợi nhuận hiện tại của công ty. Kết quả thực nghiệm còn cho thấy tác động ngược chiều của tính thanh khoản của cổ phiếu lên đầu tư dài hạn giảm bớt đối với các công ty với quản lý chặt chẽ và càng được khuếch đại trong các công ty có lợi nhuận thấp.
2.4. Thanh khoản của cổ phiếu có tác động đến đầu tư nhưng không dự đoán cùng chiều hay ngược chiều Luận văn: Khái quát về nghiên cứu thanh khoản cổ phiếu
Nhóm ý kiến thứ ba cho rằng thanh khoản của cổ phiếu có tác động đến đầu tư nhưng không đưa ra kết luận là tác động cùng chiều hay ngược chiều. Những nghiên cứu này dựa trên mô hình liên quan đến vấn đề đại diện và vấn đề thông tin trong giá chứng khoán.
Trong bài nghiên cứu của Maug (1998), tác giả cho rằng tính thanh khoản của thị trường chứng khoán tạo điều kiện thuận lợi cho các cổ đông lớn nắm quyền chi phối các công ty trên thị trường. Kết quả nghiên cứu dự đoán các hoạt động giám sát bởi các nhà đầu tư sẽ nhiều hơn trong các công ty tính thanh khoản cao hơn. Do đó, thị trường có tính thanh khoản cao có xu hướng hỗ trợ cho việc quản lý doanh nghiệp tốt hơn, từ đó hoạt động của đầu tư sẽ hiệu quả hơn.
Tương tự, Khanna và Sonti (2004) trong bài nghiên cứu “Thao túng giá trị chứng khoán: phản hồi tác động của giá cổ phiếu lên giá trị công ty” cho thấy tính thanh khoản có thể có mối quan hệ cùng chiều đến hiệu quả hoạt động của công ty và có thể tạo điều kiện để hoạt động đầu tư của công ty hiệu quả hơn. Điều này cho thấy cổ phiếu có tính thanh khoản cao kích thích sự tham gia của các nhà đầu tư có thông tin, làm cho giá cả chứa đựng nhiều thông tin hơn cho “các bên liên quan”, do đó cải thiện kết quả hoạt động của công ty và nới lỏng hơn các ràng buộc về tài chính. Giá cổ phiếu cao cũng là dấu hiệu cải thiện kỳ vọng của các nhà quản lý công ty, tác động đến quyết định đầu tư của họ và giá trị của công ty. Phản hồi từ giá chứng khoán đến giá trị công ty làm phức tạp quyết định giao dịch của các cổ đông lớn, khi họ giao dịch giống như sự thay đổi của giá cả.Tất cả các mô hình tiếp cận các mối quan hệ giữa thanh khoản và đầu tư, nhưng họ không dự đoán một dấu hiệu cụ thể cho mối quan hệ như vậy.
Trong cùng một lập luận, Edmans (2009), Edmans và cộng sự (2011) trong bài nghiên cứu của mình đã lập luận tác động tính thanh khoản của cổ phiếu có tác động đến đầu tư liên quan đến lý thuyết về chi phí đại diện và bất cân xứng thông tin. Bài nghiên cứu chỉ ra rằng tính thanh khoản cao của cổ phiếu sẽ làm giảm nhẹ sự thiển cận của nhà quản lý. Lập luận này cho rằng vì tính thanh khoản cao có thể tạo điều kiện dễ dàng cho các nhà đầu tư lớn rút khỏi thị trường, tức là các nhà đầu tư dễ dàng rút khỏi thị trường nếu họ nhận thấy quản lý có những hành động không tốt cho công ty hay không đem lại lợi ích cho nhà đầu tư. Cả hai bài nghiên cứu trên đều cho rằng nhà đầu tư tổ chức thường ít tham gia vào hoạt động quản lý điều hành công ty do tốn kém chi phí và có hiện tượng “free rider”, tức là việc các nhà đầu tư tổ chức tốn kém chi phí để giám sát, quản lý hoạt động của công ty nhưng người được lợi từ các hoạt động đó lại là các cổ đông nhỏ. Nếu những nhà đầu tư lớn vẫn tiếp tục đầu tư sau khi thu thập các thông tin tốn kém, họ sẽ đưa ra những dấu hiệu về một viễn cảnh tốt và giá cả cổ phiếu vẫn tiếp tục ở mức cao. Ngược lại, nếu như họ bán cổ phiếu, họ đưa ra dấu hiệu về viễn cảnh xấu và giá cổ phiếu sẽ sụt giảm. Kết quả của hành vi này của các nhà đầu tư lớn ảnh hưởng nhiều đến giá cả cổ phiếu. Những hành động này của các cổ đông lớn sẽ làm giá cổ phiếu hiệu quả. Nếu như giá cổ phiếu hiệu quả, những thông tin cơ bản có liên quan đến đầu tư dài hạn sẽ được phản ánh trong giá cổ phiếu. Điều này làm giảm áp lực của nhà quản lý trong việc gia tăng lợi nhuận ngắn hạn và thay vào đó khuyến khích họ đầu tư vào các dự án dài hạn để tối đa hóa giá trị công ty và tạo ra sự đổi mới ngay cả khi những dự án này làm giảm lợi nhuận trong ngắn hạn.
Tuy nhiên đối với việc giá cả chứa đựng thông tin, các bằng chứng thực nghiệm không thể kết luận về mối quan hệ giữa khối lượng giao dịch và thông tin được phản ánh qua giá cả. Một mặt, Hou và cộng sự (2006) tìm thấy một mối tương quan cùng chiều giữa khối lượng giao dịch và các thông tin, bằng cách sử dụng R2 từ hồi quy của lợi nhuận như là thước đo của thông tin, trong khi Ferreira và cộng sự (2011) tìm thấy một mối quan hệ ngược chiều, khi họ ước tính bằng cách sử dụng PIN như là thước đo của thông tin1. Liên quan đến mối quan hệ giữa đầu tư và thông tin, Chen et al (2007) phát hiện ra rằng càng có nhiều giá cả chứa thông tin hơn, thì tác động của giá tài sản lên đầu tư cao hơn. Do đó, mối quan hệ trực tiếp giữa thông tin và đầu tư không rõ ràng. Như vậy mặc dù những kết quả trên dự đoán thanh khoản có tác động lên đầu tư, tuy nhiên các bằng chứng thực nghiệm lại không chỉ ra tác động cụ thể (cùng chiều hay ngược chiều) của thanh khoản lên đầu tư.
Như vậy những lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm trên đây về mối quan hệ giữa tính thanh khoản của cổ phiếu công ty trên thị trường và đầu tư của công ty đó là chưa thống nhất. Có ba nhóm ý kiến khác nhau về tác động của tính thanh khoản của cổ phiếu lên đầu tư, đó là thanh khoản của cổ phiếu công ty trên thị trường và
Phương pháp này đại diện cho khả năng mà thông tin giao dịch trên thị trường.
Đầu tư của công ty có tương quan thuận chiều, tương quan ngược chiều và không có dấu hiệu cụ thể. Bảng 2.1 trình bày tổng hợp các nghiên cứu trước đây:
TÓM TẮT CHƯƠNG 2
Trong chương 2, tác giả trình bày khái quát một số lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm về tác động của tính thanh khoản của cổ phiếu lên đầu tư của công ty. Các lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm được chia thành ba nhóm ý kiến về tác động của tính thanh khoản của cổ phiếu lên đầu tư: tác động cùng chiều, tác động ngược chiều và ý kiến không đưa ra tác động cụ thể. Có nhiều bài nghiên cứu về tác động của tính thanh khoản của thị trường chứng khoán lên các biến vĩ mô, vi mô. Trong đó, bài nghiên cứu “Liquidity and firm investment: Evidence for Latin America” của Francisco Muñoz (2012) nghiên cứu mối quan hệ giữa tính thanh khoản của cổ phiếu trên thị trường chứng khoán và đầu tư. Tác giả sẽ dựa theo phương pháp nghiên cứu của Francisco Muñoz (2012) để xây dựng phương pháp nghiên cứu của mình trong phần tiếp theo. Luận văn: Khái quát về nghiên cứu thanh khoản cổ phiếu
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Thực trạng về cổ phiếu của các Cty chứng khoán