Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang – Thực trạng và giải pháp dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các giao dịch dân sự ngày một gia tăng về số lượng và tính chất phức tạp, chính vì vậy đòi hỏi Nhà nước phải có những biện pháp hữu hiệu để quản lý cũng như bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức và của công dân khi tham gia giao dịch. Một trong những biện pháp quản lý đối với các giao dịch dân sự, đó là hoạt động công chứng. Công chứng đóng vai trò là thiết chế quản lý các hợp đồng, giao dịch, chứng nhận tính xác thực và hợp pháp của những văn bản, có giá trị thi hành không chỉ đối với các bên giao kết, mà còn đối với các bên có liên quan khác, qua đó, Nhà nước có thể kiểm tra, giám sát, điều tiết một cách khách quan, công minh và hiệu quả các quan hệ xã hội thông qua những hợp đồng, giao dịch này. Công chứng có thể coi là “lá chắn” phòng ngừa hữu hiệu, đảm bảo an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, tiết kiệm thời gian, chi phí cho xã hội, giảm thiểu “gánh nặng” pháp lý cho Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự. Luận văn: Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
Xuất phát từ vai trò và tầm quan trọng của hoạt động công chứng, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản về công chứng. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra nhiệm vụ:
Hoàn thiện chế định công chứng, xác định rõ phạm vi của công chứng, giá trị pháp lý của văn bản công chứng, xây dựng mô hình quản lý nhà nước về công chứng theo hướng Nhà nước chỉ tổ chức cơ quan công chứng thích hợp; có bước đi phù hợp để từng bước xã hội hóa công việc này [3].
Nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng, nhiều văn bản pháp luật về công chứng được ban hành, trong đó phải kể đến Luật Công chứng được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 29/11/2006, tiếp đến là Luật Công chứng được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 20/6/2014 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2015. Kể từ khi Luật Công chứng được ban hành, hoạt động công chứng trong cả nước nói chung cũng như trên địa bàn tỉnh Bắc Giang nói riêng đã có những chuyển biến mạnh mẽ, số lượng công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng tăng lên rõ rệt, ngoài các Phòng công chứng do Nhà nước thành lập còn có các Văn phòng công chứng do công chứng viên thành lập. Tuy nhiên, cùng với việc thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng, việc tăng về số lượng công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng cũng làm phát sinh nhiều vấn đề, đó là sự phát triển “nóng” của các tổ chức hành nghề công chứng, các Văn phòng công chứng phát triển quá nhanh và chỉ tập trung ở khu vực trung tâm, nơi có điều kiện kinh tế – xã hội phát triển dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh; vấn đề kiểm soát hoạt động của công chứng viên và chất lượng các văn bản công chứng v.v… Chính vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng hoạt động công chứng và đưa ra các giải pháp nâng cao toàn diện chất lượng hoạt động công chứng là một yêu cầu cấp thiết, trước mắt cũng như lâu dài.
Từ thực tiễn hoạt động công chứng ở địa phương, trên cơ sở nghiên cứu lý luận về nhà nước và pháp luật, tác giả lựa chọn đề tài “Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang – Thực trạng và giải pháp” làm luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật với mong muốn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động công chứng ở địa phương nói riêng và trên cả nước nói chung.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Luật Học
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận văn: Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
Pháp luật về công chứng nói chung đã được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu dưới góc độ lý luận cũng như thực tiễn. Rất nhiều những tình huống pháp lý cụ thể về công chứng được đề cập trong nhiều bài viết ở các tạp chí chuyên ngành luật như tạp chí Luật học, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, nhiều công trình nghiên cứu, đề tài nghiên cứu , các bài viết đăng trên các tạp chí bàn luận về vấn đề này, trong đó có thể kể đến các công trình khoa hoc̣:
Luận án tiến sỹ: “Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác định phạm vi nội dung hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng ở nước ta hiện nay“, của tác giả Đặng Văn Khanh, năm 2000;
Luận văn thạc sỹ: “Xây dựng nội dung cơ bản quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng, chứng thực từ thực tiễn tỉnh Bình Phước” của tác giả Nguyễn Minh Hợi, năm 2009;
Luận văn thạc sỹ luật học: “Quản lý nhà nước về tổ chức và hoạt động của công chứng tại Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Nguyễn Văn Cường, năm 2009;
Luận văn: “Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội” của tác giả Phạm Hữu Hùng, năm 2010;
Luận văn thạc sỹ: “Quá trình phát triển và phương hướng hoàn thiện pháp luật công chứng ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Nhật Quang, năm 2011;
Luận văn: “Hoàn thiện pháp luật về công chứng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Nguyễn Phi Hà, năm 2011;
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập và giải quyết vấn đề công chứng ở nhiều góc độ khác nhau, có nhiều nội dung liên quan đến hoạt động công chứng, song những nghiên cứu đó mới chỉ phân tích, đánh giá vấn đề công chứng ở một số phương diện nhất định, hoặc ở một góc nhìn khác, chưa có công trình nào nghiên cứu về công chứng một cách đầy đủ, đặc biệt là đối với một địa bàn cụ thể như Bắc Giang. Mặc dù vậy, các công trình trên vẫn là nguồn tài liệu quý giá, có ý nghĩa quan trọng đối với việc nghiên cứu đề tài “Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang – Thực trạng và giải pháp” của tác giả.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn Luận văn: Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
Mục đích nghiên cứu
Luâṇ văn hướng tới làm sáng tỏcơ sởlýluâṇ , thưc̣ trang̣ hoạt động về công chứng ởtỉnh Bắc Giang , trên cơ sởđóđưa ra những phương hướng , giải pháp thực hiện có hiệu quả hoạt động công chứng , đáp ứng yêu cầu nhiêṃ vu ̣ trong giai đoạn mới của Bắc Giang nói riêng và của nước ta nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài “Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang – Thực trạng và giải pháp” nhằm giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề về cơ sở lý luận của hoạt động công chứng;
- Phân tich́, đánh giáthực trạng hoạt động công chứng ởtỉnh Bắc Giang hiêṇ nay;
- Kiến nghị phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực , hiêụ quả quản lý hoạt động công chứng ở tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước bằng pháp luật về công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang từ khi Luật Công chứng có hiệu lực (ngày 01/01/2015) đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luâṇ Luâṇ văn đươc̣ nghiên cưu trên cơ sơ lý luận cua chu nghia Mac Lênin, tư tương HồChi Minh va quan điểm cua Đang về nha nươc và pháp luật, đồng thời dựa trên chủ trương của Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về cải cách hành chính, cải cách tư pháp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luâṇ văn đươc̣ nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luâṇ của chủnghiã duy vâṭbiêṇ chứng và các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như phương pháp so sánh , thống kê, phân tich́, tổng hơp̣, điều tra xa ̃hôịhoc̣ … để làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu.
6. Những đóng góp về khoa hoc̣ của luâṇ văn Luận văn: Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
Là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống, khoa học về lý luận và thực tiễn về hoạt động công chứng ở tỉnh Bắc Giang, luận văn có một số đóng góp khoa học sau đây:
Góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động công chứng trong điều kiện chúng ta đang đẩy mạnh xã hội hóa công chứng , thực hiện mục tiêu cải cách tư pháp , cải cách hành chính , xây dưng̣ nhànước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Phân tich́ thưc̣ trang̣ hoạt động công chứng ởtỉnh Bắc Giang. Rút ra những bài hoc̣ kinh nghiêṃ đểphát huy những măṭmanḥ , hạn chế những tồn tại nhằm nâng cao hiệu lực , hiêụ quảquản lýnhànước bằng pháp luật trong lĩnh vực này.
Đề xuất những giải pháp nâng cao hoạt động công chứng ởtỉnh Bắc Giang trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ một cách có hệ thống, khoa học các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về hoạt động công chứng, sự cần thiết và các giải pháp tăng cường hiệu quả hoạt động công chứng.
Kết quảnghiên cứu của luâṇ văn cóthểlàm tài liêụ tham khảo trong nghiên cứu vàgiảng daỵ taịcác cơ sởđào taọ cử nhân luâṭ, cử nhân hành chính, các trường, trung tâm đào taọ, bồi dưỡng cán bô,̣công chức…
Những kết luâṇ vànhững giải pháp rút ra từ luâṇ văn cóthểlàm tài liêụ tham khảo trong hoaṭđông̣ thưc̣ tiêñ quản lýnhànước bằng pháp luật về công chứng ởtỉnh Bắc Giang hiêṇ nay.
Luâṇ văn cóthểsử dung̣ làm tài liêụ tham k hảo cho các đề tài nghiên cứu liên quan đến công chứng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương, 07 tiết.
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG CHỨNG
1.1. Khái niệm, vai trò của công chứng trong quản lý hành chính nhà nước Luận văn: Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
1.1.1. Khái niệm công chứng
Để tìm hiểu bản chất, vai trò, ý nghĩa của một vấn đề, trước tiên cần xác định được khái niệm của vấn đề đó. Công chứng cũng vậy, việc xác định rõ khái niệm và bản chất công chứng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng quan trọng, quyết định đến sự hình thành thể chế cho cơ chế hoạt động, mô hình tổ chức và căn cứ vào đó khẳng định được phạm vi, nội dung công chứng; đảm bảo phát huy vai trò công chứng và hiệu quả công chứng trong đời sống xã hội.
Tìm hiểu về nguồn gốc công chứng cho thấy, công chứng là nghề sớm xuất hiện trong lịch sử loài người (từ thời La Mã cổ đại), với vai trò ghi chép, soạn thảo văn bản và làm chứng. Công chứng viên, theo tiếng Latinh là “Notarius”. “Notarius” trong Luật Anh cổ là một người sao chép hay trích lục các loại văn bản, giấy tờ khác, người làm chứng. Trong Luật La Mã, là người ghi chép, thư ký, tốc ký, người ghi chép các hoạt động trong nghị viện của tòa án, hoặc ghi chép theo lời người khác đọc, người soạn các di chúc và giấy chuyển nhượng sở hữu.
Hiện nay, ở mỗi nước khác nhau, pháp luật cũng đưa ra những khái niệm về công chứng khác nhau:
Tại Cộng hòa Pháp, các nhà làm luật không trực tiếp đưa ra khái niệm về công chứng, thay vào đó, họ xây dựng khái niệm công chứng viên, chủ thể thực hiện công chứng. Điều 1, Pháp lệnh số 45-2500 ngày 02/11/1945 về Điều lệ Công chứng của nước Cộng hòa Pháp quy định:
Công chứng viên là viên chức công được bổ nhiệm để lập các hợp đồng và văn bản mà theo đó các bên phải hoặc muốn đem lại một tính xác thực, giống như các văn bản của các cơ quan công quyền khác và để bảo đảm ngày, tháng chắc chắn, lưu giữ và cấp các bản sao văn bản công chứng [44].
Khái niệm này, quan niệm về công chứng được ghi nhận thông qua nhiệm vụ của công chứng viên nhằm đáp ứng yêu cầu tối thiểu đối với một văn bản công chứng (như ngày tháng tạo lập văn bản công chứng đó, như lưu giữ và cấp bản sao văn bản công chứng). Qua đó, khái niệm khẳng định tính công quyền của công chứng thông qua việc quy định chủ thể thực hiện là cá nhân công chứng viên, đồng thời là viên chức công và quy định giá trị pháp lý của văn bản công chứng tương đương với những văn bản do cơ quan công quyền ban hành; mục đích của hoạt động công chứng là tính xác thực của các hợp đồng và văn bản được công chứng.
Khái niệm công chứng viên của Cộng hòa Bê Nanh giống như khái niệm công chứng viên của Cộng hòa Pháp, tuy nhiên có quy định bổ sung về phạm vi điều chỉnh về không gian của khái niệm. Điều 1, Điều lệ Công chứng nước Cộng hòa Bê Nanh được ban hành kèm theo Lệnh số 48/PR ngày 29/8/1968 nêu rõ: Trong phạm vi thẩm quyền của Tòa thượng thẩm COTONU, công chứng viên là viên chức công được bổ nhiệm để lập những văn bản và hợp đồng mà qua đó các bên đương sự phải hoặc muốn tạo cho chúng có tính xác thực như các văn bản của chính quyền và có trách nhiệm bảo đảm đúng ngày tháng của các văn bản hợp đồng, lưu giữ và cấp cho đương sự bản sao của các văn bản, hợp đồng đó [21].
Tương tự, khái niệm công chứng viên được ghi nhận trong pháp luật của Cộng hòa Ba Lan. Khoản 1, Điều 1, Luật ngày 14/2/1991 của nước Cộng hòa Ba Lan về công chứng cho rằng: “Công chứng viên được bổ nhiệm để lập những văn bản mà trong đó các bên phải hoặc muốn đem lại một tính đích thực” [20].
Việt Nam, đến nay, về mặt lý luận, khái niệm công chứng chưa được làm rõ, quan niệm về công chứng mới chỉ được thể hiện thông qua các văn bản pháp lý về công chứng.
Thuật ngữ “công chứng” xuất hiện lần đầu tiên tại Việt Nam trong Nghị định số 143/HĐBT ngày 22/11/1981 của Hội đồng Bộ trưởng quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Bộ Tư pháp. Cho đến nay, ở nước ta khái niệm công chứng chưa được đưa ra dưới hình thức một nghiên cứu khoa học pháp lý chính thức mà chỉ được nêu ra dưới hình thức các văn bản quy phạm pháp luật. Ví dụ khái niệm công chứng lần đầu tiên được nêu tại Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư pháp về công tác công chứng, theo đó:
Công chứng nhà nước là một hoạt động của Nhà nước, nhằm giúp công dân, các cơ quan, tổ chức lập và xác nhận các văn bản, sự kiện có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản, sự kiện đó, làm cho các văn bản, sự kiện đó có hiệu lực thực hiện. Bằng hoạt động trên, công chứng nhà nước tạo ra những bảo đảm pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, các cơ quan, tổ chức phù hợp với Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngăn ngừa vi phạm pháp luật, giúp cho việc giải quyết các tranh chấp được thuận lợi, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa [4].
Tại Điều 1 Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/02/1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về tổ chức và hoạt động công chứng quy định:
Công chứng nhà nước là việc chứng nhận tính xác thực các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là các tổ chức), góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa [39]..
Các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng có giá trị chứng cứ.
Tại Điều 2 Luật Công chứng được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua ngày 29/11/2006 xác định:
Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng [46].
Qua phân tích các quan niệm về công chứng đã được ghi nhận trong hệ thống pháp luật ở Việt Nam, có thể thấy, hầu hết các khái niệm đều chứa đựng những yếu tố: Chủ thể thực hiện công chứng, mục đích công chứng, giá trị pháp lý của văn bản công chứng…, cụ thể:
Về chủ thể công chứng, có thể là cá nhân công chứng viên hoặc tổ chức (cơ quan có thẩm quyền công chứng theo quy định của pháp luật). Cơ quan có thẩm quyền công chứng có thể là đơn vị thực hiện công chứng chuyên nghiệp (ví dụ, phòng công chứng nhà nước, văn phòng công chứng) hay cũng có thể là đơn vị thực hiện công chứng (sau này còn được gọi dưới cái tên chứng thực) một cách kiêm nhiệm như Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền. Tại Điều 24, Pháp lệnh Lãnh sự ngày 24/11/1990 của Hội đồng Nhà nước quy định nhiệm vụ “thực hiện công chứng” [38] của cơ quan lãnh sự Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại nước ngoài và các Điều 19, Nghị định số 45/HĐBT; Điều 16, Nghị định số 31/CP và Điều 25, Nghị định số 75/2000/NĐ-CP cũng quy định chức trách giải quyết yêu cầu công chứng cho công dân Việt Nam tại nước ngoài của hệ thống cơ quan lãnh sự. Như vậy, cơ quan lãnh sự, mặc dù không phải là một cơ quan công chứng chuyên trách nhưng hoạt động của họ liên quan đến lĩnh vực bổ trợ tư pháp này vẫn được gọi là “công chứng”. Từ cách quy định chủ thể công chứng qua từng thời kỳ, cho thấy chế định công chứng Việt Nam luôn ghi nhận yếu tố công quyền trong hoạt động công chứng.
Về mục đích của công chứng, giống như các quốc gia khác, mục đích của công chứng Việt Nam chính là tính “xác thực” của hợp đồng, giao dịch hay sự kiện pháp lý mà nó đứng ra làm chứng. Tuy nhiên, cách quan niệm như thế nào là “xác thực” trong hoạt động công chứng hiện vẫn chưa được thống nhất và việc đồng nhất tính xác thực của hợp đồng, giao dịch với tính xác thực của giấy tờ, tài liệu chưa được phân định rõ ràng theo mục đích thật sự mà công chứng hướng đến. Bên cạnh đó, tại Luật Công chứng năm 2006, lần đầu tiên ghi nhận mục đích của công chứng là việc chứng nhận tính “hợp pháp”. Có thể khẳng định, trong thời điểm hiện tại, xác nhận tính hợp pháp của giao dịch, hợp đồng chính là một trong những mục đích hàng đầu của công chứng nước ta. Sở dĩ có quy định trên là do đứng về mặt ngữ nghĩa, xác thực và hợp pháp là hai phạm trù khác hẳn nhau. Trên cả bình diện lý luận và thực tế, một sự việc “xác thực” không có nghĩa là sự việc đó hợp pháp. Quy định này trong Luật Công chứng năm 2006 nhằm khẳng định dứt khoát, bên cạnh tính “xác thực” thì tính “hợp pháp” của hợp đồng, giao dịch là mục đích mà công chứng cần đạt được.
Về giá trị pháp lý của văn bản công chứng, các văn bản công chứng có giá trị xác thực, giá trị pháp lý và độ tin cậy hơn hẳn các loại giấy tờ không có chứng nhận xác thực hoặc chỉ trình bày bằng miệng. Các văn bản công chứng bảo đảm sự an toàn của các giao dịch, tạo nên sự tin tưởng của khách hàng, hạn chế mức thấp nhất các tranh chấp xảy ra. Về phương diện nhà nước cũng đảm bảo trật tự, kỷ cương, ổn định trong việc quản lý các giao dịch; từ đó cũng góp phần làm giảm đáng kể việc giải quyết tranh chấp luôn là gánh nặng của các cơ quan chức năng và giúp các cơ quan chức năng quản lý tốt hơn các hoạt động giao dịch.
Như vậy, qua các giai đoạn khác nhau, khái niệm công chứng có một số thay đổi nhất định. Sự thay đổi này thể hiện quan điểm chính thức của Nhà nước về bản chất công chứng, phản ánh kỹ thuật lập pháp của nước ta qua từng thời kỳ phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội…
Ngoài những khái niệm được ghi nhận trong hệ thống pháp luật như nêu ở trên, các nhà khoa học quan tâm đến lĩnh vực này cũng đưa ra nhiều quan niệm công chứng khác nhau. Trong Luận án tiến sĩ Luật học với đề tài “Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác định phạm vi, nội dung hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng ở nước ta hiện nay” [40], tác giả Đặng Văn Khanh đã nêu ra khái niệm công chứng như sau: “Công chứng là việc công chứng viên, người có thẩm quyền công chứng tạo lập ra những văn bản, hợp đồng mà đương sự phải hoặc muốn tạo cho chúng có giá trị pháp lý như những văn bản của các cơ quan nhà nước thông qua việc lập, chứng nhận và lưu giữ các văn bản, hợp đồng đó” [40, tr.33]; trong khi đó theo tác giả Dương Khánh thì:
Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực của các hoạt động giao dịch và các sự kiện pháp lý khác theo quy định của pháp luật hoặc theo yêu cầu, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân tổ chức, góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Văn bản công chứng có giá trị chứng cứ và giá trị thi hành đối với cá nhân, tổ chức có liên quan, trừ trường hợp bị Tòa án nhân dân tuyên bố là vô hiệu [41, tr.169].
Về cơ bản, những khái niệm trên phần nào đã thể hiện, phản ánh rõ hơn bản chất của công chứng, đặc biệt trong một số vấn đề cụ thể như chủ thể, phạm vi công chứng, giá trị pháp lý của văn bản công chứng… và bước đầu cung cấp cho chúng ta một cách nhìn, cách hiểu khái quát nhất về công chứng. Tuy nhiên, ở chừng mực nào đó, những khái niệm này vẫn chưa phản ánh hết phạm vi, bản chất cũng như đặc trưng của công chứng.
Luật Công chứng năm 2014 là văn bản pháp luật mới nhất đã đưa ra một khái niệm công chứng trên cơ sở tiếp thu những ưu điểm trong khái niệm công chứng của các văn bản pháp luật trước đó và quan điểm của một số luật gia nghiên cứu về lĩnh vực này, tại Điều 2 quy định:
Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng [47].
Từ sự phân tích về những quan niệm khác nhau về công chứng và khái niệm mới nhất về công chứng được nêu tại Luật Công chứng năm 2014, cho thấy công chứng có những đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, chủ thể thực hiện công chứng là công chứng viên.
Tìm hiểu lịch sử phát triển công chứng ở nước ta kể từ khi Nghị định số 143/HĐBT ngày 22/11/1981 đến nay, nhận thức về chủ thể thực hiện công chứng thể hiện qua các văn bản pháp luật có sự thay đổi rất lớn, từ việc không quy định chủ thể thực hiện sau đó quan niệm chủ thể thực hiện công chứng là tổ chức (tổ chức công chứng của nhà nước và UBND cấp huyện, cấp xã) và hiện nay, chủ thể thực hiện công chứng được xác định là cá nhân công chứng viên. Sự thay đổi này xuất phát từ mục tiêu chuyên môn hoá, chuyên nghiệp hoá hoạt động công chứng như một loại hình nghề nghiệp, công chứng viên là người được nhà nước cho phép hoạt động hành nghề công chứng đồng thời chịu trách nhiệm cá nhân về hành vi công chứng của mình.
Thứ hai, mục đích của công chứng là chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của các hợp đồng, giao dịch khác bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng. Luận văn: Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
Tính xác thực trong hoạt động công chứng không chỉ đơn thuần là mô tả những gì đã diễn ra trên thực tế, mà nó còn bao gồm cả tính hợp pháp, mặc dù được biểu hiện dưới nhiều cấp độ khác nhau. Nếu như đối với tính xác thực ở cấp độ đơn giản thì tính hợp pháp thể hiện ở chỗ người yêu cầu công chứng phải có năng lực hành vi dân sự phù hợp với quy định và họ giao kết hợp đồng, giao dịch trong trạng thái tinh thần minh mẫn, không chịu bất kỳ một sự ép buộc nào và có đủ khả năng nhận thức về hành vi giao dịch của mình. Ở cấp độ cao hơn, tính hợp pháp thể hiện ở chỗ nội dung giao kết phải được xây dựng dựa trên những giấy tờ, tài liệu đáng tin cậy, nội dung thoả thuận của các bên phải phù hợp với các quy định của pháp luật, phù hợp với đạo đức xã hội.
Thứ ba, công chứng có chức năng bổ trợ tư pháp
Chức năng này thể hiện ở chỗ, văn bản công chứng có giá trị chứng cứ và giá trị thực hiện. Văn bản công chứng do công chứng viên lập theo trình tự, thể thức bắt buộc, ghi lại chính xác thời gian, không gian, ý chí, nguyện vọng cũng như năng lực chủ thể của các bên khi tham gia giao kết hợp đồng, giao dịch. Văn bản công chứng trước hết nhằm tạo lập giá trị thực hiện giữa các bên tham gia giao dịch, hợp đồng bằng việc ràng buộc quyền và nghĩa vụ giữa các bên, là căn cứ pháp lý không thể bác bỏ buộc các bên phải thực hiện đúng các cam kết đã xác lập, đồng thời có giá trị pháp lý cả với bên thứ ba.
Bên cạnh đó, công chứng là hoạt động gắn liền với bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức khi tham gia các hợp đồng, giao dịch, đồng thời bổ trợ cho các hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động tư pháp nên được xếp vào nhóm chế định bổ trợ tư pháp. Theo quy định hiện hành, việc sắp xếp chế định công chứng vào các chế định bổ trợ tư pháp là theo Nghị quyết 49-NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Nghị định 22/2013/NĐ-CP ngày 13/3/2013 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp. Thông qua việc tạo điều kiện các hợp đồng, giao dịch diễn ra thuận lợi, an toàn và phòng ngừa tranh chấp và vi phạm pháp luật, công chứng góp phần hỗ trợ hoạt động quản lý nhà nước một cách thường xuyên, liên tục, bảo đảm trật tự, kỷ cương và tuân thủ pháp luật trên các lĩnh vực liên quan đến hoạt động công chứng.
Thứ tư, hoạt động công chứng vừa mang tính công quyền, vừa mang tính dịch vụ.
Tính công quyền thể hiện ở chỗ, công chứng viên thay mặt Nhà nước chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch, đem lại cho văn bản công chứng giá trị pháp lý đặc biệt, đó là: Giá trị thi hành và giá trị chứng cứ. Văn bản công chứng có giá trị pháp lý cao hơn hẳn những loại chứng cứ khác, bởi nó mang dấu ấn của quyền lực công và được đảm bảo bằng trách nhiệm đặc biệt của công chứng viên – người được cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm để thực hiện chức năng công chứng.
Tính dịch vụ thể hiện ở chỗ, bằng hành vi công chứng, công chứng viên đảm bảo tính an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, phòng ngừa tranh chấp có thể xảy ra giữa các bên. Điều đó cũng có nghĩa là công chứng viên đã cung cấp một dịch vụ về an toàn pháp lý cho cá nhân, tổ chức khi tham gia giao dịch.
Thứ năm, công chứng viên được hoạt động hành nghề công chứng trong phạm vi pháp luật quy định
Nhìn một cách giản lược, hiện nay pháp luật công chứng xác định phạm công chứng bằng hai phương pháp. Thứ nhất là liệt kê những hợp đồng, giao dịch phải được công chứng, trong đó xác định cụ thể những trường hợp chỉ được công chứng và trường hợp nào có thể lựa chọn giữa hình thức công chứng và hình thức chứng thực. Thông thường, hợp đồng, giao dịch mà pháp luật quy định phải công chứng được coi là những hợp đồng, giao dịch quan trọng, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến an sinh xã hội. Xét dưới một giác độ nào đó, phương pháp này mang nặng tính chất quản lý hành chính Nhà nước. Thứ hai, dựa trên yêu cầu tự nguyện của đương sự. Khác với phương pháp thứ nhất, ở phương pháp này, các hợp đồng, giao dịch không thuộc diện bắt buộc phải công chứng mà người yêu cầu công chứng, với ý thức chủ động sử dụng pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân, tự nguyện đề nghị công chứng hợp đồng, giao dịch mà họ giao kết. Phạm vi công chứng xác định theo biện pháp này tiêu biểu cho vai trò bổ trợ tư pháp của hoạt động công chứng với nhiệm vụ chủ yếu là cung cấp chứng cứ phục vụ công tác xét xử của các cơ quan tài phán mà trước hết và chủ yếu là của Tòa án.
Ngoài ra, với một số đối tượng giao dịch đặc biệt như quyền sử dụng đất, nhà ở… công chứng viên chỉ được thực hiện công chứng các hợp đồng, giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, nhà ở trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi đăng ký hành nghề công chứng.
Bên cạnh đó, qua nghiên cứu cho thấy công chứng có những chức năng cơ bản sau đây:
Một là, chức năng hợp pháp hóa hợp đồng, văn bản
Hay nói cụ thể hơn là hợp pháp hóa sự kiện, thỏa thuận của các bên thể hiện trong hợp đồng, văn bản. Do hợp đồng, văn bản chỉ là phương tiện chuyển tải các sự kiện, thỏa thuận nên chính những sự kiện, thỏa thuận mới là cái đích mà hành vi hợp pháp hóa của công chứng viên hướng tới. Khi xảy ra tranh chấp, để xác định chính xác ý chí của các bên tại thời điểm giao kết hợp đồng hay tạo lập văn bản, cơ quan tài phán phải trải qua quá trình xác minh, điều tra với một trình tự, thủ tục không đơn giản nhằm làm sáng tỏ sự thật. Đặc biệt, công việc này tạo ra áp lực rất lớn do số lượng tranh chấp ngày càng nhiều, trong khi tính chất cũng ngày càng phức tạp. Nhằm ngăn ngừa vi phạm pháp luật hay tranh chấp có thể xảy ra trong tương lai, chế định công chứng quy định chức năng hợp pháp hóa hợp đồng, văn bản nhằm tạo ra cho chúng một giá trị pháp lý tương đương với quyết định do cơ quan công quyền ban hành. Điều đó có nghĩa những văn bản, hợp đồng công chứng cũng sẽ được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của quyền lực nhà nước, giảm thiểu tranh chấp giữa các bên tham gia giao kết. Văn bản công chứng không chỉ đơn thuần có hiệu lực thi hành giữa các bên trực tiếp tham gia giao kết mà nó còn có giá trị thực hiện đối với bên thứ ba có liên quan. Điều này có nghĩa giá trị pháp lý của văn bản, hợp đồng công chứng cao hơn hẳn văn bản, hợp đồng cùng loại nhưng không được công chứng. Nguồn gốc giá trị pháp lý của văn bản công chứng xuất phát từ quyền năng mà công chứng viên được pháp luật giao phó cũng như tính chất công vụ của hoạt động công chứng.
Hai là, chức năng tạo lập và xác nhận nguồn chứng cứ
Có thể nói, đây là một trong những chức năng cơ bản nhất của công chứng nói chung. Hiện nay hệ thống pháp luật của nước ta đang xếp công chứng là chế định bổ trợ tư pháp, tức là công chứng ra đời, tồn tại nhằm phục vụ cho công tác tài phán mà trước hết và chủ yếu là của cơ quan Tòa án. Ngay tại Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư pháp về công tác công chứng, chức năng này đã được khẳng định qua việc quy định mục đích của công chứng là “ngăn ngừa vi phạm pháp luật, giúp cho việc giải quyết các tranh chấp được thuận lợi” [4]. Đây là một trong những nội dung thể hiện trực tiếp nhất, cụ thể nhất chức năng tạo lập nguồn chứng cứ của công chứng. Đặc biệt, chức năng tạo lập nguồn chứng cứ còn được thể hiện thông qua quy định văn bản công chứng, sản phẩm nghề nghiệp của công chứng viên, có giá trị chứng cứ. Điều 1, Nghị định số 45/HĐBT khẳng định: “Các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng có giá trị chứng cứ” [39]; trong khi “các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng nhà nước chứng nhận hoặc Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền chứng thực có giá trị chứng cứ, trừ trường hợp bị Tòa án nhân dân tuyên bố là vô hiệu” [15] được ghi nhận tại Điều 1, Nghị định số 31/CP. Đến khi Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ra đời, giá trị chứng cứ của văn bản công chứng được coi trọng hơn khi lần đầu tiên giá trị pháp lý trong đó có giá trị chứng cứ của văn bản công chứng được quy định riêng tại một điều luật, cụ thể là “văn bản công chứng, văn bản chứng thực có giá trị chứng cứ, trừ trường hợp được thực hiện không đúng thẩm quyền hoặc không tuân theo quy định tại Nghị định này hoặc bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu” [15, Điều 14, Khoản 2] và sau đây là nội dung Luật Công chứng 2014: “Văn bản công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong văn bản công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu” [47, Điều 5, Khoản 2].
Ba là, chức năng tư vấn cho người yêu cầu công chứng và các bên tham gia giao dịch
Chức năng này được thể hiện ở một số điều luật xác định công chứng viên có nhiệm vụ hướng dẫn trình tự, thủ tục công chứng, giải thích quyền và nghĩa vụ cho các bên tham gia giao kết hợp đồng, giao dịch…. Mục 2, Phần I, Thông tư số 858/QLTPK nêu rõ:
Để tránh trường hợp do không hiểu pháp luật, đương sự tự gây tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình, khi thực hiện các việc làm công chứng, công chứng viên phải giải thích cho đương sự hiểu quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của họ, đồng thời phân tích cho họ hiểu hậu quả pháp lý của những việc làm công chứng không thích hợp đó [5].
Nội dung tương tự cũng xuất hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật về công chứng tại nước ta như Khoản 5, Điều 16, Nghị định số 45/HĐBT; Khoản 1 và Khoản 4, Điều 21, Nghị định số 31/CP; Khoản 2 và Khoản 3, Điều 37, Nghị định số 75/2000/NĐ-CP. Về phương diện từ ngữ, việc công chứng viên thông báo hậu quả pháp lý, giải thích quyền và nghĩa vụ… cho đương sự không phải là hành vi tư vấn theo đúng nghĩa của nó. Nhưng trên thực tế, khi thực hiện “hướng dẫn” trình tự, thủ tục, “giải thích” quyền và nghĩa vụ, “thông báo” hậu quả pháp lý… cho đương sự, công chứng viên đã đảm đương công việc tư vấn thực thụ một cách miễn phí. Tuy nhiên, công chứng viên chỉ giải đáp các thắc mắc có liên quan trực tiếp, nhằm phục vụ giải quyết một yêu cầu công chứng đã được xác định mà không có trách nhiệm phải tư vấn các vấn đề không liên quan đến một yêu cầu công chứng cụ thể.
Không chỉ tư vấn pháp luật một cách đơn thuần, công chứng viên còn hướng dẫn đương sự áp dụng pháp luật. Căn cứ một yêu cầu công chứng cụ thể, sau khi xem xét quy định hiện hành của pháp luật có liên quan, công chứng viên tham gia góp ý nhằm giúp người yêu cầu công chứng chọn lựa một phương thức áp dụng pháp luật đơn giản nhất, thuận tiện nhất, dễ thực hiện nhất. Trong một số trường hợp cần thiết, công chứng viên còn đóng vai trò trung gian giúp các bên tham gia giao dịch giải quyết bất đồng (nếu có), đưa ra những phương án hợp lý và hợp pháp nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của họ. Luận văn: Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
Khi tư vấn, công chứng viên phải tuân thủ chặt chẽ quy định của pháp luật cũng như không được phép nghiêng về quyền lợi của bất kỳ bên nào. Trong mọi trường hợp, vai trò trung gian của công chứng viên bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu. Căn cứ vào quy định của pháp luật, công chứng viên phải đưa ra giải pháp có lợi nhất cho đương sự. Thậm chí, nếu do vô tình hay thiếu hiểu biết, quyền, lợi ích hợp pháp của một trong các bên tham gia giao dịch bị thiệt hại thì công chứng viên có nghĩa vụ thông tin, cảnh báo cho những cá nhân này biết trước hậu quả pháp lý của giao dịch, hợp đồng. Như vậy, với tư cách người tư vấn, công chứng viên có nghĩa vụ bảo vệ quyền và lợi ích cho người yêu cầu công chứng, khách hàng của mình và với tư cách một viên chức, công chứng viên còn có trách nhiệm bảo vệ lợi ích của Nhà nước.
Bốn là, chức năng lưu trữ và cung cấp nguồn chứng cứ
Đây là chức năng quan trọng được ghi nhận trong pháp luật công chứng của rất nhiều quốc gia trên thế giới. Nếu như chức năng tạo lập và xác nhận nguồn chứng cứ là tiền đề thì chức năng lưu trữ và cung cấp nguồn chứng cứ chính là yếu tố quyết định bản chất bổ trợ tư pháp của công chứng. Có thể khẳng định văn bản công chứng, sản phẩm nghề nghiệp của công chứng viên, phương tiện ghi nhận trung thực, toàn vẹn ý chí của các bên tham gia giao kết hợp đồng, giao dịch chính là nguồn chứng cứ chủ yếu được công chứng viên lưu trữ. Chính vì lẽ đó, lưu trữ văn bản công chứng (và văn bản chứng thực) đã được pháp luật công chứng của nước ta ghi nhận từ rất sớm. Điểm 10, Phần I, Thông tư số 858/QLTPK nêu rõ: “Các tài liệu công chứng phải được bảo quản, lưu trữ tại cơ quan công chứng với đầy đủ hồ sơ kèm theo. Việc lưu trữ, bảo vệ các tài liệu công chứng phải bảo đảm không hư hỏng, mất mát và tiện sử dụng khi cần thiết” [5], trong khi Khoản 4, Điều 16, Nghị định số 45/HĐBT quy định nhiệm vụ của công chứng viên “Lưu giữ các văn bản công chứng” [39]; Điểm 2, Chỉ thị số 1106/CT-CC ngày 19/7/1994 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp triển khai thực hiện Nghị quyết 38/CP của Chính phủ về cải cách một bước thủ tục hành chính trong giải quyết công việc của công dân và tổ chức trong lĩnh vực công chứng cũng khẳng định: “Tất cả các loại hồ sơ, văn bản đã được công chứng và sổ công chứng phải được lưu trữ, bảo quản đầy đủ, chặt chẽ, lâu dài tại Phòng Công chứng nhà nước, nơi đã giải quyết yêu cầu công chứng đó” [13]. Luật Công chứng năm 2014 đã dành hẳn một chương (Chương V), bao gồm ba điều luật để quy định về “Lưu trữ hồ sơ công chứng” [47]. Căn cứ vào nội dung các điều luật trên, chúng ta thấy lưu trữ văn bản công chứng không chỉ là lưu trữ bản thân văn bản mà bao gồm cả hồ sơ kèm theo. Những hồ sơ này có thể là bản chính, bản photocopy, bản sao các loại tài liệu như căn cước của đương sự, giấy tờ chứng minh tư cách pháp nhân của tổ chức và thẩm quyền của người đại diện, giấy chứng nhận sở hữu chủ đối với tài sản là đối tượng của giao dịch, hợp đồng… Tuy nhiên, trong một số trường hợp cụ thể, hồ sơ công chứng còn bao gồm cả ghi nhớ của công chứng viên hoặc người yêu cầu công chứng về quá trình tạo lập văn bản công chứng (ví dụ, quá trình hoàn tất một bản chúc thư), băng ghi âm, ảnh chụp…
Việc lưu trữ văn bản công chứng cùng hồ sơ đi kèm không chỉ là bảo quản, giữ gìn văn bản, tài liệu ở trong trạng thái tốt nhất mà nó bao gồm cả tra cứu, sử dụng những thông tin đang được lưu trữ ngay trong quá trình tác nghiệp của công chứng viên. Đặc biệt, pháp luật quy định rất chi tiết, cụ thể trình tự cũng như thẩm quyền khai thác thông tin, tài liệu công chứng của cá nhân, tổ chức có nhu cầu. Ví dụ, Khoản 3, Điều 54, Luật Công chứng năm 2014 quy định:
Trong trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu bằng văn bản về việc cung cấp hồ sơ công chứng phục vụ cho việc giám sát, kiểm tra, thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án liên quan đến việc đã công chứng thì tổ chức hành nghề công chứng có trách nhiệm cung cấp bản sao văn bản công chứng và các giấy tờ khác có liên quan. Việc đối chiếu bản sao văn bản công chứng với bản chính chỉ được thực hiện tại tổ chức hành nghề công chứng nơi đang lưu trữ hồ sơ công chứng [51].
Như vậy, không phải bất kỳ ai cũng có quyền tiếp cận hoặc yêu cầu cung cấp thông tin liên quan đến văn bản công chứng và hồ sơ, chỉ có một số đối tượng xác định, với một trình tự, thủ tục nhất định được phép tiếp cận và yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng cung cấp bản sao văn bản công chứng cũng như các thông tin có liên quan.
1.1.2. Vai trò của công chứng trong quản lý hành chính nhà nước
Xuất phát từ những phân tích khái niệm công chứng nêu ở trên cho thấy, tuy nội dung cụ thể có khác nhau nhưng vai trò của công chứng được quy định trong các khái niệm thì không thay đổi, đều nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức ở trong nước cũng như ở nước ngoài, ngăn ngừa vi phạm pháp luật đồng thời tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Để đảm đương vai trò nêu trên, công chứng có hai chức năng cơ bản là tạo lập và cung cấp chứng cứ cho hoạt động xét xử của cơ quan tài phán cũng như thể hiện vai trò quản lý nhà nước đối với một số giao dịch nhất định thông qua quy định về giá trị pháp lý của văn bản công chứng. Tùy từng giai đoạn, giá trị chứng cứ của văn bản công chứng được coi là chứng cứ thông thường hay chứng cứ không cần phải chứng minh; chứng cứ đương nhiên hay không còn giá trị chứng cứ khi bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu. Nếu như giá trị chứng cứ là giá trị mang tính truyền thống thì giá trị thi hành của văn bản công chứng lại không được pháp luật ghi nhận liên tục, giá trị thi hành của văn bản công chứng thể hiện vai trò quản lý nhà nước của hoạt động này chỉ được ghi nhận chính thức tại Thông tư số 574/QLTPK và Luật Công chứng. Với vai trò là công cụ quản lý nhà nước, văn bản công chứng có giá trị thi hành, không chỉ đối với các bên giao kết hợp đồng, giao dịch mà còn đối với các bên có liên quan, ngay cả khi đó là một cơ quan nhà nước.
1.2. Các yếu tố bảo đảm hoạt động công chứng
1.2.1. Bảo đảm về năng lực và nhận thức của công chứng viên Luận văn: Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
Chủ thể thực hiện công chứng chính là công chứng viên, vì vậy việc bảo đảm về năng lực và nhận thức của công chứng viên có tác động sâu rộng đến chất lượng hoạt động công chứng.
Công chứng viên là người chịu trách nhiệm tiếp nhận hoặc lập các hợp đồng, giao dịch theo yêu cầu của người yêu cầu công chứng, đảm bảo cho các hợp đồng, giao dịch sau khi được chứng nhận có giá trị pháp lý như một văn bản của cơ quan công quyền. Hành vi chứng nhận hợp đồng, giao dịch của công chứng viên thực hiện trên cơ sở kiến thức pháp lý, kỹ năng nghề nghiệp, tư vấn giúp người yêu cầu công chứng thể hiện ý chí, nguyện vọng của họ trong nội dung các hợp đồng giao dịch mà họ yêu cầu công chứng. Trên cơ sở hợp đồng giao dịch đã được soạn thảo hoàn chỉnh, công chứng viên xác nhận tích xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch đó bằng việc ghi lời chứng của mình theo thể thức và nội dung pháp luật quy định. Do vậy, bảo đảm về năng lực và nhận thức của công chứng viên chính là sự am hiểu sâu sắc về pháp luật nhằm tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm tính khách quan, trung thực khi thực hiện chứng nhận các hợp đồng, giao dich, chịu trách nhiệm trước pháp luật về văn bản công chứng.
Ngoài vấn đề năng lực và nhận thức của công chứng viên, vấn đề về “đạo đức hành nghề công chứng” đã được nêu trong Luật Công chứng năm 2006 là yếu tố đảm bảo chất lượng hoạt động công chứng. Trong xã hội nào cũng tồn tại quan niệm về đạo đức. Đó là quan niệm của một xã hội, của một tầng lớp xã hội, của một tập hợp người nhất định về thế giới, về cách sống, đòi hỏi mỗi con người cần điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng xã hội. Ở khía cạnh khác, đạo đức là hệ thống các qui tắc, chuẩn mực biểu hiện sự tự giác trong quan hệ con người với con người, con người với cộng đồng xã hội, với tự nhiên và với cả bản thân mình. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, đạo đức nghề nghiệp cần được đề cao hơn nữa nhằm phát huy giá trị nhân văn của một chế độ xã hội tiến bộ. Để người hành nghề có thể thực hiện công việc với chất lượng cao, tuân thủ pháp luật và phục vụ tốt nhất nhu cầu của nhân dân, thì đạo đức nghề nghiệp cần phải được coi như một tiêu chuẩn quan trọng của người hành nghề. Hoạt động công chứng là nghề mang tính chuyên nghiệp cao, vì vậy, càng cần phải chịu sự chi phối bởi các quy định đạo đức hành nghề. Thực tế cho thấy, người hành nghề công chứng nếu có đạo đức hành nghề thì sẽ tự giác tuân thủ pháp luật và có trách nhiệm thật sự trước quyền lợi của người có yêu cầu công chứng và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Ngược lại, một khi người hành nghề công chứng không thực hiện tốt đạo đức nghề nghiệp thì sẽ rất có thể vi phạm các quy định của pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích của người có nhu cầu công chứng. Giữa chấp hành pháp luật và thực hiện đạo đức hành nghề công chứng có mối quan hệ chặt chẽ, qua lại và hỗ trợ lẫn nhau.
1.2.2. Bảo đảm về kinh tế, xã hội
Để thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng, các yếu tố về kinh tế, xã hội là điều kiện “cần” để thực hiện hoạt động công chứng. Bởi lẽ, nếu như trước đây, nền kinh tế xã hội phát triển theo hướng tập trung quan liêu bao cấp, các giao dịch dân sự giữa cá nhân với cá nhân hoặc giữa cá nhân với tổ chức rất ít khi diễn ra, đồng nghĩa với đó là sự “không đòi hỏi” đến hoạt động công chứng. Từ khi nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các giao dịch dân sự diễn ra sôi động, tính chất ngày một phức tạp, đòi hỏi hoạt động công chứng ngày một chuyên nghiệp và chuyên sâu; Nhà nước cần thay đổi phương thức thực hiện và quản lý điều hành đối với hoạt động công chứng.
Hiện nay, nước ta là nước đang phát triển, mức thu nhập của người dân chưa đồng đều, đặc biệt, điều kiện kinh tế – xã hội ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa còn hạn chế nên nhu cầu sử dụng dịch vụ công chứng chưa cao, điều này là nguyên nhân dẫn đến việc phát triển nghề công chứng, số lượng tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên sẽ có sự chênh lệch giữa các địa bàn, vùng miền. Vì vậy, để đảm bảo hoạt động công chứng phát triển, rất cần thiết đến sự phát triển của nền kinh tế, xã hội. Điều này một lần nữa khẳng định, yếu tố kinh tế, xã hội có tác động không nhỏ đến định hướng phát triển hoạt động công chứng.
1.2.3. Bảo đảm về pháp lý Luận văn: Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
Bên cạnh bảo đảm về năng lực và nhận thức của công chứng viên; bảo đảm về kinh tế, xã hội; việc bảo đảm về pháp lý có vai trò quyết định trong chất lượng hoạt động công chứng. Để đảm bảo về mặt pháp lý, trước hết hệ thống pháp luật về công chứng phải đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ và phù hợp với hệ thống pháp luật có liên quan và sự phát triển ổn định, bền vững của nghề công chứng. Cùng với đó phải đảm bảo về các nội dung cụ thể như sau:
Một là, bảo đảm quy định về hình thức công chứng, giá trị pháp lý của việc công chứng; phạm vi công chứng: Ở nội dung này, pháp luật cần đảm bảo hình thức công chứng là văn bản hay không cần bằng văn bản; khẳng định giá trị pháp lý của việc công chứng đối với các bên hợp đồng, giao dịch và công tác quản lý nhà nước. Đây chính vấn đề pháp luật công chứng cần quy định rõ. Ví dụ, theo quy định tại Điều 5 Luật Công chứng 2014:
- Văn bản công chứng có hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng.
- Hợp đồng, giao dịch được công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác.
- Hợp đồng, giao dịch được công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch được công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu…. [47].
- Như vậy, hợp đồng, giao dịch khác đã được công chứng sẽ có hai giá trị pháp lý cơ bản sau đây: i) Giá trị thi hành của văn bản công chứng. Theo đó, những gì đã thoả thuận trong văn bản công chứng thì có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các bên hợp đồng, giao dịch đồng thời đối với cả bên thứ ba;
- Giá trị chứng cứ không phải chứng minh trước Toà án. Vấn đề này đã được quy định tại Điều 80 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2005 [48, tr.56]. Cơ sở của quy định này là xuất phát từ việc thừa nhận chức năng của công chứng viên về chứng nhận tính xác thực của các hợp động, giao dịch như đã nêu trên. Tính xác thực do công chứng viên chứng nhận biến các tình tiết, sự kiện có trong hợp đồng, giao dịch trở thành chứng cứ hiển nhiên trước tòa.
- Việc xác định phạm vi công chứng tức là xác định những loại việc nào thuộc thẩm quyền chứng nhận của các công chứng viên, người có thẩm quyền công chứng, loại việc nào không thuộc thẩm quyền công chứng của họ, làm cơ sở cho việc xác định trình tự, thủ tục thực hiện các loại việc thuộc thẩm quyền công chứng đó. Khi đã xác định được trình tự, thủ tục thực hiện các hành vi công chứng này, là cơ sở cho việc xác định giá trị pháp lý của văn bản công chứng-sản phẩm của quá trình thực hiện hành vi công chứng.
Hai là, bảo đảm quy định về tổ chức hành nghề công chứng: Ở nội dung này, pháp luật phải bảo đảm các vấn đề về: Hình thức tổ chức; quyền, nghĩa vụ của tổ chức hành nghề công chứng; các mối quan hệ giữa tổ chức hành nghề công chứng với người yêu cầu công chứng, với công chứng viên, người lao động, người tập sự hành nghề công chứng và với các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền quản lý nhà nước về công chứng; con dấu và tài chính; thẩm quyền công chứng…
Ba là, bảo đảm quy định về trình tự, thủ tục công chứng: Nội dung này, pháp luật về công chứng quy định các bước thực hiện, thành phần hồ sơ, thời hạn công chứng đối với một số loại giao dịch, hợp đồng bắt buộc phải công chứng như giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản trên đất; di chúc; giao dịch liên quan đến bất động sản…
Bốn là, bảo đảm quy định về quản lý nhà nước về công chứng: Pháp luật về công chứng cần có những quy định có liên quan đến quản lý nhà nước về công chứng như: Tổ chức thi hành; nội dung quản lý; chủ thể, thẩm quyền quản lý; vấn đề thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động công chứng; khen thưởng, xử lý vi phạm; chế độ thông tin, báo cáo, lưu trữ; tổ chức xã hội nghề nghiệp công chứng; văn bản công chứng vô hiệu …
Đáp ứng được các yếu tố như trên, hoạt động công chứng chắc chắn sẽ có bước chuyển biến tích cực, đột phát, đáp ứng được yêu cầu trong giai đoạn đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động công chứng.
1.3. Xã hội hóa hoạt động công chứng và vai trò điều chỉnh của pháp luật
1.3.1. Xã hội hóa hoạt động công chứng Luận văn: Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
Nhà nước với hai chức năng cơ bản đó là chức năng giai cấp và chức năng xã hội, biểu hiện tập trung ở việc tổ chức và quản lý xã hội. Nhà nước tổ chức thực hiện những hoạt động chung vì sự tồn tại xã hội, chăm lo tới công việc chung của toàn xã hội, cuộc sống cộng đồng, phục vụ xã hội, trong giới hạn nào đó phải thỏa mãn một số nhu cầu chung dưới sự quản lý của mình. Ở những Nhà nước tiến bộ, dân chủ chú trọng tới việc tổ chức đời sống xã hội, cộng đồng nhiều hơn. Song song với nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhà nước thực hiện cung ứng một số dịch vụ công nhằm phục vụ các lợi ích thiết yếu, bảo đảm quyền cơ bản của tổ chức, công dân.
Chức năng quản lý nhà nước bao gồm các hoạt động quản lý và điều tiết đời sống kinh tế-xã hội thông qua các công cụ quản lý vĩ mô như pháp luật, chiến lược, chính sách, quy hoạch, kế hoạch và kiểm tra, kiểm soát. Chức năng phục vụ bao gồm các hoạt động nhằm phục vụ cho các lợi ích thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và tổ chức (cung ứng dịch vụ công). Việc thực hiện quản lý nhà nước là theo nhu cầu của bản thân bộ máy nhà nước nhằm đảm bảo trật tự, ổn định, công bằng xã hội; còn việc cung ứng dịch vụ công có thể phát sinh từ những yêu cầu của Nhà nước. Tuy nhiên, hai chức năng này luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Theo Ph. Ăng-ghen, “Ở khắp nơi, chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị; và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó còn thực hiện chức năng xã hội đó của nó” [39, tr.253].
Dịch vụ công là những hoạt động phục vụ các nhu cầu cơ bản, thiết yếu của người dân vì lợi ích chung của xã hội, do Nhà nước chịu trách nhiệm trước xã hội ( trực tiếp đảm nhận hay ủy quyền và tạo điều kiện cho khu vực tư thực hiện) nhằm đảm bảo hiệu quả, ổn định và công bằng xã hội [38, tr.217].
Dịch vụ công gồm ba loại: Dịch vụ hành chính, dịch vụ sự nghiệp và dịch vụ công ích.
Dịch vụ hành chính là các hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước để giải quyết các công việc của các tổ chức và công dân theo thẩm quyền. Phạm vi dịch vụ hành chính trong khu vực hành chính nhà nước bao gồm các hoạt động bảo đảm quyền và nghĩa vụ có tính pháp lý của các tổ chức và công dân như cấp các giấy phép (giấy đăng ký kinh doanh, giấy phép xây dựng…), cấp các loại giấy xác nhận, chứng thực ( chứng minh thư, hộ khẩu, xác nhận hộ tịch…), thu các khoản đóng góp vào ngân sách nhà nước…
Dịch vụ sự nghiệp là các dịch vụ đáp ứng các nhu cầu cơ bản về phát triển cá nhân của con người. Dịch vụ sự nghiệp chủ yếu là các hàng hóa phi hiện vật (các dịch vụ giáo dục, y tế, lao động việc làm, an sinh xã hội…), do các tổ chức chuyên ngành có chuyên môn sâu cung cấp. Một bộ phận dịch vụ sự nghiệp có thu tiền người sử dụng theo mức thu do Nhà nước điều tiết.
Dịch vụ công ích là các hoạt động cung cấp hàng hóa, dịch vụ có tính chất kinh tế (cung cấp nước sạch, cung cấp điện, thoát nước, vận tải công cộng, vệ sinh môi trường…) đáp ứng nhu cầu vật chất thiết yếu cho đời sống của người dân, tạo ra cơ sở hạ tầng cơ bản cho sản xuất và sinh hoạt của các tổ chức và dân cư.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế-xã hội, sự gia tăng dân số và chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao, các mối quan hệ xã hội ngày càng trở nên đa dạng, phức tạp, nhu cầu sử dụng dịch vụ công ngày càng đòi hỏi cao về chất lượng cung ứng. Nhà nước – để đảm bảo thực hiện tốt chức năng xã hội của mình nhưng vẫn đảm bảo tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả thì việc huy động nguồn lực to lớn từ xã hội tham gia vào việc cung ứng các dịch vụ công là hết sức cần thiết nhằm giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước và áp lực cho bộ máy nhà nước. Việc huy động nguồn lực xã hội cũng đồng thời tạo ra môi trường cạnh tranh khắc phục tình trạng nhà nước “độc quyền”, “hành chính” hóa các dịch vụ công; chất lượng dịch vụ theo đó mà nâng cao. Đây chính là việc xã hội hóa dịch vụ công, theo đó, Nhà nước chuyển giao một số chức năng cho khu vực ngoài Nhà nước đảm nhận, Nhà nước chỉ giữ vai trò định hướng, điều tiết và kiểm soát. Luận văn: Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
Xã hội hóa dịch vụ công là quá trình huy động, tổ chức sự tham gia rộng rãi, chủ động của nhân dân và các tổ chức vào hoạt động cung ứng dịch vụ công cộng trên cơ sở phát huy sáng tạo và khả năng đóng góp của mỗi người [43, tr.54].
Có thể hiểu xã hội hóa theo một cách khác, đó là:
Quá trình chuyển hóa, tạo lập cơ chế hoạt động và cơ chế tổ chức quản lý mới của một số lĩnh vực hoạt động kinh tế-xã hội, trên cơ sở cộng đồng trách nhiệm nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, phục vụ cho mục đích phát triển kinh tế- xã hội của đất nước [41, tr.106].
Việc chuyển giao các dịch vụ công cho tư nhân, các tổ chức phi nhà nước cung ứng thực chất là quá trình “phi nhà nước hóa”, hay xã hội hóa dịch vụ công, với mục tiêu hoàn thiện bộ máy nhà nước, làm cho bộ máy nhà nước gọn nhẹ, hiệu lực, hiệu quả đồng thời thúc đẩy sự cạnh tranh, nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng sự phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia. Ở một số nước trên thế giới, việc xã hội hóa dịch vụ công đã trở thành một xu hướng tất yếu. Phạm vi các dịch vụ công được xã hội hóa ngày càng rộng rãi theo nguyên tắc “cái gì các chủ thể khác có thể đảm đương được thì Nhà nước không tham gia”, Nhà nước chỉ giữ vai trò định hướng, điều tiết và kiểm soát để các chủ thể khác thực hiện một cách thuận lợi, hiệu quả.
Xã hội hóa dịch vụ công được tiến hành khi Nhà nước nhận thấy những lĩnh vực có thể để cho xã hội tự thực hiện và thực hiện có hiệu quả hơn; thu hẹp phạm vi can thiệp của Nhà nước đối với các quá trình xã hội. Xã hội hóa cũng có thể diễn ra khi việc can thiệp quá sâu của Nhà nước dẫn đến các hiệu quả tiêu cực, không đáp ứng được nhu cầu phát triển xã hội. Xã hội hóa nhằm phát huy hình thức tự quản xã hội, kết hợp quản lý nhà nước với tự quản của các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, phát huy tính tích cực, chủ động, năng động của xã hội, làm cho Nhà nước gần với xã hội hơn.
Việt Nam, xã hội hóa dịch vụ công là một chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Trong những năm qua, Nhà nước ta đã thực hiện chủ trương từng bước mở rộng phạm vi xã hội hóa trên nhiều lĩnh vực như: Y tế, giáo dục, khoa học, văn hóa, giao thông vận tải… và gần đây, ở lĩnh vực công chứng, quá trình xã hội hóa đang được thực hiện một cách mạnh mẽ.
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, hệ thống công chứng nhà nước đã tồn tại và đạt được những thành quả nhất định, tuy nhiên, khi nền kinh tế vận hành sang nền kinh tế thị trường, hệ thống công chứng nhà nước đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế và không còn phù hợp. Quan niệm về công chứng theo đó cũng được đổi mới, xác định công chứng là một nghề tự do đặt dưới sự quản lý của Nhà nước; là sự đề cao, phát huy trách nhiệm cá nhân của công chứng viên; tạo ra cơ chế cạnh tranh lành mạnh, tạo động lực để công chứng viên phát huy tính tích cực, chủ động, trách nhiệm trong hoạt động của mình; giảm nhẹ sự bao cấp của Nhà nước và chức năng cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực công chứng; tăng thu ngân sách từ nguồn thu của tổ chức hành nghề công chứng, đồng thời tạo ra sự linh hoạt về mặt tổ chức, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ, đáp ứng nhu cầu công chứng của xã hội trong nền kinh tế thị trường. Những ưu điểm của mô hình công chứng tự do là không thể phủ nhận, đây là mô hình phản ánh đúng bản chất công chứng, phát huy vai trò của công chứng trong đời sống xã hội. Vấn đề xã hội hóa được đặt ra như một giải pháp hiệu quả cho việc cải cách công chứng đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
Khi xem xét công chứng là một dịch vụ công, ta có thể hiểu: Xã hội hoá công chứng là quá trình Nhà nước chuyển hóa, đổi mới phương thức quản lý, phương thức tổ chức hoạt động công chứng, tiến tới chuyển giao việc công chứng cho các cá nhân, tổ chức phi nhà nước thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả công chứng, đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Với sự chuyển giao công chứng cho các tổ chức, cá nhân thì công chứng được coi là một nghề, chủ thể thực hiện việc công chứng được xác định là công chứng viên, Nhà nước rút dần khỏi việc trực tiếp cung ứng dịch vụ công chứng chuyển cho các tổ chức, cá nhân phi nhà nước bằng cách cho phép thành lập các tổ chức hành nghề công chứng. Người thành lập tổ chức hành nghề công chứng sẽ tự chịu trách nhiệm bố trí cơ sở vật chất, con người và các điều kiện khác để hoạt động và chịu trách nhiệm dân sự đối với khách hàng về việc thực hiện công chứng của mình. Nhà nước chỉ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về nghề công chứng, không phải gánh vác nguồn ngân sách dành cho việc xây dựng trụ sở, điều kiện vật chất và con người để phục vụ hoạt động công chứng trước nhu cầu công chứng ngày càng nhiều của xã hội. Tuy nhiên, để đảm bảo thực hiện tốt chức năng phục vụ xã hội của mình trong việc cung ứng dịch vụ công chứng, khi chuyển giao cho các tổ chức, cá nhân, Nhà nước đồng thời phải tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với nghề công chứng, đổi mới phương thức, cơ chế quản lý bằng cách xây dựng pháp luật, xây dựng thể chế, tạo môi trường pháp lý, bảo đảm quyền tự do kinh doanh, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực công chứng; định hướng, hoạch định việc phát triển nghề công chứng trong từng giai đoạn cụ thể, đồng thời tăng cường các biện pháp quản lý nhà nước như: Thanh tra, kiểm tra, giám sát, quản lý chặt chẽ việc bổ nhiệm công chứng viên, thành lập tổ chức hành nghề công chứng, quản lý hoạt động của công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng… Trong quá trình xã hội hoá công chứng, song song với việc đẩy mạnh xã hội hóa là việc tăng cường năng lực quản lý nhà nước theo kịp với yêu cầu của quá trình xã hội hóa. Bởi vậy, phải xác định xã hội hoá công chứng là một quá trình lâu dài với những bước đi phù hợp với sự phát triển kinh tế-xã hội, trình độ dân trí, quá trình dân chủ hoá mọi mặt đời sống xã hội…đảm bảo hoạt động công chứng phát triển bền vững, đúng với định hướng của Nhà nước.
1.3.2. Pháp luật về xã hội hóa hoạt động công chứng và vai trò của pháp luật đối với hoạt động công chứng khi thực hiện xã hội hóa Luận văn: Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
1.3.2.1. Pháp luật về xã hội hóa hoạt động công chứng
Từ những nhận thức về xã hội hóa hoạt động công chứng, có thể định nghĩa pháp luật về xã hội hóa hoạt động công chứng như sau:
Pháp luật về xã hội hóa hoạt động công chứng là hệ thống các quy phạm pháp luật có tính chất bắt buộc chung nhằm điều chỉnh các mối quan hệ trong quá trình Nhà nước chuyển giao việc công chứng cho các tổ chức, cá nhân phi nhà nước thực hiện và được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp tổ chức, giáo dục, thuyết phục, cưỡng chế bằng bộ máy nhà nước.
Trong quá trình xã hội hóa công chứng, các mối quan hệ trong hoạt động công chứng cũng thay đổi, các mối quan hệ đa dạng hơn, bản chất, chủ thể của quan hệ cũng thay đổi theo trong tư cách là một nghề tự do. Trước đây, khi việc công chứng chỉ do Nhà nước thực hiện và đảm bảo các điều kiện để trực tiếp cung ứng cho các tổ chức, cá nhân thì các quan hệ công chứng nói chung chỉ được thiết lập giữa tổ chức, cá nhân với Nhà nước mà đại diện là cơ quan nhà nước có chức năng thực hiện việc công chứng; người thực hiện việc công chứng chịu sự quản lý của cơ quan nhà nước theo quan hệ công vụ và không phải chịu trách nhiệm với khách hàng về hành vi công chứng của mình. Trong điều kiện hoạt động công chứng được xã hội hóa, Nhà nước chỉ giữ vai trò quản lý bằng chính sách, bằng pháp luật, xuất hiện thêm nhiều chủ thể, các quan hệ công chứng đa dạng và phức tạp hơn đó là quan hệ giữa Nhà nước và các tổ chức hành nghề công chứng, Nhà nước với công chứng viên, Nhà nước với người yêu cầu công chứng; quan hệ giữa tổ chức hành nghề công chứng và khách hàng, tổ chức hành nghề công chứng với công chứng viên, người lao động; quan hệ giữa công chứng viên và khách hàng…. đòi hỏi Nhà nước phải xây dựng được hệ thống pháp luật thống nhất để điều chỉnh các quan hệ trên, trật tự hóa, củng cố và phát triển các quan hệ tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, vững chắc cho định hướng xã hội hóa công chứng nhằm đạt được mục đích nâng cao chất lượng, hiệu quả phục vụ của hoạt động công chứng, quản lý nhà nước về công chứng. Theo đó, trong nội dung pháp luật công chứng khẳng định công chứng là một nghề, xác định quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các chủ thể trong hoạt động công chứng, thiết lập các biện pháp quản lý nhà nước phù hợp với quá trình xã hội hóa nhằm đảm bảo việc thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội. Đồng thời, xây dựng pháp luật về công chứng để làm cơ sở đồng bộ hóa hệ thống pháp luật có liên quan đến chế định công chứng trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Trong hệ thống pháp luật về công chứng ở nước ta, nội dung xã hội hóa công chứng đã được thể hiện rất rõ tại các quy định về tổ chức hành nghề công chứng, công chứng viên, thẩm quyền công chứng, phí công chứng, chế độ tài chính cũng như quản lý nhà nước về công chứng.
Thứ nhất, nội dung xã hội hóa hoạt động công chứng được thể hiện rõ ràng trong quy định về tổ chức hành nghề công chứng. Ngay trong tên gọi đã thể hiện sự thay đổi. Điều 18 Luật Công chứng 2014 quy định nguyên tắc thành lập tổ chức hành nghề công chứng, hình thức tổ chức hành nghề công chứng gồm: Phòng công chứng và các Văn phòng công chứng. Trong đó, Văn phòng công chứng được tổ chức và hoạt động theo loại hình công ty hợp danh theo nguyên tắc tự chủ về tài chính bằng nguồn thu từ phí, thù lao công chứng và các nguồn thu hợp pháp khác. Đây chính là biểu hiện cụ thể, sinh động của chủ trương xã hội hóa công chứng. Với hình thức Văn phòng công chứng và trao quyền tự chủ về tổ chức, hoạt động cho Văn phòng công chứng, đã khuyến khích nguồn nhân lực tham gia vào hoạt động công chứng, khuyến khích sự phát triển của mạng lưới tổ chức hành nghề công chứng rộng khắp, nâng cao tính cạnh tranh, tính phục vụ, xã hội sẽ được hưởng một dịch vụ công chứng chất lượng, hiệu quả cao hơn. Hình thức tổ chức hành nghề công chứng rất phù hợp với nền kinh tế thị trường, bản thân nó là kết quả tất yếu của sự phù hợp giữa các quy định pháp luật và sự phát triển kinh tế.
Thứ hai, nội dung xã hội hóa hoạt động công chứng được thể hiện trong các quy định về công chứng viên. Nếu như trước đây, chỉ có quy định công chứng viên là viên chức làm việc trong cơ quan nhà nước, thì đến nay, còn tồn tại một loại hình công chứng viên làm việc trong Văn phòng công chứng.
Thứ ba, nội dung xã hội hóa hoạt động công chứng được thể hiện trong quy định về việc mở rộng thẩm quyền địa hạt công chứng. Điều 23 Nghị định số 75/2000/NĐ-CP quy định về thẩm quyền địa hạt của Phòng công chứng và Ủy ban nhân dân cấp huyện trong việc công chứng, chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến bất động sản như sau:
Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thẩm quyền địa hạt công chứng hợp đồng, giao dịch liên quan đến bất động sản trong địa phương mình cho từng Phòng công chứng. “Địa hạt” là một hoặc một số quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.2. Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến bất động sản trong phạm vi địa hạt của huyện, quận, thị xã mình mà không thuộc thẩm quyền địa hạt của Phòng công chứng quy định tại khoản 1 Điều này… [15, Điều 23].
Việc phân định thẩm quyền địa hạt nêu trên đã hạn chế phạm vi hoạt động công chứng về bất động sản của các Phòng công chứng, đồng thời cũng thể hiện việc chưa phân biệt rõ thẩm quyền về công chứng, chứng thực. Khắc phục điều này, trong Điều 42 Luật Công chứng 2014 đã quy định phạm vi công chứng hợp đồng, giao dịch về bất động sản:
Công chứng viên của tổ chức hành, nghề công chứng chỉ được công chứng hợp đồng, giao dịch về bất động sản trong phạm tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi tổ chức hành nghề công chứng đặt trụ sở, trừ trường hợp công chứng di chúc, văn bản từ chối nhận di sản là bất động sản và văn bản ủy quyền liên quan đến việc thực hiện các quyền đối với bất động sản [47].
Như vậy, thẩm quyền về địa hạt của các tổ chức hành nghề công chứng đã được mở rộng, quy định này tạo sự thuận tiện cho người dân khi có nhiều sự lựa chọn để thực hiện yêu cầu công chứng của mình. Người dân quận, huyện này muốn công chứng hợp đồng, giao dịch bất động sản tại quận, huyện khác cùng tỉnh, thành phố có thể công chứng ngay tại nơi mình thường trú. Đối với những tỉnh, thành phố rộng, khoảng cách giữa các quận, huyện, thị xã xa nhau thì điều này rất có ý nghĩa, tiết kiệm được thời gian, công sức cũng như làm cho hệ thống công chứng gần dân hơn, khả năng đáp ứng yêu cầu công chứng tốt hơn. Đây chính là mục tiêu của việc xã hội hóa hoạt động công chứng.
Thứ tư, nội dung xã hội hóa hoạt động công chứng được thể hiện trong quy định về phí công chứng. Trước đây, theo Thông tư liên tịch số 93/2001/TTLT-BTC-BTP ngày 21/11/2001 của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp hướng dẫn chế độ thu, nộp và quản lý sử dụng phí, lệ phí công chứng, chứng thực [10] thì Phòng công chứng được thu “lệ phí công chứng”. Hiện nay, theo quy định mới, tổ chức hành nghề công chứng được thu “phí công chứng”. Điều này được quy định tại Điều 66 Luật Công chứng 2014, Thông tư liên tịch số 08/2012/TTLT-BTC-BTP ngày 19/01/2012 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí công chứng [11]. Sự khác nhau về tên gọi đã thể hiện rõ sự thay đổi về nội dung. Theo Pháp lệnh về phí, lệ phí năm 2001 thì lệ phí được hiểu mang tính công vụ, còn phí mang tính dịch vụ, được thu để bù đắp chi phí. Điều này thể hiện sự chuyển mình của hệ thống công chứng từ cơ quan hành chính sự nghiệp sang đơn vị cung ứng dịch vụ công. Bên cạnh đó, phí công chứng theo Thông tư lên tịch số 08/2012/TTLT-BTC-BTP được quy định cao hơn nhiều với lệ phí công chứng cũ. Quy định này nhằm bảo đảm nguyên tắc xác định mức thu phí bù đắp được những chi phí phục vụ cho việc thực hiện dịch vụ công chứng, phù hợp với khả năng đóng góp của người nộp, khắc phục được những mặt hạn chế của chế độ thu lệ phí công chứng. Luận văn: Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
Ngoài ra, theo Thông tư liên tịch số 93/2001/TTLT-BTC-BTP, các Phòng công chứng được tạm trích 15% đến 20% trên tổng số tiền lệ phí công chứng thu được trước khi nộp ngân sách nhà nước. Số tiền tạm trích được sử dụng vào các nội dung chi phục vụ công tác thu lệ phí và cũng được quy định rõ cơ quan công chứng, chứng thực phải sử dụng đúng mục đích, có chứng từ hợp pháp theo chế độ quy định và quyết toán năm nếu chưa sử dụng hết thì phải nộp số còn lại vào ngân sách nhà nước theo quy định. Đây là quy định chặt chẽ, thể hiện rõ tính hành chính nhà nước. Phòng công chứng do Nhà nước thành lập ra và lệ phí công chứng phần lớn cũng nộp vào ngân sách nhà nước. Cán bộ, viên chức, nhân viên Phòng công chứng chỉ được nhận tiền lương, thù lao theo đúng giới hạn mà có thể không tương xứng với thời gian cũng như cường độ lao động bỏ ra.
Hiện nay, theo Thông tư lên tịch số 08/2012/TTLT-BTC-BTP quy định về quản lý, sử dụng phí công chứng mặc dù phí công chứng vẫn được xác định là khoản thu thuộc ngân sách nhà nước nhưng số tiền trích lại được tăng lên. Đối với Văn phòng công chứng, phí công chứng chính là doanh thu, bị đánh thuế doanh thu như đối với thu nhập của doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh. Quy định nêu trên nhằm giúp cho các Phòng công chứng có thể tự chủ về tài chính từ đó độc lập về mặt tổ chức hoạt động, điều chỉnh nhân sự theo nhu cầu thực tế cũng như có thể duy trì, phát triển hoạt động công chứng của mình. Đây chính là một trong những ý nghĩa quan trọng của quá trình xã hội hóa.
Thứ năm, nội dung xã hội hóa hoạt động công chứng được thể hiện trong quy định mới về chế độ tài chính áp dụng đối với Phòng công chứng. Các Phòng công chứng chuyển đổi loại hình sang đơn vị sự nghiệp công lập và được áp dụng chế độ tài chính của đơn vị sự nghiệp có thu, được quy định tại Điều 19 Luật Công chứng 2014: “Phòng công chứng là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Tư pháp, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng” [47]. Như vậy,
Phòng công chứng là đối tượng áp dụng của Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính Phủ quy định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập [16] (hiện nay là Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập). Điều 2 của Nghị định này quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công là các quy định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính của đơn vị sự nghiệp công.
Việc ban hành các quy định nêu trên đánh dấu một bước chuyển mới về mô hình tổ chức của các Phòng công chứng. Trong đó, Nhà nước trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các Phòng công chứng trong việc tổ chức, sắp xếp bộ máy, sử dụng lao động cũng như tự chủ một phần về tài chính. Quy định này rõ ràng là một bước tiến của quá trình xã hội hóa, từng bước giảm dần sự bao cấp của Nhà nước để hướng tới các phòng công chứng sẽ trở thành các đơn vị tự chủ về mặt tài chính, tổ chức.
Thứ sáu, nội dung xã hội hóa hoạt động công chứng được thể hiện trong quy định quản lý nhà nước về công chứng. Trước đây, Nghị định số 75/2000/NĐ-CP dành hẳn Chương II gồm 4 Điều: 17, 18, 19, 20 để quy định về vấn đề này. Trong đó, có những quy định rất chi tiết, can thiệp sâu vào công việc chuyên môn cũng như tổ chức bộ máy của các Phòng công chứng; quy định và hướng dẫn việc sử dụng thống nhất các sổ công chứng, sổ chứng thực; quy định và hướng dẫn việc sử dụng mẫu hợp đồng, giao dịch, mẫu nội dung lời chứng; Điều 19 quy định Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có quyền hạn: “Quyết định thẩm quyền địa hạt cho từng Phòng công chứng; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng công chứng; định biên chế cho từng Phòng công chứng”. Nghị định số 75/2000/NĐ-CP còn quy định cụ thể về tổ chức bộ máy của Phòng công chứng: “Phòng công chứng có trưởng phòng, phó trưởng phòng, công chứng viên, chuyên viên và các nhân viên khác. Phòng công chứng phải có ít nhất 3 công chứng viên” [15, Điều 26].
Đây là phương thức quản lý mang nặng tính hành chính nhà nước theo nguyên tắc mệnh lệnh tập trung. Phương thức quản lý này không còn phù hợp khi xuất hiện Văn phòng công chứng – hình thức tổ chức hành nghề công chứng không phải do Nhà nước thành lập ra. Vì vậy, Nhà nước đã đổi mới phương thức quản lý mới. Điều này thể hiện tại Điều 70 Luật Công chứng 2014 quy định Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện các biện pháp phát triển tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; Quyết định thành lập Phòng công chứng, bảo đảm cơ sở vật chất và phương tiện làm việc cho các Phòng công chứng; quyết định việc giải thể hoặc chuyển đổi Phòng công chứng theo quy định của Luật này…. Bên cạnh đó, Luật
Công chứng cho phép các địa phương khi thành lập Phòng công chứng tự xác định số lượng công chứng viên cần thiết, tùy theo yêu cầu trong từng giai đoạn, mỗi phòng có thể có một hoặc nhiều công chứng viên. Đây là quy định mang tính linh hoạt hơn so với quy định cũ.
Như vậy, Nhà nước chủ yếu quản lý về công chứng bằng các chính sách, quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng và có sự phân cấp, phân công rõ ràng trách nhiệm quản lý. Phương thức này nâng cao khả năng quản lý của Nhà nước ở tầm vĩ mô đồng thời tăng cường tính tự chủ, tự quản của các tổ chức hành nghề công chứng. Đây chính là một biểu hiện của việc xã hội hóa hoạt động công chứng.
1.3.3. Vai trò của pháp luật đối với hoạt động công chứng khi thực hiện xã hội hóa Luận văn: Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
Pháp luật về công chứng là tổng thể các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong tổ chức và hoạt động công chứng, được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp tổ chức, giáo dục, thuyết phục, cưỡng chế bằng bộ máy nhà nước.
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật công chứng gồm các quan hệ như: Quan hệ quản lý nhà nước về công chứng; quan hệ hoạt động hành nghề công chứng; quan hệ trong tổ chức công chứng …
Chủ thể của quan hệ pháp luật công chứng là: Các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền quản lý nhà nước về công chứng; các tổ chức hành nghề công chứng; công chứng viên và cá nhân, tổ chức có nhu cầu công chứng.
Khách thể của quan hệ pháp luật công chứng đó là: Sự an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch; quyền, nghĩa vụ của các tổ chức hành nghề công chứng, công chứng viên, các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền quản lý nhà nước về công chứng, tổ chức, cá nhân có nhu cầu công chứng.
Vai trò của pháp luật đối với hoạt động công chứng khi thực hiện xã hội hóa thể hiện ở các nội dung sau :
Thứ nhất, pháp luật bảo đảm cho hoạt động về công chứng diễn ra theo đúng ý chí, mong muốn của Nhà nước
Pháp luật về công chứng thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công chứng trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng xã hội dân sự trên tinh thần thượng tôn pháp luật, bảo đảm quyền con người, quyền, lợi ích của công dân, xây dựng môi trường pháp lý an toàn, lành mạnh góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.
Tương ứng với từng thời kỳ phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước, Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật nhằm quản lý hoạt động công chứng đảm bảo phù hợp với tình hình thực tiễn và theo đúng định hướng đã đề ra. Một mặt các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức thực hiện các quy định pháp luật trong thực tế bằng các hoạt động chuyên môn, mặt khác các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo đảm hiệu lực của quy định của pháp luật bằng hoạt động thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo và xử lý hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động công chứng.
Thực hiện chủ trương xã hội hoá công chứng đã được đề ra trong Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị là “Xây dựng mô hình quản lý nhà nước về công chứng theo hướng Nhà nước chỉ tổ chức cơ quan công chứng thích hợp; có bước đi thích hợp để từng bước xã hội hoá công việc này” [3]. Trong xây dựng nhà nước pháp quyền, Nhà nước không thể ôm tất cả, cơ quan nhà nước chỉ làm những gì đích thực mình phải làm, còn lại Nhà nước phải trở thành “bà đỡ” cho các hoạt động khác trên cơ sở ban hành chính sách pháp luật. Có thể nói pháp luật về công chứng với chủ trương khuyến khích “xã hội hoá công chứng” đánh dấu một bước phát triển của hoạt động công chứng, xoá bỏ độc quyền của Nhà nước. Trong quá trình đó, Nhà nước rút dần khỏi việc trực tiếp cung ứng dịch vụ công chứng, tiến tới chuyển giao hẳn cho các chủ thể phi Nhà nước thực hiện, Nhà nước chỉ đóng vai trò là người thực hiện quản lý.
Với việc truyền tải sự thay đổi căn bản đó, pháp luật đã đưa hoạt động công chứng về đúng vị trí, chức năng của nó, phát huy tối đa vai trò đối với xã hội, gánh vác trách nhiệm xã hội, chia sẻ gánh nặng với bộ máy Nhà nước với tư cách là một đảm bảo an toàn pháp lý cho các giao dịch, hợp đồng, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế – xã hội.
Thứ hai, pháp luật là phương tiện để các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công chứng, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước bằng pháp luật về công chứng
Pháp luật về công chứng là phương tiện hữu hiệu để Nhà nước thực hiện việc quản lý hoạt động nghề nghiệp của công chứng viên, đồng thời nâng cao vai trò tự quản của tổ chức hành nghề công chứng. Nhà nước thực hiện việc quản lý hoạt động công chứng thông qua việc ban hành pháp luật và chính sách nhằm tạo ra khuôn mẫu xử sự chung, quy định các biện pháp, các chế tài xử lý các hành vi, vi phạm pháp luật về công chứng. Đồng thời Nhà nước cũng căn cứ vào các quy tắc đó để xác định hành vi nào là phù hợp với pháp luật, hành vi nào không phù hợp với pháp luật, từ đó có các biện pháp xử lý thích hợp, phù hợp với ý chí, mong muốn của Nhà nước.
Thứ ba, pháp luật tạo ra hành lang pháp lý cho các hành vi của chủ thể trong mối quan hệ công chứng, thông qua đó, pháp luật công chứng cũng là phương tiện để các chủ thể bảo về quyền, lợi ích hợp pháp của mình
Bằng việc ghi nhận quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong hoạt động công chứng, pháp luật về công chứng giúp các chủ thể nhận thức và nâng cao thức pháp luật, điều chỉnh hành vi của mình, ứng xử phù hợp với quy định. Ví dụ: Thông qua pháp luật về công chứng, Nhà nước đảm bảo cho công chứng viên có đầy đủ điều kiện thực hiện mà không bị cản trở hoặc bị can thiệp không đúng, không bị đe doạ, truy tố, hoặc bị xử lý bằng những biện pháp hành chính, kinh tế và các biện pháp khác. Bất kỳ một hành động nào do công chứng viên thực hiện phù hợp với trình tự, thủ tục thực hiện công chứng và tiêu chuẩn đạo đức của công chứng viên đã được pháp luật quy định đều được pháp luật bảo vệ. Mặt khác, pháp luật về công chứng đã trở thành phương tiện hành nghề độc lập của công chứng viên, duy trì tính tự quản cao trong hoạt động nghề nghiệp của công chứng viên. Pháp luật về công chứng cũng là phương tiện phát huy vai trò của công chứng viên trong các mặt của đời sống kinh tế – xã hội và đối với bản thân hệ thống chính trị, góp phần xây dựng và tổ chức vận hành có hiệu lực, hiệu quả các thiết chế dân chủ của hệ thống chính trị, làm cho các thiết chế ấy thực sự là của dân, do dân và vì dân.
Thông qua hệ thống pháp luật về công chứng, các chủ thể phát huy dân chủ, được bảo đảm thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động quản lý của chủ thể quản lý nhà nước.
Thứ tư, pháp luật là cơ sở để tổ chức hệ thống cơ quan quản lý, phân định thẩm quyền quản lý đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất trong hoạt động công chứng trên cả nước.
Thông qua hoạt động quản lý bằng pháp luật về công chứng của mình, các chủ thể quản lý nhà nước sẽ điều chỉnh tổ chức và hoạt động quản lý phù hợp với sự phát triển của hoạt động công chứng trong thực tiễn, qua đó hoàn thiện về tổ chức, hoạt động và cơ chế quản lý, đáp ứng được yêu cầu quản lý hoạt động công chứng trong từng giai đoạn cụ thể.
Với vai trò, tầm quan trọng, thì việc xây dựng một hệ thống pháp luật công chứng đồng bộ, thống nhất sẽ quyết định đến sự thành công của quá trình xã hội hóa hoạt động công chứng. Luận văn: Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Khái quát về luật công chứng tại tỉnh Bắc Giang