Luận văn: Khái quát về cấu trúc vốn của các doanh nghiệp

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Khái quát về cấu trúc vốn của các doanh nghiệp hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của các công ty ngành dược phẩm y tế niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.1 Cấu trúc vốn

2.1.1. Khái niệm cấu trúc vốn

Cấu trúc vốn là một thuật ngữ tài chính nhằm mô tả nguồn gốc và phương pháp hình thành nên nguồn vốn trong doanh nghiệp (Brigham và Houston, 2009; Nguyễn Minh Kiều, 2006; Vũ Duy Hào và các tác giả, 1998) thường là nhấn mạnh đến quan hệ về tỷ trọng giữa nợ và vốn chủ sở hữu.

Một cấu trúc vốn hợp lí phải đảm bảo sự hài hòa giữa vốn chủ sở hữu và các khoản nợ phải trả, có chi phí sử dụng vốn thấp và rủi ro chấp nhận được, phù hợp với điều kiện kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp.

2.1.2 Các thành phần trong cấu trúc vốn của doanh nghiệp Luận văn: Khái quát về cấu trúc vốn của các doanh nghiệp

Thành phần cơ bản trong cấu trúc tài chính gồm hai bộ phận chủ yếu là nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu.

Nợ phải trả

Theo thông tư 200/2014/TT-BTC, nợ phải trả là khoản nợ phát sinh trong quá trình kinh doanh mà doanh nghiệp phải trả, phải thanh toán cho các chủ nợ bao gồm các khoản nợ tiền vay, các khoản nợ phải trả cho người bán, cho Nhà nước , cho công nhân viên và các khoản phải trả khác. Nợ phải trả được phân loại theo thời hạn thanh toán, gồm có: Nợ ngắn hạn và nợ dài hạn

Nợ ngắn hạn

Nợ ngắn hạn phản ánh những khoản nợ mà doanh nghiệp có trách nhiệm thanh toán trong vòng một năm hay một chu kỳ kinh doanh bao gồm: Vay ngắn hạn ngân hàng, khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải nộp cho cơ quan quản lý nhà nước, các khoản phải trả cho cán bộ công nhân viên, trái phiếu ngắn hạn. Đối với các khoản ngắn hạn thường thủ tục, quy trình đơn giản và dễ thực hiện, và có chi phí sử dụng vốn thường thấp. Tuy nhiên thời hạn chi trả ngắn nên nếu sử dụng không hiệu quả và điều hành kế hoạch trả nợ không hợp lý có thể đưa đến những rủi ro yếu kém về khả năng thanh toán của doanh nghiệp.

Nợ dài hạn

Nợ dài hạn phản ánh những khoản nợ mà doanh nghiệp có trách nhiệm thanh toán vốn gốc và chi phí sử dụng vốn sau một thời hạn nhất định bao gồm các khoản vốn vay trung và dài hạn từ các tổ chức tín dụng bên ngoài như ngân hàng, công ty cho thuê tài chính, từ việc phát hành trái phiếu vay nợ của dân chúng, hay từ các quỹ hỗ trợ phát triển,… Về nguyên tắc vốn vay dài hạn có chi phí sử dụng cao hơn so với nguồn vốn ngắn hạn nhưng doanh nghiệp ít chịu áp lực thanh toán trong ngắn hạn.

Vốn chủ sở hữu

Theo thông tư 200/2014/TT-BTC, nguồn vốn chủ sở hữu là số tiền do các nhà đầu tư, các sáng lập viên đóng góp hoặc được hình thành từ kết quả hoạt động. Đây không phải là một khoản nợ và do đó công ty không có trách nhiệm phải thanh toán. Với những loại hình công ty khác nhau, vốn chủ sở hữu được hình thành khác nhau và gồm 3 loại sau:

Vốn điều lệ: là số tiền do các thành viên sáng lập đóng góp ban đầu khi thành lập. Đây chính là vốn được ghi trong điều lệ công ty.

Riêng đối với các công ty cổ phần, nguồn vốn chủ yếu do các cổ đông đóng góp dưới hình thức mua cổ phiếu phát hành của công ty. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của công ty và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên giá trị số cổ phần mà họ nắm giữ. Đây không phải là khoản nợ nên các công ty cổ phần được toàn quyền sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh mà không phải cam kết và ràng buộc về nghĩa vụ thanh toán. Chính vì đặc điểm này cho thấy mức độ tự chủ trong sản xuất kinh doanh của các công ty cổ phần phụ thuộc rất nhiều vào nguồn vốn này. Vốn góp cổ phần càng lớn thì mức độ tự chủ về tài chính càng cao.

Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia: là phần thu nhập của công ty được cổ đông đồng ý cho công ty giữ lại để tái đầu tư thay vì nhận cổ tức. Đây là nguồn vốn rất chủ động và thuận tiện cho công ty. Tuy nhiên, công ty phải cam kết trả cho cổ đông lãi suất cao hơn cổ tức hiện tại.

Nguồn vốn từ phát hành thêm cổ phiếu: Các doanh nghiệp có thể tăng thêm vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành thêm cổ phiếu mới. Đây chính là kênh huy động vốn rất quan trọng trong chiến lược tài trợ dài hạn của các doanh nghiệp. Các công ty cổ phần có thể phát hành thêm cổ phiếu thông qua thị trường chứng khoán.

Vốn chủ sở hữu khác: bao gồm các nguồn vốn và các quỹ chuyên dùng được hình thành chủ yếu từ việc phân phối lợi nhuận, bao gồm: quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản, chênh lệch tỷ giá hối đoái,…

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ Kế Toán

2.1.3. Chỉ tiêu đo lường cấu trúc vốn. Luận văn: Khái quát về cấu trúc vốn của các doanh nghiệp

Chỉ tiêu được sử dụng phổ biến để đo lường cấu trúc tài chính của doanh nghiệp là chỉ tiêu tỷ suất nợ và tỷ suất nợ trên vốn chủ sở hữu.

Chỉ tiêu tỷ suất nợ

Chỉ tiêu này phản ánh mối quan hệ giữa nợ phải trả trên tổng tài sản. Nó cho biết mức độ tài trợ tài sản của doanh nghiệp bằng các khoản nợ hay tài sản của doanh nghiệp được tài trợ bao nhiêu phần trăm từ các khoản nợ. Khi tỷ suất nợ càng cao thì mức độ phụ thuộc của doanh nghiệp vào các chủ nợ càng lớn và khả năng tiếp cận các khoản vay nợ càng khó khăn nếu như doanh nghiệp không thanh toán kịp thời các khoản nợ và hiệu quả hoạt động kém. Đối với các chủ nợ tỷ suất này càng cao thì khả năng thu hồi vốn đối với các khoản nợ của họ ngày càng giảm. Vì vậy, đây là một trong các chỉ tiêu để các nhà đầu tư đánh giá rủi ro và cấp tín dụng cho doanh nghiệp.

Chỉ tiêu tỷ suất nợ trên vốn chủ sở hữu

Chỉ tiêu tỷ suất nợ trên vốn chủ sở hữu thể hiện mức độ đảm bảo nợ bởi vốn chủ sở hữu, nó phản ánh tính tự chủ về tài chính của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cho biết một đồng nợ được đảm bảo bằng bao nhiêu đồng vốn chủ sở hữu.

2.2 Các cơ sở lý thuyết về cấu trúc vốn Luận văn: Khái quát về cấu trúc vốn của các doanh nghiệp

2.2.1 Lý thuyết cấu trúc vốn của Modigliani và Miller (mô hình MM)

Modigliani và Miller đã tìm hiểu xem chi phí vốn tăng hay giảm khi một doanh nghiệp tăng hay giảm vay mượn.

Lý thuyết MM trong môi trường  hông có thuế

Năm 1958, Modilligani và Miller giả định là thị trường vốn là hoàn hảo, MM kết luận rằng giá trị của doanh nghiệp độc lập với cấu trúc vốn bởi vì giá trị của một doanh nghiệp phải phụ thuộc vào giá trị hiện tại của các hoạt động của nó, không phải dựa trên cách thức cấp vốn. Không có cấu trúc vốn nào là tối ưu và doanh nghiệp cũng không thể nào gia tăng giá trị bằng cách thay đổi cấu trúc vốn

Lý thuyết MM trong môi trường có thuế

Năm 1963, Modilligani và Miller đưa ra một nghiên cứu tiếp theo với việc loại bỏ giả thiết về thuế thu nhập doanh nghiệp. Theo MM, với thuế thu nhập doanh nghiệp, việc sử dụng nợ sẽ làm tăng giá trị của doanh nghiệp. Vì chi phí lãi vay là chi phí hợp lý được khấu trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp, nên khi doanh nghiệp sử dụng nợ vay để tài trợ sẽ xuất hiện khoản tiết kiệm bằng tiền tăng thêm đối với các nhà đầu tư , khoản tiết kiệm này chính là lãi vay nhân với thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp. Như vậy, theo mô hình thuế MM (1963) cấu trúc vốn có liên quan đến giá trị của doanh nghiệp. Sử dụng nợ càng cao thì giá trị doanh nghiệp càng tăng và gia tăng đến tối đa khi doanh nghiệp được tài trợ 100% nợ.

Các giả định của lý thuyết MM: Không có thuế thu nhập doanh nghiệp, không có chi phí giao dịch , chi phí phá sản và chi phí khó khăn tài chính , cá nhân và tổ chức có thể vay tiền như nhau, thị trường vốn là hoàn hảo và không có nhà đầu tư riêng lẻ nào có một ảnh hưởng lớn đối với giá cả chứng khoán

2.2.2 Lý thuyết đánh đổi cấu trúc vốn Khóa luận: Luận văn: Khái quát về cấu trúc vốn của các doanh nghiệp

Lý thuyết đánh đổi cấu trúc vốn (Scott, 1976) giải thích vì sao các doanh nghiệp thường được tài trợ một phần bằng nợ vay, một phần bằng vốn cổ phần. Một lý do lớn khiến các doanh nghiệp không thể tài trợ hoàn toàn bằng nợ vay là vì, bên cạnh sự hiện hữu lợi ích tấm chắn thuế từ nợ, việc sử dụng tài trợ bằng nợ cũng phát sinh nhiều chi phí, điển hình nhất là các chi phí kiệt quệ tài chính bao gồm cả chi phí trực tiếp lẫn chi phí gián tiếp của việc phá sản có nguyên nhân từ nợ.

Với mỗi phần trăm tỷ lệ nợ tăng thêm, trong khi lợi ích tấm chắn thuế gia tăng thì chi phí kiệt quệ tài chính cũng gia tăng. Sẽ đến một lúc nào đó, khi mà với mỗi tỷ lệ nợ tăng thêm, hiện giá lợi ích từ tấm chắn thuế không cao hơn hiện giá chi phí kiệt quệ tài chính thì việc vay nợ không còn mang lại lợi ích cho doanh nghiệp. Chính vì điều này, các công ty luôn tìm cách tối ưu hóa tổng giá trị doanh nghiệp dựa trên nguyên tắc cân bằng này để xác định nên lựa chọn bao nhiêu nợ và bao nhiêu vốn cổ phần trong cấu trúc vốn của mình. Điểm xác định cấu trúc vốn tối ưu là tại đó với mỗi lượng nợ tăng thêm thì lợi ích từ tấm chắn thuế bằng chi phí kiệt quệ tài chính.

Lý thuyết đánh đổi thừa nhận rằng tỷ lệ nợ mục tiêu có thể khác nhau giữa các doanh nghiệp. Các công ty có tài sản hữu hình an toàn, có khả năng sinh lời cao nên tỷ lệ nợ cao hơn và ngược lại.

Như vậy, lý thuyết này cho thấy: tỷ lệ tài sản cố định hữu hình, khả năng sinh lời, tấm chắn thuế, rủi ro tài chính có sự tác động đến cấu trúc vốn

  • Doanh nghiệp có tài sản cố định hữu hình cao sẽ có khả năng chi trả tốt hơn, doanh nghiệp sẽ sử dụng nợ nhiều hơn để tận dụng lợi ích từ tấm chắn thuế
  • Khả năng sinh lời càng cao thì chi phí kiệt quệ tài chính càng ít và doanh nghiệp sẽ có xu hướng sử dụng nhiều nợ hơn để tận dụng lợi ích từ tấm chắn thuế
  • Tuy nhiên, bên cạnh sự hiện hữu lợi ích tấm chắn thuế từ nợ, kéo theo đó là chi phí kiệt quệ tài chính dẫn đến khả năng doanh nghiệp sẽ phá sản nếu sử dụng quá nhiều nợ
  • Rủi ro tài chính cao sẽ có khả năng kiệt quệ tài chính cao hơn, lúc này doanh nghiệp sẽ đối mặt với nguy cơ phá sản , làm cho niềm tin của các nhà đầu tư bên ngoài thấp, vì vậy khả năng tiếp cận nguồn vốn bên ngoài thấp

Từ lý luận trên, thuyết đánh đổi có ý nghĩa thực tế hơn so với mô hình MM, thuyết này dự đoán doanh nghiệp lợi nhuận cao đồng nghĩa với giá thị trường cao và thu nhập chịu thuế cao , do đó doanh nghiệp có động cơ vay nhiều hơn . Điều này không hoàn toàn đúng trong thực tế, thuyết trật tự phân hạng sẽ giải thích chặt chẽ hơn về điều này.

2.2.3 Thuyết trật tự phân hạng (thông tin bất cân xứng)

Thuyết trật tự phân hạng thị trường được nghiên cứu khởi đầu bởi Myers và Majluf (1984) Giả thuyết rằng ban quản trị dựa trên thông tin không cân xứng ảnh hưởng đến quyết định đầu tư và tài trợ cho doanh nghiệp. Ban quản trị luôn có nhiều thông tin hơn những nhà đầu tư. Khi ban quản trị đánh giá cổ phiếu cao hơn là thì họ sẽ phát hành chứng khoán (nguồn tài chính bên ngoài). Về phía nhà đầu tư họ mong muốn nhận mức chiết khấu cao khi doanh nghiệp phát hành chứng khoán, điều này dẫn đến chi phí cho các nguồn đầu tư bên ngoài thì rất đắt đỏ. Thuyết trật tự phân hạng đề xuất trật tự phân hạng theo trình tự ưu tiên là sử dụng vốn nội bộ (lợi nhuận giữ lại), đến phát hành nợ và sau cùng là phát hành vốn cổ phần.

Lý thuyết này giúp giải thích vì sao các doanh nghiệp có khả năng sinh lời nhiều hơn thường có tỷ lệ nợ vay thấp (điều mà lý thuyết đánh đổi không giải thích được) và các doanh nghiệp có khả năng sinh lời ít thì phát hành nợ, vì họ không có đủ nguồn vốn đầu tư cho các dự án, và vì nợ đứng đầu trong trật tự phân hạng của tài trợ từ bên ngoài.

Lý thuyết này cho thấy: tốc độ tăng trưởng, khả năng sinh lời có tác động đến cấu trúc vốn

Doanh nghiệp tăng trưởng tốt đồng nghĩa với việc có nhu cầu vay vốn nhiều, khi lợi nhuận giữ lại không đủ để đáp ứng doanh nghiệp sẽ ưu tiên lựa chọn vốn vay để tăng tỷ lệ nợ . Tốc độ tăng trưởng tương quan thuận chiều với cấu trúc vốn

Khả năng sinh lời cao sẽ làm cho doanh nghiệp có điều kiện để giữ lại lợi nhuận nhiều hơn nên sẽ ít sử dụng nợ vay hơn , khả năng sinh lời có mối tương quan nghịch với cấu trúc vốn

2.2.4 Lý thuyết chi phí đại diện Luận văn: Khái quát về cấu trúc vốn của các doanh nghiệp

Lý thuyết chi phí đại diện được Jensen và Meckling (1976) hoàn tất . Lý thuyết này nhìn nhận sự tồn tại của một cấu trúc vốn tối ưu cho doanh nghiệp, bởi vì có mặt của chi phí đại diện .

Chi phí đại diện được chia thành hai loại :

  • Chi phí đại diện phát sinh mâu thuẩn giữa cổ đông và trái chủ
  • Chi phí đại diện phát sinh mâu thuẩn giữa cổ đông và nhà quản lý

Chi phí đại diện phát sinh mâu thuẩn giữa cổ đông và trái chủ (gọi là chi phí đại diện của nợ).

Khi doanh nghiệp gặp khó khăn, cả trái chủ và cổ đông đều muốn doanh nghiệp phục hồi , quyền lợi của họ có thể mâu thuẩn lẫn nhau . Các cổ đông, người nắm quyền điều hành công ty , họ sẽ thực hiện một số hành vi sau để tranh giành lợi ích đối với chủ nợ của họ. Các hành vi này sẽ phát sinh chi phí , bởi vì chúng gây tổn hại đến giá trị doanh nghiệp

Chuyển dịch rủi ro: Khi công ty khó khăn, các cổ đông có thể sẽ thực hiện những dự án mang lại lợi ích cho họ nhiều hơn, bất kể dự án đó làm giảm sút giá trị doanh nghiệp và giá trị trái phiếu hay không

Từ chối đóng góp vốn cổ phần: Các cổ đông sẽ từ chối góp vốn để tài trợ cho một dự án mới nếu như dự án này không mang lại thu nhập nhiều hơn phần vốn góp thêm của họ, bất chấp điều đó giúp gia tăng giá trị của công ty và giúp công ty thoát khỏi tình trạng kiệt quệ tài chính . Như vậy, việc đầu tư này mang lại lợi ích cho trái chủ nhiều hơn , các cổ đông sẽ không thực hiện. Công ty sẽ mất đi cơ hội đầu tư vào dự án mới do các cổ đông từ chối góp thêm vốn.

Và một số hành vi khác, ví dụ như họ sẽ thực hiện chia cổ tức (bằng tiền mặt) bất chấp dòng tiền nhàn rỗi của công ty không đủ tài trợ cho các dự án mới . Hoặc là các cổ đông sẽ sử dụng các thủ thuật kế toán để che dấu tình hình kinh doanh , tạo ra nhiều hy vọng về sự phục hồi nhằm kéo dài thời gian đi đến sự phá sản.

Chi phí đại diện phát sinh mâu thuẩn giữa cổ đông và nhà quản lý (gọi là chi phí đại diện của vốn )

Sự bất cân xứng thông tin giữa các đối tượng này làm phát sinh chi phí đại diện . Khi cổ đông bị giới hạn hoặc mất quyền kiểm soát với nhà quản lý, lúc này nhà quản lý sẽ có động cơ tiến hành những hoạt động có lợi cho bản thân nhà quản lý làm nguy hại đến quyền lợi của cổ đông .

Nếu như, nhà quản lý nắm quyền điều hành công ty, người này có thể sử dụng hoặc chuyển một phần nguồn lực của doanh nghiệp để phục vụ cho lợi ích riêng của mình và nếu tỷ lệ cổ phần của cá nhà quản lý trong công ty càng thấp , thì những chi phí họ tạo ra vì lợi ích cá nhân càng nhiều (làm ít giờ hơn, tiêu dùng hoang phí, sử dụng tài sản công ty cho mục đích các nhân, chấp nhận những dự án không khả thi,…) Những chi phí này được gọi là chi phí đại diện của chủ sở hữu. Cách tốt nhất để hạn chế những chi phí này là tăng tỷ lệ cổ phần của các nhà quản lý

Như vậy , thuyết chi phí đại diện giải thích vì sao các công ty có quy mô lớn , thường có khuynh hướng sử dụng nợ càng nhiều , và các điều khoản trong hợp đồng vay sẽ kiểm soát được hành vi của các nhà quản lý .

Lý thuyết này cho thấy:

  • Tốc độ tăng trưởng có mối tương quan nghịch chiều với nợ vay do các cổ đông thường không muốn chia sẻ lợi ích với các chủ nợ khi doanh nghiệp tăng trưởng tốt.
  • Do có sự mâu thuẩn giữa các cổ đông với nhà quản lý nên các công ty có quy mô hơn lựa chọn vay nợ nhiều hơn vì chính các điều khoản trong hợp đồng vay của chủ nợ sẽ kiểm soát hành vi của nhà quản lý. Quy mô doanh nghiệp tỷ lệ thuận với nợ vay

2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn và mối quan hệ của các nhân tố đến cấu trúc vốn Luận văn: Khái quát về cấu trúc vốn của các doanh nghiệp

Các lý thuyết về cấu trúc vốn đã chỉ ra rằng có rất nhiều các nhân tố tác động đến cấu trúc vốn của doanh nghiệp. Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc tài chính của doanh nghiệp được rút ra như sau:

2.3.1 Khả năng sinh lời

Theo lý thuyết trật tự phân hạng ,các công ty ưu tiên sử dụng quỹ nội bộ hơn là huy động vốn từ bên ngoài. Điều này có nghĩa rằng các khoản nợ vay của doanh nghiệp có xu hướng ít đi nếu lợi nhuận của doanh nghiệp gia tăng . Lý thuyết này giúp giải thích vì sao các doanh nghiệp có khả năng sinh lời nhiều hơn thường có tỷ lệ nợ vay thấp, lý thuyết này đưa ra một thứ tự ưu tiên khi doanh nghiệp cần tài trợ về vốn: quỹ nội bộ công ty (lợi nhuận giữa lại), nguồn vốn vay bên ngoài, phát hành cổ phiếu. Tuy nhiên theo lý thuyết đánh đổi (Myers, 1984), những công ty có lợi nhuận cao thường có tỷ lệ nợ cao vì công ty có lợi ích từ tấm chắn thuế

2.3.2 Tài sản hữu hình Luận văn: Khái quát về cấu trúc vốn của các doanh nghiệp

Theo lý thuyết đánh đổi thì tài sản hữu hình có thể tác động đến quyết định vay vốn của một doanh nghiệp, bởi vì tài sản hữu hình thường có giá trị lớn hơn so với tài sản vô hình trong trường hợp công ty bị phá sản . Ngoài ra mức độ rủi ro giảm khi các công ty cung cấp tài sản hữu hình để thế chấp, và các chủ nợ có thể yêu cầu bán các tài sản này trong trường hợp công ty mất khả năng thanh toán . Vì vậy tài sản hữu hình là tài sản thế chấp tốt cho các khoản vay . Việc minh bạch thông tin và chất lượng thông tin trong các báo cáo hiện nay không được đảm bảo nên tài sản thế chấp là điều bắt buộc cho bất kỳ công ty nào muốn vay nợ.

2.3.3 Quy mô công ty

Doanh nghiệp có quy mô lớn sẽ có lợi thế trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh như hiện nay. Quy mô doanh nghiệp được xem là dấu hiệu đầu tiên để các nhà đầu tư bên ngoài biết đến doanh nghiệp . Một doanh nghiệp có quy mô lớn sẽ có lợi thế trong thị trường cạnh tranh hiện nay . Vì vậy, hầu hết các doanh nghiệp đều hướng tới việc mở rộng quy mô để tận dụng lợi thế này . Quy mô lớn là kết quả của một quá trình phát triển lâu dài , do đó doanh nghiệp được biết đến nhiều và tạo được uy tín trên thị trường. Mặt khác, một quy mô lớn tương ứng với một tiềm lực tài chính vững mạnh , doanh nghiệp càng có điều kiện tiếp cận thị trường tài chính và các tổ chức tài chính tín dụng hơn các doanh nghiệp có quy mô nhỏ.

Theo Titman và Wessels (1988) các công ty lớn có thể tiếp cận thị trường dễ dàng hơn và có thể vay mượn với các điều khoản tốt hơn .Theo thuyết chi phí đại diện , các công ty có quy mô lớn thường có khuynh hướng sử dụng nợ càng nhiều , mối quan hệ này được giải thích bởi sự bất cân xứng về thông tin giữa cổ đông và nhà quản lý, khi nhà quản lý nắm quyền điều hành doanh nghiệp mà các cổ đông không kiểm soát được do sự bất cân xứng thông tin . Lúc này, các doanh nghiệp có quy mô sẽ chọn phương án sử dụng vốn vay và các điều khoản trong hợp đồng vay sẽ kiểm soát được hành vi của các nhà quản lý .

2.3.4 Tấm chắn thuế phi nợ Luận văn: Khái quát về cấu trúc vốn của các doanh nghiệp

Khoản giảm trừ về thuế từ chi phí khấu hao của tài sản cố định được gọi là tấm chắn thuế phi nợ . Khi tấm chắn thuế này càng cao thì dòng tiền ròng từ lợi nhuận kinh doanh đối với cổ đông càng lớn. DeAngelo và R.W.Masulis (1980) cho rằng tấm chắn thuế này là khoản thay thế cho tấm chắn thuế khi sử dụng nợ vay .Tấm chắn thuế phi nợ có liên quan chặt chẽ với tài sản cố định . Tấm chắn thuế phi nợ được hiểu là giá trị khấu hao hàng năm của doanh nghiệp; trong khi tỷ lệ đóng góp của chi phí khấu hao trong cơ cấu chi phí sản xuất được hiểu là tỷ lệ đòn bẩy hoạt động . Theo lý thuyết về chi phí phá sản, nếu doanh nghiệp sử dụng một tỷ lệ đòn bẩy hoạt động cao, rủi ro kinh doanh càng tăng, do vậy làm tăng chi phí phá sản . Một khi rủi ro phá sản tăng cao, các vấn đề về chi phí đại diện liên quan đến việc sử dụng nợ vay cũng nhiều hơn. Do vậy lý thuyết này cho rằng , nếu doanh nghiệp có tỷ lệ chi phí cố định nhiều hơn trong cơ cấu chi phí của mình, các giám đốc tài chính sẽ sử dụng một tỷ lệ đòn bẩy tài chính ít hơn. Wald (1999), Samuel G.H.Huang và Frank M.Song (2002) sử dụng tỷ lệ khấu hao trên tổng tài sản và đồng ý theo quan điểm này.

2.3.5 Cơ hội tăng trưởng

Theo lý thuyết trật tự phân hạng , doanh nghiệp tăng trưởng tốt đồng nghĩa với việc có nhu cầu vay vốn nhiều, khi lợi nhuận giữ lại không đủ để đáp ứng hoạt động sẽ ưu tiên lựa chọn vốn vay để tăng tỷ lệ nợ . Tốc độ tăng trưởng tương quan thuận chiều với cấu trúc vốn

Lý thuyết chi phí đại diện cho rằng các chủ doanh nghiệp có xu hướng tranh giành lợi ích từ các chủ nợ. Tốc độ tăng trưởng cao gợi ý kết quả kinh doanh khả quan, chính vì thế các cổ đông sẽ không muốn chia sẻ ưu thế này với các chủ nợ. Mặt khác, đối với các doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao hơn, các cổ đông thường có nhiều lựa chọn đối với các quyết định đầu tư,chi phí đại diện ở các doanh nghiệp này vì thế cao hơn so với các doanh nghiệp tăng trưởng thấp

2.3.6 Rủi ro kinh doanh

Rủi ro kinh doanh là những rủi ro liên quan đến những hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Những doanh nghiệp có rủi ro kinh doanh cao thường phải đối mặt với những mối lo về phá sản. Theo lý thuyết đánh đổi , những doanh nghiệp có rủi ro kinh doanh cao thì chi phí kiệt quệ tài chính và rủi ro phá sản của doanh nghiệp cao hơn những doanh nghiệp bình thường, đây là trở ngại cho việc huy động vốn của doanh nghiệp.

2.4 Giới thiệu ngành Dược phẩm y tế Việt Nam Luận văn: Khái quát về cấu trúc vốn của các doanh nghiệp

2.4.1 Lịch sử hình thành và phát triển ngành Dược phẩm y tế Việt Nam

Thời Bắc thuộc, do đặc điểm địa lý và quan hệ chính trị, nền y dược Việt Nam có sự giao thoa và chịu nhiều ảnh hưởng từ nền y dược Trung Quốc. Qua trao đổi học hỏi những vị thuốc, kinh nghiệm chữa bệnh kết hợp với các loại thảo dược bản địa đặc thù đã tạo nền móng đầu tiên cho mảng Đông dược nói riêng và ngành dược Việt Nam nói chung.

Năm 938, thời kì Bắc thuộc kết thúc, ngành y dược Việt Nam tiếp tục phát triển. Từ thời Lý, Trần, Hồ, Hậu Lê, Tây Sơn và triều Nguyễn, nền y dược dân độc đã được chú trọng đáng kể.

Từ năm 1858, trong thời kỳ Pháp thuộc, người Pháp đã đưa Tây y vào nước ta, năm 1902 mở trường đào tạo Dược sĩ Hà Nội, tổ chức một số bệnh viện, bệnh xá ở các tỉnh, thành phố, phủ, huyện. Dưới sức ép của Pháp, nhiều dược sĩ không được phép mở cửa hiệu, viện nghiên cứu khai thác dược liệu trong nước cũng bị chèn ép, mảng Đông dược bị kìm hãm phát triển.

Giai đoạn 1946 – 1954 kháng chiến chống Pháp ngành dược vừa thiếu dược sĩ, công nhân, trang thiết bị, vật tư, vừa thiếu kinh nghiệm và tổ chức quản lí. Ngành chủ yếu phát triển theo hướng tự lực cánh sinh, tận dụng mọi nguyên liệu sẵn có từ cây thuốc trong nước. Thời kì này, Việt Nam đã sản xuất được thuốc chiến thương, Filatov, ống tiêm, kìm kẹp máu, dao mổ, kim khâu… Cũng ở trong giai đoạn này, tại Thanh Hóa, chính quyền đã mở các lớp trung cấp dược, ở chiến khu Việt Bắc có viện đại học dược và mở nhiều lớp dược tá ở các liên khu.

Giai đoạn 1954 – 1975, miền Bắc tiến hành cải tạo ngành dược tự doanh, xây dựng phát triển ngành dược quốc doanh. Năm 1965, nhu cầu sử dụng thuốc tăng nhanh, nên hầu hết các xã đều có phong trào trồng và sử dụng cây thuốc nam, hình thành một mạng lưới sản xuất dược hoàn chỉnh từ trung ương đến địa phương để có thể sản xuất thuốc men theo từng vùng theo hướng tự cung tự cấp.

Giai đoạn sau 1975, ngành dược phát triển qua 3 giai đoạn chính: Luận văn: Khái quát về cấu trúc vốn của các doanh nghiệp

Giai đoạn 1 (1975 – 1990): Ngành dược Việt Nam giai đoạn này chủ yếu bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, sức sản xuất không đáng kể. Mức tiêu thụ bình quân thuốc trên đầu người thời kỳ này đạt vào khoảng 0,5 – 1USD/năm. Do thuốc trong thời kỳ này khan hiếm nên tiêu chuẩn chất lượng thuốc trong sử dụng chưa được chú trọng.

Giai đoạn 2 (1990 – 2005): Các nhà thuốc và các công ty sản xuất thuốc phát triển rất nhanh, sản phẩm dược đa dạng, phong phú hơn. Đặc biệt sau khi có Nghị quyết Trung ương IV và Quyết định 58 của Thủ tướng chính phủ về công nghiệp dược đã có những bước phát triển đáng kể, đảm bảo phần lớn nhu cầu về thuốc chữa bệnh, khắc phục được tình trạng thiếu thuốc của nhiều năm trước đây. Giai đoạn này cũng chứng kiến quá trình cổ phần hóa nhiều doanh nghiệp dược quốc doanh theo chủ trương cổ phần hóa của nhà nước.

Giai đoạn 3 (từ năm 2005 đến nay): Các công ty dược đẩy mạnh quá trình nâng cấp tiêu chuẩn sản xuất lên GMP-ASEAN -> GMP-WHO -> PIC/S -> EU-GMP… nhằm thích ứng với yêu cầu về chất lượng ngày càng gia tăng và phù hợp với quá trình toàn cầu hóa của ngành dược Việt Nam trong quá trình hội nhập với thế giới.

Hiện tại, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Dược phẩm Việt Nam được chia làm 2 nhóm chính:

  • Nhóm sản xuất: Bao gồm các nhà cung ứng nguyên liệu sản xuất dược phẩm, các công ty dược nội địa, các công ty dược FDI.
  • Nhóm phân phối: Bao gồm các nhà phân phối sỉ, phân phối lẻ nội địa và nước ngoài, hệ thống chợ sỉ.

Nhóm hoạt động sản xuất :

Các doanh nghiệp dược phẩm Việt Nam có tuổi đời khá trẻ so với thế giới và chỉ thực sự phát triển từ sau năm 1990. Do đó, ảnh hưởng từ giai đoạn chiến tranh kéo dài và thời kỳ bao cấp khó khăn vẫn còn hiện hữu. Việc mỗi tỉnh thành phố đều có ít nhất một doanh nghiệp dược nhà nước (hoặc có gốc nhà nước) phụ trách cả sản xuất và phân phối dược phẩm là một trong những hệ quả để lại từ thời bao cấp.

Cả nước hiện có khoảng 178 doanh nghiệp sản xuất thuốc (trong đó có khoảng 100 doanh nghiệp sản xuất thuốc tân dược, 80 doanh nghiệp sản xuất thuốc đông dược, ngoài ra có trên 300 cơ sở sản xuất thuốc đông dược). Hầu hết các doanh nghiệp này đều tập trung sản xuất các dòng thuốc phổ biến thông thường trong khi đó các thuốc chuyên khoa, đặc trị, yêu cầu kỹ thuật bào chế hiện đại lại không được quan tâm. Do đó, xảy ra tình trạng sản xuất chồng chéo, tranh giành một phân khúc thị trường nhỏ giữa hầu hết các doanh nghiệp nội địa. Phân khúc thuốc đặc trị, chuyên khoa…với giá trị cao hoàn toàn do các doanh nghiệp nước ngoài chiếm lĩnh.

Nhóm hoạt động phân phối

Khác với thị trường dược phẩm thế giới, nơi nhà sản xuất và nhà phân phối thường là các đơn vị độc lập nhằm tập trung hóa chuyên môn, hệ thống phân phối dược phẩm tại Việt Nam lại khá đặc thù với cấu trúc phức tạp và sự tham gia của nhiều bên liên quan. Cụ thể, hệ thống phân phối tại Việt Nam bao gồm các thành phần tham gia chính như sau:

  • Các doanh nghiệp phân phối dược phẩm chuyên nghiệp.
  • Doanh nghiệp phân phối dược phẩm nhà nước.
  • Doanh nghiệp phân phối dược phẩm tư nhân.
  • Doanh nghiệp phân phối dược phẩm nước ngoài.
  • Các công ty dược phẩm vừa sản xuất vừa phân phối.
  • Hệ thống chợ sỉ
  • Hệ thống bệnh viện công lập và bệnh viện tư nhân
  • Hệ thống nhà thuốc
  • Hệ thống phòng mạch (phòng khám bệnh) tư nhân

2.4.2 Tình hình hoạt động ngành Dược phẩm y tế trong những năm qua

Với sự nhận thức về chăm sóc sức khỏe và nhu cầu về y tế ngày càng tăng của người dân Việt Nam, doanh thu ngành thuốc không ngừng tăng. Tốc độ tăng trưởng doanh thu trung bình giai đoạn 2010 – 2014 đạt 18.8%/năm.

Sự tăng trưởng này ngược chiều so với các ngành kinh tế khác trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế vừa qua, do mặt hàng dược phẩm là mặt hàng thiết yếu và không thể thay thế. Theo Business Monitor International (BMI) đã dự báo lượng tiêu thụ thuốc sẽ tăng lên 117,802.35 tỷ VND vào năm 2017, tương ứng với tốc độ tăng trưởng trung bình là 15.5%. Hơn nữa, tỉ lệ đóng góp của ngành cho GDP của cả nước cũng tăng qua các năm và được dự đoán tiếp tục giữ xu hướng này trong vòng 5 năm tới.

Lợi nhuận còn biến động

Mặt hàng thuốc và dược phẩm là nhu yếu phẩm cần thiết cho cuộc sống, vì vậy, doanh thu tăng trưởng đều. Tuy nhiên, lợi nhuận của ngành có phần biến động, khi ngành ghi nhận tăng trưởng âm vào năm 2011 (-2.05%) cũng như sự giảm dần của các chỉ số sinh lời của ngành. Điều nay có thể được giải thích bởi nhiều nguyên nhân. Trong đó, nguyên nhân chính có thể kể đến là sự bắt đầu tăng giá đột ngột trong thời gian vừa qua của nguyên vật liệu đầu vào. Trung bình , giá đầu vào cho ngành tăng gần 10%. Bên cạnh đó, chi phí tài chính cao vào những năm gần đây cũng góp phần làm giảm lợi nhuận của ngành.

2.4.3 Cơ cấu nguồn vốn của các doanh nghiệp ngành Dược phẩm y tế niêm yết trên sàn chứng hoán Việt Nam trong những năm qua Luận văn: Khái quát về cấu trúc vốn của các doanh nghiệp

Hình 2.1. Biểu đồ về quy mô và cơ cấu tài sản các doanh nghiệp Dược 

Về quy mô tài sản, tổng tài sản của các doanh nghiệp ngành dược đang niêm yết từ năm 2010 đến hết năm 2014 là hơn 11.000 tỷ đồng. Trong đó, VMD đang là doanh nghiệp có tổng tài sản lớn nhất (5.100 tỷ đồng) do đặc thù là doanh nghiệp nhập khẩu ủy thác với lượng hàng tồn kho và khoản phải thu lớn.

Nhìn chung, cơ cấu tài sản của các doanh nghiệp thuộc nhóm sản xuất và thiết bị y tế khá tương đồng, tài sản ngắn hạn bình quân chiếm 68% cơ cấu tổng tài sản. Ngược lại, các doanh nghiệp thuộc nhóm phân phối có tỷ trọng tài sản dài hạn khá thấp, chỉ chiếm khoảng 17% tổng doanh thu (riêng VMD tỷ trọng tài sản dài hạn chỉ chiếm 3% tổng tài sản) do các doanh nghiệp này không phải đầu tư nhiều vào hệ thống nhà xưởng, máy móc sản xuất.

Về vòng quay tổng tài sản, PMC là doanh nghiệp có số vòng quay nhanh nhất (1.7) trong nhóm sản xuất. Đối với nhóm phân phối, dễ nhận thấy vòng quay của nhóm này khá lớn (>2) do đặc thù hoạt động kinh doanh. JVC với đặc thù cung ứng thiết bị y tế cho bệnh viện nên vòng quay khá thấp (0.36). SPM là doanh nghiệp có vòng quay tài sản thấp nhất trong nhóm sản xuất (0.39) do bị chiếm dụng một lượng vốn lớn từ các khoản phải thu đơn vị liên quan là công ty dược phẩm Đô Thành.

Hình 2.2 Cơ cấu nguồn vốn, tỷ trọng Nợ phải trả/Vốn chủ sở hữu

Nhìn chung, nhóm doanh nghiệp sản xuất duy trì cơ cấu nguồn vốn khá lành mạnh, vốn chủ sở hữu bình quân chiếm đến 66% cơ cấu nguồn vốn. Trong đó, IMP là doanh nghiệp có tỷ trọng vốn chủ sở hữu cao nhất (83% nguồn vốn), đồng thời là doanh nghiệp có đòn cân nợ thấp nhất (0.2) Khóa luận: Khái quát về cấu trúc vốn của các doanh nghiệp

Ngược lại, nhóm doanh nghiệp phân phối dược phẩm lại có tỷ trọng nợ phải trả tương đối cao trong cơ cấu nguồn vốn (bình quân khoảng 70%) và chủ yếu là nguồn vốn vay. Trong đó, VMD là doanh nghiệp có tỷ trọng Nợ/Vốn chủ sở hữu cao nhất (gấp 28 lần), nợ phải trả chiếm 97%.

Hình 2.3 Cơ Khoản phải thu/ Hàng tồn  ho và vòng quay  hoản phải thu/ Hàng tồn  ho

VMD và DBT là hai doanh nghiệp có hàng tồn kho + khoản phải thu chiếm tỷ trọng cao nhấ trong cơ cấu tài sản (lần lượt là 92% và 72%). Nếu loại trừ hai doanh nghiệp này, bình quân hai khoản mục hàng tồn kho và khoản phải thu chiếm 52% tổng tài sản của các doanh nghiệpdược phẩm.

Số vòng quay khoản phải thu bình quân của các doanh nghiệp dược phẩm niêm yết khoảng 5.9 vòng. Trong đó, PMC và LDP đang là doanh nghiệp có vòng quay khoản phải thu cao nhất (lần lượt là 11.4 và 10.7) chứng tỏ khả năng thu hồi công nợ của hai doanh nghiệp này khá tốt, giảm tình trạng bị khách hàng chiếm dụng vốn. Ở phía ngược lại, JVC và SPM đang là hai doanh nghiệp có số vòng quay khoản phải thu thấp nhất, lần lượt là 0.87 và 0.94. Nguyên nhân chủ yếu do: JVC hoạt động trong lĩnh vực đặc thù, thời hạn thanh toán của các bệnhviện thường kéo dài trên 12 tháng và phụ thuộc nhiều vào mức chi ngân sách hàng năm. Đốvới SPM, vòng quay khoản phải thu rất thấp chủ yếu do bị đơn vị liên quan là công ty TNHH Dược phẩm Đô Thành chiếm dụng vốn.

Số vòng quay hàng tồn kho bình quân của các doanh nghiệp nêu trên khoảng 3.9 vòng. Nhóm doanh nghiệp sản xuất nhìn chung có số ngày luân chuyển hàng tồn kho thấp hơn so với nhóm doanh nghiệp phân phối.

Hình 2.4 Tình hình xuất nhập hẩu trong những năm qua và dự báo những năm tới

Ngành dược Việt Nam chịu sự cạnh tranh rất lớn từ những nhãn thuốc và dược phẩm nước ngoài. Các doanh nghiệp nội mới chỉ sản xuất được 50% nhu cầu trong nước, nhưng lượng tiêu thụ thì chỉ dừng ở 38%, theo điều tra của Bộ Y tế. Phần còn lại là thuộc về các nhãn hiệu nước ngoài. Trong gần 2,000 hoạt chất thuốc đăng kí ở Việt Nam, thì hơn 1,000 là của công ty nước ngoài, trong khi thuốc nội chỉ đăng kí 500 hoạt chất, tập trung ở các loại như thuốc hạ nhiệt, giảm đau, vitamin và thuốc bổ.

Con đường xuất khẩu dược phẩm của Việt Nam không hoàn toàn thuận lợi khi còn vấp phải những rào cản về giá, và hồ sơ xuất khẩu. Tình hình nhập khẩu hiện nay chiếm hơn 60% nhu cầu nội địa.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Chương 2 đã trình bày về cơ sở lý luận của cấu trúc vốn và các lý thuyết về cấu trúc vốn doanh nghiệp. Các lý thuyết về cấu trúc vốn: Lý thuyết cấu trúc vốn của MM, lý thuyết đánh đổi, thuyết trật tự phân hạng (thông tin bất cân xứng), lý thuyết chi phí đại diện cung cấp những quan điểm khác nhau về cấu trúc vốn và ảnh hưởng của cấu trúc vốn đến giá trị doanh nghiệp, lý giải được rất nhiều các biểu hiện khác nhau về cấu trúc vốn của doanh nghiệp trong thực tế, cũng như sự đa dạng trong các hành vi ứng xử trong hoạt động quản trị tài chính của doanh nghiệp. Chương 2 cũng đã giới thiệu tổng quan về ngành Dược phẩm y tế, lịch sử hình thành, tình hình hoạt động và cấu cấu vốn trong những năm qua.

Đây là cơ sở quan trọng để xây dựng mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của các doanh nghiệp ngành Dược phẩm y tế niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam

Mô hình và phương pháp nghiên cứu sẽ đươc đề cập ở chương kế tiếp. Luận văn: Khái quát về cấu trúc vốn của các doanh nghiệp

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY    

===>>> Luận văn: Thực trạng nghiên cứu tại các Cty dược phẩm y tế

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x