Luận văn: Khái quát các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Khái quát các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Phân tích các nhân tố tác động đến cấu trúc vốn của các công ty ngành chế biến thực phẩm niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.1. Nhóm nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn tại các nước phát triển

Các lý thuyết hiện đại về cấu trúc vốn doanh nghiệp được bắt đầu từ một nghiên cứu đoạt giải Nobel kinh tế của Modigliani và Miller năm 1958. Tiếp nối thành tựu to lớn này, nhiều nghiên cứu khác nữa được nghiên cứu bởi các nhà kinh tế như nghiên cứu của Jensen và Meckling (1976), Myers (1977), Ross (1977),Jensen (1986), Stulz (1990) … Luận văn: Khái quát các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn

Năm 1963, Modigliani và Miller tiếp tục đưa ra một nghiên cứu tiếp theo với việc tính đến ảnh hưởng của thuế thu nhập doanh nghiệp. Vì chi phí lãi vay là một khoản chi phí đước khấu trừ trước khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp nên khi doanh nghiệp sử dụng nợ vay để tài trợ sẽ xuất hiện khoản tiết kiệm bằng tiền tăng thêm đối với các nhà đầu tư. Như vậy, với thuế thu nhập doanh nghiệp, Modigliani và Miller cho rằng sử dụng nợ sẽ làm gia tăng giá trị của một doanh nghiệp. Việc tồn tại thuế thu nhập doanh nghiệp dẫn đến định đề I của MM cho rằng: “Giá trị của một doanh nghiệp sử dụng nợ bằng giá trị doanh nghiệp không sử dụng nợ ở cùng một dạng rủi ro cộng với khoản lợi từ việc sử dụng nợ”

Một lý thuyết về cấu trúc vốn khác được phát triển bởi nghiên cứu của Myers và Majluf năm 1984. Lý thuyết này đựơc phát triển từ nghiên cứu đầu tiên của Donaldson năm 1961, lý giải các quyết định tài trợ của doanh nghiệp dựa trên cơ sở thông tin bất cân xứng.

Thông tin bất cân xứng là một cụm từ để chỉ ra rằng các giám đốc tài chính hiểu rõ giá trị của công ty mình hơn là các nhà đầu tư bên ngoài. Thông tin bất cân xứng tác động đến lựa chọn giữa nội bộ và tài trợ từ bên ngoài; giữa phát hành mới chứng khoán nợ và chứng khoán vốn.

Lý thuyết trật tự phân hạng, trên cơ sở thông tin bất cân xứng, đề xuất một trật tự tài trợ theo một trình tự ưu tiên trước bằng vốn nội bộ (lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư), rồi đến phát hành chứng khoán nợ và sau cùng là phát hành vốn cổ phần mới.

Ngoài ra, Jensen và Meckling (1976) cho rằng có hai dạng mâu thuẫn giữa cổ đông và chủ nợ. Chính sự mâu thuẫn cơ bản này đã tạo nên chi phí đại diện. Có hai loại chi phí đại diện từ mâu thuẫn cơ bản trên:

Thứ nhất, chi phí đại diện của vốn cổ phần phát sinh từ mâu thuẫn giữa cổ đông và nhà quản lý doanh nghiệp do sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý. Thứ hai, chi phí đại diện của nợ phát sinh từ mâu thuẫn giữa cổ đông và chủ nợ. Cổ đông có thể chiếm hữu tài sản của trái chủ bằng cách gia tăng rủi ro đầu tư.

Lý thuyết tín hiệu này bắt đầu từ công trình của Ross (1977) và Lyland, Pyle (1977). Theo đó, nhà quản lý biết rõ hơn nhà đầu tư bên ngoài về triển vọng của doanh nghiệp. Khi nhà doanh nghiệp được dự báo sẽ có triển vọng tốt, nhà quản lý không muốn chia sẻ lợi nhuận với những chủ sở hữu mới. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp dự báo có triển vọng không sáng sủa, nhà quản lý mong muốn chia sẻ những rủi ro này với những người chủ mới của doanh nghiệp. Do vậy, khi một doanh nghiệp công bố phát hành thêm chứng khoán mới, sự kiện này có thể được coi là đang cung cấp một tín hiệu cho thị trường tài chính về viễn cảnh tương lai của doanh nghiệp.

Một số nghiên cứu khác, ví dụ, Titman và Wessels (1988) , Opler và Titman (1994), Fama và French (2002) , Chen (2004), Deesomak và các đồng sự, (2004) đã tập trung nghiên cứu quyết định lựa chọn cơ cấu vốn của các công ty. Shumi Akhtar (2005) đã phân tích tầm quan trọng của các yếu tố quyết định cơ cấu vốn trên một mẫu của các tập đoàn đa quốc gia và tại nước Úc từ 1992 đến 2001. Kết quả cho thấy mức độ đòn bẩy không khác biệt đáng kể giữa các công ty đa quốc gia và trong nước.

Graham Hall và các đồng sự (2000), nghiên cứu các yếu tố quyết định cơ cấu vốn của 3500 công ty vừa và nhỏ (SMEs) của Anh không niêm yết trên thị trường chứng khoán để thiết lập các mối quan hệ của các yếu tố quyết định đến nợ ngắn và dài hạn của các ngành công nghiệp khác nhau. Nợ dài hạn đã được tìm thấy có tương quan dương với cơ cấu tài sản và quy mô của công ty tương quan âm với tuổi công ty, nợ ngắn hạn tương quan âm với lợi nhuận, cấu trúc tài sản, quy mô công ty và tuổi hoạt động tương quan dương với sự tăng trưởng.

Mazur (2007) đã kiểm tra lý thuyết về cơ cấu vốn cho các tập đoàn ở Ba Lan. Tác giả thấy rằng lợi nhuận đã tương quan âm với cấu trúc vốn. Đây là biến quan trọng nhất ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của các công ty Ba Lan. Nghiên cứu được thực hiện bởi Barzegar (2008) quan sát thấy rằng các công ty có đòn bẩy tài chính cao thì có thu nhập dành cho các cổ đông lại thấp. Luận văn: Khái quát các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn

Murray Z. fran và Vidhan K. Goyal (2007) “ Capital structure decision : which factor are reliably important? ”. Nghiên cứu này xem xét tầm quan trọng của nhiều yếu tố quyết định tỷ lệ đòn bẩy của các công ty đại chúng Mỹ. Dữ liệu được lấy từ trung tâm nghiên cứu giá cả an ninh của Mỹ (CRSP) từ năm 1950 đến năm 2000. Nghiên cứu cũng nhằm làm rõ các lý thuyết trong ngành tài chính : lý thuyết đánh đổi, lý thuyết trật tự phân hạng và lý thuyết điều chỉnh thị trường. Biến phụ thuộc được sử dụng để đo lường đòn bẩy tài chính trong nghiên cứu là tỷ lệ nợ vay ( tổng nợ vay ngắn hạn và dài hạn chia cho tổng nợ vay và vốn cổ phần).

Các nhân tố được đưa vào xem xét có tác động đến đòn bẩy hay không bao gồm: lợi nhuận, quy mô, sự tăng trưởng, tính chất của tài sản, yếu tố kinh tế vĩ mô (tỷ lệ lạm phát mong đợi, tốc độ tăng trưởng GDP), thuế , biến giả chi trả cổ tức. Phương pháp hồi qui tuyến tính được sử dụng để nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố đến đòn bẩy. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra có 7 nhân tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến đòn bảy tài chính của các công ty Mỹ và được mô tả như sau:

  • Đặc thù của ngành: công ty hoạt động trong các ngành có nhiều công ty sử dụng nhiều đòn bẩy thì sử dụng nhiều đòn bẩy.
  • Giá trị thị trường tổng tài sản chia cho giá trị sổ sách tổng tài sản tương quan nghịch với đòn bẩy. Điều này có nghĩa là công ty có giá trị thị trường cao hơn sổ sách thì mức độ sử dụng đòn bẩy thấp hơn.
  • Tài sản thế chấp tương quan thuận với đòn bẩy. Công ty có nhiều tài sản để thế chấp có xu hướng sử dụng đòn bẩy nhièu hơn.
  • ROA tương quan nghịch với đòn bẩy. Công ty có nhiều lợi nhuận hơn có xu hướng sử dụng đòn bẩy ít hơn.
  • Trả cổ tức tương quan nghịch với đòn bẩy. Công ty có chi trả cổ tức có xu hướng có ít đòn bẩy hơn các công ty không chi trả cổ tức.
  • Quy mô doanh nghiệp tương quan thuận với đòn bẩy. Các công ty có quy mô lớn thường sử dụng tỷ lệ nợ cao hơn.
  • Lạm phát kỳ vọng tương quan thuận với đòn bẩy. Khi lạm phát kỳ vọng cao các công ty có khuynh hướng sử dụng đòn bẩy cao.

Ngoài ra kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng lý thuyết đánh đổi gần như giải thích được 6 trong 7 nhân tố tác động đến đòn bẩy của các doanh nghiệp Mỹ. Lý thuyết trật tự phân hạng giải thích tốt cho biến lợi nhuận (ROA). Lý thuyết điều chỉnh thị trường đã giải thích cho biến tỷ số giá trị thị trường tổng tài sản chia cho giá trị sổ sách của tổng tài sản và biến lạm phát kỳ vọng.

Khi giá trị thị trường cao, các công ty ưu tiên phát hành cổ phần hơn vay nợ. Lạm phát kỳ vọng tăng trong tương lai thúc đẩy doanh nghiệp vay nợ để tránh trường hợp chi phí sử dụng nợ tăng khi lạm phát tăng.

Micheal Paukender & A. Petersen (2004) “ Does the source of capital affect capital structure?’. Trên cơ sở phân tích thực nghiệm 6000 công ty thuộc lĩnh vực tài chính và 9000 công ty thuộc nhiều lĩnh vực khác ở nước Mỹ từ năm 1986 đến năm 2000. Bài nghiên cứu xem xét cấu trúc tài chính bao gồm cả nợ ngắn hạn và nợ dài hạn và đo lường tỷ suất tổng nợ vay trên tổng tài sản theo giá trị sổ sách và theo giá trị thị trường; và 10 biến độc lập bao gồm: giá trị thị trường của tài sản, giá trị sổ sách của tài sản, doanh thu, số năm hoạt động của doanh nghiệp, lợi nhuận biên, tỷ số giá trị thị trường trên giá trị sổ sách của tài sản, tỷ số nghiên cứu và phát triển trên doanh thu, tỷ số quảng cáo trên doanh thu, thuế thu nhập doanh nghiệp, mức gia tăng của thu nhập trên vốn chủ sở hữu. Nhìn chung trong mô hình các biến đều có ý nghĩa, nhưng thấy rõ nhất đó là cấu trúc tài chính có quan hệ tỷ lệ thuận với thuế thu nhập doanh nghiệp, giá trị của tài sản nhưng có quan hệ tỷ lệ nghịch với chỉ tiêu giá trị thị trường so với giá trị sổ sách, lợi nhuận biên của doanh nghiệp.

Shinichi Nishioka (2004) “ Dynamic capital structure of Japanese firms” phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến đòn bẩy tài chính của 700 công ty trong giai đoạn từ năm 1990 đến 2004 trên thị trường chứng khoán Tokyo. Dựa trên mô hình hồi quy tuyến tính bao gồm: 2 biến phụ thuộc là tổng nợ phải trả chia cho tổng tài sản theo giá trị sổ sách; tổng nợ phải trả chia cho tổng giá trị thị trường. 6 biến thành phần như chi phí nợ, mức độ biến động của giá trị công ty, khả năng tăng trưởng, quy mô công ty, tài sản thế chấp và 2 biến giả là thời gian và ngành. Kết quả nghiên cứu cho thấy tài sản thế chấp có tương quan thuận đến tỷ lệ đòn cân nợ và quy mô công ty, khả năng tăng trưởng và khả năng sinh lời có tương quan nghịch với tỷ lệ đòn cân nợ.

Philippe Gaud, Elion Jani Hoesli và André Bender (2003), “ The capital structure of Swiss companies empirical analysis using dynamic panel data” đã phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến đòn bẩy tài chính của 106 công ty được niêm yết trên thị trường chứng khoán Thụy Sĩ trong giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2000. Mô hình nghiên cứu dựa trên mô hình hồi quy tuyến tính bao gồm : 2 biến phụ thuộc là tỷ số tổng nợ phải trả chia cho tổng tài sản theo giá trị sổ sách, tỷ số tổng nợ phải trả chia cho tổng tài sản theo giá trị thị trường. 6 biến thành phần như: rủi ro, mức độ bién động của giá trị công ty, khả năng tăng trưởng, quy mô công ty, lợi nhuận, tài sản thế chấp và 2 biến giả là thời gian và ngành. Kết quả nghiên cứu cho thấy rủi ro, tài sản thế chấp có tươg quan thuận đến tỷ lệ đòn cân nợ và quy mô công ty, khả năng tăng trưởng và khả năng sinh lời tương quan nghịch với tỷ lệ đòn cân nợ.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>>  Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế

2.2. Nhóm nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn tại các nước đang phát triển Luận văn: Khái quát các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn

Trần Đình Khôi Nguyên (2006) “ Capital structure in small and medium – sized Enterprise: the case of Vietnam”. Tác giả nghiên cứu các nhận tố ảnh hưởng đến cấu trúc tài chính của 558 doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam giai đoạn 1998 đến 2001. Bài nghiên cứu này kết hợp dữ liệu từ các báo cáo tài chính của các doanh nghiệp và bảng điều tra khảo sát các giám đốc tài chính về cách quản lý hoạt động tài chính của các doanh nghiệp. Các nhân tố sử dụng bao gồm: tốc độ tăng trưởng, tài sản hữu hình, rủi ro kinh doanh, hiệu quả kinh doanh, quy mô doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu Nhà Nước, mối quan hệ giữa doanh nghiệp với ngân hàng, và 3 chỉ số đo lường cấu trúc tài chính. Bài nghiên cứu cho rằng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam có tỷ lệ nợ trung bình khoảng 43,9%. Nợ ngăn hạn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu vốn trong khi nợ dài hạn ít khi được sử dụng. Và nơ ngắn hạn, nợ phải trả khác là nguồn huy động vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Kết quả cũng cho rằng đòn bẩy tài chính phụ thuộc vào cơ cấu sở hữu nguồn vốn. Các doanh nghiệp Nhà Nước có tỷ lệ nợ cao hơn các doanh nghiệp tư nhân. Ngoài ra, kết quả còn cho thấy rằng quy mô doanh nghiệp và mức độ rủi ro kinh doanh có mối quan hệ tỷ lệ thuận với cấu trúc vốn. Nhưng khả năng sinh lợi không ảnh hưởng đến cấu trúc vốn. Mặc dù, tài sản hữu hình có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với tỷ lệ tổng nợ và tỷ lệ nợ ngắn hạn, nhưng đều có ảnh hưởng thấp. Cuối cùng các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam đạt được tín dụng trong thương mại và các nguồn tài chính khác trong cấu trúc vốn của mình.

Nghiên cứu về cơ cấu vốn của các doanh nghiệp Ấn Độ được thực hiện bởi Tiến sĩ S. Poornima và G. Manokaran (1/2012), Chakraborty (1997) , trong đó tỷ số nợ trên vốn chủ sở hữu được coi là biến phụ thuộc.

Saumitra N. Bhaduri (2002) đã thực hiện một nghiên cứu thực nghiệm về sự lựa chọn cơ cấu vốn của các doanh nghiệp tài chính tại Ấn Độ. Các bằng chứng được trình bày ở đây cho thấy rằng sự lựa chọn cấu trúc vốn tối ưu có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như tăng trưởng, dòng tiền mặt, kích thước sản phẩm, và đặc điểm ngành công nghiệp. Các kết quả cũng xác nhận sự tồn tại của các chi phí tái cơ cấu trong việc đạt được một cấu trúc vốn tối ưu.

Sahoo và Omkarnath (2005) trong nghiên cứu của họ về lĩnh vực doanh nghiệp tư nhân của Ấn Độ cho thấy quy mô doanh nghiệp là yếu tố ít quan trọng nhất ảnh hưởng đến tỷ lệ nợ dài hạn.

Nghiên cứu của GS. Nguyễn Thị Cành và cộng sự (2012) về các công ty chế biến thủy sản cho thấy khi tỷ lệ nợ trên tổng tài sản thấp hơn mức 59,27% thì có thể làm gia tăng giá trị doanh nghiệp nhưng nếu tỷ số này cao hơn 59,27% thì làm giảm giá trị doanh nghiệp. Hay nói khác đi tác giả nêu giới hạn tỷ lệ nợ tối ưu để gia tăng giá trị donh nghiệp là 59,27% đối các công ty chế biến thủy sản tại Việt Nam.

Từ việc xem xét tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây, tác giả nhận thấy rằng một số nghiên cứu thực nghiệm đã kết thúc với kết quả có sự mâu thuẫn. Liệu các doanh nghiệp ngành chế biến thực phẩm được niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán TP.HCM có tỷ số nợ trên vốn chủ sở hữu chịu sự sự tác động của các nhân tố trong mô hình nghiên cứu như thế nào? Luận văn: Khái quát các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY    

===>>> Luận văn: Thực trạng những tác động đến các Cty thực phẩm

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x