Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Khái quát marketing trong dịch vụ ngân hàng VN hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Giải pháp marketing nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh dịch vụ ngân hàng sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.1. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ MÔI TRƯỜNG MARKETING CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA
2.1.1. Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô
2.1.1.1. Môi trường chính trị pháp luật
Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, hội nhập kinh tế quốc tế, hàng loạt những văn bản pháp luật mới đã ra đời đánh dấu bước ngoặt quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của các NHTM. Luận văn: Khái quát marketing trong dịch vụ ngân hàng VN
Trước hết, trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, hàng loạt những văn bản pháp luật đã ra đời tạo ra một khung pháp lý khá hoàn chỉnh cho hoạt động cung cấp dịch vụ của các TCTD nói chung và các NHTM nói riêng. Nước ta đã sửa đổi, bổ sung Luật NHNN ( năm 2003) và Luật các TCTD (năm 2004), đồng thời tiến hành rà soát các văn bản qui phạm pháp luật trong ngành ngân hàng để chỉnh sửa phù hợp theo các cam kết quốc tế, trước hết để thực hiện Hiệp định thương mại Việt – Mỹ. Đó là các qui định về dịch vụ và nghiệp vụ ngân hàng, hình thức cung cấp dịch vụ ngân hàng, cấp phép, mở chi nhánh TCTD, qui chế cho vay của TCTD, qui định an toàn hoạt động ngân hàng, phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro, quản lý ngoại hối, hệ thống kế toán ngân hàng, minh bạch hoá hoạt động ngân hàng (kiểm toán). Do đó, khuôn khổ thể chế về hoạt động ngân hàng ngày càng thông thoáng và minh bạch hơn đã góp phần từng bước hạn chế phân biệt đối xử giữa các loại hình TCTD, giữa các TCTD trong nước và TCTD nước ngoài; phân biệt rõ hơn chức năng NHNN và chức năng NHTM, tách bạch chức năng cho vay chính sách ra khỏi chức năng cho vay thương mại; nâng cao tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các TCTD, đặc biệt trong hoạt động tín dụng, đồng thời thúc đẩy cạnh tranh và phát triển thị trường dịch vụ ngân hàng an toàn và hiệu quả.
Bên cạnh đó, rất nhiều văn bản pháp luật cũng được sửa đổi thể hiện quyết tâm phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện cho môi trường kinh doanh ở Việt Nam ngày càng thông thoáng hơn, mọi thành phần kinh tế đều được khuyến khích phát triển kể cả thành phần kinh tế tư nhân, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được thu hút ngày càng nhiều… nền kinh tế phát triển với tốc độ cao và ổn định qua các năm đã giúp các NHTM Việt Nam có cơ hội mở rộng thị trường, phát triển hoạt động kinh doanh.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Marketing
2.1.1.2. Môi trường kinh tế Luận văn: Khái quát marketing trong dịch vụ ngân hàng VN
Với vai trò là tổ chức tài chính trung gian, hoạt động của các NHTM Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào sự ổn định và phát triển của nền kinh tế. Khi nền kinh tế ổn định và tăng trưởng, hoạt động kinh doanh của các NHTM sẽ thuận lợi. Ngược lại nếu nền kinh tế suy thoái, bất ổn, hoạt động kinh doanh của các ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn hơn.
Trong thời gian qua, nền kinh tế Việt Nam có tốc độ tăng trưởng liên tục, khá cao và tương đối ổn định. Từ năm 1991 đến năm 2000, GDP tăng liên tục qua các năm với nhịp độ tăng bình quân hàng năm 7.5%. So với năm 1990, năm 2000 GDP tăng gấp 2.07 lần. Tuy xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực năm 1997 nhưng từ năm 2001 đến 2004, GDP của Việt Nam vẫn có nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 7.25% [15]. Năm 2005, GDP Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng 8.4% cao nhất trong vòng chín năm gần đây. Tốc độ tăng trưởng bình quân trong năm từ năm 2001 đến 2005 là 7.5%. Khu vực dịch vụ tăng trưởng 8.5% cao hơn hẳn hai năm trước. Tổng đầu tư toàn xã hội tăng nhanh đạt 38.5% GDP. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển (ODA) với mức cam kết lên tới 3.75 tỷ USD trong đó đã giải ngân khoảng 1.7 tỷ USD. Lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) khoảng 6 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu đạt 32.23 tỷ USD. Kim ngạch nhập khẩu đạt 36.88 tỷ USD. [17]. Trước tình hình phát triển kinh tế như vậy ngành ngân hàng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tổng phương tiện thanh toán so với GDP tăng từ 26.5% năm 1991 lên 75.2% năm 2004; tỉ lệ tiền gửi so với GDP tăng từ 18.1% năm 1991 lên 60.3% năm 2004, tỉ lệ thanh toán bằng tiền mặt giảm từ 31.6% năm 1991 xuống 20.6% năm 2004 và khoảng 18% năm 2005…[27]. Trong năm 2005, tổng huy động vốn của toàn ngành ngân hàng tăng 22% và dư nợ cho vay tăng 22.5% so với năm 2004. Triển vọng phát triển của nền kinh tế Việt Nam là khá sáng sủa. Theo báo cáo của ADB, dự tính Việt Nam sẽ đạt mức tăng trưởng 7.8% vào năm 2006 và 8.0% vào năm 2007 tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các NHTM [24].
2.1.1.3. Môi trường văn hoá – xã hội Luận văn: Khái quát marketing trong dịch vụ ngân hàng VN
Các xu hướng thay đổi gần đây trong lĩnh vực văn hoá xã hội đã tác động đáng kể đến hoạt động kinh doanh của các NHTM. Mỗi xu hướng này đều có thể tạo ra cơ hội cũng như mối đe doạ đối với các NHTM. Nắm bắt nhu cầu mua sắm ôtô, nhà cửa của dân cư, các NHTM đã tung ra dịch vụ mua xe trả góp, mua nhà trả góp… Các ngân hàng cũng tung ra sản phẩm cho vay du học tdo trào lưu cho con cái đi du học nước ngoài của các gia đình Việt Nam hiện nay. Để khai thác xu hướng tiết kiệm của dân cư, các NHTM đã mở ra nhiều hình thức huy động vốn hấp dẫn phong phú với nhiều hình thức khuyến mãi, gửi tiết kiệm trúng thưởng. Đối với xu hướng bảo vệ sức khoẻ của nhân dân, một số NHTM đã gặt hái thành công bằng việc đầu tư vào các dự án thích hợp như các nhà máy sản xuất nước uống tinh khiết, sản xuất thức ăn có đóng gói đúng tiêu chuẩn… Ngân hàng Techcomank còn kết hợp với chương trình VTV3 để làm chương trình hướng dẫn sử dụng thuốc trên TV nhằm nâng cao hình ảnh của mình trong dân chúng.
2.1.1.4. Môi trường công nghệ
Có thể nói nhờ xu hướng phát triển việc ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin mà hoạt động kinh doanh của các NHTM trong thời gian qua đã có những thay đổi lớn cả về lượng và chất. Công nghệ hiện đại đã và đang được ứng dụng trong hoạt động kinh doanh của các NHTM như máy rút tiền tự động ATM, vấn tin tài khoản BBMS, dịch vụ Phone Banking, thanh toán điện tử, thẻ tín dụng nội địa, thẻ tín dụng quốc tế VISA, MASTER,… Các ngân hàng cũng đẩy mạnh việc ứng dụng mô thức quản lý ngân hàng hiện đại cho phép triển khai hệ thống giao dịch tự động và thanh toán trực tuyến. Đến nay, hơn 80% các nghiệp vụ ngân hàng được xử lý bằng máy tính và hầu hết được xử lý trên mạng máy tính thay cho các máy tính đơn lẻ. Các qui trình nghiệp vụ huy động vốn, thanh toán, cho vay, kinh doanh ngoại hối,… bước đầu được chuẩn hoá phù hợp với điều kiện của mỗi NHTM [14].
Tuy nhiên, công nghệ của các NHTM Việt Nam vẫn chưa đạt trình độ trung bình của khu vực. Khi các NHTM đạt trình độ công nghệ cao, các sản phẩm dịch vụ của họ rất đa dạng, thoả mãn nhu cầu của khách hàng tốt hơn và thu nhập từ phí dịch vụ ngân hàng sẽ chiếm tỉ trọng lớn trong tổng thu nhập. Nhiều NHTM nước ngoài có tỷ trọng thu nhập từ phí dịch vụ ngân hàng chiếm trên 40% tổng thu nhập trong khi các NHTM Nhà nước ở nước ta tỷ lệ này đạt mức xấp xỉ 20% [18].
Với cạnh tranh trong kinh doanh dịch vụ ngân hàng, công nghệ ngân hàng hiện đại giữ vai trò quan trọng. Đưa công nghệ ngân hàng vào hoạt động kinh doanh đòi hỏi lực lượng lao động có trình độ chuyên môn hoá và kỹ năng lao động cao. Các NHTM Việt nam, đặc biệt là các NHTMNN, do lịch sử để lại, với biên chế khá đông, trình độ lao động nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu hiện đại hoá ngân hàng là thách thức lớn của các nhà quản trị ngân hàng khi ứng dụng công nghệ hiện đại.
2.1.2. Các yếu tố thuộc môi trường vi mô Luận văn: Khái quát marketing trong dịch vụ ngân hàng VN
2.1.2.1. Đối thủ cạnh tranh
Tính đến cuối năm 2005, hệ thống TCTD ở Việt Nam gồm 5 NHTMNN, 1 Ngân hàng Chính sách xã hội, 36 NHTMCP (gồm 25 NHTMCP đô thị, 11 NHTMCP nông thôn), 27 chi nhánh NHNng, 4 NHLD và 44 văn phòng đại diện TCTD nước ngoài tại Việt Nam, 6 công ty tài chính, 9 công ty cho thuê tài chính và gần 900 Quỹ tín dụng nhân dân [27]. Điều này cho thấy môi trường kinh doanh của các NHTM Việt Nam hiện đã tương đối đông đúc và sự cạnh tranh giữa các ngân hàng cũng ngày càng gay gắt hơn bao giờ hết.
Ta sẽ nghiên cứu từng nhóm ngân hàng để thấy rõ tình hình cạnh tranh trên thị trường dịch vụ ngân hàng nhằm giúp đưa ra các biện pháp marketing hữu hiệu. Do các văn phòng đại diện TCTD nước ngoài tại Việt Nam không được thực hiện hoạt động kinh doanh nên không thuộc đối tượng nghiên cứu trong phần này.
Nhóm các NHTMNN.
Cho đến nay, 5 NHTMNN gồm Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (VCB), Ngân hàng Công thương Việt Nam (ICB), Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank), Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) và Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu long (MHB). Đây là các ngân hàng được thành lập và kinh doanh bởi 100% vốn nhà nước, có tổng tài sản chiếm 70% toàn hệ thống, đóng vai trò chi phối hệ thống với thị phần huy động chiếm 76%, cho vay chiếm tới 74% [26] ,[29]. Hiện nay, các NHTMNN vẫn được hưởng nhiều lợi thế do Nhà nước đưa lại chẳng hạn NHTMNN có nhiều thuận lợi hơn các NHTM khác trong việc tiếp cận và sử dụng nguồn vốn có tính ưu đãi hoặc trong việc khoanh nợ, xoá nợ khó đòi…Những ưu đãi này không phải là những lợi thế cạnh tranh dài hạn, đôi khi chúng còn khiến các NHTMNN trở lên trì trệ hơn, kém năng động hơn trong đổi mới và do đó làm yếu đi năng lực cạnh tranh của nhóm ngân hàng này.
Xét trong nội bộ nhóm NHTMNN, sức cạnh tranh của các ngân hàng đều khá “ngang sức ngang tài „. Mỗi ngân hàng đều có những thế mạnh riêng và hướng các hoạt động kinh doanh theo những thế mạnh đó. Cụ thể là, ICB chú trọng mảng huy động và sử dụng vốn bằng đồng Việt Nam, Agribank chú trọng mảng kinh doanh tại các vùng nông thôn, BIDV chú trọng mảng xây dựng cơ bản, VCB chú trọng mảng kinh doanh xuất nhập khẩu và kinh doanh ngoại tệ. Tuy nhiên gần đây do sự biến động của thị trường, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng này có một số điểm đáng lo ngại. Theo khuyến cáo của Ngân hàng thế giới (WB), nguy cơ tiềm tàng là bốn NHTMNN (VCB, BIDV, Agribank, ICB) có thể thông qua các lựa chọn chiến lược giống nhau sẽ làm suy yếu lẫn nhau qua cạnh tranh căng thẳng vì cả bốn NHTMNN đều lựa chọn trở thành ngân hàng đa năng [4]. Trên thực tế, mặc dù mỗi ngân hàng này đều có những định hướng và lợi thế cạnh tranh ở một số lĩnh vực khác nhau song dường như tầm nhìn và chiến lược phát triển của các NHTMNN đang ngày càng giống nhau. Bốn NHTMNN lớn là Agribank, BIDV, ICB và VCB đều tập trung tích cực vào các dự án cho vay đồng tài trợ lớn cho các doanh nghiệp nhà nước. Cả bốn ngân hàng đều có kế hoạch tương tự nhau trong việc cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN). Bốn ngân hàng này cũng đều gia tăng tiền gửi bằng USD và cùng có tình trạng tài mất cân đối về cơ cấu về thời hạn giữa tiền gửi và tiền vay cũng như giữa huy động cho vay bằng ngoại tệ và huy động ngoại tệ. Và cả bốn ngân hàng đều có chiến lược phát triển thành những tập đoàn tài chính đa năng, cung cấp các dịch vụ tài chính cho tất cả các phân đoạn thị trường [20]. Trong thời điểm hiện tại, các NHTMNN đang thực hiện đề án tổng thể về cơ cấu lại hoạt động và tổ chức để đáp ứng nhu cầu phát triển mới của khách hàng trong điều kiện hội nhập. Theo chủ trương của Chính phủ, trong số các nội dung cơ bản cần cơ cấu lại bao gồm cả việc cơ cấu lại sở hữu bằng hình thức cổ phần hoá. Đề án này đang được triển khai với hai đơn vị tiên phong là VCB và MHB. Đây là điều kiện thuận lợi để các NHTMNN phát triển thành các Tập đoàn tài chính lớn mạnh. Luận văn: Khái quát marketing trong dịch vụ ngân hàng VN
Nhóm NHTMCP
Đến nay Việt Nam có 36 NHTMCP, có tổng tài sản chiếm khoảng 15.6% toàn hệ thống và dư nợ cho vay nền kinh tế chiếm trên 13% trong tổng dư nợ cho vay của các NHTM. Bà Susan Adams- Trưởng đại diện IMF tại Việt Nam nhận định hệ thống các NHTMCP sau khi củng cố và sắp xếp lại từ hơn 50 ngân hàng xuống còn 36 ngân hàng, về cơ bản vốn điều lệ đã đạt chuẩn mực tối thiểu theo quy định của quốc tế là 8%, có mức sinh lời cao. Các NHTMCP đang ở mức đỉnh cao của chu kỳ hoạt động, hiệu quả cao, duy trì được tốc độ tăng trưởng tiền gửi 20%…[6]. Các NHTMCP hiện đang được đánh giá là có hoạt động tốt là ACB, Sacombank, Techcombank…. Các ngân hàng này tuy có vốn nhỏ nhưng lại là nhóm ngân hàng có chất lượng phục vụ khách hàng rất tốt, được khách hàng đánh giá cao. Với thế mạnh này, nếu được chính phủ tạo điều kiện bình đẳng trong cạnh tranh chắc chắn nhóm các NHTMCP sẽ vươn lên trở thành những đối thủ đáng gờm với các NHTMNN trong thời gian tới.
Nhóm NHLD
Tính đến cuối năm 2005 Việt Nam có 04 ngân hàng liên doanh với 13 chi nhánh đặt ở 07 tỉnh và thành phố, giữ một vai trò khiêm tốn trong thị trường tài chính tín dụng của Việt Nam. Khách hàng của các ngân hàng này chủ yếu là các công ty có cùng quốc tịch với phía đối tác nước ngoài trong liên doanh. Sản phẩm vẫn tập trung vào nhóm sản phẩm truyền thống. Hoạt động của những ngân hàng này trong những năm qua được đánh giá ở mức trung bình. Tổng dư nợ của cả 04 ngân hàng liên doanh tính đến 31/10/2005 là 6.000 tỷ VND, chiếm 2% thị phần của hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam trong đó có khoảng 50% trong số đó là dư nợ trung và dài hạn. Số dư vốn huy động tính đến cùng thời điểm là 10.000 tỷ VNĐ, chiếm hơn 1% của toàn hệ thống [16].
Hiện tại nhóm các NHLD chưa phải là các đối thủ cạnh tranh lớn trên thị trường. Tuy nhiên khi mà không khí đầu tư trong nước trở nên sôi động, số lượng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên thì các NHLD chắc chắn sẽ có cơ hội phát triển mạnh.
Nhóm các chi nhánh ngân hàng nước ngoài (NHNng)
Nhóm ngân hàng này được đánh giá là nhóm năng động và có sự phát triển tốt nhất trong khối có vốn đầu tư nước ngoài của hệ thống tài chính Việt Nam trong năm qua. Với bề dày kinh nghiệm kinh doanh trong cơ chế thị trường, nhóm này thực sự là tấm gương sáng cho các NHTM Việt Nam noi theo. Mặc dù phạm vi kinh doanh của các chi nhánh NHNng còn hạn chế hơn so với các NHTM Việt Nam, nhóm này vẫn đạt kết quả kinh doanh tốt. Tính đến cuối năm 2005, tổng dư nợ của khối ngân hàng này tăng gần 30% so với năm trước, với tổng giá trị cho vay lên tới 49.000 tỷ đồng. Thị phần của khối ngân hàng này xét về dư nợ khoảng hơn 9%, tăng gần 1% so với năm 2004 với tỷ lệ nợ quá hạn giảm từ 0.1% xuống chỉ còn 0.06% vào tháng 10/2005. Về huy động vốn, khối ngân hàng này cũng có mức tăng trưởng hơn 20% chủ yếu từ nguồn huy động tiền gửi. Trong năm qua, nhiều chi nhánh NHNng đã có những chiến lược mở rộng và xây dựng mạng lưới khách hàng khá tốt và đa dạng. Một số ngân hàng cũng đã có những bước chuẩn bị cho việc tham gia thị trường bán lẻ. Tuy nhiên đa số khách hàng của khối này vẫn là các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (chiếm tới hơn 70% doanh số cho vay của khối này) [16].
Với kinh nghiệm của mình, chi nhánh NHNng luôn tiên phong trong việc phát triển và áp dụng các công nghệ hiện đại, các sản phẩm mới tại thị trường Việt Nam như hoạt động ngân hàng điện tử, hoạt động bao thanh toán…. Hơn thế, nhóm ngân hàng này còn được phép hoạt động bằng cả tiềm lực tài chính của ngân hàng mẹ vì vậy khả năng đáp ứng nhu cầu khách hàng là rất cao. Nhóm ngân hàng này sẽ là đối thủ cạnh tranh chủ yếu của các NHTM Việt Nam trong thời gian tới nhất.
Các tổ chức tín dụng phi ngân hàng
Như trình bày ở trên nhóm này gồm 6 công ty tài chính, 9 công ty cho thuê tài chính, gần 900 Quỹ tín dụng nhân dân và 1 trung tâm thu hút tiền gửi tiết kiệm của Bưu điện. Do hầu hết các tổ chức này đều có qui mô hoạt động nhỏ nên đến nay vẫn chưa có những cản trở rõ ràng đối với các hoạt động cạnh tranh của các NHTM Việt Nam.
2.1.2.2. Khách hàng của các NHTM Việt Nam Luận văn: Khái quát marketing trong dịch vụ ngân hàng VN
Khách hàng của các NHTM Việt Nam có thể chia ra làm các nhóm như sau:
Nhóm khách hàng là các doanh nghiệp quốc doanh
Trong các doanh nghiệp quốc doanh phải kể đến trước hết là 18 tổng công ty mạnh được thành lập theo quyết định 91/CP của Chính phủ ngày 7/3/1994 và khoảng 76 tổng công ty lớn thành lập theo Nghị định 90/CP của Chính phủ ra ngày7/3/1994. Các doanh nghiệp này thực chất là các tập đoàn kinh tế mạnh đứng đầu các ngành công nghiệp mũi nhọn trong đó có một số ngành độc quyền quản lý như Tổng công ty điện lực Việt Nam, Tổng công ty dầu khí Việt Nam. Thông thường các thương vụ kinh doanh của họ rất lớn, đa dạng, và trên phạm vi rộng. Nhu cầu vốn của nhóm khách hàng này rất lớn, nên thường là khách hàng của trên hai NHTMNN thậm chí cả 4 NHTMNN như trường hợp tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam. Họ là khách hàng ruột của các NHTMNN và là đối tượng mà bất cứ NHTM Việt Nam nào cũng muốn đặt quan hệ làm ăn lâu dài. Tuy nhiên hiện nay việc đầu tư quá lớn cho các dự án lớn các tổng công ty 90, 91 hiện đang tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất là trong bối cảnh gần đây một số doanh nghiệp nhà nước lớn đang có dấu hiệu gặp khó khăn về tài chính. Có một số doanh nghiệp xếp hạng tín dụng ở mức kém hiện đang có dư nợ vay ngân hàng khá lớn hoặc đang có quan hệ tín dụng với nhiều tổ chức tín dụng. Luận văn: Khái quát marketing trong dịch vụ ngân hàng VN
Bên cạnh các tổng công ty lớn còn có trên 5000 doanh nghiệp nhà nước khác đa số thuộc loại vừa và nhỏ, hoạt động theo cơ chế tài chính độc lập, lấy thu bù chi, vốn cấp của nhà nước đối với nhóm khách hàng này thường nhỏ bé vì vậy hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa vào vốn vay ngân hàng. Thời gian qua tuy có nhiều cố gắng nhưng kết quả kinh doanh của nhóm khách hàng này vẫn đạt ở mức độ thấp, tình hình tài chính không hoàn toàn lành mạnh nên chỉ ngân hàng nào thực sự hiểu nhóm khách hàng này thì mới có thể thực hiện việc cung cấp tín dụng và từ đó kéo theo sử dụng các dịch vụ khác. Khác với các tổng công ty lớn các doanh nghiệp này có giá trị từng lần giao dịch nhỏ và thưa thớt hơn, trình độ và kinh nghiệm giao dịch với ngân hàng cũng còn hạn chế. Nhóm doanh nghiệp này chưa có mối quan hệ ổn định và chắc chắn với các NHTM Việt Nam.
Nhóm khách hàng là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Thuộc nhóm này là các công ty TNHH, Công ty cổ phẩn, Hợp tác xã, Doanh nghiệp tư nhân. Đây là nhóm khách hàng thường được đánh giá là thành phần năng động trong kinh doanh nhất trên thị trường. Tuy nhiên do vốn mỏng, tình hình tài chính chưa ổn định, trình độ quản lý có hạn,.. nên có độ rủi ro trong kinh doanh khá cao. Với đặc điểm này các NHTM rất thận trọng trong việc cho vay. Dường như hiện nay nhóm khách hàng này đa số là khách hàng của các NHTMCP.
Nhóm khách hàng là các công ty có vốn đầu tư nước ngoài
Nhóm khách hàng này chịu sự chi phối của công ty mẹ ở nước ngoài nên chủ yếu giao dịch với chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Gần đây do chất lượng dịch vụ của các NHTM Việt Nam được nâng cao, và lãi suất và phí dịch vụ ngân hàng của các NHTM Việt Nam thường thấp hơn của các NHnng nên nhiều công ty có vốn đầu tư nước ngoài đã tìm đến các NHTM Việt Nam để xin vay vốn.
Nhóm khách hàng tư nhân cá thể
Nhóm này trước đây chỉ sử dụng một số ít loại hình dịch vụ tại các NHTM như dịch vụ gửi tiền tiết kiệm, dịch vụ tiền gửi ngoại tệ, tín dụng và chuyển kiều hối. Do gần đây các ngân hàng đang mở rộng danh mục sản phẩm sang các dịch vụ ngân hàng hiện đại có tính công nghệ cao như thẻ ATM, thẻ tín dụng, thẻ thanh toán,… Các ngân hàng cũng chú trọng nhiều đến cho vay tiêu dùng, dịch vụ ngân hàng bán lẻ nên số lượng khách hàng cũng như số lượng giao dịch của nhóm khách hàng này ngày càng tăng cao tại tất cả các NHTM nhất là NHTMCP. Nhóm khách hàng này trong tương lai sẽ được các ngân hàng chú trọng và sẽ là mục tiêu cạnh tranh của nhiều ngân hàng kể cả các ngân hàng nước ngoài.
Ngoài những nhóm khách hàng kể trên bản thân các NHTM cũng là các khách hàng của nhau. Giao dịch của nhóm khách hàng này chủ yếu là giao dịch trên tài khoản tiền gửi, vay mượn ngắn hạn, kinh doanh ngoại tệ… Bên cạnh đó các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ, văn phòng đại diện, cơ quan ngoại giao,.. cũng là khách hàng của các NHTM với hoạt động chủ yếu là giao dịch tài khoản tiền gửi để trả lương cán bộ nhân viên, tiền thuê trụ sở… Những khách hàng này mang lại nguồn lợi không nhiều và không có khả năng phát triển các dịch vụ mới nên chưa trở thành mục tiêu cạnh tranh của các NHTM Việt Nam. Luận văn: Khái quát marketing trong dịch vụ ngân hàng VN
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận văn: Thực trạng hoạt động marketing tại Ngân hàng VN