Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Hoạt động marketing du lịch thành phố Cần Thơ hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Hoàn thiện hoạt động marketing du lịch thành phố Cần Thơ đến năm 2020 dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
LỜI NÓI ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Du lịch là một trong những ngành kinh tế quan trọng, là một ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao. Du lịch không những có khả năng tạo ra nguồn thu nhập rất lớn cho xã hội mà còn góp phần thực hiện chính sách mở cửa, giao lưu văn hoá, thúc đẩy sự đổi mới và phát triển của nhiều ngành kinh tế khác, đồng thời giúp giải quyết nhiều vấn đề mang tính chất xã hội. Luận văn: Hoạt động marketing du lịch thành phố Cần Thơ
Cần Thơ, vùng đất được thiên nhiên ưu ái ban tặng nhiều tài nguyên quý, độc đáo có thể phục vụ cho việc phát triển một ngành du lịch với nhiều loại sản phẩm du lịch, hình thức du lịch phong phú và đa dạng. Cần Thơ cũng đã xác định “Du lịch là một ngành kinh tế mũi nhọn của Cần Thơ”.
Tuy nhiên, dù có nhiều điều kiện thuận lợi về giao thông, hệ thống nhà hàng, khách sạn, các ngành nghề truyền thống đa dạng nhưng hoạt động du lịch vẫn bộc lộ nhiều hạn chế như: Mức độ phát triển chưa tương xứng với tiềm năng to lớn được thiên nhiên ban tặng, công tác quản lý nhà nước còn lỏng lẻo, chưa có mô hình du lịch đặc trưng, thiếu quy hoạch tổng thể, hoạt động du lịch tự phát, đơn điệu, thiếu sự kết nối với các cơ sở, nhân sự chuyên trách du lịch không có. Hạn chế chung của du lịch TP Cần Thơ trong những năm qua là không có điểm nhấn ở các điểm đến, điểm dừng chân, chưa có sản phẩm du lịch đặc trưng, dịch vụ giải trí phục vụ du lịch hầu như không có, đội ngũ phục vụ du lịch chưa chuyên nghiệp, thiếu sự phối hợp giữa các ngành, các cấp. Các điểm du lịch vẫn chưa có đề án quy hoạch cụ thể, còn lộn xộn, chồng chéo trong khâu quản lý; tình hình an ninh trật tự, vệ sinh môi trường vẫn chưa được đảm bảo.
Vì thế, làm sao để du lịch Cần Thơ phát triển đi lên ngày một nhanh và mạnh mẽ hơn, làm sao để Cần Thơ thu hút được lượng khách du lịch đến thăm quan và ở lại Cần Thơ lâu hơn, làm sao để nâng cao sức cạnh tranh, nâng cao vị thế của du lịch Cần Thơ là một vấn đề quan trọng và cấp thiết cần được đưa ra và giải quyết. Do đó tác giả chọn đề tài “HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG MARKETING DU LỊCH THÀNH PHỐ CẦN THƠ ĐẾN NĂM 2020” làm đề tài nghiên cứu với mong muốn qua phân tích hiện trạng, nghiên cứu thị trường thực tế, sẽ đưa ra được một số giải pháp marketing hữu dụng đóng góp cho sự định hướng và phát triển của du lịch Cần Thơ tốt hơn trong thời gian tới.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Marketing
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU Luận văn: Hoạt động marketing du lịch thành phố Cần Thơ
- Đề tài nhằm mục tiêu nghiên cứu thực trạng hoạt động maketing du lịch thành phố Cần Thơ
- Kiến nghị các giải pháp để hoàn thiện hoạt động maketing du lịch thành phố Cần Thơ đến năm 2020.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Trên cơ sơ phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động Marketing du lịch thành phố Cần Thơ và đề xuất những giải pháp hoàn thiện hoạt động Marketing du lịch Cần Thơ đến năm 2020. Phạm vi không gian được giới hạn trên địa bàn thành phố Cần Thơ, luận sử dụng số liệu thống kê hoạt động của ngành du lịch Cần Thơ từ năm 2009 đến năm 2013.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Nguồn dữ liệu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp thu thập, thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh…
- Dữ liệu thứ cấp được thu thập từ ngành du lịch, các sở, ban ngành của thành phố Cần Thơ, từ báo chí, internet…
- Dữ liệu sơ cấp được thu thập qua khảo sát thực tế phỏng vấn bảng câu hỏi xin ý kiến các chuyên gia về du lịch, đơn vị kinh doanh du lịch, du khách đi du lịch đến Cần Thơ, các sở, ban ngành của thành phố Cần Thơ, và một số Phòng Hạ tầng – Kinh tế của thành phố Cần Thơ, Văn phòng Đại biểu Quốc Hội, Hội đồng nhân dân thành phố Cần Thơ, khách du lịch trong nước, nước ngoài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp định tính: tổng hợp, phân tích, mô tả thống kê, điều tra, thu thập thông tin và rút ra những điều cần thiết cho việc đề xuất những giải pháp cho đề tài.
Khảo sát 140 bảng câu hỏi khách nội địa, 100 bảng câu hỏi khách quốc tế và 30 bảng câu hỏi đơn vị kinh doanh trong lĩnh vực du lịch và 30 bảng câu hỏi chuyên gia ở các sở, ban ngành của thành phố Cần Thơ, và một số Phòng Hạ tầng – Kinh tế của thành phố Cần Thơ, Hội đồng nhân dân thành phố Cần Thơ.
5. KẾT CẤU LUẬN VĂN Luận văn: Hoạt động marketing du lịch thành phố Cần Thơ
Phần mở đầu
- Chương 1: Cơ sở lý luận về Marketing du lịch địa phương
- Chương 2: Thực trạng hoạt động marketing Du lịch thành phố Cần Thơ
- Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hoạt động Marketing du lịch Cần Thơ đến năm 2020 Phần kết luận
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MARKETING DU LỊCH ĐỊA PHƯƠNG
1.1. Khái niệm chung về du lịch
1.1.1 Khái niệm về du lịch
Trong những năm gần đây, trên thế giới đã chứng kiến một sự bùng nổ của hoạt động du lịch trên phạm vi toàn cầu. Du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia và đã góp một phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế thế giới.
Theo Tổ chức du lịch thế giới – WTO (World Tourism Organization) khái niệm: “Du lịch là tập hợp các mối quan hệ, các hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ sự hình thành và lưu trú của các cá thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên với mục đích hòa bình và nơi họ đến không phải là nơi họ làm việc”.
Theo Luật du lịch của Việt Nam ban hành vào tháng 6/2005 có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2006: “Du lịch là một trong những hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong khoản thời gian nhất định”. (khoản 1, điều 4 luật du lịch)
1.1.2 Khái niệm về sản phẩm du lịch Luận văn: Hoạt động marketing du lịch thành phố Cần Thơ
Sản phẩm du lịch là các dịch vụ, hàng hóa cung cấp cho du khách, được tạo nên bởi sự kết hợp của việc khai thác hợp lý các yếu tố tự nhiên, xã hội với việc sử dụng các nguồn lực: cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động tại một cơ sở, một vùng hay một quốc gia nào đó. Sản phẩm du lịch có tính chất vô cùng đặc biệt. Vì vậy, ứng dụng Marketing vào du lịch có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của ngành du lịch. Vậy sản phẩm du lịch là gì? Nó có những đặc tính gì? Khái niệm về sản phẩm du lịch Theo luật du lịch ngày 14/6/2005: “ Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch” ( khoản 10, điều 4 luật du lịch) những đặc tính địa lý (bãi biển, núi rừng, sông suối, khí hậu, không gian thiên nhiên….) cũng như hạ tầng cơ sở (khách sạn, nhà hàng, đường bay…) bản thân chúng không phải là một sản phẩm du lịch, nhưng chúng lại trở thành sản phẩm du lịch trong những tình trạng nào đó. Kotler và Turner đã định nghĩa về sản phẩm như sau: “Một sản phẩm là tất cả những gì có thể cung cấp cho sự chiếm hữu, sự sử dụng hoặc sự tiêu thụ của một thị trường: điều đó bao gồm những vật thể, những khoa học, những nhân vật, những nơi chốn, những tổ chức và những ý tưởng”.
Đặc tính của sản phẩm du lịch; một sản phẩm du lịch thường có 4 đặc tính sau:
- Tính vô hình: khác với sản phẩm vật chất, các dịch vụ không thể nhìn thấy, nếm, ngửi, cảm giác hay nghe thấy trước khi mua. Do tính chất vô hình của dịch vụ và sản phẩm du lịch thường ở quá xa khách hàng nên người mua thường phải mất một khoảng thời gian khá dài kể từ ngày mua sản phẩm cho đến khi sử dụng. Do vậy, Marketing rất cần thiết để cung cấp thông tin cho khách hàng về sản phẩm du lịch.
- Tính bất khả phân: có nghĩa rằng khách hàng là một phần của sản phẩm. Thật vậy, không riêng gì người cung cấp dịch vụ mà cả khách hàng cũng góp phần tạo nên chất lượng sản phẩm. Như vậy, nhờ tính chất bất khả phân, đòi hỏi người quản lý trong du lịch phải đảm bảo sự quản lý chặt chẽ của nhân viên lẫn khách hàng.
- Tính khả biến: dịch vụ rất dễ thay đổi, chất lượng của sản phẩm tuỳ thuộc vào phần lớn những người cung cấp và khi nào, ở đâu chúng được cung cấp.
- Tính dễ phân huỷ: dịch vụ không thể tồn kho, nghĩa là sản phẩm dịch vụ không thể để dành cho ngày mai. Dịch vụ không bán được ngày hôm nay, không thể bán cho ngày hôm sau. Chính vì những đặc tính trên của sản phẩm du lịch, cần thiết phải vận dụng marketing vào du lịch mới có thể phục vụ tốt nhất cho du khách.
1.1.3 Khái niệm về thị trường du lịch
Thị trường du lịch là tổng thể các hành vi và quan hệ kinh tế trong quá trình thực hiện sự trao đổi sản phẩm du lịch nhằm thỏa mãn nhu cầu mong muốn của du khách. Để khai thác thị trường du lịch phải xuất phát từ thực tế, tiến hành một cách có kế hoạch, có chiến lược, việc điều tra và dự đoán cung, cầu là tiền đề quan trọng.
1.1.3.1 Cầu thị trường du lịch
Cầu du lịch là hệ thống các yếu tố tác động đến sự hình thành chuyến đi của du khách trong suốt cuộc hành trình và lưu trú của họ. Các yếu tố đó bao gồm: Thu nhập, trình độ văn hóa, thời gian nhàn rỗi, mốt…Để thu hút được nhiều khách du lịch phải kết hợp tất cả các yếu tố liên quan đến cung và cầu du lịch.
Thị trường du lịch theo hướng cầu là một thị trường hoàn chỉnh, phản ánh nhu cầu của khách hàng về một loại sản phẩm có liên quan đến du lịch. Có 3 loại du khách mà hầu hết các nước điều quan tâm. Đó là khách quốc tế đến du lịch trong nước, cư dân trong nước đi du lịch ra nước ngoài, khách nội địa . Luận văn: Hoạt động marketing du lịch thành phố Cần Thơ
Thời gian nhàn rỗi: người ta chỉ đi du lịch khi có thời gian nhàn rỗi. Cùng với việc gia tăng năng suất lao động và chế độ nghỉ dưỡng, thời gian nghỉ ngơi của người lao động được kéo dài ra và số kỳ nghỉ trong năm tăng lên. Trong thời gian đó người ta nãy sinh về nhu cầu tìm nơi nghỉ ngơi, đến những vùng đất mới, tìm hiểu cái mới, vui chơi giải trí… và họ quyết định đi du lịch. Khi thời gian nhàn rỗi càng nhiều thì nhu cầu du lịch để tiêu pha thời gian đó càng nhiều.
Thu nhập: những người có tiền mới đi du lịch. Có người để dành tiền chỉ để đi du lịch. Người đi du lịch phải có tiền để chi tiêu cho chuyến đi của mình do đó người có thu nhập cao sẽ đi du lịch nhiều hơn những người khác. Không có tiền thì không thể đi du lịch.
Nghề nghiệp: có liên hệ mật thiết với giáo dục, thu nhập và lối sống dựa trên trình độ giáo dục và thu nhập là vấn đề quan trọng hình thành cầu du lịch. Đặc tính của nghề nghiệp ảnh hưởng đến việc du lịch của nhân viên trong ngành.
Trình độ văn hóa: những người đi du lịch ít nhiều đều được mở mang kiến thức, hiểu biết về thế giới. Vì thế khi con người tiếp cận với nền giáo dục tiến bộ thì niềm đam mê, khao khát được mở rộng thêm kiến thức sẽ tăng lên và nảy sinh nhu cầu du lịch.
Mốt: Du lịch ngày nay đã trở thành phong trào, việc đi nhiều nơi, đến nhiều vùng đất mới, khám phá thế giới rất lôi cuốn mọi người trong xã hội phát triển.
Trên đây là một số yếu tố chính hình thành nên cầu du lịch. Ngoài ra còn nhiều yếu tố khác ít nhiều ảnh hưởng đến việc hình thành các chuyến du lịch của du khách. Đôi khi du khách cũng xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau nên cầu về du lịch có thể được hình thành trên những động cơ tổng hợp mà các nhà nghiên cứu phải tìm ra và dự báo những xu hướng mới hình thành những chuyến du lịch để có những chương trình phát triển du lịch toàn diện.
1.1.3.2 Cung thị trường du lịch
Cung du lịch là hệ thống các yếu tố mà các cơ sở kinh doanh du lịch cung ứng cho du khách trong suốt cuộc hành trình và lưu trú của họ như ăn, ở, vận chuyển, tham quan. Cung du lịch được thực hiện bởi đơn vị cung ứng du lịch. Đơn vị cung ứng du lịch có thể là một điểm du lịch, khách sạn, nhà hàng, các hãng lữ hành hay công ty vận chuyển, các tổ chức lưu trú, tổ chức vận chuyển, tổ chức xúc tiến, tổ chức lữ hành và các điểm du lịch… Để thu hút được nhiều khách phải biết kết hợp các yếu tố liên quan đến cung và cầu du lịch.
1.2. Marketing du lịch Luận văn: Hoạt động marketing du lịch thành phố Cần Thơ
1.2.1. Khái niệm Marketing du lịch
Theo định nghĩa của Michael Coltman “Marketing du lịch là một hệ thống các nghiên cứu và lập kế hoạch nhằm tạo cho tổ chức du lịch một triết lý quản trị hoàn chỉnh với các chiến lược và chiến thuật thích hợp để đạt được mục đích”. Marketing du lịch là quá trình nghiên cứu, phân tích những nhu cầu của khách hàng, những sản phẩm, dịch vụ du lịch và những phương thức cung ứng, hỗ trợ để đưa khách hàng đến với sản phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu của họ, đồng thời đạt được những mục tiêu của doanh nghiệp. Marketing du lịch là một quá trình nghiên cứu, phân tích (nhu cầu khách hành – sản phẩm du lịch – phương thức cung ứng và hỗ trợ của tổ chức) để đưa khách hành đến với sản phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng và thỏa mãn mục tiêu lợi nhuận.
Theo tổ chức du lịch thế giới (WTO) định nghĩa: “Marketing du lịch là một triết lý quản trị mà nhờ nghiên cứu, dự đoán, tuyển chọn dựa trên nhu cầu của du khách nó có thể đem sản phẩm du lịch ra thị trường sao cho phù hợp mục đích thu nhiều lợi nhuận cho tổ chức du lịch đó”.
1.2.2. Vai trò của marketing du lịch
Đặc tính của sản phẩm du lịch khác với sản phẩm hàng hóa và hàng hóa thường xa phẩm. Và bản chất marketing du lịch là phát hiện ra các nhu cầu và tìm cách thỏa mãn chúng để đạt mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Trong kinh doanh du lịch, ứng dụng marketing du lịch là cần thiết để tìm hiểu nhu cầu của du khách về nghệ thuật đáp ứng để kinh doanh hiệu quả.
Vai trò của marketing du lịch là liên kết các hệ thống giữa cung và cầu trong thị trường du lịch và tác động điều tiết nhu cầu của du khách, vai trò được thể hiện qua sơ đồ hình 1.1 Sơ đồ này giải thích phương thức tương tác giữa năm khu vực chính của ngành du lịch để tác động điều tiết nhu cầu của du khách qua những công cụ marketing
1.3. Marketing điểm đến
1.3.1 Khái niệm marketing điểm đến Luận văn: Hoạt động marketing du lịch thành phố Cần Thơ
Từ các cách tiếp cận khác nhau, ta có thể hiểu khái niệm điểm đến du lịch được tóm tắt đầy đủ như sau: điểm đến du lịch là những nơi khách du lịch hướng đến thực hiện các hoạt động vui chơi, giải trí lưu trú qua đêm. Điểm đến du lịch là nơi tập trung nhiều điểm du lịch và hệ thống lưu trú, vận chuyển và các dịch vụ du lịch khác, là nơi có xảy ra các hoạt động kinh tế – xã hội do du lịch gây ra ( Goeldner và cộng sự, 2000). Vì vậy điểm đến du lịch là Quốc gia, vùng, thành phố, tỉnh, huyện, xã…
Marketing điểm đến là một quá trình giao tiếp với du khách là tiềm năng ảnh hưởng việc lựa chọn điểm đến du lịch của họ. Marketing điểm đến là một phần quan trọng trong quá trình “thực hiện”, nó là khớp nối thông tin liên lạc của các giá trị, tầm nhìn và các thuộc tính cạnh tranh của điểm đến. Các hành động trọng tâm được thực hiện trong marketing điểm đến được nhấn mạnh củng cố bởi những phát hiện của ‘kế hoạch marketing điểm đến”, quá trình sau đó là hoạt động (Mules T và Huybers T, 2005).
Hay nói cách khác, marketing điểm đến là quá trình quản trị cho phép tổ chức marketing, tạo dựng duy trì mối quan hệ điểm đến du lịch và khách du lịch hiện tại cũng như khách du lịch tiềm năng, thông qua việc dự báo và đáp ứng các nhu cầu của du lịch đối với điểm đến và có khả năng dễ dàng giao tiếp liên hệ với điểm du lịch.
1.3.2 Vai trò marketing điểm đến
Marketing điểm đến được thực hiện bởi nhiều tổ chức, nhà cung cấp và sản xuất dịch vụ. Tổ chức du lịch quốc gia, địa phương không phải là nhà sản xuất sản phẩm du lịch. Không trực tiếp cung cấp về chất lượng sản phẩm dịch vụ.
Marketing điểm đến đòi hỏi sự kết hợp và sắp xếp các hoạt động trong số các điểm đến hấp dẫn chính (cả khu vực nhà nước và tư nhân) để thu hút khách du lịch. Hoạt động marketing của tổ chức quản trị điểm đến tập trung chủ yếu vào xúc tiến điểm đến như một chỉnh thể, cần tạo ra một hình ảnh điểm đến tại các thị trường quốc tế trọng điểm. Sản phẩm điểm đến du lịch do nhiều tổ chức, doanh nghiệp tham gia cung ứng. Tổ chức marketing điểm đến du lịch phải gắn kết họ phối hợp với nhau để tạo ra sản phẩm du lịch thỏa mãn nhu cầu du khách. Marketing điểm đến không còn được coi là công cụ thu hút khách, mà còn là một cơ chế tạo điều kiện thuận lợi cho việc đạt được mục tiêu phát triển điểm đến.
1.4. Hoạt động marketing du lịch địa phương Luận văn: Hoạt động marketing du lịch thành phố Cần Thơ
1.4.1. Nghiên cứu thị trường
Nghiên cứu thị trường là một qúa trình thu thập, ghi chép, phân tích và xử lý các thông tin thị trường về những vấn đề có liên quan đến hoạt động marketing. Thị trường là một yếu tố sống còn đối với bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào. Do đó, muốn sâm nhập và phát triển thị trường một cách có hiệu quả thì phải tiến hành phân khúc thị trường, lựa chọn thị trường mục tiêu, từ đó định vị điểm đến du lịch.
1.4.1.1. Phân khúc thị trường
Phân khúc thị trường là phân chia một thị trường lớn không đồng nhất thành từng nhóm người mua có nhu cầu và đặc điểm tương đối giống nhau. Có thể phân khúc thị trường du khách dựa trên những tiêu thức sau:
Địa lý: đây là cơ sở phân khúc khá phổ biến trong ngành du lịch vì sự khác biệt về nhu cầu thường gắn với yếu tố địa lý. Các yếu tố địa lý bao gồm: miền, qui mô và vị trí của thành phố, nơi cư trú, khí hậu…
Nhân khẩu học: tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp, tôn giáo, dân tộc; tâm lý: lối sống, cá tính;
Hành vi của khách hàng: Lý do mua hàng, lợi ích tìm kiếm, mức độ trung thành…Đặc điểm hành vi khi đi du lịch của du khách, cụ thể như sau:
- Phân khúc thị trường theo lợi ích của du khách đạt được từ chuyến đi, mục đích du lịch của du khách, nhu cầu và động cơ. Hiểu được mục tiêu và đông lực của khách hành thì sẽ tìm ra cách tác động mạnh mẽ đến quyết định mua hàng.
- Phân khúc bởi hành vi người mua: phân khúc theo các loại hành vi hoặc đặc điểm của việc sử dụng các sản phẩm mà khách hàng thể hiện.
- Phân khúc theo giá: phân khúc khách hàng được nhận diện và định vị trí đáp ứng giá cả khác nhau. Hình thức phân khúc theo giá cả này sẽ còn được sếp với mục đích, lợi ích tìm kiếm và các đặc điểm của người sử dụng trong thứ tự các cách thức phân khúc.
Nghiên cứu có thể sử dụng một hoặc kết hợp nhiều tiêu chí với nhau để phân khúc thị trường. Chỉ có một số ít nghiên cứu sử dụng tiêu chí riêng lẻ, đa số sử dụng nhiều tiêu chí kết hợp vì nó giúp xác định rỏ ràng và hiệu quả hơn các phân khúc
1.4.1.2. Xác định thị trường mục tiêu Luận văn: Hoạt động marketing du lịch thành phố Cần Thơ
Là một khúc thị trường được một doanh nghiệp lựa chọn cho những nỗ lực Marketing của mình. Như vậy, phân khúc thị trường, chọn thị trường mục tiêu giúp cho nhà sản xuất có thể tập trung việc sản xuất của mình để thỏa mãn tối đa nhu cầu từng nhóm khách hàng tương đối đồng nhất trên cùng một thị trường.
Các phương án chọn lựa thị trường mục tiêu như sau:
Phương án tập trung vào một khúc thị trường: mọi nổ lực marketing chỉ tập trung vào một khúc thị trường mục tiêu đơn lẻ cụ thể: Ví dụ: chỉ chọn thị trường du khách Mỹ, hoặc thị trường du lịch dành cho người già.
Phương án chuyên môn hóa có lựa chọn: có thể lựa chọn hai hay nhiều hơn các khúc thị trường mục tiêu phù hợp với mục tiêu và khả năng. Ví dụ: chọn thị trường mục tiêu không chỉ nhằm vào khách quốc tế đi công tác mà mở rộng đến phân khúc khách đi du lịch thuần túy có khả năng thanh toán cao.
Phương án chuyên môn hóa theo thị trường: chỉ tập trung vào một loại sản phẩm nhưng thỏa mãn nhu cầu đa dạng của các nhóm khách hàng riêng biệt, nhưng có điểm giống nhau trong tiêu dùng du lịch. Ví dụ: tập trung vào sản phẩm hội họp nhưng cho các hình thức mục đích tổ chức hội họp khác nhau.
Phương án chuyên môn hóa theo sản phẩm: sản phẩm tập trung vào việc thỏa mãn nhu cầu đa dạng của một nhóm khách hàng riêng biệt. Ví dụ: du lịch nghĩ dưỡng tạo ra dịch vụ phục hồi sức khỏe, thư giãn cho nhiều đối tượng khác nhau.
Phương án bao phủ toàn bộ thị trường: cố gắng đáp ứng mong muốn của mỗi khách hàng về tất cả sản phẩm mà họ cần.
1.4.1.3. Định vị điểm đến
Định vị điểm đến du lịch là việc chuyển tải có chủ định một bản sắc riêng thành hình ảnh trong tâm trí khách du lịch. Việc định vị điểm đến du lịch được tiếp cận theo hai phương pháp. Phần lớn các nghiên cứu dựa trên cách định vị truyền thống, tức là dựa trên đặc điểm hấp dẫn của chính sản phẩm. Một số nghiên cứu khác tập trung vào việc xác định những thuộc tính trong nhận thức của khách du lịch về điểm đến và coi đây là cơ sở cho việc định vị điểm đến du lịch. Định vị điểm đến theo cách này gắn liền xây dựng một hình ảnh hay thương hiệu cho điểm đến. Điều quan trọng trong việc định vị điểm đến trong tâm trí của khách hàng là trải nghiệm của du khách có đáp ứng được kỳ vọng của họ. Để định vị du lịch địa phương thành công cần kết hợp nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ và hình ảnh được nhận thức rõ ràng trong tâm trí của khách hàng về lợi ích được cung cấp bởi các điểm đến. Đồng thời sản phẩm – dịch vụ kết hợp điểm đến có thể được phân biệt với các điểm đến khác. Mục tiêu là để cung cấp cho khách hàng có ấn tượng về hình ảnh tích cực, tốt đẹp của các điểm đến.
1.4.2. Hoạt động marketing du lịch địa phương Luận văn: Hoạt động marketing du lịch thành phố Cần Thơ
Các thành phần của marketing du lịch gồm 4P, 7P, 8P. Trong phạm vi luận văn này, tác giả chỉ nhấn mạnh đến các thành phần của marketing là: Product ( sản phẩm), Price (giá cả), Promotion (chiêu thị – xúa tiến du lịch), Place (điểm đến), People (con người), Process (quy trình) và Physical evidence (minh chứng vật chất).
1.4.2.1. Sản phẩm
Sản phẩm du lịch được định nghĩa là một tổng thể bao gồm các thành phần không đồng nhất hữu hình và vô hình. Những yếu tố cơ bản cấu thành sản phẩm du lịch như sau:
Sản phẩm du lịch địa phương bao gồm toàn bộ các dịch vụ cung cấp với tất cả văn hóa xã hội, tài nguyên môi trường và hàng hóa công cộng của địa phương đó. ( Kotler và cộng sự, 1996).
- Tài nguyên thiên nhiên: phong cảnh, công viên, hồ suối, nước non, dốc đá, đèo, hệ thống động vật, thực vật, bờ biển, hải cảng…
- Nơi tiêu biểu văn hóa, lịch sử: vùng khảo cổ, kiến trúc truyền thống, nghề thủ công bản địa, thực phẩm đặc sản, lễ lạt, nghi thức, phong tục, múa hát.
- Nơi giải trí: công viên, sân golf, nơi cắm trại, nơi picnic, nơi bơi lội…
- Các tiện nghi du lịch: chiêu đãi, phục vụ nghỉ ngơi, nhà hàng, mua sắm, trung tâm thông tin, hệ thống đăng ký giữ chỗ, khí hậu, các tài nguyên thiên nhiên khác.
- Hấp dẫn tâm lý: mỹ quan, thái độ hài lòng. Luận văn: Hoạt động marketing du lịch thành phố Cần Thơ
Nghiên cứu của (Ljiljana Stankovic và Suzana Đukic, 2009) đã phát hiện cho rằng các sản phẩm du lịch, liên kết các địa phương lân cận cùng phối hợp sáng tạo cũng rất quan trọng đối với điểm đến du lịch. Vì vậy, cần chú trọng công tác phối hợp, cộng hưởng các sản phẩm du lịch địa phương. Tour du lịch: Tour du lịch là chuyến đi được chuẩn bị trước bao gồm tham quan một hay nhiều điểm du lịch và quay trở về nơi khởi hành. Chuyến du lịch thông thường có các dịch vụ về vận chuyển, lưu trú, tham quan và các dịch vụ khác.
1.4.2.2 Giá cả
Hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh du lịch trên địa bàn thành phố đều xây dựng chiến lược giá cả dựa trên chi phí, có quan tâm giá của các đối thủ cạnh tranh, giá đòi hỏi của các đối tác nhưng làm sao vẫn phải bù đắp được các chi phí bỏ ra.
Các nhân tố ảnh hưởng đến việc định giá:
- Nhân tố bên trong: Những nhân tố bên trong ảnh hưởng đến việc xây dựng giá liên quan đến các yếu tố đầu vào, và chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố nội vi. Những nhân tố này mang tính cách chủ quan thuộc về những mục tiêu của công ty, chi phí, cách thức xác định giá để giảm thiểu rủi ro.
- Nhân tố bên ngoài: mang tính cách khách quan, chịu ảnh hưởng bởi giá cả thị trường, giá cả của đối thủ cạnh tranh và tính chất thời vụ của mùa du lịch.
Các phương pháp định giá:
Các doanh nghiệp trong thành phố trong các hoạt động du lịch. Ngoài việc dựa vào giá chuẩn quy định, hầu hết các doanh nghiệp còn định giá dựa vào chi phí là chính, ít quan tâm đến thị trường, đến sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn nên việc định giá cho phù hợp với từng đối tượng khách hàng mục tiêu quan trọng .
- Chiến lược giá cho sự khác biệt: định giá cao cho những chương trình có sự khác biệt, độc đáo và chất lượng dịch vụ cao.
- Chiến lược giá thâm nhập thị trường: với chiến lược đa dạng hóa sản phẩm cần phải thu hút thêm nhiều khách mới, đồng thời tăng sự cạnh tranh so với tỉnh khác trong các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, cần định giá cạnh tranh để thu hút thêm khách hàng mới để mở rộng thị trường.
- Chiến lược giá theo mùa: từ tháng 5 đến tháng 8 là mùa ít khách, trong mùa này cần đưa ra giá thấp để khuyến khích khách hàng đến với du lịch Cần Thơ. Không có chiến lược giá nào đúng cho mọi tình huống, do vậy trong thời kỳ, các doanh nghiệp du lịch hoạt động trên địa bàn Cần Thơ cần lựa chọn một chính sách giá phù hợp nhằm đáp ứng được các chiến lược phát triển du lịch. Việc thống nhất giá chuẩn đối với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch ở Cần Thơ cần thiết để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh đảm bảo chất lượng phục vụ du khách.
Tuy nhiên, việc định giá cả ngành du lịch Cần Thơ trong thời gian qua cũng được các ngành các đơn vị doanh nghiệp quan tâm, nhưng qua thực tế thì việc định giá còn buông lỏng, một số cơ sở, nhà hàng, khách sạn, đơn vị lữ hành… tự định giá cả cho đơn vị mình. Từ đó, làm trở ngại cho việc thu hút khách du lịch đến Cần Thơ.
1.4.2.3. Phân phối Luận văn: Hoạt động marketing du lịch thành phố Cần Thơ
Mục đích của phân phối trong du lịch là thiết lập mối liên hệ giữa cung và cầu giữa các tổ chức du lịch và khách du lịch, đưa sản phẩm và dịch vụ đến khách hàng và đưa khách hàng đến với sản phẩm.
Hệ thống kênh phân phối trong du lịch là một tập hợp các đơn vị cung ứng hay các cá nhân để hoạt động những việc thuộc lĩnh vực của mình hoặc của những đơn vị khác nhằm đưa khách hàng đến với sản phẩm hoặc cung cấp thông tin về sản phẩm cho khách hàng. Giữa nhà cung ứng và khách du lịch khi giao dịch với nhau có thể thông qua kênh phân phối trực tiếp hoặc gián tiếp, tổ chức và hoạt động của hệ thống phân phối du lịch.
Trong hệ thống phân phối du lịch, có 3 kênh phân phối chính:
- Công ty du lịch trọn gói
- Các văn phòng du lịch hay đại lý du lịch.
- Các công ty chuyên biệt.
Giữ chổ chuyến đi là kênh đơn giản nhất. việc này có thể do người chủ khách sạn, hoặc người chịu trách nhiệm về trốn ăn ở, hoặc phương tiện đi lại đề xuất trực tiếp với khách: Đây là hình thức thường gặp ở phòng bán vé máy bay, xe lửa, tàu thủy, ở các khách sạn…
Đơn vị bán lẻ: theo định nghĩa của Tổ chức Thế giới về Du lịch thì những đại lý bán lẻ cung cấp cho khách hàng những thông tin về các chuyến đi được tổ chức, nơi ăn ở và các dịch vụ kèm theo kể cả giờ giấc, biểu giá và điều kiện dịch vụ. Những tổ chức cung cấp cho phép họ bán những dịch vụ này theo giá niêm yết, hợp đồng bán hàng (thường là vé) nêu rõ những đại lý chỉ đóng vai trò trung gian. Các đại lý nhận một khoản hoa hồng của những tổ chức cung ứng du lịch mà họ đại diện.
Cơ sở bán buôn: đứng trung gian giữa các đại lý và tổ chức cung ứng du lịch. Với tư cách là “người tổ chức các chuyến đi” hoặc đơn vị tổ chức các chuyến đi trọn gói, cơ sở bán buôn tổ chức các chuyến du lịch trọn gói để bán trực tiếp tại các văn phòng của mình hoặc qua trung gian là các đơn vị bán lẻ. Những kênh khác: Bán hàng qua mạng Internet, qua thư, qua điện thoại; Bán tại những nơi buôn bán hàng ngày, trong những cửa hiệu lớn, siêu thị, cửa hàng thực phẩm có nhiều chi nhánh, hiệu sách , hay dạng bán hàng đa cấp…Cung cấp thông tin, bán tour qua mạng: Doanh nghiệp cung ứng dịch vụ du lịch quảng bá sản phẩm của mình qua mạng Internet hoặc các kênh phân phối quan trọng khác, cần quan tâm sâu sắc về kênh phân phối, nếu doanh nghiệp thiếu hụt các mạng lưới phân phối luôn là một yếu tố thất bại trong kinh doanh du lịch. Cho nên cần phải kiểm tra và thực hiện trước những việc cụ thể như sau: Cần mô tả hệ thống phân phối và nêu rõ tầm quan trọng tương đối của các kênh có những loại trung gian cần dự tính, đồng thời phân tích các chi phí phải trả theo các loại trung gian, xem xét thái độ của khách du lịch đối với điểm du lịch được giới thiệu, thâm dò dư luận của khách du lịch đối với giá trị và sự nghiêm túc của những trung gian này, nắm bắt phản ứng của những thông báo do các nhà chuyên nghiệp cung cấp, phân tích qua thống kê những cách tổ chức các chuyến du lịch được sử dụng những trung gian đang cạnh tranh nhau.
1.4.2.4. Chiêu thị Luận văn: Hoạt động marketing du lịch thành phố Cần Thơ
Hoạt động chiêu thị, cổ động là một trong 4 yếu tố của hỗn hợp Marketing, hoạt động này yểm trợ cho việc bán hàng hiệu quả hơn. Muốn chiêu thị có hiệu quả phải hội đủ 3 điều kiện: liên tục, tập trung và phối hợp.
Hoạt động chiêu thị được dùng cho mọi phương tiện truyền tin giữa người bán, người cung cấp dịch vụ và người mua hay có ý định mua hàng, để thuyết phục họ mua những sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp mình.
Theo luật du lịch ngày 14/6/2005: “Xúc tiến du lịch là hoạt động tuyên truyền, quảng bá, vận động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội phát triển du lịch” (khoản 17, điều 4 luật du lịch). Các hình thức chiêu thị:
- Quảng cáo trong du lịch nhằm mục đích: mở rộng vùng ảnh hưởng, thu hút du khách, thu hút khách hàng mới tại địa phương, giới thiệu đặc sản mới, sản phẩm mới, lôi cuốn khách hàng quen trở lại, tạo danh tiếng cho nhà hàng, khách sạn, điểm du lịch, lôi cuốn sự chú ý, lưu giữ sự chú ý một lúc để kích động nhu cầu, ham muốn, thông báo về đặc tính của nhà hàng, khách sạn, điểm du lịch. Trong xu hướng bùng nổ thông tin như hiện nay, Internet trở thành phương tiện quảng cáo hữu hiệu trong việc truyền bá các sản phẩm du lịch đến với khách hàng.
- Theo Philip Kotler: “Quảng cáo là hình thức truyền thông không trực tiếp, được thực hiện thông qua những phương tiện truyền tin phải trả tiền và phải xác định rõ nguồn kinh phí”.
- Người quảng cáo du lịch phải đưa ra 6 quyết định: Đưa ra cái gì? Đưa ra cho ai? Đưa ra nơi nào? Đưa ra khi nào? Đưa ra bằng cách nào? Và với bao nhiêu tiền? Theo quan điểm của Philip Kotler: thì quảng cáo là một sự đầu tư chứ không phải là một sự chi tiêu. Doanh nghiệp nào chi tiền cho công tác quảng cáo nhiều thì sẽ đem lại lợi nhuận cao. Công tác quảng cáo phải được tính toán và phân tích thật cẩn thận, tùy theo mục đích của chương trình quảng cáo mà doanh nghiệp phải xác định chi tiêu tiền thích hợp, bằng không thì hiệu quả của quảng cáo sẽ không tương xứng với tỷ lệ đồng tiền đã chi ra, cũng như hiệu quả của lợi nhuận. Luận văn: Hoạt động marketing du lịch thành phố Cần Thơ
- Bán hàng cá nhân: là hình thức sử dụng nhân viên bán hàng để thông tin, thuyết phục khách hàng tiềm năng mua sản phẩm nhằm đạt được mục tiêu của doanh nghiệp.
- Khuyến mãi: là những hoạt động xúc tiến của doanh nghiệp nhằm kích thích khách hàng mua hàng và làm tăng doanh số bán hàng trong ngắn hạn bằng cách giành những lợi ích nhất định cho khách hàng. Theo điều 181 của Luật Thương mại Việt Nam, các hình thức khuyến mãi bao gồm: tặng hàng mẫu, tặng miển phí hàng hóa, dịch vụ, bán giá thấp hơn, dự thi trúng thưởng…
- Quan hệ xã hội: Quan hệ xã hội là một nhiệm vụ rất quan trọng đối với doanh nghiệp nó quyết định đến sự phát triển hay tồn tại của doanh nghiệp, quan hệ xã hội nó luôn tồn tại trong bất cứ một cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp hay cá nhân, mối quan hệ xã hội được thể hiện ở 2 khía cạnh là: quan hệ đối nội và quan hệ đối ngoại.
- Quan hệ đối nội: là quan hệ giữa các nhân viên trong doanh nghiệp, công ty, các bộ phận trong tổ chức và cả đối với khách hàng của công ty. Cả hai nhóm trên luôn song hành với công ty.
- Quan hệ đối ngoại: là sự đối ngoại, giao tiếp bên ngoài công ty như khách hàng, công chúng trong địa phương, báo chí, chính quyền, các đơn vị tổ chức bạn. Ngoài ra trong du lịch việc đối ngoại còn phải tính đến việc gia nhập các Hiệp hội du lịch mang tính khu vực, vùng, quốc tế. Quảng cáo dưới dạng giao tiếp công cộng thì lợi ích mang lại đôi khi không một loại quảng cáo nào bằng, loại quảng cáo này đỡ tốn kém chi phí.
1.4.2.5. Con người
Con người là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự thành công của sản phẩm du lịch. Con người trong du lịch có thể là những nhà quản lý du lịch, những người phục vụ trực tiếp trong ngành du lịch, hướng dẫn viên du lịch, nhân viên tiếp tân, ăn uống. Cũng có thể là dân cư nơi du lịch, sự mến khách. Như vậy, phát triển nguồn nhân lực mang ý nghĩa chiến lược, đặt lên vị trí hàng đầu trong quá trình phát triển du lịch. Sản phẩm gồm giao tiếp con người và chúng là cơ hội cho những lỗi lầm, đặc biệt nếu một sản phẩm được tiêu dùng trong một khoản thời gian dài, như trong một tuần và liên quan đến nhiều nhà cung cấp dịch vụ khác nhau. Hầu hết những sự biến đổi sản phẩm du lịch điều bắt nguồn từ sự tương tác của con người có kinh nghiệm, có 3 loại người tham gia nhằm mục tiêu marketing đó là khách tham quan, nhân viên, cộng đồng chủ nhà.
Khách tham quan: Khách hàng cá nhân, các sản phẩm và các du khách khác tại cùng thời gian và thời điểm. Sự tương tác với những người tiêu dùng sẽ ảnh hưởng đến sự hài lòng của cá nhân.
Nhân viên: những nhân viên của một tổ chức có thể được chia thành lễ tân có tiếp xúc trực tiếp với khách hành, và những nhân viên không tiếp xúc trực tiếp, chỉ cung cấp hỗ trợ.
Cộng đồng chủ nhà: các cư dân của cộng đồng nơi đến, họ có thể không tự coi mình như một phần của kinh doanh du lịch, nhưng lại tương tác với du khách một cách không chính thức, chính hành vi thân thiện hay thù địch có thể làm ảnh hưởng đến kinh nghiệm của du khách. Theo Hoffman và Bateson, 1997 đề cập đến nhân sự tương tác là một bộ mặt của công ty du lịch. Ngoại hình, hành vi, kiến thức và thái độ của họ có tác động mạnh mẽ đến nhận thức mà họ đại diện.
1.4.2.6. Quy trình cung cấp dịch vụ Luận văn: Hoạt động marketing du lịch thành phố Cần Thơ
Kinh nghiệm sản phẩm du lịch và lữ hành bao gồm cả quy trình và kết quả. Đối với khách hàng, kết quả thường là những lợi ích vô hình, những cảm giác hồi sức về tâm lý và thể chất, phát triển lợi ích cá nhân như văn hóa, hoặc các mối quan hệ tốt. Người tiêu dùng trãi qua một loạt các cuộc gặp gỡ trong kinh nghiệm du lịch. Các cuộc gặp gỡ là những tương tác của người tiêu dùng trực tiếp của một nhân viên tại một cơ sở của công ty. Những cuộc gặp gỡ cũng có thể điều khiển từ xa qua trang web, dịch vụ điện thoại di động hay qua các thiết bị như một bảng hiệu bên đường hoặc máy kiểm tra tự động. Như vậy, nhân viên và người tiêu dùng là một phần quan trọng của hệ thống cung cấp dịch vụ. Bên cạnh đó, việc phân phối dịch vụ phải được cảm nhận phù hợp như các kịch bản, thiết kế dịch vụ phải phù hợp với nhu cầu của khách du lịch. Theo Hoffman và Bateson, 1997 cải tiến có thể bắt nguồn từ việc xây dựng một “thiết kế” dịch vụ chính thức hoặc lưu đồ của quá trình cung cấp dịch vụ.
1.4.2.7. Quản trị minh chứng vật chất và thiết kế
Minh chứng vật chất, bắt nguồn từ 5 giác quan: Thị giác (đặc biệt là màu sắc và thẩm mỹ), âm thanh, mùi hương, cảm ứng và sự vị giác. Sử dụng cho các minh chứng vật chất được đề xuất bởi Hoffman và Bateson, 1997 có liên quan đến du lịch và lữ hành. Minh chứng vật chất đóng vai trò thay thế việc sử dụng “Gói” cho các sản phẩm dựa trên các hàng hóa vật chất. Nó truyền thông điệp về vị trí, chất lượng và sự khác biệt, và nó giúp cho cả thiết kế và đáp ứng trong mong đợi của du khách. Minh chứng vật chất có thể được sử dụng để tạo thuận lợi cho quá trình cung cấp dịch vụ. Ví dụ: bố trí biển báo có ảnh hưởng đến khách hàng. Sức mạnh mà thiết kế bên ngoài và bên trong của các tòa nhà ảnh hưởng đến khách hàng và nhân viên ngày càng được công nhận trong mọi lĩnh vực du lịch và lữ hành. Việc sử dụng nó trong truyền thông của công ty, thương hiệu và giá trị sản phẩm ngày càng trở nên quan trọng. Bảo đảm tính thống nhất và phối hợp giữa các công cụ khác nhau của thiết kế là một phần cố hữu của việc hoạch định “phức hợp” minh chứng vật chứng.
TÓM TẮT CHƯƠNG 1
Trong chương 1, tác giả nêu lên các lý thuyết, khái niệm liên quan đến du lịch, marketing du lịch và các lý thuyết nêu lên làm cơ sở nền tảng cho nghiên cứu. Sản phẩm du lịch có những đặc tính vô cùng đặc biệt nên Marketing rất cần thiết trong lĩnh vực du lịch. Trong chương 1, tác giả trình bày những vấn đề về sản phẩm du lịch, những đặc tính của sản phẩm du lịch, Markeking du lịch Marketing điểm đến du lịch, vai trò của marketing điểm đến du lịch. Các hoạt động trong markeing du lịch như: nghiên cứu thị trường, phân khúc thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu, định vị điểm đến, hoạt động marketing du lịch địa phương.
Đây cũng là nền tảng để tác giả tập trung nghiên cứu về thực trạng hoạt động Marketing du lịch thành phố Cần Thơ ở chương 2, trên cơ sở lý luận đó đề ra các giải pháp nhằm phát triển du lịch thành phố Cần thơ. Luận văn: Hoạt động marketing du lịch thành phố Cần
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận văn: Khái quát marketing du lịch thành phố Cần Thơ