Luận văn: Thực trạng HĐ tư vấn đầu tư của Cty chứng khoán

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng HĐ tư vấn đầu tư của Cty chứng khoán hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật Việt Nam về hoạt động tư vấn đầu tư của Công ty chứng khoán và vấn đề bảo vệ nhà đầu tư

2.2.1. Trách nhiệm của Công ty chứng khoán khi cung cấp dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán

NĐT tham gia TTCK rất đa dạng, đó có thể là các NĐT có tổ chức, NĐT cá nhân, NĐT trong nước, NĐT nước ngoài, trình độ, kỹ năng, kiến thức của các NĐT rất khác nhau, không phải NĐT nào tham gia TTCK cũng đều có kiến thức và kinh nghiệm. Do vậy, việc CTCK cung cấp dịch vụ tư vấn đầu tư CK là hết sức cần thiết. Tư vấn đầu tư CK được hiểu là việc CTCK tư vấn chiến lược, kỹ thuật giao dịch và cung cấp các báo cáo, kết quả phân tích từ đó đưa ra các khuyến nghị đầu tư.

Theo quy định của Luật CK, khi cung cấp dịch vụ cho khách hàng, CTCK phải ký hợp đồng bằng văn bản với khách hàng. Tư vấn đầu tư CK được pháp luật ghi nhận là một trong những dịch vụ mà CTCK được phép cung cấp cho khách hàng. Như vậy, khi tư vấn cho khách hàng, các CTCK phải ký hợp đồng cho khách hàng. Quy định của pháp luật là như vậy nhưng trên thực tế hầu như không có CTCK nào ký kết hợp đồng với khách hàng với tính cách là một Hợp đồng cung cấp dịch vụ tư vấn đầu tư CK. Tất cả các CTCK hiện nay mới chỉ dừng lại ở việc ký hợp đồng mở tài khoản giao dịch CK cho khách hàng mà giữa CTCK và khách hàng chưa có một hợp đồng tư vấn đầu tư CK chính thức nào bằng văn bản. Xét về bản chất, hợp đồng mở tài khoản là hợp đồng được xác lập để ghi nhận việc CTCK sẽ cung cấp dịch vụ môi giới CK cho khách hàng. Nội dung của hợp đồng mở tài khoản chỉ đề cập đến việc khách hàng ủy quyền cho CTCK lưu giữ, quản lý, lưu ký, thanh toán, bù trừ CK, thực hiện các quyền liên quan đến CK do khách hàng sở hữu và thực hiện giao dịch CK theo lệnh của khách hàng. Trên thực tế các CTCK vẫn thường xuyên cung cấp cho khách hàng các kết quả, báo cáo phân tích về CK, các khuyến nghị liên quan đến quyết định đầu tư của khách hàng dưới hình thức trực tiếp hay gián tiếp cho một cá nhân hay tất cả các khách hàng nhưng giữa CTCK và khách hàng không hề có một điều khoản nào ràng buộc trách nhiệm của CTCK với tính cách là một đơn vị đưa ra ý kiến tư vấn. Trong mỗi báo cáo, phân tích của CTCK cung cấp cho khách hàng đều có chú thích điều khoản loại trừ trách nhiệm của CTCK đối với kết quả phân tích hay các ý kiến khuyến nghị khách hàng.

Dường như các CTCK quan niệm việc đưa ra các báo cáo phân tích hay ý kiến khuyến nghị chỉ như một phần “giá trị gia tăng” cho hoạt động môi giới CK. Mặc dù quyết định đầu tư của khách hàng ít nhiều phụ thuộc vào quan điểm tư vấn của CTCK nhưng với những quyết định đầu tư thua lỗ phát sinh từ những phân tích, khuyến nghị không chính xác của CTCK, NĐT cũng không có cơ sở pháp lý để yêu cầu CTCK nói chung, chuyên gia tư vấn, phân tích của CTCK nói riêng chia sẻ trách nhiệm.

Ngoài ra, pháp luật yêu cầu CTCK phải công bố lợi ích của mình về CK mà mình đang sở hữu cho khách hàng đang được tư vấn về CK đó đồng thời không được đưa ra nhận định hoặc bảo đảm với khách hàng về mức thu nhập hoặc lợi nhuận đạt được trên tài khoản đầu tư của mình hoặc bảo đảm khách hàng không bị thua lỗ. [8, Đ37, 38]

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Luật Học

2.2.2. Chất lượng của hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán của Công ty chứng khoán Luận văn: Thực trạng HĐ tư vấn đầu tư của Cty chứng khoán

Khi mở tài khoản giao dịch cho khách hàng, CTCK chủ yếu đặt ra kỳ vọng và mục tiêu là khuyến khích khách hàng giao dịch với giá trị và tần suất thật nhiều để gia tăng doanh thu môi giới mà hầu như chưa có CTCK quan tâm đến việc tìm hiểu khả năng tài chính và mức độ chấp nhận, chịu đựng rủi ro của khách hàng đến đâu. Các báo cáo, phân tích do CTCK đưa ra mới chỉ cung cấp các khuyến nghị chung chung cho tất cả các NĐT mà chưa chú trọng đến việc phân tích, định hướng cho từng nhóm NĐT. Chính vì nguyên nhân này mà chất lượng, hiệu quả trong hoạt động tư vấn đầu tư CK hiện nay còn rất thấp, dịch vụ mà NĐT được cung cấp mới chỉ đơn thuần là các dịch vụ liên quan đến hoạt động môi giới CK.

Hoạt động môi giới CK và tư vấn đầu tư CK là hai hoạt động kinh doanh có mối quan hệ tương hỗ, bổ trợ cho nhau. CTCK muốn gia tăng thị phần môi giới thì ngoài việc phải trang bị tốt các điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật, hệ thống phần mềm giao dịch thì cũng cần phải đầu tư cho yếu tố con người. Khi đánh giá chất lượng dịch vụ môi giới CK của CTCK, NĐT còn căn cứ vào chất lượng tư vấn đầu tư của CTCK đó có tốt hay không. Trong bối cảnh TTCK ngày càng phát triển thì việc cung cấp dịch vụ môi giới CK không còn đơn thuần chỉ là việc CTCK thực hiện các công việc liên quan đến giao dịch CK thay cho khách hàng mà họ còn phải là những nhà tư vấn thực sự song hành và chia sẻ trách nhiệm với NĐT trong suốt quá trình đầu tư. Nghĩa là, CTCK cần kết hợp cả hai nghiệp vụ môi giới và tư vấn đầu tư khi cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Muốn làm được điều này, CTCK cần phải chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có chất lượng và phẩm chất đạo đức tốt để một nhân viên cùng lúc có thể đảm nhận hai chức năng vừa là nhà môi giới vừa là nhà tư vấn cho khách hàng. Pháp luật chứng khoán Việt Nam nay đã quy định về quy chế cấp chứng chỉ hành nghề kinh doanh CK, việc cấp chứng chỉ hành nghề kinh doanh CK được căn cứ vào vị trí chuyên môn, bộ phận nghiệp vụ trong các CTCK [11]. Theo đó, nhân viên môi giới được hành nghề môi giới nếu có chứng chỉ hành nghề kinh doanh môi giới CK; nhân viên làm việc tại phòng đầu tư, tự doanh sẽ được cấp chứng chỉ hành nghề tự doanh. Quy chế này chưa đề cập đến chứng chỉ tư vấn đầu tư CK. Việc đào tạo người hành nghề môi giới chủ yếu tập trung trang bị cho nhân viên môi giới kiến thức liên quan đến các quy định của pháp luật, quy trình giao dịch và các kỹ năng, thao tác trong quá trình thực hiện lệnh cho khách hàng mà ít chú trọng đến việc đào tạo kiến thức, kỹ năng phân tích đầu tư CK. Trong khi đó, việc tư vấn đầu tư tại các CTCK hiện nay đang thực hiện bởi nhân viên môi giới của phòng nghiệp vụ môi giới và nhân viên phân tích của phòng phân tích đầu tư. Khách hàng tiếp cận với việc tư vấn thông qua nhân viên môi giới trước khi họ ra quyết định đầu tư hoặc thông qua các báo cáo phân tích, các khuyến nghị chung do phòng phân tích đầu tư đưa ra mà chưa được tư vấn bởi một bộ phận chuyên trách về nghiệp vụ tư vấn đầu tư cho nên chất lượng tư vấn của các CTCK còn rất hạn chế và việc xác định trách nhiệm của CTCK trong quá trình tư vấn cho khách hàng đang là vấn đề bị bỏ ngỏ.

2.3. Thực trạng áp dụng pháp luật Việt Nam về hoạt động tự doanh trong mối quan hệ với việc bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư Luận văn: Thực trạng HĐ tư vấn đầu tư của Cty chứng khoán

2.3.1. Quy định của pháp luật về việc tách bạch hoạt động môi giới và tự doanh

Pháp luật quy định, trong quá trình thực hiện hoạt động tự doanh và hoạt động môi giới CK, CTCK phải tuân thủ những nguyên tắc sau:

Thứ nhất, CTCK phải ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước lệnh của chính mình;

Thứ hai, CTCK phải công bố cho khách hàng biết khi mình là đối tác trong giao dịch trực tiếp với khách hàng và không được thu phí giao dịch của khách hàng trong trường hợp này;

Thứ ba, trong trường hợp lệnh mua/bán CK của khách hàng có thể ảnh hưởng tới giá của loại CK đó, CTCK không được mua/bán trước cùng loại CK đó cho chính mình hoặc tiết lộ thông tin cho bên thứ ba mua/bán CK đó;

Thứ tư, khi khách hàng đặt lệnh giới hạn, CTCK không được mua hoặc bán cùng loại CK đó cho chính mình ở mức giá bằng hoặc tốt hơn mức giá của khách hàng trước khi lệnh của khách hàng được thực hiện.

Các nguyên tắc trên được thiết lập nhằm đảm bảo tách bạch hai chức năng môi giới và tự doanh của CTCK qua đó đảm bảo lợi ích hợp pháp của khách hàng. Nguyên tắc này xuất phát từ việc nhận thức ưu thế của CTCK so với khách hàng khi tiến hành hoạt động đầu tư. CTCK là người hoàn toàn chủ động về thời điểm, phương thức mua bán. Hơn nữa, họ lại là chủ thể có khả năng và điều kiện nắm bắt một cách chính xác tất cả các thông tin liên quan đến các lệnh mua/bán của khách hàng. Chẳng hạn, khi nhận được các lệnh mua bán một loại CK với một số lượng lớn từ khách hàng, CTCK có thể dự đoán được mức độ ảnh hưởng của các lệnh mua bán này đối với diễn biến giá cả của CK, từ đó CTCK có thể ra quyết định đầu tư trước khách hàng một bước. Đặc biệt là lệnh mua bán của khách hàng là người thuộc các công ty niêm yết nhưng không thuộc trường hợp phải công bố công khai.

Giữa hoạt động tự doanh và hoạt động tư vấn đầu tư, pháp luật quy định CTCK phải thông báo cho khách hàng các giao dịch mà mình là một bên của giao dịch đó. Quy định này nhằm đảm bảo tính khách quan trong quá trình tư vấn đầu tư cho khách hàng, tránh tình trạng CTCK dụ dỗ, lôi kéo khách hàng mua bán CK để trục lợi cho mình. Quy định của pháp luật là như vậy nhưng trên thực tế hầu như chưa có CTCK nào tuân thủ quy định này. Điều đó đồng nghĩa với việc NĐT rất dễ bị CTCK tư vấn không khách quan để trục lợi trong hoạt động tự doanh.

2.3.2. Quy định của pháp luật về vai trò điều tiết thị trường của Công ty chứng khoán Luận văn: Thực trạng HĐ tư vấn đầu tư của Cty chứng khoán

CTCK tham gia thị trường với tư cách là NĐT có tổ chức, có năng lực tài chính mạnh và có kinh nghiệm thị trường. Ở TTCK của các nước phát triển, CTCK còn có vai trò của nhà tạo lập thị trường. Từ sau cuộc khủng hoảng của TTCK thế giới ngày 28/10/1929, Chính phủ các nước đã ban hành những luật lệ bổ sung cho hoạt động của TTCK, trong đó đòi hỏi một sự phối hợp giữa Nhà nước với các thành viên tham gia SGDCK nhằm ngăn chặn những cuộc khủng hoảng giá CK có thể xảy ra trên thị trường. Điều này là hoàn toàn hợp lý bởi vì hoạt động của CTCK phụ thuộc hoàn toàn vào tình hình hoạt động của thị trường, khi TTCK khủng hoảng thì không những nền kinh tế bị ảnh hưởng mà ngay cả quyền lợi của NĐT, các CTCK cũng bị ảnh hưởng. Theo quy định của các nước, các CTCK có nghiệp vụ tự doanh phải dành ra một tỷ lệ nhất định giao dịch của mình để mua CK khi giá giảm và bán CK dữ trữ khi giá lên quá cao nhằm góp phần điều tiết và bình ổn giá trên thị trường. Tuy nhiên, tại Việt Nam hiện nay chưa có quy định này. Cũng vì một phần bởi nguyên nhân này mà cuộc khủng hoảng tài chính thế giới xảy ra năm 2007 đã tác động nghiêm trọng đến TTCK Việt Nam khi giá CK liên tục sụt giảm mà không có biện pháp can thiệp nào tỏ ra có hiệu lực. Trong bối cảnh đó, Nhà nước đã thực hiện tất cả các giải pháp gồm cả giải pháp dài hạn và ngắn hạn trong đó huy động Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước đứng ra mua cổ phiếu nhằm cứu vãn tình trạng bán tháo cổ phiếu, vực dậy tâm lý của các NĐT. Vào giai đoạn này, các CTCK Việt Nam thay vì thực hiện vai trò của nhà trung gian bình ổn, điều tiết thị trường thì lại liên tục bán tháo cổ phiếu. Hiệp hội kinh doanh CK đã nhiều lần đứng ra kêu gọi, thậm chí Hiệp hội còn có ý định thông qua nghị quyết về việc nghiêm cấm các CTCK không được bán ra. Vì chưa có quy định nào bắt buộc CTCK phải thực hiện chức năng điều tiết thị trường nên mới diễn ra tình trạng như vậy.

Mặc dù sự can thiệp của các CTCK bị giới hạn và phụ thuộc vào nguồn vốn tự doanh và quỹ dự trữ CK nhưng việc tham gia điều tiết, bình ổn, dẫn dắt thị trường vẫn là chức năng có ý nghĩa rất quan trọng tác động trực tiếp đến tâm lý của các NĐT trên thị trường. Do vậy, nếu pháp luật ghi nhận chính thức vai trò này sẽ góp phần tính cực làm cho thị trường phát triển an toàn, bền vững qua đó gián tiếp bảo vệ quyền lợi cho các NĐT.

2.3.3. Quy định của pháp luật về giới hạn đầu tư trong hoạt động tự doanh

Theo quy định hiện nay, để hoạt động tự doanh, CTCK phải có số vốn tối thiểu là 100 tỷ đồng (số vốn lớn thứ hai sau nghiệp vụ bảo lãnh phát hành CK) [8, Đ3]. Tuy nhiên pháp luật lại giới hạn tổng mức đầu tư của CTCK không được vượt quá 20% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức niêm yết [8, Đ29]. Quy định này đặt ra câu hỏi sau cần phải giải quyết: Trong trường hợp giá trị của 20% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức niêm yết vượt quá số vốn tự doanh của CTCK thì liệu rằng việc quy định số vốn pháp định đối với hoạt động tự doanh theo quy định nêu trên có còn ý nghĩa nữa không? và mục tiêu đảm bảo an toàn trong hoạt động của CTCK có thực hiện được hay không? Ngoài ra, CTCK còn được phép đầu tư đến 20% tổng tài sản để mua cổ phần hoặc góp vốn vào một tổ chức khác. Như vậy, số vốn để CTCK thực hiện hoạt động tự doanh được căn cứ vào tổng tài sản chứ không căn cứ vào số vốn pháp định hay số vốn điều lệ. Quy định như vậy là chưa đảm bảo an toàn về mặt tài chính trong quá trình hoạt động của CTCK vì cơ cấu tổng tài sản của CTCK bao gồm vốn tự có và vốn vay. Khi đó, CTCK sẽ không có được nguồn vốn chủ động, an toàn để đối phó với các rủi ro có thể gặp phải trong quá trình đầu tư.

2.4. Thực trạng áp dụng pháp luật Việt Nam về hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán và vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư Luận văn: Thực trạng HĐ tư vấn đầu tư của Cty chứng khoán

Quy định của pháp luật CK và TTCK Việt Nam hiện nay cho phép các CTCK thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành CK với cam kết chắc chắn. Bảo lãnh với cam kết chắc chắn được hiểu là hình thức bảo lãnh tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ mua toàn bộ số CK phát hành cho dù có phân phối hết hay không. Khi tiến hành hoạt động bảo lãnh phát hành, các CTCK sẽ ký hợp đồng bảo lãnh với khách hàng, sau đó thực hiện các hoạt động phân phối CK để được hưởng một khoản hoa hồng nhất định trên số tiền thu được từ đợt phát hành. Với phương thức bảo lãnh với cam kết chắc chắn, CTCK sẽ phải bỏ ra một lượng tiền để mua toàn bộ số CK của đợt phát hành của tổ chức phát hành sau đó bán lại cho các NĐT. Tổ chức phát hành được đảm bảo chắc chắn rằng đợt phát hành của họ đã thành công bất kể CTCK có phân phối hết toàn bộ số CK hay không. Áp lực đặt ra cho các CTCK đối với các hợp đồng bảo lãnh với cam kết chắc chắn là rấn lớn vì nếu không bán hết họ sẽ phải bỏ tiền của mình ra để mua số CK còn lại. Điều này rất dễ dẫn đến tình trạng các CTCK tìm cách lôi kéo các NĐT mua hết số CK của mình. Các quy định của pháp luật hiện nay mới chỉ quy định về khả năng tài chính của các CTCK khi tiến hành nghiệp vụ bảo lãnh với cam kết chắc chắn mà chưa có quy định nào nhằm kiểm tra, giám sát các CTCK trong quá trình phân phối CK. Trong những trường hợp như vậy, quyền lợi của NĐT rõ ràng sẽ không được đảm bảo vì thông tin mà CTCK cung cấp cho NĐT không được kiểm định chặt chẽ.

Theo quy định, CTCK chỉ được thực hiên bảo lãnh phát hành CK khi có hoạt động tự doanh. Quy định này là hoàn toàn phù hợp đối với nghiệp vụ bảo lãnh với cam kết chắc chắn vì nếu không phân phối hết CK, CTCK sẽ đứng ra mua hết số CK còn lại, khi đó, CTCK sẽ không thể thực hiện được điều này nếu không được quyền mua (hoạt động tự doanh).

Pháp luật hiện hành mới chỉ đề cập đến phương thức bảo lãnh với phương thức cam kết chắc chắn mà chưa đề cập đến các phương thức bảo lãnh khá phổ biến khác như bảo lãnh với cố gắng tối đa (là phương thức bảo lãnh mà theo đó, CTCK thỏa thuận làm đại lý cho tổ chức hành. CTCK sẽ không cam kết mua toàn bộ số CK mà cam kết sẽ cố gắng tối đa. Số CK còn lại nếu không phân phối hết sẽ trả lại cho tổ chức phát hành) hay bảo lãnh với hạn mức tối thiểu (là phương thức bảo lãnh mà tổ chức phát hành yêu cầu CTCK phải bán được một tỷ lệ CK tối thiểu nhất định. Nếu số lượng CK bán ra không đạt được tỷ lệ này thì đợt phát hành sẽ bị hủy bỏ và toàn bộ tiền đặt cọc mua CK sẽ được trả lại cho NĐT). Hai phương thức bảo lãnh này tương đối hiệu quả và phù hợp với năng lực tài chính cũng như kỹ năng, kinh nghiệm của các CTCK ở Việt Nam nhưng lại chưa được pháp luật cho phép. Áp dụng hai phương thức này trong một chừng mực nhất định sẽ đảm bảo được quyền lợi cho các NĐT khi đợt phát hành được tiến hành khách quan bởi CTCK. Vai trò của CTCK thể hiện ở việc đứng ra giới thiệu, tìm kiếm khách hàng cho đợt bảo lãnh mà mình làm đại lý. Nhiều trường hợp lượng NĐT mà CTCK tiếp cận không có khả năng mua hết toàn bộ số CK nhưng đủ khả năng mua được một tỷ lệ mà tổ chức phát hành có thể chấp nhận được. Do vậy, quy định của pháp luật hiện nay đang hạn chế cơ hội của tổ chức phát hành, CTCK và các NĐT.

2.5. Xử lý hành vi phạm của Công ty chứng khoán và vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư Luận văn: Thực trạng HĐ tư vấn đầu tư của Cty chứng khoán

Hành vi vi phạm của CTCK được hiểu là những hành vi trái pháp luật của CTCK xâm hại tới các quan hệ mà pháp luật về CK và TTCK bảo vệ trong đó có quan hệ với NĐT. Các hành vi vi phạm của CTCK có đặc điểm cơ bản như:

Thứ nhất, các hành vi vi phạm thường xuất phát từ động cơ vụ lợi, vật chất; Thứ hai, việc xác định hành vi vi phạm của CTCK là rất khó và phức tạp;

Thứ ba, hành vi vi phạm của CTCK có tính chất phát sinh nhanh do bản thân các hoạt động mà CTCK tham gia trên thị trường phát triển rất năng động;

Thứ tư, vi phạm về nghĩa vụ công bố thông tin là vi phạm đặc thù đối với CTCK nói riêng và TTCK nói chung.

Về nội dung, hình thức vi phạm, các CTCK thường vi phạm những quy định sau đây:

Một là, vi phạm nhóm quy định về chào bán CK với các hành vi như: phân phối CK không đúng hay bảo lãnh phát hành CK vượt quá quy định;

Hai là, vi phạm nhóm quy định về tổ chức thị trường giao dịch với các hành như không công khai địa chỉ và cách thức giao dịch; không chấp hành đầy đủ nghĩa vụ báo cáo; tổ chức giao dịch CK niêm yết trái quy định;

Ba là, vi phạm nhóm quy định về hoạt động kinh doanh với các hành vi như hoạt động kinh doanh, cung cấp dịch vụ ngoài giấy phép; không tổ chức kiểm soát nội bộ, quản trị công ty, ngăn ngừa xung đột lợi ích với khách hàng; không quản lý tách bạch tài khoản của khách hàng với tài khoản của công ty; không ký hợp đồng với khách hàng khi cung cấp dịch vụ; không thực hiện ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước lệnh của công ty; không thực hiện chế độ bảo mật thông tin của khách hàng; vi phạm chế độ công bố, báo cáo thông tin; không đảm bảo vốn khả dụng theo quy định; đầu tư hoặc góp vốn vượt quá quy định; thực hiện bán khống hoặc cho khách hàng bán không; cho khách hàng vay CK; vi phạm các quy định về cấp giấy phép hành nghề kinh doanh CK.

Bốn là, vi phạm nhóm quy định về giao dịch CK với các hành vi như hoạt động lừa đảo, gian lận, tạo dựng thông tin giả tạo; lôi kéo, xúi giục người khác mua bán CK; các hành vi giao dịch nội gián; hành vi thao túng thị trường.

Năm là, vi phạm nhóm quy định về nghĩa vụ công bố thông tin với các hành như: công bố thông tin nhưng không báo cáo UBCKNN; người công bố thông tin không đủ thẩm quyền theo quy định; công bố thông tin không kịp thời, đúng hạn và đúng phương tiện; trì hoãn việc công bố thông tin bất thường hoặc theo yêu cầu.

Về hình thức xử lý, các hành vi vi phạm trên đang được áp dụng các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính, biện pháp truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm. Trong quá trình cung cấp dịch vụ cho khách hàng, các lỗi phổ biến nhất mà CTCK thường mắc phải thuộc nhóm thứ ba nêu trên.

Chỉ trong cùng một ngày 19/8/2009, UBCK đã ban hành 3 quyết định xử phạt CTCK. Trong đó có Quyết định số 526/QĐ-UBCK xử phạt vi phạm hành chính đối với CTCK Châu Á – Thái Bình Dương (APECS). Biên bản kiểm tra ngày 6/1/2009 giữa UBCKNN và APECS cho thấy: trong quá trình cung cấp dịch vụ cho khách hàng (tài khoản 030C003535; 030C003663; 030C003232), APECS đã vi phạm quy định của pháp luật về CK và TTCK. Cụ thể, APECS đã không thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ, quản trị rủi ro và giám sát trong các giao dịch cổ phiếu MIC, VIC, VPL; vi phạm quy định tại Khoản 1 Điều 71 Luật chứng khoán. APECS cũng không tổ chức lưu giữ đầy đủ chứng từ, không phản ánh chi tiết, chính xác các giao dịch của khách hàng trong giao dịch đối vớ cổ phiếu MIC, VIC, VPL; vi phạm quy định tại Khoản 8 Điều 71 Luật chứng khoán. Từ hai vi phạm trên, APECS bị xử phạt tổng cộng 40 triệu đồng.

Một trường hợp khác là CTCK Ngân hàng ngoài quốc doanh (VPBS). Trong quá trình cung cấp dịch vụ cho khách hàng (tài khoản 026C007997), VPBS đã không kiểm soát nội bộ, quản trị rủi ro và không giám sát, ngăn ngừa xung đột lợi ích trong Công ty dẫn đến bị phạt 20 triệu đồng. Ngoài ra, CTCK Hải Phòng (HPSC) cũng nằm trong số CTCK bị xử phạt. Trong khoản thời gian từ ngày 24/2/2009, HPSC đã phản ánh không chính xác giao dịch của khách hàng trên một số mã tài khoản, vi phạm quy định tại Khoản 8 Điều 71 Luật chứng khoán. Xét tính chất mực độ vi phạm, UBCKNN đã xử phạt HPSC 20 triệu đồng. Luận văn: Thực trạng HĐ tư vấn đầu tư của Cty chứng khoán

Có thể dễ nhận thấy là các CTCK đều bị xử phạt vì vi phạm các quy định tại Khoản 1 và Khoản 8 Điều 71 Luật chứng khoán. Điều đó chứng tỏ rằng đã có sự thiếu minh bạch trong giao dịch giữa tài khoản của CTCK và khách hàng. Tuy nhiên, các biện pháp xử lý vi phạm như hiện nay là chưa đủ sức răn đe, chưa đem lại hiệu quả khắc phục, hạn chế vi phạm như mong muốn do chế tài xử phạt còn quá nhẹ trong khi lợi ích từ các hành vi vi phạm đem lại là rất lớn, có giá trị vượt gấp nhiều lần so với mức xử phạt. Theo quy định hiện nay, mức xử phạt tối đa đối với hành vi “không tổ chức, thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ, quản trị rủi ro và giám sát ngăn ngừa xung đột lợi ích trong nội bộ công ty và trong giao dịch với người có liên quan” tối đa là 20 triệu đồng. Điều đặc biệt là nhóm quy định về xử phạt đối với những hành vi vi phạm các quy định về hoạt động kinh doanh của CTCK mới chỉ quy định việc xử phạt đối với các trường hợp CTCK không thực hiện các biện pháp ngăn ngừa xung đột lợi ích giữa CTCK và khách hàng mà chưa có quy định nào dự liệu cho trường hợp CTCK lạm dụng tài khoản của khách hàng để trục lợi trong khi đây mới là những hành vi gây ra thiệt hại cho NĐT và lợi ích thu được từ việc thực hiện các hành vi này là rất lớn, thậm chí là không thể kiếm soát hết được.

Bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung năm 2009 lần đầu tiên đã ghi nhận các tội danh trong lĩnh vực CK và TTCK gồm: Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán; tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán CK; tộ thao túng giá CK (Điều 181a, 181b, 181c, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự của Quốc hội khóa XII kỳ họp thứ 5 số 37/2009/QH12 ngày 19 tháng 06 năm 2009). Sở dĩ pháp luật xác định đây là hành vi tội phạm vì tính nguy hiểm cho xã hội, đe dọa và ảnh hưởng trực tiếp đến hầu hết các NĐT và toàn bộ thị trường. Tuy nhiên, trong tất cả các điều khoản này đều quy định tình tiết tăng nặng đối với trường hợp “tội phạm có tổ chức”. Rõ ràng việc xác định đây là tình tiết tăng nặng là không phù hợp với nhóm tội phạm này vì đặc điểm của nhóm tội phạm này được thực hiện bởi một nhóm hoặc nhiều nhóm người nên luôn luôn có yêu tố tổ chức. Ngoài ra, việc xác định mặt khách quan của các hành vi tội phạm này là rất khó và cần thiết phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa các nhà có chuyên môn am hiểu về pháp luật hình sự và các chuyên gia tài chính có kinh nghiệm cùng các cơ quan quản lý để xây dựng văn bản hướng dẫn việc xác định từng hành vi cụ thể.

Trong giai đoạn mà các quy định của pháp luật hình sự vẫn chưa thực có khả năng vận dụng ngay vào thực tiễn thì các nhà quản lý cần có các biện pháp nhằm tăng cường xử lý vi phạm thông qua biện pháp kinh tế, hành chính. Động cơ và mục tiêu của các hành vi vi phạm trong lĩnh vực CK là vật chất nên biện pháp kinh tế kết hợp với biện pháp hành chính bổ sung (đình chỉ hoạt động, tịch thu giấy phép…) tỏ ra là một công cụ phòng ngừa vi phạm rất hữu hiệu và thiết thực. CTCK là thiết chế trung gian bắt buộc nhưng khách hàng có toàn quyền lựa chọn các CTCK có uy tín, hoạt động tốt, tuân thủ triệt để pháp luật và tôn trọng quyền lợi của NĐT để cung cấp dịch vụ cho mình. Do vậy, sử dụng các biện pháp hành chính, kinh tế đối với các hành vi vi phạm do CTCK gây ra cũng có thể đã đạt được những hiệu quả nhất định vì xét đến cùng, mặc dù CTCK là chủ thể có lợi thế và điều kiện để thực hiện các hành vi vi phạm ảnh hưởng đến lợi ích của khách hàng song hơn ai hết chính bản thân họ lại là chủ thể phải luôn có ý thức chấp hành pháp luật cao hơn các chủ thể khác bởi CTCK không chỉ là một NĐT đơn thuần mà họ còn có vai trò là nhà cung cấp dịch vụ cho khách hàng nữa.

2.6. Phá sản Công ty chứng khoán và vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư Luận văn: Thực trạng HĐ tư vấn đầu tư của Cty chứng khoán

2.6.1. Địa vị pháp lý của khách hàng khi Công ty chứng khoán phá sản

Theo quy định của Luật phá sản, doanh nghiệp bị coi là lâm vào tình trạng phá sản khi doanh nghiệp đó mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Đáp ứng nhu cầu cần có những điều chỉnh đặc thù đối việc phá sản của các doanh nghiệp tài chính, Chính phủ đã ban hành Nghị định 114/2008/NĐ-CP ngày 03 tháng 11 năm 2008 hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của luật phá sản đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán và tài chính khác.

Theo văn bản này thì về nguyên tắc, mọi chủ nợ không có bảo đảm có quyền nộp đơn yêu cầu tòa án tuyên bố phá sản doanh nghiệp nếu doanh nghiệp không thanh toán cho họ khoản nợ đến hạn. Khi mở tài khoản giao dịch CK tại một CTCK, NĐT gửi tiền và CK của mình tại CTCK đó. Do vậy, trong trường hợp CTCK mất khả năng thanh toán tiền và CK khi khách hàng yêu cầu thì rõ ràng giữa họ sẽ thiết lập mối quan hệ của chủ nợ và người có nghĩa vụ trả nợ và khoản nợ của các NĐT trong trường hợp này là khoản nợ không có bảo đảm. Như vậy, theo Nghị định 114/2008/NĐ-CP, khi CTCK lâm vào tình trạng phá sản, nếu NĐT vẫn còn tiền và CK trong tài khoản thì họ đương nhiên trở thành chủ nợ của CTCK và họ có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố phá sản. Tuy nhiên, tài sản của khách hàng gửi tại CTCK bao gồm cả tiền và CK. Do vậy, nếu NĐT vẫn còn CK trong tài khoản hoặc còn tiền trong tài khoản (đối với các CTCK chưa thực hiện việc quản lý tách bạch tài khoản tiền gửi của NĐT với tài khoản của CTCK) tại thời điểm CTCK mất khả năng thanh toán thì họ đương nhiên là chủ nợ không có bảo đảm của CTCK. Luận văn: Thực trạng HĐ tư vấn đầu tư của Cty chứng khoán

Mặc dù đã đưa ra nguyên tắc xác định tư cách của NĐT khi CTCK lâm vào tình trạng phá sản nhưng có thể nhận thấy các quy định đặc thù tại Nghị định 114 chưa xác định chính xác tư cách của NĐT với vai trò là người đại diện của tất cả các NĐT có tài khoản tại CTCK (đại diện cho các chủ nợ) tham gia vào tổ quản lý, thanh lý tài sản. Trong thành phần tham gia vào tổ này, Nghị định quy định phải có: “Một đại diện của chủ nợ là tổ chức, cá nhân có số nợ lớn nhất trong số các chủ nợ”. Tuy nhiên, việc xác định ai là chủ nợ có số nợ lớn nhất đối với CTCK là rất khó bởi vì tài sản của các NĐT là tiền và CK, trong đó, giá trị của CK lại thay đổi hàng ngày tùy thuộc vào biến động giá của thị trường trong khi quá trình giải quyết phá sản có thể kéo dài tới vài tháng, thậm chí cả năm. Do đó, việc xác định ai là chủ nợ lớn nhất để đại diện cho tất cả các chủ nợ tham gia vào tổ quản lý, thanh lý tài sản sẽ không thể chính xác và nếu việc lựa chọn của một NĐT và tổ này mà không được các NĐT khác đồng ý thì thẩm phán thụ lý giải quyết vụ phá sản sẽ giả thích ra sao với khiếu nại của họ?

Một điểm bất cập khác của điều khoản này là: “trường hợp hội nghị chủ nợ xét thấy phải thay người đại diện cho các chủ nợ trong thành phần tổ quản lý, thanh lý tài sản thì hội nghị bầu người thay thế” nhưng Nghị định lại chưa chỉ ra căn cứ để cho rằng một chủ nợ đã được lựa chọn vào tổ quản lý, thanh lý tài sản nhưng không còn phù hợp và phải thay thế.

2.6.2. Quy định pháp luật khi xử lý Công ty chứng khoán có nguy cơ mất khả năng thanh toán.

Nghị định 114 cho phép UBCKNN có quyền “Yêu cầu doanh nghiệp CK thực hiện việc bàn giao quyền và nghĩa vụ đối với quỹ, NĐT ủy thác, cá NĐT mở tài khoản giao dịch CK của doanh nghiệp cho các doanh nghiệp khác thay thế. Việc lựa chọn đối tác để bàn giao quyền và nghĩa vụ do doanh nghiệp tự thỏa thuận và phải được UBCKNN chấp thuận”. Quy định này đồng nghĩa với việc cho phép CTCK được lựa chọn doanh nghiệp khác thay thế nhưng phải được UBCKNN chấp thuận. Có thể thấy rằng, số lượng tài khoản của khách hàng mở tại CTCK là một tài sản có giá trị vô hình, phản ánh thị phần môi giới của CTCK so với toàn thị trường nên có giá trị rất lớn mà không thể dễ dàng san sẻ cho các CTCK khác. Việc chuyển giao này liên quan mật thiết với lợi ích của CTCK chuyển giao và CTCK được nhận chuyển giao, thậm chí CTCK chuyển giao có thể yêu cầu CTCK được nhận chuyển giao trả cho họ một khoản tiền là hoàn toàn hợp lý. Mặt khác, việc chuyển giao tài khoản liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng nhưng pháp luật lại chưa có quy định nào ghi nhận quyền tham gia của khách hàng vào quá trình chuyển giao này. Nếu CTCK đồng ý chuyển giao nhưng UBCKNN và NĐT không đồng ý thì phải giải quyết như thế nào? Như vậy, rõ ràng là rất cần thiết phải có quy định và hướng dẫn cụ thể hơn đối với các trường hợp UBCKNN được can thiệp vào quá trình chuyển giao để tránh thiệt hại cho chính CTCK đang lâm vào tình trạng phá sản.

2.6.3. Quy định của pháp luật về hoạt động kinh doanh của Công ty chứng khoán trước và sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản Luận văn: Thực trạng HĐ tư vấn đầu tư của Cty chứng khoán

Nghị định 114 quy định khi doanh nghiệp có nguy cơ mất khả năng thanh toán, UBCKNN có các quyền sau:

Thứ nhất, yêu cầu doanh nghiệp CK thực hiện việc bàn giao tài khoản của NĐT cho CTCK khác;

Thứ hai, yêu cầu doanh nghiệp CK thực hiện niêm phong tạm thời một phần hoặc toàn bộ các tài khoản tiền và tài khoản CK của khách hàng và tài khoản tự doanh của doanh nghiệp để áp dụng các biện pháp khôi phục khả năng thanh toán;

Thứ ba, đặt doanh nghiệp Ck vào tình trạng cảnh báo; Thứ tư, các biện pháp khác theo quy định của pháp luật.

Theo như quy định này thì khi có nguy cơ mất khả năng thanh toán, có thể CTCK sẽ phải đối mặt với các biện pháp cưỡng chế như niêm phong tài khoản của khách hàng, tài khoản tự doanh của chính CTCK. Trong khi đó Điều 12 Nghị định 114/2008/NĐ-CP lại quy định: Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản CTCK “vẫn được tiến hành bình thường hoạt động kinh doanh, nhưng phải chịu sự giám sát, kiểm tra của thẩm phán và tổ quản lý, thanh lý tài sản, trừ trường hợp quy định khác”. Đây là những quy định rất bất cập vì xét trên tiêu chí khả năng tài chính của các CTCK ở giai đoạn trước khi có quyết định mở thủ tục phá sản rõ ràng sẽ tốt hơn so với giai đoạn đã có quyết định mở thủ tục phá sản nhưng những hạn chế đặt ra đối với hoạt động kinh doanh của CTCK ở giai đoạn này lại cao hơn. Mặt khác, ngay chính các quy định tại Điều 12 cũng không thống nhất với nhau. Tại Khoản 3 Điều 12 lại cấm CTCK “nhận mở tài khoản giao dịch CK với khách hàng, thực hiện các hoạt động môi giới” và cấm “thực hiện các hoạt động đầu tư và hoạt động khác liên quan đến các tài khoản tiền và tài khoản CK của khách hàng”. Phải chăng, ý tưởng của Khoản 3 là cấm nhận mở tài khoản và không được thực hiện hoạt động môi giới đối với tài khoản mới này? Nhưng xem xét kỹ thì thấy rằng nếu đã cấm mở rồi thì làm sao mà hoạt động môi giới với tài khoản mới nữa? và cũng đâu cần thiết phải quy định thêm “cấm thực hiện hoạt động khác liên quan đến tài khoản tiền và tài khoản CK” nữa?

Hoạt động môi giới cho khách hàng là nghiệp vụ quan trọng đem lại nguồn thu chủ yếu cho các CTCK, việc thực hiện nghiệp vụ môi giới CK không làm ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của CTCK. Mặt khác, quan hệ giữa NĐT và CTCK không phải là quan hệ trực tiếp giữa hai chủ thể hợp đồng mà là quan hệ mua bán giữa NĐT và một NĐT khác thông qua trung gian là CTCK. Vì vậy, việc quy định cấm CTCK hoạt động môi giới trong giai đoạn trước và sau khi mở thủ tục phá sản lại càng làm cho CTCK mất khả năng thanh toán. Hơn nữa, những quy định cấm này cũng sẽ kéo NĐT lấn sâu vào quan hệ chủ nợ- con nợ và thủ tục phá sản. Do đó, sẽ là hợp lý hơn nếu Nghị định đưa ra các phương án xử lý khác nhau và chỉ nên đưa NĐT vào đối tượng chủ nợ trong trường hợp CTCK mất khả năng thanh toán hoàn toàn đối với mọi đối tượng, bao gồm cả NĐT và các chủ nợ khác. Nếu xét thấy CTCK còn đủ khả năng xử lý các khoản tiền và CK cho NĐT thì nên cho phép CTCK thực hiện hoạt động môi giới để giải phóng tiền và CK cho NĐT đảm bảo quyền sở hữu và quyền tham thị trường của NĐT không bị gián đoạn.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT là một trong những nguyên tắc cơ bản được pháp luật về CK và TTCK Việt Nam ghi nhận. Trong đó, bảo vệ NĐT trong mối quan hệ với CTCK là một trong những nội dung cơ bản của nguyên tắc này. CTCK và NĐT là những chủ thể đóng vai trò trung tâm trên TTCK, hoạt động của hai chủ thể này ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển ổn định, bền vững của TTCK tập trung.Cùng tham gia đầu tư nhưng CTCK là NĐT tổ chức có lợi thế về chuyên môn, kỹ thuật và tài chính hơn hẳn so với NĐT thông thường khác. Chính vì lẽ đó mà luật CK Việt Nam đã giành một chương (chương VI) và một quy chế riêng điều chỉnh tổ chức, hoạt động của CTCK. Những quy định này đã quy định các nghĩa vụ của CTCK trong quá trình tổ chức, hoạt động đồng thời ràng buộc trách nhiệm pháp lý của CTCK trong mối quan hệ với khách hàng (NĐT). Pháp luật quy định CTCK phải có nghĩa vụ bảo vệ tài sản của khách hàng, thực hiện các biện pháp nhằm hạn chế xung đột lợi ích với khách hàng, xây dựng và áp dụng các quy trình kỹ thuật, quy trình quản trị nội bộ, quản lý rủi ro qua đó hạn chế rủi ro cho khách hàng, ưu tiên khách hàng trước CTCK, tìm hiểu thông tin về khả năng tài chính, khả năng chấp nhận rủi ro của khách hàng. Tuy nhiên, trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ NĐT, thực tiễn áp dụng quá trình hoạt động kinh doanh của CTCK cho thấy vẫn đang tồn tại khá nhiều hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật:

Thứ nhất, đối với hoạt động môi giới CK, vẫn còn các bất cập liên quan đến việc thực hiện các quy định về việc mở tài khoản của khách hàng; quản lý tách bạch tài khoản của CTCK với tài khoản của từng khách hàng; nghĩa vụ tham gia bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của các CTCK; về chu kỳ, phương thức thanh toán bù trừ CK; quy định liên quan đến việc giao dịch các loại CK phái sinh.

Thứ hai, trách nhiệm, chất lượng trong hoạt động tư vấn đầu tư chưa được các CTCK thực hiện đúng mức;

Thứ ba, pháp luật chưa ghi nhận vai trò, trách nhiệm của các CTCK trong việc điều tiết, bình ổn thị trường;

Thứ tư, pháp luật mới chỉ cho phép CTCK được thực hiện bảo lãnh với phương thức cam kết chắc chắn mà chưa ghi nhận các phương thức phổ biến khác như bảo lãnh với cam kết tối đa hay bảo lãnh với hạn mức tối thiểu.

Thứ năm, lần đầu tiên pháp luật đã ghi nhận một số tội danh trong lĩnh vực CK, nhưng do đặc thù của hành vi vi phạm trên TTCK là rất phức tạp, khó xác định, cần thiết phải có văn bản hướng dẫn thi hành;

Thứ sáu, các quy định liên quan đến các quy định pháp luật về phá sản CTCK như xác định địa vị pháp lý của khách hàng; xử lý tài sản và các nghĩa vụ khi CTCK có nguy cơ mất khả năng thanh toán và sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản là chưa rõ ràng và còn nhiều điểm bất hợp lý.

Từ thực trạng áp dụng pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh của CTCK, để bảo đảm mục tiêu bảo vệ NĐT, pháp luật cần có hướng sửa đổi, hoàn thiện các quy định của pháp luật về CK và TTCK và các quy định khác có liên quan. Luận văn: Thực trạng HĐ tư vấn đầu tư của Cty chứng khoán 

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY    

===>>> Luận văn: Giải pháp hoàn thiện HĐKD của Cty chứng khoán

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x