Luận văn: Hoạt động của tổ công chứng trên địa bàn Hà Nội

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Hoạt động của tổ công chứng trên địa bàn Hà Nội hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Pháp luật về thành lập và hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng và thực tiễn thực thi trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Trong những năm gần đây, hoạt động công chứng ở nước ta đã có những bước chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đồng thời khẳng định được vị trí, vai trò của công chứng trong đời sống xã hội, đáp ứng được nhu cầu công chứng của nhân dân trong nền kinh tế thị trường. Hoạt động công chứng đã tạo ra các bằng chứng, sự an toàn pháp lí cần thiết cho các hợp đồng và các giao dịch dân sự khác, thúc đẩy sự hợp tác giao lưu kinh tế, thương mại, góp phần vào việc phòng ngừa các tranh chấp, vi phạm pháp luật tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Luận văn: Hoạt động của tổ công chứng trên địa bàn Hà Nội

Nhận thấy tầm quan trọng của hoạt động công chứng với thực tiễn cuộc sống, tại kì họp thứ 10 Quốc hội khóa XI ngày 29 tháng 11 năm 2006, Luật công chứng số 82/2006/QH11 về công chứng (LCC 2006) đã được thông qua và có hiệu lực ngày 01 tháng 7 năm 2007; cùng với sự ra đời của LCC 2006, các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động công chứng cũng lần lượt được ban hành như: Nghị định số 79/2007/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 18 tháng 5 năm 2007 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ kí (Nghị định số 79/2007/NĐ-CP); Nghị định số 02/2008/NĐ-CP ngày 04 tháng 01 năm 2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng (Nghị định số 02/2008/NĐ-CP), Nghị định số 04/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 07 tháng 01 năm 2013 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật công chứng, sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 02/2008/NĐ-CP (Nghị định số 04/2013/NĐ-CP). Đồng thời, hiện nay Dự thảo Luật công chứng sửa đổi đang trong quá trình thảo luận, hoàn thiện để trình Quốc hội thông qua vào đầu năm 2014 đã góp phần tạo nên sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật công chứng nước ta.

Có thể khẳng định rằng LCC 2006 ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá trình xây dựng, hoàn thiện chế định công chứng tại nước

Sau gần hai mươi năm kể từ khi được tái lập trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, lần đầu tiên văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực công chứng đã được “nâng cấp”, thể hiện dưới hình thức một đạo luật. Đặc biệt, LCC 2006 đã chuyển tải một số quan điểm lập pháp hoàn toàn mới lạ với tư duy pháp lý truyền thống cũng như giải quyết thành công một vài hạn chế trong các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực công chứng trước đó. Có hiệu lực pháp lý kể từ ngày 01/07/2007, cho đến nay Luật công chứng đã đi vào cuộc sống được hơn sáu năm, tạo hành lang pháp lý cho tổ chức hành nghề công chứng (tổ chức HNCC) hoạt động một cách tương đối hiệu quả trong suốt thời gian vừa qua. Thực tiễn áp dụng Luật công chứng trong phạm vi cả nước nói chung và trên địa bàn thành phố Hà Nội trong những năm qua đã đem lại nhiều kết quả khả quan như: Số lượng tổ chức HNCC và công chứng viên (CCV) hành nghề ngày càng tăng về số lượng, vững vàng hơn về chất lượng, chất lượng phục vụ người dân ngày càng tốt và chuyên nghiệp hơn. Các Phòng công chứng duy trì được chất lượng và uy tín, nhiều Văn phòng công chứng (VPCC) xây dựng được thương hiệu tốt, đáp ứng được nhu cầu công chứng của cá nhân, tổ chức. Người dân trên địa bàn thành phố có nhiều thuận lợi, nhiều lựa chọn hơn khi có yêu cầu công chứng, nhất là người dân tại các huyện, nơi trước đây không có tổ chức HNCC.

Luật công chứng là cơ sở pháp lý quan trọng để Nhà nước quản lý các giao dịch dân sự, nhưng đến nay, do biến động của tình hình thực tế có nhiều vấn đề mà Luật công chứng chưa tiên liệu được. Điều này dẫn đến thực tiễn thi hành pháp luật công chứng hiện nay ở trên địa bàn cả nước nói chung, trên địa bàn thành phố Hà Nội vẫn còn những hạn chế, bất cập cần được khắc phục để hoạt động này phát huy tốt hơn nữa vai trò của mình trong thực tiễn cuộc sống.

Thành phố Hà Nội là thủ đô của Việt Nam, nơi tập trung của cả nước về kinh tế – chính trị – văn hóa – xã hội. Với đặc điểm là dân số đông, đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, các hoạt động kinh tế diễn ra sôi động, phức tạp – đặc biệt là các giao dịch về bất động sản nên thực tiễn thực thi pháp luật về công chứng tại Hà Nội có nhiều thuận lợi song cũng phát sinh nhiều bất cập. Bởi vậy, tác giả đã chọn thành phố Hà Nội là địa bàn nghiên cứu cho luận văn.

Với các lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Pháp luật về thành lập và hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng và thực tiễn thực thi trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay” cho luận văn thạc sĩ của mình.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Luật Học

2. Tình hình nghiên cứu

Công chứng, với tư cách là một chế định bổ trợ tư pháp trong hệ thống pháp luật Xã hội chủ nghĩa, xuất hiện tại Việt Nam chưa lâu. Tuy nhiên, trong thời gian qua, kể từ khi Luật công chứng ra đời, đã có một số đề tài luận án, luận văn nghiên cứu về lĩnh vực này. Cụ thể như: Tuấn Đạo Thanh, Luận án Tiến sĩ Luật học, “Nghiên cứu so sánh pháp luật về công chứng một số nước trên thế giới nhằm góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về công chứng ở Việt Nam hiện nay”, 2008; Phạm Thị Mai Trang, Luận văn thạc sĩ Luật học, “Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay, thực trạng và giải pháp”, 2011; Nguyễn Quang Minh, Luận văn thạc sĩ luật học, “Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay”, 2008; Nguyễn Chí Thiện, Luận văn thạc sĩ luật học, “Nâng cao hiệu quả hoạt động công chứng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay”, 2006… cùng một số khóa luận tốt nghiệp khác. Ngoài ra, còn có sách chuyên khảo: Pháp luật công chứng – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, 2012 của tiến sĩ Tuấn Đạo Thanh cùng khá nhiều các bài báo, tạp chí viết về vấn đề này như Tạp chí Nghề Luật, số 5 tháng 10/2012 Chuyên đề về Công chứng; Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 2/21010 Chuyên đề về công chứng; Đặng Thị Tân Mai, 2010, “Phát triển hệ thống tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn Hà Nội”, Tạp chí Quản lý Nhà nước – Học viện hành chính, số 177 (T10/2010)…

Hầu hết các công trình nghiên cứu trên đều đi sâu phân tích các quy định của pháp luật về công chứng nói chung, tình hình công chứng trên phạm vi cả nước, xã hội hóa công chứng hoặc nghiên cứu chuyên sâu về pháp luật công chứng Việt Nam dựa trên sự phân tích, so sánh với pháp luật công chứng của các quốc gia khác trên thế giới… tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, cụ thể về tình hình và kết quả hoạt động công chứng của các tổ chức HNCC trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian qua.

3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi, phương pháp nghiên cứu Luận văn: Hoạt động của tổ công chứng trên địa bàn Hà Nội

Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích một số quy định pháp luật hiện hành về công chứng và tổ chức HNCC, luận văn đi sâu phân tích, đánh giá quá trình và kết quả hoạt động của các tổ chức HNCC trên địa bàn thành phố Hà Nội, đồng thời đưa ra các ý kiến góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam về công chứng và hoạt động công chứng trong điều kiện hiện nay.

Nhiệm vụ nghiên cứu: để đạt được mục đích đó, luận văn tập trung vào những nhiệm vụ cụ thể sau:

  • Một là, phân tích tổng quát các về đề lý luận về pháp luật công chứng và tổ chức HNCC.
  • Hai là, phân tích, đánh giá về pháp luật công chứng và thực trạng thành lập, hoạt động của các tổ chức HNCC trên địa bàn thành phố Hà Nội, từ kết quả đạt được nhằm rút ra các vướng mắc, hạn chế của pháp luật hiện hành và nguyên nhân của những bất cập trong thực thi pháp luật về công chứng.
  • Ba là, đề xuất các ý kiến nhằm hoàn thiện pháp luật về công chứng và nâng cao hiệu quả hoạt động công chứng hiện nay.

Phạm vi nghiên cứu:

Với khuôn khổ của Luận văn, luận văn sẽ tập trung đi sâu phân tích một số quy định của pháp luật công chứng hiện hành về thành lập và hoạt động tổ chức HNCC và thực tiễn hoạt động của các tổ chức HNCC trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu:

Luận văn được hoàn thành trên cơ sở vận dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê nin và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam. Luận văn cũng sử dụng những phương pháp nghiên cứu luật học truyền thống như phương phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử, tư duy logic, phương pháp quy nạp, diễn giải … nhằm làm sáng tỏ nội dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài.

4. Những đóng góp mới của Luận văn

Thứ nhất, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về pháp luật công chứng hiện hành.

Thứ hai, đánh giá, tổng kết được kết quả hoạt động của các tổ chức HNCC trên địa bàn thành phố Hà Nội sau hơn sáu năm Luật công chứng có hiệu lực.

Thứ ba, đề xuất một số giải pháp mang tính thực tiễn nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật công chứng, phát triển hoạt động công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung.

5. Kết cấu của Luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn bao gồm 3 chương.

Chương 1: Các vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật công chứng và hoạt động công chứng.

Chương 2: Pháp luật về thành lập và hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng và thực tiễn thực thi trên địa bàn Hà Nội

Chương 3: Hoàn thiện pháp luật công chứng và nâng cao hiệu quả hoạt động công chứng.

Chương 1: CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT CÔNG CHỨNG VÀ HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG

1.1. Khái quát về công chứng và hoạt động công chứng Luận văn: Hoạt động của tổ công chứng trên địa bàn Hà Nội

1.1.1. Quan niệm chung về công chứng và hoạt động công chứng

1.1.1.1. Quan niệm công chứng trên thế giới

Trên thế giới, nghề công chứng đã có lịch sử hình thành, phát triển hàng ngàn năm, gắn bó chặt chẽ với đời sống dân sự, được người dân và pháp luật tôn trọng. Công chứng và việc hành nghề của CCV đã góp phần tích cực cho công việc quản lý nhà nước và xã hội. Để hiểu rõ hơn về hoạt động công chứng, trước tiên phải tìm hiểu về nguồn gốc của khái niệm công chứng trên thế giới.

Theo định nghĩa tại từ điển online Legal Dictionary, CCV là “Một người mang công quyền, mà quyền hạn bao gồm quản lý việc tuyên thệ và xác nhận chữ ký, cả hai cách quan trọng và hiệu quả để giảm thiểu gian lận trong các tài liệu liên quan đến luật pháp (A public official whose main powers include administering oaths and attesting to signatures, both important and effective ways to minimize fraud in legal documents) [54].

Từ điển Luật học Mỹ, cũng định nghĩa công chứng (Notarial) là hoạt động của CCV. CCV, theo tiếng Latinh là “Notarius”. “Notarius” trong luật Anh cổ là một người sao chép hay trích lục các loại văn bản, giấy tờ khác, người làm chứng.

Có thể truy nguyên nguồn gốc của chức danh CCV từ thời đế chế La Mã cổ xưa. Sự ra đời của nghề công chứng ở Cộng hòa La Mã cổ đại được hình thành từ năm 106 đến năm 43 trước công nguyên, và gọi là notaries (công chứng) hay scribae (thầy tư tế). Về sau, trong luật La Mã đó là người ghi chép, thư ký, tốc ký, người ghi chép các hoạt động trong nghị viện của Tòa án, hoặc ghi chép theo lời người khác đọc, người soạn các di chúc và giấy chuyển nhượng sở hữu. Họ là nhánh lâu đời nhất trong ngành luật còn tồn tại đến ngày nay trên khắp thế giới [1].

Theo các cách giải thích trên, xét về nguồn gốc, công chứng là nghề sớm xuất hiện trong lịch sử loài người với vai trò ghi chép, soạn thảo văn bản và làm chứng, tính chất của nghề CCV là một nhân viên công. Các nhân viên công, còn được gọi là ”thư ký” là những người chuyên chép thuê. Thời gian trôi qua đã có sự thay đổi về tính chất nghề nghiệp trong các mối quan hệ giữa các lĩnh vực công – tư. Một số là nhân viên thường trực gắn bó với Viện nguyên lão và Tòa án, có trách nhiệm lưu giữ các biên bản, sao chép lại giấy tờ của nhà nước, hỗ trợ các quan tòa về các thủ tục pháp lý và ghi vào sổ các bản án và phán quyết của quan tòa [50, tr.10].

Pháp luật dân sự đã trải qua thời kỳ trung cổ đến thời kỳ phục hưng từ thế kỷ 12 trở đi, thời kỳ này, công chứng phát triển thành tổ chức nghề luật ở hầu hết các nước Châu Âu và Châu Mỹ.

Nghiên cứu các tài liệu về công chứng cho thấy, từ trước tới nay trên thế giới luôn cùng tồn tại ba hệ thống công chứng: Hệ thống công chứng La tinh (Luật viết), hệ thống công chứng Anglo-sacxon ( Anh – Mỹ) và hệ thống công chứng nhà nước bao cấp (Collectiviste).

Hệ thống công chứng La tinh (chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của hệ thống luật La mã, còn gọi là hệ thống pháp luật dân sự – Civil Law). Hệ thống này tồn tại ở hầu hết các nước thuộc cộng đồng châu Âu (trừ Đan Mạch và Anh); châu Phi (các nước thuộc địa cũ của Pháp); các nước châu Mỹ – La tinh, bang Quebec của Canada, bang Luisane của Hoa Kỳ, một số nước châu Á (Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ…).

Hệ thống công chứng Anglo-saxon, gắn liền với hệ thống pháp luật Anglo-Saxon (Common Law), tồn tại ở các quốc gia: Vương quốc Anh, Mỹ (trừ bang Luisane), Canada (trừ bang Quebec); Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan, Đài Loan…

Hệ thống công chứng Collectiviste (công chứng tập thể) tồn tại ở các nước XHCN trước đây và phát triển mạnh vào các năm 70 của thế kỷ đến trước năm 1990, bao gồm: Liên Xô, Ba Lan, Đông Đức, Bungari, Hungari, Rumani, Cu Ba, Trung Quốc, Việt Nam [18].

Mặc dù hình thành ba hệ thống công chứng như trên, song chung quy lại, chỉ có hai mô hình công chứng: mô hình công chứng tự do (ở hệ thống công chứng Latinh và hệ thống công chứng Anglo-Saxon) và mô hình công chứng nhà nước (chỉ tồn tại ở hệ thống công chứng Collectiviste).

Mô hình công chứng tự do, các CCV được Nhà nước bổ nhiệm, hành nghề tự do theo quy định của pháp luật đối với các hình thức VPCC tư nhân hoặc VPCC tập thể, tự chủ trong tổ chức, hoạt động, tự hạch toán và đóng thuế cho Nhà nước. CCV chịu trách nhiệm cá nhân về hành vi công chứng của mình, phải bồi thường thiệt hại bằng tài khoản tiền ký quỹ của mình nếu hành vi công chứng gây thiệt hại cho khách hàng hoặc người thứ ba.

Mô hình công chứng nhà nước, cơ quan công chứng là thiết chế nhà nước, CCV là công chức nhà nước, do nhà nước bổ nhiệm, hưởng lương từ ngân sách nhà nước, CCV không phải chịu trách nhiệm vật chất trước đương sự về các hậu quả do hành vi công chứng trái pháp luật của mình gây ra, chỉ phải chịu trách nhiệm hành chính trước nhà nước. Lệ phí công chứng được nộp cho ngân sách nhà nước, có trích lại một phần để trang trải thêm cho hoạt động của phòng công chứng. Có thể nói, với sự bao cấp toàn bộ của nhà nước, mô hình công chứng nhà nước chỉ phù hợp với cơ chế kế hoạch hoá tập trung và nền kinh tế hiện vật, trong đó, các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại không phát triển, ở đó, vai trò công chứng chủ yếu là nhằm bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản cá nhân [18].

Có thể thấy rõ ưu thế vượt trội của mô hình công chứng tự do so với mô hình công chứng nhà nước. Đó là sự đề cao, phát huy trách nhiệm cá nhân của CCV, tạo ra cơ chế cạnh tranh lành mạnh, tạo động lực để các CCV phát huy tính tích cực, chủ động nhiệt tình trong hoạt động của mình, giảm nhẹ sự bao cấp của nhà nước, làm cho bộ máy nhà nước tinh giản, gọn nhẹ, tách bạch chức năng quản lý nhà nước với chức năng cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực công chứng. Mô hình tổ chức này không chỉ tiết kiệm cho ngân sách nhà nước mà còn tăng thu ngân sách thông qua việc đóng thuế của các CCV. Về mặt tổ chức và hoạt động, mô hình công chứng tự do tạo ra sự linh hoạt về mặt tổ chức, bảo đảm đáp ứng kịp thời nhu cầu công chứng của nhân dân.

1.1.1.2. Hoạt động công chứng

Từ các quan niệm về công chứng ở trên, có thể thấy được, hoạt động công chứng là hành vi của CCV nhằm lập, chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng, giao dịch với mục đích đảm bảo an toàn pháp lý cho các chủ thể tham gia giao dịch, phòng ngừa tranh chấp và vi phạm pháp luật.

Khởi nguồn của hoạt động công chứng là hoạt động của xã hội, với vai trò làm chứng của quần chúng nhằm bảo đảm tính công khai, minh bạch, khách quan của các khế ước, văn tự được lập, đề phòng sự tranh chấp, lật lọng. Có thể nói, ở giai đoạn đầu của lịch sử công chứng, công chứng chính là nhu cầu tự nhiên, tự bảo vệ của dân chúng khi họ tham gia các hợp đồng, giao dịch chứ chưa phải nhu cầu của quản lý nhà nước. Như vậy, công chứng là một hoạt động mang tính xã hội sâu sắc.

Mặt khác, với vai trò chủ yếu là hỗ trợ công dân, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và các tổ chức trong các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại; phòng ngừa tranh chấp và vi phạm pháp luật; hỗ trợ quản lý nhà nước, góp phần bảo đảm ổn định trật tự xã hội, thúc đẩy các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại phát triển và hỗ trợ tư pháp thông qua việc cung cấp chứng cứ cho hoạt động xét xử, công chứng là một nghề có tính chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa phục vụ cho lợi ích chung của xã hội, cộng đồng. Với vai trò quan trọng như trên, công chứng đã trở thành đối tượng quản lý của nhà nước. Thậm chí, ở một số quốc gia, trong những điều kiện lịch sử nhất định, công chứng còn trở thành một hoạt động thuộc chức năng xã hội của nhà nước (chức năng cung ứng dịch vụ công). Trải qua sự thăng trầm của lịch sử, hoạt động công chứng đã khẳng định sự tồn tại vững chắc và đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, được nhà nước thừa nhận và trở thành hoạt động hỗ trợ đắc lực cho công dân và nhà nước trên cả hai phương diện: hỗ trợ hành pháp (quản lý nhà nước) và bổ trợ tư pháp [50, tr.12-13].

1.1.2. Đặc điểm pháp lý của hoạt động công chứng Luận văn: Hoạt động của tổ công chứng trên địa bàn Hà Nội

Từ khái niệm về công chứng và hoạt động công chứng, có thể rút ra những đặc điểm pháp lý của hoạt động công chứng như sau:

Hoạt động công chứng là hoạt động mang tính chuyên môn nghề nghiệp của CCV

Nội dung cơ bản của hoạt động công chứng là lập các hợp đồng, giấy tờ theo yêu cầu của đương sự và chứng nhận các hợp đồng, giấy tờ theo quy định của pháp luật bởi vậy, hoạt động công chứng là hoạt động mang tính chuyên môn nghề nghiệp của CCV. Chỉ có CCV, người được đào tạo về chuyên môn và được cơ quan nhà nước trao quyền mới được thực hiện hoạt động này.

Đây chính là đặc điểm cơ bản nhất của hoạt động công chứng, là căn cứ quan trọng nhất để phân biệt hoạt động công chứng với các hoạt động mang tính chất hành chính của các cơ quan công quyền. Hành vi lập hợp đồng, giấy tờ theo yêu cầu của đương sự và chứng nhận các hợp đồng giấy tờ đó theo quy định của pháp luật là hành vi tạo nên các văn bản công chứng. Hay nói cách khác, các hợp đồng giấy tờ đã được công chứng gọi là các văn bản công chứng.

Đặc điểm này của hoạt động công chứng được biểu hiện như sau: Các phòng công chứng, VPCC thực hiện hoạt động công chứng bằng kiến thức chuyên môn nghề nghiệp của các CCV là những người do Nhà nước bổ nhiệm với đầy đủ các điều kiện, tiêu chuẩn quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu công chứng. Các CCV thông qua các thao tác nghề nghiệp của mình, giúp khách hàng thể hiện ý chí, nguyện vọng, thỏa thuận bằng văn bản, đảm bảo cho ý chí của họ phù hợp với pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Đồng thời, CCV còn kiểm tra, tư vấn góp ý để khách hàng có thể thể hiện được đầy đủ ý chí, nguyện vọng của chính họ một cách chính xác rõ ràng nhất trong các văn bản công chứng.

CCV bằng sự kiến thức pháp luật và kinh nghiệm nghề nghiệp, với sự khách quan, vô tư phải đảm bảo xác định đúng chủ thể, đối tượng, nội dung, tính chất của hợp đồng giao dịch, xác định các quan hệ pháp lý phát sinh xung quanh yêu cầu công chứng, hậu quả pháp lý có thể xảy ra.

Ví dụ: khi tiếp nhận yêu cầu công chứng hợp đồng mua bán xe ô tô của khách hàng thì ngoài việc xác định các nội dung cơ bản của hợp đồng theo quy định pháp luật như bên mua, bên bán, tình trạng chất lượng tài sản, giá cả và phương thức thanh toán… CCV còn phải xác định các quan hệ pháp lý liên quan khác, gồm:

  • Quan hệ sở hữu: sở hữu chung hay sở hữu riêng…
  • Quan hệ giao dịch bảo đảm: tài sản có đang đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ nào khác hay không như: cầm cố, thế chấp, bảo lãnh…);
  • Quan hệ thừa kế: tài sản có liên quan đến di sản thừa kế hay không? …

Đồng thời CCV còn phải giải thích rõ cho khách hàng biết họ sẽ phải chịu những hậu quả pháp lý gì khi tranh chấp xảy ra nếu có sự dối trá, giả tạo, không trung thực trong quá trình giao kết hợp đồng thì.

Sau khi xác định rõ các vấn đề trên, các bên trong hợp đồng ký vào văn bản trước sự chứng kiến của CCV. CCV công nhận tính xác thực, hợp pháp của các hợp đồng giấy tờ bằng việc ghi lời chứng theo thể thức và nội dung do pháp luật quy định và ký tên vào văn bản, giấy tờ đó. Sau khi hoàn tất giai đoạn này, hợp đồng giấy tờ trở thành văn bản công chứng – một loại công chứng thư (văn bản có tính chất công như văn bản cửa cơ quan công quyền – được lập ra do người có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục chặt chẽ) [50, tr.16].

Ngoài ra, sau khi lập, chứng nhận các hợp đồng giấy tờ như đã phân tích ở trên, CCV còn phải cấp văn bản cho khách hàng và phải có nghĩa vụ lưu giữ văn bản công chứng lâu dài, đảm bảo an toàn và cấp bản sao văn bản công chứng khi có yêu cầu của các bên giao kết hợp đồng, giao dịch.

Như vậy, có thể thấy được, hoạt động công chứng là hoạt động nghề nghiệp có tính chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa cao của CCV, khác với hoạt động chuyên môn thuần túy của các công chức hành chính. Ý nghĩa pháp lý của hoạt động động công chứng là đảm bảo giá trị thực hiện cho các hợp đồng giao dịch, phòng ngừa tranh chấp và cung cấp chứng cứ nếu có tranh chấp xảy ra (văn bản công chứng là một công chứng thư). Bản thân hoạt động công chứng chứa đựng tính phức tạp, đa dạng của các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có các quy định nghiêm ngặt về điều kiện, tiêu chuẩn bổ nhiệm CCV.

Văn bản công chứng có giá trị thực hiện và giá trị chứng cứ

Văn bản công chứng là văn bản do CCV lập theo trình tự, thể thức bắt buộc, ghi lại một cách chính xác ngày, tháng, năm, địa điểm giao kết và ý chí, nguyện vọng của các bên khi tham gia hợp đồng giao dịch.

Theo Bộ luật Dân sự Pháp, tại điều 1319: “Văn bản công chứng đem lại sự tin cậy đầy đủ cho hợp đồng”; Điều 1317: “Văn bản công chứng là văn bản được CCV lập để làm chứng, tại một địa điểm và theo những thể thức bắt buộc” [44, tr 31].

Tại Việt Nam, theo Điều 6 khoản 1, LCC 2006 thì: “ Văn bản công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác”. Luận văn: Hoạt động của tổ công chứng trên địa bàn Hà Nội

Có thể thấy, văn bản công chứng được tạo lập trước hết không nhằm tạo ra chứng cứ và càng không phải mục đích duy nhất làm chứng cứ. Văn bản công chứng được tạo lập, trước hết đảm bảo giá trị thực hiện đối với các bên trong giao dịch, đồng thời có giá trị đối với cả bên thứ ba. Hợp đồng, giao dịch khi đã được công chứng theo các quy định của pháp luật thì giá trị pháp lí của hợp đồng, giao dịch đó sẽ được nhà nước thừa nhận. Văn bản đã được công chứng sẽ có ý nghĩa ràng buộc các bên tự nguyện thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình mà không cần sự phán xét của Tòa án. Trừ khi bên có nghĩa vụ không tự nguyện thực hiện theo văn bản đã công chứng thì bên còn lại trong hợp đồng, giao dịch có quyền yêu cầu tòa án xét xử theo quy định của pháp luật. Điều này có nghĩa là văn bản đã được công chứng luôn tạo ra một biện pháp an toàn cho các bên khi tranh chấp xảy ra. Đây chính là giá trị chứng cứ của các hợp đồng, giao dịch đã được công chứng. Trong trường hợp có tranh chấp xảy ra, những văn bản đã được công chứng chính là bằng chứng không thể chối cãi giữa các bên tham gia hợp đồng, giao dịch. Từ đó, quyền, lợi ích hợp pháp của các bên được bảo vệ và bảo đảm thực hiện.

Trên thế giới hiện nay, các hệ thống công chứng khác nhau có quan điểm khác nhau khi xác định giá trị chứng cứ của văn bản công chứng.

Hệ thống công chứng Anglo-Sacxon là công chứng hình thức, khi thực hiện công chứng, các luật sư, hộ tịch viên hoặc cố vấn pháp lý của Giáo hội chỉ chú trọng đến tính xác thực về mặt hình thức như: nhận diện đúng khách hàng, xác định đúng thời gian, địa điểm giao kết hợp đồng, ghi lại sự kiện pháp lý hoặc thỏa thuận của các bên hoặc ý chí của người yêu cầu công chứng mà không quan tâm đến việc xác định tình trạng pháp lý của đối tượng hợp đồng, không cần biết thỏa thuận có trái pháp luật, đạo đức xã hội hay không, không chịu trách nhiệm nếu có điều khoản nào đó trong hợp đồng bất lợi cho một bên hoặc gây thiệt hại cho người thứ ba [15, tr.19-20]… Bởi vậy, văn bản công chứng mang lại sự an toàn pháp lý thấp, không được coi là chứng cứ xác thực, hiển nhiên trước Tòa án, không có giá trị cưỡng chế thi hành như một phán quyết của Tòa án, mà chỉ được coi là nguồn chứng cứ trước tòa, vẫn cần điều tra xác minh, có tỷ lệ tranh chấp xảy ra nhiều hơn so với các hệ thống công chứng khác.

Hệ thống công chứng La tinh: công chứng La tinh là công chứng nội dung, văn bản công chứng được lập theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do luật định, CCV không chỉ chứng nhận, đảm bảo và chịu trách nhiệm về tính xác thực của hợp đồng, giao dịch mà còn phải chịu trách nhiệm về tính hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của các hợp đồng, giao dịch đó, đảm bảo không xâm hại lợi ích của người thứ ba hoặc của Nhà nước. Bởi vậy, CCV đem lại cho văn bản giá trị như văn bản do cơ quan công quyền cấp, đảm bảo cho các hợp đồng một sự an toàn trong mọi tình huống, hạn chế được đến mức thấp nhất những tranh chấp dân sự, làm giảm bớt gánh nặng quá tải về xét xử của các Tòa án. CCV giữ vai trò quan trọng để đảm bảo trật tự pháp lý, đó là vai trò bổ trợ tư pháp như một thẩm phán về hợp đồng, nhằm phòng ngừa tranh chấp (thẩm phán phòng ngừa). Chính vai trò mang tính chất phòng ngừa này của CCV là một ưu điểm trong hệ thống luật Châu Âu lục địa so với hệ thống luật Anh – Mỹ [15, tr.12-13].

Hoạt động công chứng chịu sự quản lý của Nhà nước

Đặc điểm này được thể hiện ở các hệ thống công chứng như sau: các nước theo hệ La tinh, CCV được Nhà nước ủy thác một phần quyền lực và trao cho con dấu riêng có khắc tên CCV đó. Với tư cách là ủy viên công quyền, CCV có nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công, thể hiện ở việc chính họ được người đứng đầu Nhà nước hoặc Bộ trưởng Tư pháp bổ nhiệm và được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Mặt khác, hệ thống công chứng La tinh và hệ thống công chứng Anglo-Saxon đều coi công chứng là một nghề tự do. CCV hoạt động độc lập, tự chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt động của mình. Tuy nhiên, đó là một nghề đặc biệt, đòi hỏi CCV phải có trình độ chuyên môn (luật) và kỹ năng nghiệp vụ được nhà nước công nhận để có thể đảm bảo tính xác thực cho các hợp đồng vốn rất phức tạp, bởi vậy, CCV do nhà nước bổ nhiệm hoặc công nhận theo các điều kiện, tiêu chuẩn do luật định và hoạt động theo chế độ chứng chỉ hành nghề [50, tr.14].

Hệ thống công chứng Collectiviste là một thể chế công chứng được tổ chức khá chặt chẽ, hoạt động chuyên nghiệp bằng sự bao cấp của nhà nước thông qua việc cấp ngân sách hành chính để đầu tư cơ sở vật chất, trả lương và hoạt động. Tổ chức công chứng là một loại hình cơ quan bổ trợ tư pháp trong bộ máy hành pháp của Chính phủ. CCV hầu hết đều là công chức, nhân viên nhà nước, hưởng lương từ nguồn ngân sách quốc gia và được hưởng mọi chế độ chính sách theo quy chế công chức [15, tr.22].

Hiện nay trong hệ thống công chứng Collectiviste, hầu hết các nước đã chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường nên đã có những sự thay đổi nhất định. Pháp luật đã xác định công chứng là một nghề tự do đặt dưới sự quản lý của Nhà nước và đang từng bước cải cách từ mô hình công chứng nhà nước sang mô hình công chứng tự do.

Vấn đề quản lý của Nhà nước đối với hoạt động công chứng đã được LCC 2006 cùng các Nghị định hướng dẫn quy định cụ thể trong các điều luật về thành lập tổ chức HNCC, thủ tục công chứng, phí công chứng, tiêu chuẩn CCV, xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực công chứng… tất cả đều chịu sự quản lý của các cơ quan nhà nước. Hoạt động quản lý nhà nước về công chứng là sự phối hợp giữa Chính phủ, Bộ tư pháp, Bộ Ngoại giao; Bộ, cơ quan ngang Bộ và UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Để tăng cường công tác quản lý nhà nước về công chứng, Luật công chứng phân định rõ nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan trong quản lý về tổ chức và hoạt động công chứng, theo hướng tăng cường vai trò của UBND cấp tỉnh đối với việc phát triển và quản lý hệ thống tổ chức HNCC ở địa phương mình, đồng thời bảo đảm tính thống nhất trong việc quản lý nhà nước về công chứng trên phạm vi toàn quốc, đảm bảo các tổ chức HNCC hoạt động trong khuôn khổ các quy định của pháp luật, phát huy được vai trò, tầm quan trọng của công chứng trong đời sống xã hội.

1.2. Pháp luật công chứng của Việt Nam

1.2.1. Khái niệm pháp luật về công chứng

Pháp luật về công chứng là tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành để điều chỉnh những vấn đề liên quan đến tổ chức thành lập và hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng”.

1.2.2. Sự phát triển của công chứng và pháp luật công chứng Việt Nam Luận văn: Hoạt động của tổ công chứng trên địa bàn Hà Nội

1.2.2.1. Thời kỳ trước khi Luật công chứng 2006 ra đời

Giai đoạn Pháp thuộc đến trước Cách mạng tháng Tám

Hoạt động công chứng xuất hiện khá sớm ở Việt Nam, kể từ khi thực dân Pháp xâm lược. Hoạt động công chứng của nước ta ở giai đoạn này đều áp dụng theo mô hình của Pháp chủ yếu phục vụ cho chính sách cai trị của Pháp tại Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng. Tiêu biểu là Sắc lệnh ngày 24 tháng 8 năm 1931 của Tổng thống Cộng hòa Pháp về tổ chức công chứng (được áp dụng ở Đông Dương theo quyết định ngày 07/10/1931 của Toàn quyền Đông Dương P.Pasquies). Theo đó, người thực hiện công chứng là CCV mang quốc tịch Pháp do Tổng thống Pháp bổ nhiệm và giữ chức vụ suốt đời. Khi đó Việt Nam chỉ có một VPCC ở Hà Nội, ba VPCC ở Sài Gòn, ngoài ra ở các thành phố Hải Phòng, Nam Định, Đà Nẵng thì việc công chứng do Chánh lục sự Tòa án sơ thẩm kiêm nhiệm [17, tr.18].

Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1991

Cách mạng Tháng 8 thành công, bộ máy nhà nước thực dân phong kiến bị đập tan, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Cùng với việc xây dựng bộ máy nhà nước kiểu mới, ngày 01/10/1945 Chính quyền cách mạng đã quyết định về một số vấn đề liên quan đến hoạt động công chứng như: bổ nhiệm một CCV người Việt Nam thay thế cho CCV người Pháp tại Hà Nội, những quy định cũ về công chứng của Pháp vẫn được áp dụng, trừ những quy định trái với chính thể Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Tiếp sau đó, Nhà nước ta ban hành sắc lệnh số 59/SL ngày 15/11/1945 “Ấn định thể lệ thị thực các giấy tờ” và Sắc lệnh số 85/SL ngày 29/02/1952 quy định “Thể lệ trước bạ về việc mua, bán, cho, đổi nhà cửa, ruộng đất”. Theo hai Sắc lệnh này, một số việc chứng nhận các giấy tờ giao cho Uỷ ban kháng chiến hành chính (nay là Ủy ban nhân dân – UBND) các cấp thực hiện.

Để đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện, căn cứ vào các quy định tại Nghị định số 143/HĐBT ngày 22/11/1981 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính Phủ) quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức tư pháp, ngay sau khi bắt đầu công cuộc đổi mới, hoạt động công chứng Việt Nam đã được triển khai. Ngày 10/10/1987 Bộ Tư pháp đã ra Thông tư số 574/QLTPK (Thông tư 574/QLTPK) về công chứng nhà nước. Công tác công chứng của UBND các địa phương được cải tiến và nâng cao chất lượng, đồng thời thành lập phòng công chứng nhà nước tại thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh, thành phố khác có nhu cầu lớn về công chứng và có đủ điều kiện cần thiết. Sau mấy chục năm không tổ chức hoạt động công chứng thì đây là bước cần thiết để đúc rút những kinh nghiệm tiếp tục từng bước xây dựng tổ chức và hoạt động công chứng ở nước ta [15, tr.40].

Sau khi Thông tư 574/QLTPK ra đời thì khái niệm đầu tiên về “công chứng” của nước ta mới chính thức được quy định, theo đó,

Công chứng nhà nước là một hoạt động của Nhà nước, nhằm giúp công dân, các cơ quan, tổ chức lập và xác nhận các văn bản, sự kiện có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản, sự kiện đó, làm cho các văn bản, sự kiện đó có hiệu lực thực hiện. Bằng hoạt động trên, công chứng nhà nước tạo ra những bảo đảm pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, các cơ quan, tổ chức phù hợp với Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngăn ngừa vi phạm pháp luật, giúp cho việc giải quyết các tranh chấp được thuận lợi, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Luận văn: Hoạt động của tổ công chứng trên địa bàn Hà Nội

Trong khái niệm này, nhà làm luật tuy mới chỉ xác định chung chung chủ thể công chứng là Nhà nước, nhưng đã khẳng định được hoạt động công chứng là một hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước “lập và xác nhận”, “hợp pháp hóa các văn bản, sự kiện đó; nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp” và “giúp cho việc giải quyết tranh chấp được thuận lợi”. Là văn bản pháp lý đầu tiên về công chứng trong giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới, do đó, văn bản này không thể tránh được các hạn chế, đó là: chưa xác định được rõ chủ thể, đối tượng của hoạt động công chứng cũng như nội dung việc công chứng, chưa phân biệt rõ hoạt động công chứng với hoạt động của các cơ quan nhà nước khác.

Tại miền nam Việt Nam, sau hiệp định Giơnevơ năm 1954, công chứng dưới thời chính quyền Sài Gòn được điều chỉnh bởi Dụ 43 ngày 29 tháng 11 năm 1954 quy định về ngạch chưởng khế (chưởng khế là người Việt Nam) do Bảo Đại ký với tư cách là Quốc trưởng. Mục đích ban hành chưởng khế là nhằm thiết lập trong quản hạt của mỗi Toà án cấp sơ thẩm thuộc Bộ Tư Pháp có một phòng công chứng, song trên thực tế chỉ thiết lập được duy nhất một văn phòng chưởng khế tại Sài Gòn và văn phòng đó đã hoạt động cho đến năm 1975 [17, tr.25].

Giai đoạn 1991 đến trước khi LCC 2006 ra đời:

Giai đoạn này, hệ thống công chứng ở nước ta được chính thức thành lập kể từ khi Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/02/1991 (Nghị định số 45/HĐBT) về Công chứng nhà nước. Từ đó đến trước khi Luật công chứng ra đời, Chính phủ đã có thêm hai lần ban hành các nghị định về công chứng đó là:

  • Nghị định số 31/CP ngày 18/05/1996 (NĐ số 31/CP) về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước.
  • Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 (NĐ số 75/2000/NĐ-CP) về công chứng, chứng thực.

Nghị định số 45/HĐBT về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước ra đời đã đặt ra cơ sở pháp lý cần thiết cho các hoạt động công chứng – một chức năng nhà nước rất cần thiết trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Theo Nghị định số 45/HĐBT, quan niệm của nhà nước ta về công chứng cũng có những thay đổi nhất định. Điều 1, Nghị định này xác định: “Công chứng nhà nước là việc chứng nhận tính xác thực các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là các tổ chức), góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Như vậy, theo khái niệm này, mục đích của hoạt động công chứng được xác định rõ là “việc chứng nhận tính xác thực các hợp đồng và giấy tờ”, nhiệm vụ mà nó phải thực hiện vẫn là bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức… Bên cạnh vai trò quản lý nhà nước bằng pháp luật – “góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”, thì vai trò bổ trợ tư pháp của hoạt động công chứng trong việc xác nhận tính xác thực của các hợp đồng, giấy tờ, sau khi các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng có giá trị chứng cứ trong việc giải quyết các tranh chấp sau này. Giai đoạn này, chúng ta đã mô phỏng mô hình công chứng nhà nước, mô hình đặc trưng của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô trước đây.

Sau Nghị định số 45/HĐBT, tại Nghị định số 31/CP khái niệm về công chứng đã được quy định như sau:

Công chứng là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là tổ chức), góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa… Các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng nhà nước chứng nhận hoặc Ủy ban nhân cấp có thẩm quyền chứng thực có giá trị chứng cứ, trừ trường hợp bị Tòa án nhân dân tuyên bố là vô hiệu.

Tại khái niệm công chứng này, chủ thể công chứng đã được gián tiếp nhắc đến, đó là “công chứng nhà nước” và “UBND cấp có thẩm quyền”. Ở đây, các nhà làm luật đã tách biệt hai hành vi chứng nhận của công chứng nhà nước và chứng thực của UBND cấp có thẩm quyền. Mục đích của hoạt động công chứng vẫn là chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng và giấy tờ, vai trò cung cấp chứng cứ cho công tác xét xử của cơ quan tài phán cũng như quản lý nhà nước bằng pháp luật của công chứng vẫn được nhắc đến, tuy nhiên, hợp đồng, giấy tờ đã được chứng nhận hoặc chứng thực sẽ không còn giá trị chứng cứ nếu bị Tòa án nhân dân tuyên bố là vô hiệu [44, tr.10].

Ngày 08/12/2000, Nghị định số 75/2000/NĐ-CP của Chính phủ về công chứng và chứng thực ra đời, đã quy định về khái niệm công chứng như sau: “Công chứng là việc Phòng công chứng chứng nhận tính xác thực của hợp đồng được giao kết hoặc giao dịch khác được xác lập trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và quan hệ xã hội khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) và thực hiện các việc khác theo quy định của Nghị định này”. Như vậy, Nghị định 75/2000/NĐ-CP lần đầu tiên đã khẳng định chủ thể của hoạt động công chứng là phòng công chứng, mục đích của hoạt động công chứng vẫn là “chứng nhận tính xác thực” của hợp đồng giao dịch … Tuy nhiên, vai trò cũng như giá trị pháp lý của văn bản công chứng không được ghi nhận cụ thể trong khái niệm này.

Muốn xây dựng và hoàn thiện bất cứ một chế định pháp luật nào, điều kiện tiên quyết là chúng ta phải thống nhất được cách đánh giá, nhận định về bản chất pháp lý của chế định đó, nên việc xác định khái niệm công chứng là vấn đề mấu chốt của hoạt động công chứng. Như vậy, trước khi có Luật công chứng, khái niệm công chứng đã được nêu trong 1 Thông tư và 3 Nghị định: Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987, Nghị định số 31/CP ngày 18 tháng 5 năm 1996 và Nghị định số 75/2000/NĐ-CP. Việc thể hiện cụ thể khái niệm này có sự khác nhau, song có sự giống nhau về cơ bản như sau: công chứng là việc chứng nhận tính xác thực của hợp đồng, giao dịch.

Có thể nói, tổ chức công chứng ở nước ta tuy ra đời muộn hơn so với tổ chức công chứng của các nước khác nhưng đã may mắn gặp được môi trường rất thuận lợi để phát triển đó là nền kinh tế thị trường – vừa là đối tượng phục vụ vừa là điều kiện phát triển của thiết chế công chứng.

Tính đến trước ngày Luật công chứng có hiệu lực (01/07/2007) cả nước có 128 Phòng Công chứng, với tổng số 380 công chứng viên, hơn 150 nhân viên nghiệp vụ và khoảng gần 800 nhân viên khác. Tính trung bình, mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có từ 1 đến 2 Phòng công chứng, riêng thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, mỗi nơi có 6 Phòng công chứng. Các CCV đều có trình độ cử nhân luật trở lên. Cơ sở vật chất và phương tiện làm việc cho các Phòng công chứng đã được xây dựng khang trang và đã được hiện đại hóa một bước, đặc biệt là đã tiến hành tin học hóa. Hoạt động chứng thực tại các UBND cấp huyện, cấp xã và Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài cũng được triển khai thực hiện [22, tr3].

Trong những năm qua, hoạt động công chứng đã góp phần đáng kể vào đời sống kinh tế, xã hội của đất nước, thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường, bảo đảm an toàn pháp lý cho các giao dịch dân sự, kinh tế của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, góp phần tăng cường quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực.

Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, trong quá trình phát triển, Công chứng nước ta giai đoạn này cũng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập cả về mặt tổ chức và hoạt động làm ảnh hưởng đến các hoạt động giao lưu dân sự, kinh tế của xã hội, hạn chế sự phát triển của nền kinh tế thị trường cũng như sự hội nhập của nền kinh tế nước ta với thế giới, hạn chế hiệu quả quản lý của Nhà nước. Những bất cập, hạn chế đó thể hiện qua những điểm chủ yếu sau đây:

Một là, trong nhận thức về lý luận cũng như trong quy định của pháp luật còn có sự lẫn lộn giữa hoạt động công chứng của Phòng công chứng với hoạt động chứng thực của cơ quan hành chính công quyền. Mặc dù trong Bộ luật dân sự nước ta cũng như trong Nghị định số 75/2000/NĐ-CP về công chứng, chứng thực đã có sự phân biệt về thuật ngữ “Công chứng” và “Chứng thực” nhưng đó mới chỉ là phân biệt mang tính hình thức (hành vi công chứng được dùng cho Phòng công chứng, hành vi chứng thực được dùng cho UBND) và chưa phân biệt đối tượng nào thì công chứng, đối tượng nào thì chứng thực.

Do có sự lẫn lộn giữa hoạt động công chứng với hoạt động chứng thực nên dẫn đến tình trạng, một số văn bản quy phạm pháp luật đã quy định theo hướng các hợp đồng, giao dịch cũng như việc sao y giấy tờ có thể do Phòng công chứng chứng nhận hoặc UBND chứng thực. Cách quy định như vậy đã dẫn đến không phân biệt chức năng giữa cơ quan hành chính công quyền là UBND với tổ chức dịch vụ công (Phòng công chứng), thậm chí người ta còn coi Phòng công chứng như một cơ quan hành chính công quyền.

Hai là, về mô hình tổ chức công chứng của nước ta vào thời điểm này được tổ chức theo mô hình công chứng nhà nước: Phòng công chứng là cơ quan nhà nước, do Nhà nước thành lập, CCV là công chức nhà nước, hoạt động của Phòng công chứng do ngân sách Nhà nước bao cấp. Việc duy trì mô hình tổ chức công chứng nhà nước theo hình thức này tuy có điểm thuận lợi cho hoạt động công chứng, nhưng đồng thời cũng bộc lộ nhiều điểm bất cập như:

  • CCV là công chức nhà nước nên việc phát triển đội ngũ CCV gặp khó khăn do thiếu biên chế. Trong khi đó Nghị định số 75/2000/NĐ-CP quy định mỗi Phòng công chứng phải có ít nhất 3 CCV nên càng làm hạn chế sự phát triển về số lượng Phòng công chứng do số lượng CCV không có đủ để thành lập Phòng theo quy định, từ đó dẫn tới hệ quả là nhu cầu về công chứng lớn, song tổ chức công chứng phát triển không theo kịp, dẫn đến sự quá tải của các Phòng công chứng.
  • Việc làm và thu nhập của CCV được Nhà nước bảo đảm nên dẫn đến tình trạng một bộ phận không ít CCV chưa thực sự quan tâm đến việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của mình và nâng cao chất lượng phục vụ, thậm chí còn tư tưởng quan liêu, cửa quyền trong khi thực hiện nhiệm vụ. Mặt khác do CCV là công chức nhà nước nên họ không phải chịu trách nhiệm vật chất trực tiếp trước khách hàng trong trường hợp gây thiệt hại cho khách hàng.

Ba là, về giá trị pháp lý của văn bản công chứng: Đây là vấn đề rất quan trọng, quyết định lý do tồn tại của thiết chế công chứng trong đời sống xã hội. Luận văn: Hoạt động của tổ công chứng trên địa bàn Hà Nội

Theo thông lệ của các nước có hệ thống công chứng La tinh, văn bản công chứng có giá trị chứng cứ và giá trị thi hành. Giá trị thi hành và giá trị chứng cứ của văn bản công chứng thể hiện ở chỗ: các hợp đồng, giao dịch đã được công chứng thì có hiệu lực thi hành đối với các bên trong hợp đồng, giao dịch đó và có hiệu lực với người thứ ba. Nếu vì một lý do nào đó mà một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia không cần phải kiện ra Tòa án mà chỉ cần xuất trình văn bản hợp đồng, giao dịch đã được công chứng đó cho cơ quan có thẩm quyền để cưỡng chế thi hành. Trong trường hợp muốn bác bỏ hiệu lực của văn bản công chứng đó thì phải kiện ra Tòa án và khi đó thì các tình tiết, sự kiện đã ghi trong hợp đồng, giao dịch đó sẽ trở thành chứng cứ hiển nhiên trước Tòa, không cần phải xác minh, người muốn bác bỏ nó phải xuất trình được chứng cứ ngược lại. Đặc điểm nêu trên của văn bản công chứng có ý nghĩa rất lớn thể hiện vai trò phòng ngừa, bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên trong hợp đồng, giao dịch đồng thời hạn chế được rất nhiều các vụ kiện tụng ra Tòa án, gây tốn kém, lãng phí.

Nghị định số 75/2000/NĐ-CP quy định:

Văn bản công chứng, văn bản chứng thực có giá trị chứng cứ, trừ trường hợp được thực hiện không đúng thẩm quyền hoặc không tuân theo quy định tại Nghị định này hoặc bị Toà án tuyên bố là vô hiệu. Hợp đồng đã được công chứng, chứng thực có giá trị thi hành đối với các bên giao kết; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình, thì bên kia có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tuy nhiên trên thực tế, quy định này của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP chưa được các cơ quan, tổ chức và cá nhân nhận thức đúng đắn và đầy đủ. Mặt khác, quy định nói trên chỉ ở cấp nghị định nên thường bị các văn bản quy phạm pháp luật khác có hiệu lực pháp lý cao hơn bỏ qua, do đó trong nhiều trường hợp gây thiệt hại cho các bên trong hợp đồng, giao dịch.

Những điểm hạn chế bất cập nêu trên về mặt tổ chức và hoạt động công chứng ở nước ta cần phải sớm khắc phục, đặc biệt là trong điều kiện đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế của nước ta. Vì vậy, việc hoàn thiện thể chế về công chứng thông qua việc ban hành Luật công chứng, một văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao, điều chỉnh một cách toàn diện và đồng bộ lĩnh vực công chứng là một nhu cầu cấp thiết [22, tr6].

Chính vì những lý do nêu trên, ngày 29 tháng 11 năm 2006, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI đã thông qua Luật công chứng. Luật công chứng có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2007.

1.2.2.2. Sau khi Luật công chứng 2006 có hiệu lực

Luật công chứng 2006 ra đời cùng với các Văn bản hướng dẫn đi kèm như Nghị định số 79/2007/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 18 tháng 5 năm 2007 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ kí, Nghị định số 02/2008/NĐ-CP ngày 04/01/2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật công chứng, Quyết định số 250/QĐ-TTg ngày 10/02/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng ở Việt Nam đến năm 2020”, Quyết định số 240/QĐ-TTg ngày 17/02/2011 của Thủ tướng Chính phủ ban hành “Tiêu chí quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề công chứng ở Việt Nam đến năm 2020”, Thông tư số 11/2012/TT-BTP ban hành quy tắc đạo đức hành nghề công chứng và mới đây nhất là Nghị định 04/2013/NĐ-CP, ngoài ra còn có Nghị định 110/2013/NĐ-CP ngày 24/09/2013 Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp, Dự thảo sửa đổi Luật công chứng 2006 đang trong quá trình góp ý đã và đang góp phần cho hệ thống pháp luật công chứng ngày càng thêm hoàn thiện.

Sau hơn sáu năm thi hành Luật công chứng, những kết quả đạt được bước đầu là rất khích lệ, khẳng định chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng là hết sức đúng đắn. Chủ trương này đã tạo điều kiện cho việc phát triển tổ chức và hoạt động công chứng của Việt Nam theo hướng chuyên nghiệp hóa và trở thành một trong những dịch vụ công có vai trò tăng cường sự bảo đảm an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, thu hút đầu tư nước ngoài, phù hợp với chuẩn mực và thông lệ của hoạt động công chứng trong khu vực và thế giới. Đội ngũ CCV và tổ chức HNCC ở nước ta đã và đang phát triển nhanh về số lượng, tính chuyên nghiệp trong hoạt động hành nghề cũng từng bước được nâng cao. Sau khi Luật công chứng được ban hành, số lượng CCV và tổ chức HNCC ở nước ta đã tăng nhanh. Tính đến thời điểm cuối năm 2013, sau hơn năm năm Luật công chứng có hiệu lực, trên cả nước đã có 625 tổ chức HNCC, trong đó có 138 Phòng công chứng và 487 VPCC (bao gồm: 352 VPCC hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân và 135 VPCC hoạt động theo loại hình công ty hợp danh). So với thời điểm trước khi Luật công chứng có hiệu lực thi hành, cả nước phát triển thêm được 484 tổ chức HNCC. Như vậy, số tổ chức HNCC hiện tại tăng 4,77 lần so với thời điểm trước khi Luật công chứng có hiệu lực, số CCV tăng từ 353 người năm 2007 lên 1.505 người năm 2013 [3]. Tại Hà Nội, đến thời điểm cuối năm 2012 trên địa bàn thành phố có 96 tổ chức HNCC, trong đó có 10 Phòng công chứng, 86 VPCC với gần 300 CCV đang hành nghề [51].

1.2.3. Khái niệm công chứng theo pháp luật Việt Nam hiện hành Luận văn: Hoạt động của tổ công chứng trên địa bàn Hà Nội

1.2.3.1. Khái niệm công chứng theo Luật công chứng 2006

Xã hội phát triển không ngừng, sự phức tạp của các giao dịch dân sự ngày càng tăng, đặc biệt là ở lĩnh vực nhà đất, cùng với đó, sau khi nước ta gia nhập tổ chức thương mại Thế giới WTO, hệ thống pháp luật nói chung cũng như chế định công chứng nói riêng cũng đã có nhiều thay đổi nhằm đáp ứng được yêu cầu của xu hướng hội nhập, khu vực hóa và toàn cầu hóa. Trong bối cảnh này, ngày 29/11/2006, LCC 2006 đã ra đời, thay thế cho Nghị định 75/2000/NĐ-CP.

Tại Điều 2, LCC 2006 đã xác định: “Công chứng là việc CCV chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”. Như vậy, theo khái niệm của LCC 2006, điểm nổi bật nhất chính là chủ thể của hoạt động công chứng được xác định đã được xác định là cá nhân “CCV” chứ không phải là “phòng công chứng” như khái niệm trước đó. Việc thay đổi quan niệm về chủ thể công chứng từ “phòng công chứng” sang “CCV” đã đánh dấu xu hướng chuyển đổi thiết chế công chứng Việt Nam từ mô hình tổ chức công chứng nhà nước sang mô hình tổ chức công chứng hành nghề tự do. Đồng thời, nhà làm luật đã tách chứng thực, với chủ thể là UBND cấp có thẩm quyền khỏi công chứng, với chủ thể là phòng công chứng hay CCV. Như vậy, công chứng từ chỗ bị hiểu như là một hoạt động mang tính chất thủ tục hành chính đơn thuần thì nay được coi như là một nghề, một ngành chuyên môn sâu có chức năng bảo đảm sự an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, đặc biệt là các hợp đồng, giao dịch về bất động sản. Sự tách bạch giữa công chứng và chứng thực theo tinh thần nói trên đã tạo điều kiện cho các tổ chức HNCC tập trung thực hiện đúng chức năng của mình theo hướng chuyên nghiệp hóa, nhiệm vụ chứng nhận hợp đồng, giao dịch đã trở thành nhiệm vụ chủ yếu của các tổ chức HNCC [44, tr.12]

Khái niệm công chứng theo LCC 2006 đã nêu được các vấn đề sau:

Một là, công chứng là hành vi của CCV. Điều này phân biệt với chứng thực là hành vi của người đại diện của cơ quan hành chính công quyền.

Hai là, tính xác thực của hợp đồng, giao dịch khác được CCV xác nhận. Tính xác thực của các tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch khác là vô cùng quan trọng nhằm bảo đảm cho chúng có giá trị chứng cứ. Trong pháp luật về tố tụng, khi nói đến chứng cứ thì bao giờ cũng đề cao tính xác thực của các sự kiện, tình tiết có thực, khách quan được coi là chứng cứ. Sở dĩ pháp luật coi văn bản công chứng có giá trị chứng cứ cũng là do tính xác thực của các tình tiết, sự kiện có trong văn bản đó đã được CCV xác nhận. Tính xác thực này được CCV kiểm chứng và xác nhận ngay khi nó xảy ra trong thực tế, trong số đó có những tình tiết, sự kiện chỉ xảy ra một lần, không để lại hình dạng, dấu vết về sau (ví dụ: sự tự nguyện của các bên khi ký kết hợp đồng) và do đó, nếu không có CCV xác nhận thì về sau rất dễ xảy ra tranh chấp mà Toà án không thể xác minh được.

Ba là, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác được CCV xác nhận. Đây là điểm khác biệt giữa trường phái công chứng nội dung (công chứng hệ La tinh) và trường phái công chứng hình thức (công chứng hệ Anglo-Saxon). Trong công chứng hệ La tinh thì các hợp đồng, giao dịch hợp pháp mới được CCV xác nhận, những hợp đồng, giao dịch bất hợp pháp thì bị từ chối công chứng. Đặc điểm này của công chứng hệ La tinh quy định chức năng phòng ngừa các tranh chấp trong hợp đồng, giao dịch khác của công chứng [40].

Hiện nay, dự thảo Luật sửa đổi một số điều của LCC 2006 đang trong quá trình lấy ý kiến, quy định về khái niệm công chứng ở Điều 2 được định hướng được sửa đổi như sau: “Công chứng là việc CCV chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng, chứng nhận chữ ký người dịch và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Luật này và các quy định pháp luật có liên quan”. Theo khái niệm mới, mục đích, nhiệm vụ của CCV không có gì thay đổi, chỉ thêm phần: “chứng nhận chữ ký người dịch và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Luật này và các quy định pháp luật có liên quan”, điều này góp phần tăng thêm nhiệm vụ cho hoạt động công chứng, bảo đảm tính xác thực, tính hợp pháp của các hợp đồng, giao dịch [40].

Luật công chứng 2006 cùng với các Nghị định, Thông tư hướng dẫn về tổ chức và hoạt động công chứng đã tạo nên một hệ thống quy phạm pháp luật về công chứng hoàn chỉnh, ngoài ra trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác của Nhà nước ta, bao gồm cả những bộ luật, đạo luật quan trọng như: Bộ luật dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật đất đai, Luật nhà ở … của Chính phủ đều có những quy định liên quan đến hoạt động công chứng. Các văn bản trên đều là cơ sở pháp lý quan trọng góp phần chi việc xây dựng và hoàn thiện tổ chức và hoạt động công chứng ở Việt Nam.

Như vậy, qua các thời kỳ phát triển của hệ thống pháp luật công chứng Việt Nam, khái niệm về công chứng đã có sự thay đổi, hoàn thiện dần. Có thể khẳng định rằng LCC 2006 ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá trình xây dựng, hoàn thiện chế định công chứng tại nước ta. Có hiệu lực pháp lý kể từ ngày 01/07/2007, cho đến nay Luật công chứng đã đi vào cuộc sống được hơn 6 năm, tạo hành lang pháp lý cho hệ thống tổ chức HNCC hoạt động một cách tương đối hiệu quả trong thời gian vừa qua.

1.2.3.2. Chức năng cơ bản của hoạt động công chứng Luận văn: Hoạt động của tổ công chứng trên địa bàn Hà Nội

Căn cứ theo quy định của pháp luật, hoạt động công chứng có những chức năng cơ bản như sau:

Thứ nhất: chức năng hợp pháp hóa hợp đồng, văn bản, hay nói chính xác hơn là chức năng hợp pháp hóa sự kiện, thỏa thuận của các bên thể hiện trong hợp đồng.

Do hợp đồng chỉ là phương tiện chuyển tải các sự kiện, thỏa thuận nên phải khẳng định chính những sự kiện, thỏa thuận mới là cái đích mà hành vi hợp pháp hóa của CCV hướng tới. Như chúng ta đã biết, thông thường chỉ các quyết định do cơ quan hay cá nhân có thẩm quyền ban hành mới được thực thi nghiêm chỉnh trong cuộc sống bởi vì các quyết định này được đảm bảo bắt buộc thực hiện bằng sức mạnh quyền lực nhà nước. Những văn bản do cá nhân, tổ chức nằm ngoài hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước tạo lập không có một giá trị pháp lý cao như văn bản do các chủ thể này không mang tính công quyền tạo lập hay và không được bảo đảm thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế quyền lực của nhà nước. Đây cũng là nguyên nhân một hoặc nhiều bên tham gia giao kết hợp đồng hay tạo lập văn bản có thể thay đổi ý chí, thỏa thuận bất cứ lúc nào và hậu quả tất yếu là quyền và lợi ích hợp pháp của họ hay của bên thứ ba sẽ bị xâm hại. Chính vì vậy, khi xảy ra tranh chấp, để xác định chính xác ý chí của các bên tại thời điểm giao kết hợp đồng hay tạo lập văn bản, cơ quan tài phán phải trải qua quá trình xác minh, điều tra với một trình tự, thủ tục không đơn giản nhằm làm sáng tỏ sự thật. Đặc biệt, công việc này tạo ra áp lực rất lớn do số lượng tranh chấp ngày càng nhiều trong khi tính chất ngày càng phức tạp.

Nhằm ngăn ngừa vi phạm pháp luật hay tranh chấp có thể xảy ra trong tương lai, chế định công chứng của một số quốc gia, trong đó có Việt Nam, quy định chức năng hợp pháp hóa hợp đồng, văn bản nhằm tạo ra cho chúng một giá trị pháp lý tương đương với quyết định do cơ quan công quyền ban hành. Điều đó có nghĩa là những văn bản, hợp đồng được công chứng cũng sẽ được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của quyền lực nhà nước, giảm thiểu tranh chấp giữa các bên tham gia giao kết.

Chức năng này của hoạt động công chứng đã được thể hiện qua các văn bản pháp luật công chứng của nước ta. Tại thông tư số 574/QLTPK ở phần mở đầu đã khẳng định công chứng có chức năng hợp pháp hóa hợp đồng, văn bản: Luận văn: Hoạt động của tổ công chứng trên địa bàn Hà Nội

Công chứng nhà nước là một hoạt động của Nhà nước, nhằm giúp công dân, các cơ quan, tổ chức lập và xác nhận các văn bản, sự kiện có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản, sự kiện đó, làm cho các văn bản, sự kiện đó có hiệu lực thực hiện. Bằng hoạt động trên, công chứng nhà nước tạo ra những bảo đảm pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, các cơ quan, tổ chức phù hợp với Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngăn ngừa vi phạm pháp luật, giúp cho việc giải quyết các tranh chấp được thuận lợi, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Hành vi “hợp pháp hóa các văn bản, sự kiện đó, làm cho các văn bản, sự kiện đó có hiệu lực thực hiện” đã phản ánh một cách cụ thể nhất, trung thực nhất chức năng hợp pháp hóa hợp đồng, văn bản của hoạt động công chứng.

Đến khi Nghị định 75/2000/NĐ-CP ra đời, chức năng hợp pháp hóa hợp đồng, văn bản của công chứng lại tiếp tục được khẳng định tại Khoản 3, Điều

Hợp đồng đã được công chứng, chứng thực có giá trị thi hành đối với các bên giao kết, trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật”. Tuy Nghị định 75/2000/NĐ-CP không quy định rõ ràng nhưng bằng việc khẳng định văn bản công chứng có giá trị thi hành đối với các bên giao kết, tức là nó có giá trị như những văn bản mang dấu ấn công quyền, thì chức năng hợp pháp hóa hợp đồng, văn bản công chứng đã gián tiếp được công nhận.

LCC 2006 tại Khoản 1 Điều 6 cũng đã quy định: “Văn bản công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của minh thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác”. Căn cứ nội dung điều luật nêu trên, văn bản công chứng không những có hiệu lực giữa các bên trực tiếp tham gia giao kết mà nó còn có giá trị thi hành đối với các bên liên quan, ngay cả khi bên liên quan đó là cơ quan quản lý hành chính nhà nước hay thậm chí chính là cơ quan tư pháp hoặc bổ trợ tư pháp. Điều này chứng tỏ, giá trị pháp lý của văn bản, hợp đồng công chứng cao hơn hẳn văn bản, hợp đồng cùng loại, do cùng chủ thể giao kết nhưng không được công chứng. Sở dĩ như thế là xuất phát từ quyền năng mà CCV được pháp luật giao phó cũng như tính chất công vụ của hoạt động công chứng.

Thứ hai, chức năng tạo lập và xác nhận nguồn chứng cứ

Theo Từ điển Luật học năm 2006 thì “Nguồn chứng cứ là nơi thu, nhận được chứng cứ”. Có thể nói, nguồn chứng cứ đóng vai trò rất quan trọng để giải quyết các tranh chấp dân sự, kinh tế… trong xã hội. Trên thế giới, chức năng tạo lập và xác nhận nguồn chứng cứ là một trong những chức năng cơ bản và lâu đời nhất của công chứng nói chung cũng như trường phái công chứng nội dung nói riêng. Chính vì vậy mà hiện nay hệ thống pháp luật Việt Nam cùng một số quốc gia khác đang xếp công chứng là chế định bổ trợ tư pháp, hoạt động nhằm phục vụ cho công tác tài phán mà trước hết là phục vụ cho công tác xét xử của Tòa án.

Theo Khoản 1, Điều 83, Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004 đã được sửa đổi bổ sung năm 2011 quy định: “Các tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận”. Như vậy, các văn bản công chứng được tạo lập một cách hợp pháp, được lưu trữ theo các quy định riêng biệt đáp ứng đầy đủ các điều kiện để trở thành một nguồn chứng cứ quan trọng phục vụ cho công tác xét xử nói riêng hay tài phán nói chung.

Các quy định của pháp luật công chứng đã thể hiện rất rõ chức năng này của hoạt động công chứng. Cụ thể, tại Thông tư 574/QLTPK đã khẳng định mục đích của công chứng là: “ngăn ngừa vi phạm pháp luật, giúp cho việc giải quyết các tranh chấp được thuận lợi”. Nghị định số 45/HĐBT khẳng định: “Các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng có giá trị chứng cứ”, trong khi Điều 1, Nghị định số 31/CP ghi nhận: “Các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng nhà nước chứng nhận hoặc UBND cấp có thẩm quyền chứng thực có giá trị chứng cứ, trừ trường hợp bị Tòa án nhân dân tuyên bố là vô hiệu”. Khi Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ra đời, giá trị chứng cứ của văn bản công chứng được coi trọng hơn hẳn khi lần đầu tiên giá trị pháp lý, trong đó giá trị chứng cứ của văn bản công chứng được quy định riêng tại một điều luật. Khoản 2, Điều 14, Nghị định số 75/2000/NĐ-CP: “Văn bản công chứng, văn bản chứng thực có giá trị chứng cứ, trừ trường hợp được thực hiện không đúng thẩm quyền hoặc không tuân theo quy định tại Nghị định này hoặc bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu”. LCC 2006 ra đời, lại tiếp tục ghi nhận giá trị chứng cứ của văn bản công chứng tại Khoản 2, Điều 6: “Văn bản công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong văn bản công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu”. Chức năng tạo lập và xác nhận nguồn chứng cứ đã trở thành một chức năng truyền thống của pháp luật công chứng Việt Nam [44, tr.185-187].

Thứ ba, chức năng lưu trữ và cung cấp nguồn chứng cứ

Đây là chức năng quan trọng nhất được ghi nhận trong pháp luật công chứng của rất nhiều quốc gia trên thế giới. Nếu như chức năng tạo lập và xác nhận nguồn chứng cứ là tiền đề thì chức năng lưu trữ và cung cấp nguồn chứng cứ chính là yếu tố quyết định bản chất bổ trợ tư pháp của công chứng. Văn bản công chứng chính là sản phẩm nghề nghiệp của CCV, là nơi ghi nhận trung thực, toàn vẹn ý chí của các bên tham gia giao dịch, được CCV lưu trữ và sẽ là nơi cung cấp nguồn chứng cứ quan trọng nếu có tranh chấp xảy ra. Pháp luật công chứng Việt Nam đã ghi nhận từ rất sớm chức năng lưu trữ văn bản công chứng của CCV. Thông tư 858/QLTPK ngày 15/10/1987 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện các việc làm công chứng đã nêu rõ: “Các tài liệu công chứng phải được bảo quản, lưu trữ tại cơ quan công chứng với đầy đủ hồ sơ kèm theo. Việc lưu trữ, bảo vệ các tài liệu công chứng phải bảo đảm không hư hỏng, mất mát và tiện sử dụng khi cần thiết”. Các Thông tư, Nghị định trong thời gian tiếp theo cũng tiếp tục khẳng định vấn đề này. Đến LCC 2006 thì đã dành hẳn Chương V, gồm 3 điều luật để quy định về Lưu trữ hồ sơ công chứng.

1.2.3.3. Tầm quan trọng của hoạt động công chứng. Luận văn: Hoạt động của tổ công chứng trên địa bàn Hà Nội

Công chứng là một chế định được du nhập vào hệ thống pháp luật nước ta từ Cộng hòa Pháp những năm 1930 của thế kỷ trước. Tuy xuất phát từ một trong những quốc gia có lịch sử hình thành và phát triển công chứng lâu đời, nhưng khi du nhập vào Việt Nam, chế định này đã có nhiều thay đổi cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh nước ta. Có thể khẳng định rằng, LCC 2006 ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá trình xây dựng, hoàn thiện chế định công chứng tại nước ta. Từ thực tiễn của hoạt động công chứng, có thể rút ra được tầm quan trọng của hoạt động này như sau:

Thứ nhất: Hoạt động công chứng đóng vai trò hợp pháp hóa các hợp đồng, văn bản, ngăn ngừa vi phạm pháp luật và tranh chấp

Do hợp đồng chỉ là phương tiện chuyển tải các sự kiện, ý chí và thỏa thuận của các bên nên giá trị pháp lý không cao như các quyết định do các cơ quan hay cá nhân có thẩm quyền ban hành. Đây là nguyên nhân dẫn đến việc một hoặc nhiều bên tham gia giao kết hợp đồng có thể thay đổi ý chí, thỏa thuận bất kỳ lúc nào và hậu quả tất yếu là quyền và lợi ích hợp pháp của họ và của bên thứ ba bị xâm hại. Khi tranh chấp xảy ra, cơ quan tài phán phải trải qua quá trình xác minh, điều tra với trình tự thủ tục rất phức tạp nhằm làm sang tỏ sự thật. Điều này làm cho số lượng các tranh chấp ngày càng nhiều với mức độ phức tạp ngày càng tăng. Bởi vậy, hoạt động công chứng đóng vai trò như là một hoạt động trung gian làm chứng trên cơ sở được pháp luật cho phép, có chức năng hợp pháp hóa hợp đồng, văn bản nhằm tạo ra cho chúng một giá trị pháp lý tương đương với quyết định do cơ quan công quyền ban hành. Điều này có nghĩa những văn bản, hợp đồng theo sự thỏa thuận của các bên trong giao dịch được công chứng cũng sẽ được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của quyền lực nhà nước, giảm thiểu tranh chấp giữa các bên tham gia giao kết.

Khoản 1, Điều 6, LCC 2006 quy định: “Văn bản công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác”. Căn cứ vào điều này, văn bản công chứng không chỉ đơn thuần có hiệu lực thi hành giữa các bên trực tiếp tham gia giao kết mà nó còn có giá trị thực hiện đối với bên thứ ba có liên quan, ngay cả khi đó là cơ quan quản lý hành chính nhà nước hay thậm chí là chính những cơ quan tư pháp hoặc bổ trợ tư pháp [44, tr.188].

Đồng thời, hoạt động công chứng giúp làm giảm thiểu các tranh chấp xảy ra, là lá chắn đảm bảo an toàn pháp lý cho các giao dịch, là công cụ phục vụ đắc lực cho công tác quản lý của nhà nước. Theo đánh giá chung của Bộ tư pháp, Sở tư pháp, các tổ chức HNCC và các Bộ ngành liên quan về kết quả thu được sau năm năm thi hành luật công chứng thì: “Không thể phủ nhận công chứng là “lá chắn” phòng ngừa hữu hiệu, đảm bảo an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, tiết kiệm thời gian, chi phí cho xã hội, giảm thiếu “gánh nặng” pháp lý cho Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự” [25]. Đặc biệt, hoạt động công chứng đã góp phần quan trọng vào việc phòng ngừa các tranh chấp, khiếu nại trong lĩnh vực đất đai, nhà ở – lĩnh vực vốn phức tạp và tiềm ẩn nhiều nguy cơ tranh chấp. Tại Khoản 2, Điều 6, Luật công chứng cũng quy định: “Văn bản công chứng có giá trị chứng cứ, những tình tiết, sự kiện trong văn bản công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu”.

Trong quá trình hành nghề, bằng sự tinh thông nghề nghiệp, kinh nghiệm và kỹ năng nghề, các CCV thực hiện hành vi công chứng theo trình tự và thủ tục, hình thức chặt chẽ, lập ra văn bản công chứng trên các nguyên tắc tự do, tự nguyện, cam kết thỏa thuận, bình đẳng, thiện chí, trung thực, tự chịu trách nhiệm dân sự… Bởi vậy thông qua hoạt động công chứng tạo cho các tổ chức, cá nhân ý thức thận trọng hơn, tuân thủ pháp luật tốt hơn, có trách nhiệm hơn trong việc thể hiện ý chí của mình phù hợp với quy định của pháp luật, đạo đức xã hội và truyền thống văn hóa khi tham gia ký kết và thực hiện các hợp đồng, giao dịch. Bởi vậy, có thể nói hoạt động công chứng là “lá chắn” pháp lý, đem lại sự an toàn pháp lý cho các giao dịch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân …, chủ động phòng ngừa các tranh chấp và vi phạm pháp luật.

Thứ hai, hoạt động công chứng góp phần rất lớn vào sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước

Bản thân công chứng không phải là một hoạt động quản lý nhà nước, nhưng nó góp phần hỗ trợ tích cực cho Nhà nước thực hiện công tác quản lý kinh tế, quản lý xã hội bằng pháp luật – một yêu cầu cốt lõi của Nhà nước pháp quyền. Mặt khác, việc tạo ra các chứng cứ về các hợp đồng, giao dịch, công chứng tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xét xử của tòa án nếu có tranh chấp xảy ra, giảm thiểu đáng kể các chi phí phát sinh trong hoạt động xét xử của Toà án, giảm bớt sự quá tải cho các cơ quan hành chính nhà nước, thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường, bảo đảm an toàn pháp lý cho các giao dịch dân sự, kinh tế của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, góp phần tăng cường quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực.

1.3. Một số đặc điểm trong quy định công chứng của một số nƣớc trên thế giới

Như đã giới thiệu, từ trước tới nay trên thế giới luôn cùng tồn tại ba hệ thống công chứng: Hệ thống công chứng La tinh (Luật viết), hệ thống công chứng Anglo-Sacxon (Anh-Mỹ) và hệ thống công chứng nhà nước bao cấp (Collectiviste). Hệ thống công chứng La tinh và Anglo-Sacxon theo mô hình công chứng tự do còn hệ thống Collectiviste đi theo mô hình công chứng nhà nước.

Trong hệ thống công chứng La tinh, các CCV hoạt động chịu ảnh hưởng của luật La Mã và pháp luật của Châu Âu lục địa; nhờ sự đồng bộ này mà họ có thể thực hành nghề gần giống nhau, tập hợp lại trong một “Mái nhà chung” với tên gọi là Liên đoàn công chứng La tinh quốc tế, gồm công chứng của các nước ở Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Phi và Châu Á. Công chứng La tinh tồn tại ở tất cả các nước thuộc Cộng đồng Châu Âu trừ Đan Mạch và Vương quốc Anh. Ở các nước theo hệ La tinh, CCV được Nhà nước ủy thác một phần quyền lực và trao cho con dấu riêng có khắc tên CCV đó.

Với tư cách là ủy viên công quyền, CCV có nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công, thể hiện ở việc chính họ được người đứng đầu Nhà nước hoặc Bộ trưởng Tư pháp bổ nhiệm và được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các CCV thực hiện tại đất nước của mình các chức năng tương tự nhau, chỉ có những khác biệt ở thể thức đào tạo, bổ nhiệm hay khả năng có được hành nghề dưới hình thức công ty nghề nghiệp dân sự hay không. Về quy chế, các CCV có quy chế tương đối khác nhau tùy theo từng nước. Hầu hết, đó là những người hành nghề tự do, họ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm và không được chuyển nhượng hay để thừa kế văn phòng của mình, trừ ở Pháp và Bỉ [15, tr.9-10]. các nước trong hệ thống Anglo-Sacxon, thể chế công chứng không được thiết lập. Nhà nước không thừa nhận một thể chế công chứng, không bổ nhiệm một chức danh hoạt động công chứng chuyên nghiệp và chuyên biệt, được trang bị một quyền năng để thay mặt nhà nước đem lại tính xác thực cho hợp đồng, văn bản. Chức năng công chứng ở các nước theo hệ thống này được giao cho luật sư, hộ tịch viên hoặc cố vấn pháp lý của nhà thờ thực hiện theo phương thức kiêm nhiệm. Đó là những “CCV” không chuyên biệt. Trước khi được kiêm nhiệm chức năng công chứng, họ phải có thâm niên hành nghề luật sư thuộc Hiệp hội Luật sư hoặc đã có một thời gian làm hộ tịch viên hay cố vấn pháp lý của Giáo hội. Ngoài ra, một số nhân viên ngoại giao và lãnh sự cũng được giao thẩm quyền thực hiện một số việc công chứng ở nước ngoài

Hệ thống công chứng Collectiviste là một thể chế công chứng được tổ chức khá chặt chẽ, hoạt động chuyên nghiệp bằng sự bao cấp của nhà nước thông qua việc cấp ngân sách hành chính để đầu tư cơ sở vật chất, trả lương và hoạt động. Tổ chức công chứng là một loại hình cơ quan bổ trợ tư pháp trong bộ máy hành pháp của Chính phủ. CCV hầu hết đều là công chức, nhân viên nhà nước, hưởng lương từ nguồn ngân sách quốc gia và được hưởng mọi chế độ chính sách theo quy chế công chức. Vai trò của CCV ở các nước này bị hạn chế bởi luật không thừa nhận quyền sở hữu tư nhân đối với một số tài sản, đặc biệt là quyền sở hữu đất đai. Pháp luật quy định hoạt động của CCV nhằm thực hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa, đặc biệt nhằm bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản cá nhân.

Sau khi Liên Xô bị sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa không còn, hệ thống công chứng Colectiviste cũng dần dần bị thu hẹp và đang có những cải cách về thể chế cho phù hợp với nền kinh tế thị trường, hướng theo mô hình công chứng La tinh

Một số nước điển hình của ba hệ thống công chứng trên là Pháp, Anh – Mỹ và Trung Quốc.

1.3.1. Công chứng ở Cộng hòa Pháp Luận văn: Hoạt động của tổ công chứng trên địa bàn Hà Nội

Pháp là một nước điển hình cho hệ thống công chứng La tinh. Ở Pháp, công chứng là một nghề đã có từ thế kỷ XII, nó trải qua sự thăng trầm của nhiều chế độ khác nhau, qua nhiều cuộc cách mạng và chiến tranh. Năm 1803, chính thể Bonaperte đã cho ra đời luật Vestose. Đây là đạo luật đầu tiên của Pháp về tổ chức và hoạt động mang tính kỹ thuật cao mà một số điều khoản cơ bản của nó vẫn còn hiệu lực đến ngày nay. Sau đó, Luật này được sửa đổi, bổ sung bằng Pháp lệnh cải cách công chứng năm 1945 và nhiều pháp lệnh khác.

Công chứng chiếm vị trí hàng đầu trong số các nghề luật ở Pháp, doanh thu của ngành công chứng đạt 27 tỷ Franc mỗi năm, chiếm khoảng 45% doanh thu của các nghề luật (luật sư, tư vấn, thừa phát lại, bán đấu giá …). Hiện có hơn 7.800 CCV, trong đó có khoảng 1.200 CCV nữ, sử dụng hơn 43.000 nhân viên. Nghĩa là có tất cả trên 51.000 người làm việc trong ngành công chứng so với 32.000 trong ngành luật sư và 17.000 trong ngành tư vấn pháp luật. Có khoảng gần 4.550 phòng công chứng được phân bố trên khắp lãnh thổ và gần 60% công chứng hành nghề trong các hiệp hội nghề nghiệp dân sự. Hoạt động công chứng chủ yếu trong lĩnh vực bất động sản, hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, từ nhiều năm nay, nó phát triển khá mạnh trong lĩnh vực luật kinh doanh, tư vấn pháp luật [15, tr.26]

Phạm vi hoạt động công chứng ở Pháp rất đa dạng và phong phú, tuy nhiên có bốn lĩnh vực bao trùm hoạt động công chứng được quy định trong pháp luật của Pháp bao gồm:

  • Lĩnh vực gia đình: đây là lĩnh vực mang tính truyền thống của công chứng Pháp. Mọi vấn đề liên quan đến gia sản, cho dù quan trọng hay không quan trọng đều cần có vai trò của CCV để xác nhận: quyền sở hữu tài sản, sự quản lý tài sản (hợp đồng thuê nhà, thuê đất, thuê tài sản, máy móc thiết bị…) hoặc định đoạt tài sản đó ( mua bán, tặng cho, di chúc, chia thừa kế…).
  • Pháp, CCV là chuyên gia về hôn nhân và gia đình: lập hôn ước, thay đổi chế độ tài sản trong hôn nhân, chia tài sản chung của vợ chồng khi li hôn hoặc sau khi chết. CCV đưa ra lời khuyên về cơ chế quản lý tài sản, dự báo những vấn đề liên quan đến gia đình, đưa ra những lời khuyên thích hợp và hữu ích cho đương sự. Ngoài ra, CCV còn có vai trò giải quyết những vấn đề pháp lý khác nhau như công nhận con ngoài giá thú, con nuôi, đỡ đầu …

Lĩnh vực bất động sản: Lĩnh vực bất động sản là lĩnh vực quan trọng thứ hai của ngành công chứng. CCV được khách hàng yêu cầu ở mọi mức độ của hoạt động về bất động sản. Đối với lĩnh vực xây dựng thì CCV là một chuyên gia đứng bên cạnh các công ty môi giới bất đông sản hoặc hội điền địa đô thị. Đối với việc kinh doanh bất động sản, CCV tạo nên căn cứ về sở hữu, làm môi giới để người mua và người bán gặp nhau, lập hợp đồng mua bán. Ngoài ra, CCV còn tham gia vào việc quản lý bất động sản, họ chỉ dẫn cho đương sự biết về trị giá của đất đai và nhà cửa thông qua những chuyên gia giám định theo mặt bằng giá thị trường.

Lĩnh vực kinh doanh: Trong lĩnh vực này, luật pháp chỉ quy định một việc công chứng bắt buộc là chứng nhận việc khai vốn để thành lập công ty. Song trên thực tế, CCV đã tiến hành nhiều hoạt động khác do đương sự yêu cầu như: chứng nhận việc thành lập các tổ chức xã hội, lập các hợp đồng lao động, hợp đồng thương mại, hợp đồng cho thuê, tăng vốn điều lệ, nhượng vốn kinh doanh, giải thể công ty…, một số công ty nhỏ còn yêu cầu CCV tư vấn cho việc tổ chức một phiên họp đại hội đồng hoặc lập một biên bản cuộc họp. CCV tham gia vào luật kinh doanh ở cả hai lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp. Tuy nhiên, các yêu cầu ở lĩnh vực nông nghiệp có phần nhiều hơn, vì các công ty nông nghiệp quy mô nhỏ hơn các công ty công nghiệp nên không có những trợ lý luật riêng, bởi vậy, CCV trở thành những người tư vấn chính cho họ về mặt luật pháp.

Lĩnh vực tư vấn: Tư vấn pháp luật dần dần đã trở thành một hoạt động cơ bản của CCV. Ngay từ khi ban hành luật Ventose, CCV đã phải là người đưa ra lời khuyên vô tư cho các bên và làm cho các bên hiểu rõ ý nghĩa và hậu quả pháp lý của hợp đồng. Tòa án đã nhanh chóng xác định nội dung của nhiệm vụ này và trong những thập kỷ qua đã quy định phạm vi khá rộng lớn của nhiệm vụ đưa ra lời khuyên vô tư. Như vậy, CCV không chỉ chủ động ghi nhận ý chí của các bên mà còn phải hỗ trợ cho các bên để họ hình thành ý chí lựa chọn thể thức và quyết định cho hợp đồng của họ.

CCV ở Pháp vừa là viên chức hoạt động nhân danh nhà nước, vừa hành nghề tự do, là người tư vấn đáng tin cậy của cá nhân, công ty và tổ chức. CCV là viên chức công có nhiệm vụ đem lại tính đích thực cho các văn bản và hợp đồng của cá nhân, tổ chức. CCV chịu trách nhiệm cá nhân và thực hiện chức năng của mình một cách độc lập trong khuôn khổ một nghề tự do. Khái niệm công chứng ở Pháp được xác định ở Điều 1 Pháp lệnh ngày 02/09/1995, lấy lại gần như nguyên văn định nghĩa trong Luật 25 Ventose năm 1803: “CCV là viên chức công được nhà nước bổ nhiệm để lập văn bản và hợp đồng do pháp luật quy định phải công chứng hoặc do khách hàng tự nguyện yêu cầu, đem lại tính đích thực cho các văn bản và hợp đồng đó, có giá trị như văn bản của cơ quan công quyền để đảm bảo chính xác ngày tháng, năm, lưu trữ lâu dài và cấp bản sao công chứng từ bản gốc”. Với vị trí, vai trò của CCV như vậy nên văn bản, hợp đồng do CCV công chứng có giá trị pháp lý rất cao. Ngay sau khi thực hiện công chứng, văn bản công chứng đã có hiệu lực thi hành ngay gần như là tuyệt đối. Đó là điểm cốt lõi của tính đích thực, chỉ có văn bản công chứng mới có được, văn bản công chứng được coi như một phán quyết của quan tòa [15, tr.25-29].

Hiện nay, hệ thống pháp luật La tinh nói chung, của cộng hòa Pháp nói riêng có ảnh hưởng khá lớn tới xu hướng phát triển của pháp luật công chứng Việt Nam. Điển hình ở việc khái niệm công chứng của LCC 2006 khẳng định chủ thể công chứng là CCV. Việc thay đổi quan niệm về chủ thể công chứng (từ tổ chức hành nghề công chứng sang bản thân CCV) đánh dấu xu hướng chuyển đổi thiết chế công chứng Việt Nam từ mô hình công chứng nhà nước sang mô hình tổ chức công chứng hành nghề tự do. Cách xác định phạm vi công chứng nêu tại LCC 2006 cũng không có gì khác biệt so với quy định về vấn đề này tại Pháp lệnh số 45-2500 của Cộng hòa Pháp [15, tr.12].

1.3.2. Công chứng ở Anh – Mỹ Luận văn: Hoạt động của tổ công chứng trên địa bàn Hà Nội

Ở Anh, CCV không được chấp nhận mãi cho đến giai đoạn sau của thế kỷ 13 và 14. Ban đầu, các CCV ở Anh được chỉ định bởi đại diện của Giáo hoàng. Vào năm 1279, giám mục của Canterbury được Giáo hoàng trao quyền bổ nhiệm các CCV, bởi vậy trong thời kỳ này, đa số CCV là thành viên của giới tăng lữ.

Phong trào cải cách không tạo ra nhiều thay đổi về vị trí và chức năng của CCV ở Anh. Tuy nhiên, sự ra đời của đạo luật tôn giáo The Ecclesiastical Licences Act (1533) đã chấm dứt quyền chỉ định CCV của Giáo hoàng và chuyển giao quyền lực đó cho Nhà vua.

Theo truyền thống, các CCV phải lưu lại các giấy tờ quan trọng của tòa án cũng như các giao dịch cá nhân hay các sự kiện khi mà một hồ sơ hay tài liệu chính thức cần được chứng thực và đòi hỏi những kỹ năng hay kiến thức chuyên môn. Nói chung, một CCV có thể được miêu tả như một nhân viên luật có nhiệm vụ phác thảo, chứng thực hay xác nhận bằng con dấu của mình các tài liệu và văn bản khác bao gồm di chúc hay các tài liệu về di chúc, chuyển nhượng tài sản cá nhân, bất động sản và quyền của luật sư. Việc chứng thực các tài liệu bằng chữ ký và con dấu chính thức của CCV nhằm mục đích làm cho chúng trở nên có thể chấp nhận được đối với tòa án hay chính quyền ở nơi mà những tài liệu này được sử dụng.

Trong hầu hết hệ thống xét xử dựa vào thông luật, CCV là người có kinh nghiệm, có khả năng, được đào tạo trong việc phác thảo và chứng thực các tài liệu pháp luật. Cụ thể, chức năng của CCV còn bao gồm việc chuẩn bị những loại tài liệu cụ thể (gồm các giao dịch quốc tế, chứng thư, di chúc và quyền của luật sư), chứng thực các văn bản gốc, giám sát lời tuyên thệ, bản khai có tuyên thệ, cấp giấy chứng nhận cho các tài liệu copy, giấy tờ, chứng thực các hối phiếu. Ở Anh có vài cấp bậc CCV. Các CCV của Anh không chỉ có chức năng chứng nhận các văn kiện pháp lý. Họ cũng có quyền hạn tương tự như các luật sư tư vấn và những người hành nghề luật khác, trừ việc không được đại diện cho người khác trước tòa (ngoại trừ trường hợp được cấp phép). Ngoài ra, còn có loại công chứng khác là các CCV thuộc tầng lớp giáo sĩ có chức năng giới hạn trong các vấn đề sự vụ của giáo hội Anh hoặc những người đủ khả năng khác mặc dù không được đào tạo như là luật sư tư vấn hay tranh tụng, nhưng có kiến thức thích hợp về luật. Những người này phải vượt qua một kỳ kiểm tra.

Ở một số khu vực và tiểu bang của Mỹ, các CCV được yêu cầu theo các khóa đào tạo đặc biệt khi thực hiện nhiệm vụ, đồng thời họ cũng phải trả qua thời gian học việc trước khi được cấp giấy phép hành nghề. CCV là người được chính quyền bang bổ nhiệm (thường là thống đốc hay bộ trưởng hoặc trong một số trường hợp là cơ quan lập pháp bang) để phục vụ công chúng như là một người làm chứng vô tư, không thiên vị. Trong hầu hết các bang, chỉ có những người có đủ khả năng mới có thể được tuyển dụng vào một chức vụ như thế. Điều kiện thay đổi theo từng bang, nhưng các bang thường tuyển người trong một độ tuổi nào đó và ứng viên phải vượt qua một số kiểu kiểm tra khá đơn giản về luật công chứng và luật pháp. Các CCV ở Mỹ ít bị ràng buộc nghiêm ngặt như các CCV trong hệ thống dân luật hay phần lớn các quốc gia theo thông luật, bởi vì CCV của Mỹ có ít quyền hơn. Ở Mỹ, nếu CCV không phải là luật sư thì họ không thể cung cấp lời khuyên pháp lý hay chuẩn bị tài liệu (bang Louisiana là ngoại lệ) và không thể khuyên người ta nên ký tài liệu như thế nào hay thậm chí kiểu công chứng nào là cần thiết. Trong nhiều trường hợp, CCV không được phép chứng thực bản sao của một loại tài liệu nào đó. Hoạt động công chứng phổ biến nhất ở Mỹ là công nhận và giám sát lời tuyên thệ [30].

1.3.3. Công chứng ở Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Luận văn: Hoạt động của tổ công chứng trên địa bàn Hà Nội

Trước năm 1982, ở Trung Quốc không tồn tại một thể chế công chứng, các việc công chứng đều do các cơ quan hành chính đảm nhiệm. Trước tình hình đó, ngày 13/04/1982, Hội đồng Quốc vụ đã ban hành quy chế tạm thời về Công chứng Nhà nước. Quy định này được xây dựng nhằm thành lập và hoàn chỉnh hệ thống Phòng công chứng Nhà nước để thực hiện chức năng công chứng trên cơ sở yêu cầu của người yêu cầu công chứng, chứng nhận theo quy định của pháp luật về tính xác thực và tính hợp pháp của các văn bản hay sự kiện pháp lý quan trọng, từ đó bảo vệ lợi ích công cộng, quyền, lợi ích chính đáng về nhân thân cũng như tài sản của công dân, bảo vệ hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa tranh chấp và hạn chế khiếu kiện. Phòng công chứng là cơ quan nhà nước thực hiện chức năng công chứng. Thông qua các hoạt động công chứng, Phòng công chứng thực hiện chức năng hướng dẫn nhân dân tuân theo pháp luật, góp phần bảo vệ hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa.

Quy chế tạm thời ngày 13/04/1982 về Công chứng Nhà nước đã cho ra đời công chứng Trung Quốc theo mô hình công chứng nhà nước bao cấp Collectiviste, giống như ở Liên Xô trước đây và Việt Nam hiện nay. Văn bản này đã đề cập đến một số nguyên tắc rất cơ bản của công chứng La tinh, đây là những yếu tố quan trọng, làm tiền đề cho việc cải cách công chứng Trung Quốc theo mô hình công chứng La tinh.

Trong kỳ họp toàn thể lần thứ 3 Đại hội lần thứ 14 và kỳ họp toàn thể của Đại hội lần thứ 15, Đảng cộng sản Trung Quốc đã đưa ra định hướng cần phải đẩy nhanh tốc độ cải cách và phát triển của công tác công chứng, xây dựng và hoàn thiện thể chế công chứng để đáp ứng các yêu cầu của nền kinh tế thị trường, triển khai đầy đủ vai trò phục vụ, chứng thực và giám sát các phòng công chứng, thúc đẩy ngành công chứng của Trung Quốc trong một giai đoạn phát triển mới. Thực hiện chủ trương của Đảng cộng sản Trung Quốc, ngày 31/7/2000, Hội đồng Quốc vụ đã phê chuẩn Nghị quyết về các giải pháp cải cách sâu rộng hoạt động công chứng. Đó là một chương trình có hiệu lực pháp luật định hướng việc xã hội hóa công chứng Trung Quốc đến năm 2010.

Từ năm 1982 đến cuối năm 2001, số lượng CCV ở Trung Quốc đã đạt tới 12.956, phân bố khắp 32 tỉnh, 2861 huyện và hơn 20.000 nhân viên làm việc trong 3.194 Phòng công chứng.CCV được phân thành hai loại: CCV là công chức nhà nước hành nghề tại Phòng công chứng như một “cơ quan hành chính” và CCV hành nghề tại Phòng công chứng tư.

Trung Quốc, các CCV với tư cách là các luật gia chuyên nghiệp đảm nhiệm các chức năng công của nhà nước được trang bị các yếu tố cơ bản như thức chính trị vứng vàng, đạo đức tốt, giàu kiến thức pháp lý và kinh nghiệm xã hội, họ được tuyển chọn thông qua kỳ thi tuyển. Kỳ thi tuyển được mở ra đối với toàn xã hội, cho cả những người đang làm việc tại Phòng công chứng và cho cả những người tự do. Việc thực hiện kỳ thi được Bộ Tư pháp tổ chức dưới hình thức thống nhất.

CCV phải có giấy phép hành nghề. Giấy phép hành nghề của CCV do Bộ Tư pháp cấp dưới hình thức thống nhất cho những người đã qua được kỳ thi hay kiểm tra và đáp ứng đủ tiêu chuẩn của nghề sau khi đã theo học một khóa đào tạo nghề nghiệp trong một năm và tập sự trong các phòng công chứng. Không ai có thể hành nghề mà không có giấy phép hành nghề. Chế độ bổ nhiệm theo các chức năng nghề nghiệp và kỹ thuật được áp dụng đối với các CCV. Họ hưởng các đãi ngộ phù hợp với các biện pháp đãi ngộ nhà nước đối với chuyên gia và kỹ thuật viên [15, tr.35-39].

Qua việc tổng hợp kết quả nghiên cứu về công chứng một số nƣớc, có thể rút ra một số đặc điểm như sau:

Tùy từng đạo luật mà các chủ thể công chứng có thể là cá nhân CCV hoặc tổ chức HNCC. Theo quy định riêng của mỗi quốc gia, tổ chức HNCC được gọi dưới những cái tên khác nhau như: Phòng công chứng, phòng công chứng nhà nước hoặc VPCC … Trong trường hợp chủ thể công chứng là cá nhân CCV, hầu hết pháp luật các quốc gia đều quy định CCV là công chức, viên chức công, công bộc … cho dù họ có được hưởng lương từ ngân sách nhà nước hay không. Đa phần các quốc gia có mô hình tổ chức công chứng hành nghề tự do thường quy định chủ thể công chứng là CCV, trong khi đó pháp luật công chứng của nhiều quốc gia có mô hình tổ chức công chứng nhà nước lại cho rằng tổ chức HNCC mới là chủ thể của hoạt động này. Và nếu chủ thể công chứng là tổ chức HNCC thì thông thường tổ chức HNCC cũng lại là một cơ quan nhà nước (ngoại trừ quy định về VPCC trong Luật công chứng của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa). Đặc biệt, pháp luật công chứng của bất kỳ quốc gia nào cũng quy định khi thực hiện công chứng chính là lúc những CCV đang thi hành công vụ.

Phạm vi công chứng trong quy định pháp luật của các quốc gia cũng rất phong phú. Pháp luật các quốc gia khi đề cập đến vấn đề này thì có hai cách quy định: một là liệt kê cụ thể từng loại việc mà tổ chức HNCC và CCV phải đảm nhận (ví dụ: chứng nhận chữ ký, làm lễ tuyên thệ và xác nhận), hai là quy định một cách khái quát phạm vi công chứng ( dựa trên hai yếu tố cơ bản là pháp luật bắt buộc phải công chứng hoặc bản thân đương sự tự nguyện yêu cầu công chứng), hiện tại Việt Nam đang quy định theo cách thứ hai. Nhìn dưới một góc độ khác, nhiệm vụ của CCV tại mỗi quốc gia được quy định khác nhau nhưng tựu chung gồm hai phần việc cơ bản là chứng nhận chữ ký của đương sự trên văn bản, tài liệu và xác nhận tính xác thực và tính hợp pháp của sự kiện.

Mục đích cơ bản của công chứng là tính xác thực và tính hợp pháp của những sự kiện, hợp đồng giao dịch mà nó làm chứng. Tuy mục đích cụ thể của công chứng tại mỗi quốc gia có sự khác nhau nhất định nhưng tất cả đều nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức ở trong và ngoài nước, ngăn ngừa vi phạm pháp luật.

Tiểu kết chương 1

LCC 2006 với các quy định cụ thể và cởi mở, từ khi có hiệu lực đã tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc để đưa hoạt động công chứng của nước ta đi vào quá trình phát triển toàn diện, tạo điều kiện cho việc phát triển tổ chức và hoạt động công chứng của Việt Nam theo hướng chuyên nghiệp hóa và trở thành một trong những dịch vụ công có vai trò tăng cường sự bảo đảm an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, thu hút đầu tư nước ngoài, phù hợp với chuẩn mực và thông lệ của hoạt động công chứng trong khu vực và thế giới. Sau đây trong chương tiếp theo tác giả sẽ đi sâu nghiên cứu pháp luật hiện hành về thành lập và hoạt động của tổ chức HNCC và việc thực thi ở trên địa bàn Hà Nội hiện nay. Luận văn: Hoạt động của tổ công chứng trên địa bàn Hà Nội

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY   

===>>> Luận văn: Khái quát tổ chức hành nghề công chứng tại Hà Nội

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x