Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Giải phát rèn luyện kỹ năng nghị luận ở THPT hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Rèn luyện kỹ năng lập luận trong văn nghị luận cho học sinh Trung học phổ thông dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
3.1. Rèn KNLL qua việc sử dụng hợp lí hệ thống bài tập của SGK trong các giờ học Làm văn
“Dạy Làm văn, học Làm văn, dù không thể bỏ qua phần lý thuyết, nhưng thầy cô giáo và HS phải đặc biệt chú trọng phần thực hành để rèn luyện kỹ năng. Học Làm văn cũng giống như học bơi, vấn đề không phải là đứng ở trên bờ để mà bàn luận về cách thức bơi mà vấn đề là phải nhảy xuống nước và làm đi làm lại một số động tác” [33, 8]. Vì lẽ này, SGK Ngữ văn thường đưa ra ví dụ trong mỗi bài giảng lý thuyết, cuối mỗi bài lý thuyết đều có phần luyện tập và đặc biệt là sau mỗi bài học lý thuyết đều có bài thực hành tương ứng.
Việc rèn luyện KNLL cho HS cũng vậy, phải quán triệt quan điểm “học đi đôi với hành”. Có ý thức học tập và rèn luyện thôi thì chưa đủ, ý thức đó phải được thể hiện ở hành động cụ thể, việc làm cụ thể. Đó là việc GV và HS đã sử dụng hệ thống bài tập rèn luyện KNLL như thế nào (có hợp lí, khoa học không; có tích cực, chủ động không; có đạt hiệu quả cao không,…)?
Trước hết, chúng ta cần thấy được vai trò của hệ thống bài tập rèn luyện KNLL trong sách SGK Ngữ văn.
3.1.1. Vai trò của hệ thống bài tập rèn luyện KNLL trong SGK Luận văn: Giải phát rèn luyện kỹ năng nghị luận ở THPT
Đối với môn Làm văn, bài tập không chỉ là tiêu chuẩn để đánh giá tình hình nắm bắt bài học của HS mà còn là phần quan trọng nhất của mỗi bài học. Học Làm văn cốt là ở thực hành viết văn, việc nắm vững lý thuyết chỉ là một phần, HS phải làm bài tập rèn luyện, càng làm nhiều bài tập thì mới thành thạo, mới có năng lực lập luận tốt để đáp ứng yêu cầu của một bài văn. Vì vậy, việc sử dụng hệ thống bài tập của SGK có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình rèn luyện KNLL cho HS.
3.1.2. Các dạng bài tập rèn luyện KNLL trong SGK
Theo kết quả khảo sát của chúng tôi thì hệ thống bài tập rèn luyện
KNLL trong SGK Ngữ văn có thể quy về các dạng cơ bản sau đây:
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Giáo Dục Học Tập
3.1.2.1. Dạng bài tập phân tích ngữ liệu Luận văn: Giải phát rèn luyện kỹ năng nghị luận ở THPT
Ví dụ:
Tìm và phân tích các luận điểm, luận cứ và phương pháp lập luận trong đoạn trích ở bài Khái quát văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX (Ngữ văn 10, tập 1, 109) sau đây (…)
Tìm hiểu đoạn trích sau đây (…) và cho biết: – Tác giả muốn chứng minh điều gì?
Để làm rõ điều phải chứng minh, tác giả đã sử dụng những thao tác nghị luận chủ yếu nào?
Cách dùng những thao tác nghị luận đó hay ở chỗ nào?
Đây là dạng bài tập phổ biến nhất và xuất hiện trước nhất trong tất cả các bài học lý thuyết cũng như thực hành. Dạng bài tập này được đánh giá khá cao vì tính thiết thực và vì có nhiều ưu điểm. Xuất hiện ở phần Lý thuyết, bài tập này có tác dụng làm ngữ liệu mẫu giúp GV hướng dẫn HS tìm hiểu bài, trên cơ sở phân tích ngữ liệu để hình thành khái niệm và rút ra kết luận cuối cùng. Xuất hiện ở phần Luyện tập, bài tập này có tác dụng củng cố kiến thức, giúp HS vận dụng những kiến thức vừa được học vào phân tích, giải quyết bài tập, từ đó ghi nhớ kiến thức lâu hơn.
Rèn luyện KNLL qua dạng bài tập phân tích ngữ liệu là một phương pháp rèn luyện hữu hiệu, thống nhất với cách dạy học theo nguyên tắc quy nạp ở trường THPT. Bởi vì “đối với HS THPT, những kiến thức về văn nghị luận nói chung và KNLL nói riêng không phải là hoàn toàn mới, việc hình thành những tri thức về KNLL theo con đường quy nạp (qua phân tích ngữ liệu) là sự lựa chọn phù hợp với tư duy, tâm lí của HS, góp phần làm giảm đi sự nặng nề và những khó khăn của HS khi học văn nghị luận” [92, 102]. Đồng thời, trong quá trình làm những bài tập này, HS sẽ được học tập cách lập luận, cách tạo lập một đoạn văn (bài văn) nghị luận khá chuẩn mực của những tác giả nổi tiếng. Đây sẽ là nguồn tư liệu phong phú và có giá trị cao đối với các em trên con đường học tập và rèn luyện KNLL của mình.
3.1.2.2. Dạng bài tập vấn đáp (xoay quanh các thao tác lập luận)
Chúng tôi tạm dùng tên gọi này để chỉ những bài tập thực hành về các thao tác lập luận. Ở dạng bài tập này, SGK đưa ra những yêu cầu cụ thể để HS vận dụng lý thuyết vào luyện tập KNLL. Ví dụ:
- So sánh ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương và ngôn ngữ thơ Bà Huyện Thanh Quan qua 2 bài thơ: Tự tình (Bài 1) và Chiều hôm nhớ nhà
- Đoạn trích sau đây (…) có sử dụng thao tác bình luận không? Căn cứ vào đâu để anh (chị) có thể kết luận là có (hoặc không)?
- Sau khi đọc và suy nghĩ về đoạn trích Xin lập khoa luật, anh (chị) thấy mình còn có thể bình luận gì thêm về vai trò của pháp luật và của việc giáo dục pháp luật trong xã hội?
- Trong đoạn trích dưới đây (…), tác giả đã vận dùng kết hợp những thao tác lập luận nào?
Nhìn chung kiểu bài tập này thường đi kèm thao sau bài tập phân tích ngữ liệu. Đây là dụng ý của SGK vì sau khi đọc, tìm hiểu và phân tích ngữ liệu HS đã có được một vốn kỹ năng nhất định để có thể thực hành rèn luyện một thao tác cụ thể. Với dạng bài tập này, HS phải tư duy nhiều hơn vì độ khó của nó cao hơn bài tập phân tích ngữ liệu.
- Tuy nhiên, bài tập vấn đáp trong SGK có khi đơn thuần chỉ là những câu hỏi về lý thuyết để củng cố kiến thức cho HS. Ví dụ:
- Có người cho rằng biện luận chẳng qua chỉ là sự kết hợp của hai kiểu lập luận giải thích và chứng minh. Nhận xét ấy đúng hay không đúng? Vì sao?
- Hãy nhắc lại các thao tác lập luận mà anh (chị) đã học cùng những đặc trưng cơ bản của từng thao tác?
Tất nhiên, những câu hỏi này rất ít gặp, vì SGK hiện hành đã có phần Ghi nhớ dùng để củng cố lý thuyết cho HS rồi. Song, cũng có khi bài tập vấn đáp được thể hiện ở dạng những yêu cầu thực hành mang tính tổng hợp cao, gần như là một đề làm văn. Ví dụ:
- Phân tích vẻ đẹp của ngôn ngữ nghệ thuật trong Tự tình (bài II) [Ngữ văn 11, tập 1, 28]
- Học cũng có ích như trồng cây, mùa xuân được hoa, mùa thu được quả. [Ngữ văn 11, tập 1, tr 116]
- Trong lớp có bạn cho rằng: không kết bạn với những người học yếu. Anh (chị) hãy bác bỏ quan niệm đó.
Những bài tập thế này đòi hỏi HS phải mất nhiều thời gian, công sức, bởi vì nó mang tính tổng hợp, khái quát, yêu cầu HS phải vận dụng tất cả những kiến thức, năng lực cảm thụ văn học kết hợp với các thao tác nghị luận mới có thể làm bài được. Trên thực tế, rất ít HS làm những bài tập này, hoặc là bỏ qua không quan tâm vì nó vượt quá quy mô và tính chất của một bài tập, do đó chưa phát huy được hiệu quả của bài tập thực hành.
3.1.2.3. Dạng bài tập viết đoạn văn nghị luận Luận văn: Giải phát rèn luyện kỹ năng nghị luận ở THPT
So với những dạng bài tập nêu trên thì bài tập viết đoạn văn nghị luận “đáp ứng được sự lựa chọn làm đơn vị để rèn luyện kỹ năng sản sinh văn bản, vì nó có khả năng sản sinh đầy đủ đặc trưng cấu tạo văn bản, nó là một văn bản nhỏ. Với dung lượng gọn, ngắn, đoạn văn thích hợp với điều kiện luyện tập (luyện viết cả bài văn dài thường khó hơn)” [12, 214]. Ví dụ:
Viết một đoạn văn nghị luận sao cho đạt được các yêu cầu sau đây:
- Đề cập tới một chủ đề đang được đặt ra cấp thiết trong đời sống (mục đích động cơ học tập, phòng chống tệ nạn xã hội, đề phòng tai nạn giao thông…)
- Sử dụng hiệu quả một hoặc nhiều thao tác nghị luận vừa được học. [Ngữ văn 10, tập 2, 134]
- Tự chọn đề tài (một danh ngôn hoặc một thành ngữ, tục ngữ có nội dung so sánh, chẳng hạn: Một kho vàng không bằng một nang chữ) để viết đoạn văn so sánh.
- Anh (chị) cần tiếp tục luyện viết một số đoạn văn bình luận để:
- a) Trình bày một luận điểm trong dàn ý mà anh (chị) vừa xây dựng trên lớp.
- Bàn về một hiện tượng (vấn đề đang được XH quan tâm như: vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai,…)
- Bàn về một vấn đề văn học (như: tư tưởng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của Văn Cao qua truyện ngắn Chí Phèo, “sự cộng hưởng rộng rãi và lâu bên trong tâm hồn các thế hệ bạn đọc đối với bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử;…)
“Đối với văn bản nghị luận, đoạn văn biểu hiện sự vận động của tư tưởng, tình cảm, là dấu hiệu chỉ ra sự bắt đầu một ý tưởng mới, chấm dứt đoạn là dấu hiệu kết thúc một dòng suy nghĩ, là chỗ chuyển mạch văn” [12, 125]. Qua những đoạn văn nghị luận cụ thể, GV sẽ đánh giá được năng lực lập luận của mỗi HS, biết được những lỗi lập luận mà HS thường mắc phải, từ đó giúp các em khắc phục nhược điểm của mình.
Vì vậy, SGK đặc biệt chú trọng đến dạng bài tập này. Mục đích là giúp HS sử dụng thành thạo các thao tác lập luận, rèn KNLL, đồng thời rèn kỹ năng viết đoạn cho HS. Tuy nhiên, theo khảo sát của chúng tôi thì phần lớn HS đều cảm thấy khó khăn khi làm dạng bài tập viết đoạn văn nghị luận; có em còn bỏ qua không làm những bài tập này; còn GV thì nhiều khi lại lơ là trong việc theo dõi qua trình rèn luyện của HS.
3.1.2.4. Dạng bài tập có hướng dẫn các bước rèn luyện KNLL Luận văn: Giải phát rèn luyện kỹ năng nghị luận ở THPT
Đây là dạng bài tập có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình rèn luyện KNLL của HS, cũng là dạng bài tập mà chúng tôi rất quan tâm. Bài tập này khá mới mẻ và thiết thực. Nó góp phần khắc phục những hạn chế của GV trong việc giảng dạy lý thuyết cũng như việc hướng dẫn HS vận dụng lý thuyết vào thực hành như thế nào để đạt hiệu quả cao. Với bài tập này, HS sẽ cảm thấy dễ dàng hơn trong việc luyện tập, hiểu bài sâu sắc hơn và nắm vững kỹ năng làm bài hơn. Tuy nhiên, dạng bài tập này trong SGK hiện nay vẫn còn rất ít.
Ví dụ:
- Anh (chị) được giao viết một bài bình luận để tham gia diễn đàn do Đoàn thanh niên nhà trường tổ chức với đề tài: “Lời ăn tiếng nói của một HS văn minh, thanh lịch”.
- Hãy xác định rõ:
- Vì sao bài văn anh (chị) viết để tham gia diễn đàn nên là một bài bình luận?
- Anh (chị) định chọn vấn đề cụ thể nào cho bài viết của mình: bàn về toàn bộ hay chỉ đi vào một khía cạnh của đề tài đó (Ví dụ: chống nói tục; “lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”, biết nói “cảm ơn” và “xin lỗi”; dùng cách nói nhã nhặn mà không làm mất đi sự chân thành, v.v…)?
- Bài văn ấy nên viết theo dàn ý như thế nào?
- Hãy diễn đạt một luận điểm trong phần thân bài của dàn ý vừa lập theo trình tự sau đây:
Xây dựng tiến trình lập luận:
Anh (chị) có định bình luận theo đúng các bước đã được nêu trong bài Thao tác lập luận bình luận không? Nếu có anh (chị) phải:
- Giới thiệu khía cạnh cần bình luận của hiện tượng (vấn đề) thế nào cho vừa trung thực, rõ ràng, vừa sinh động, hấp dẫn.
- Điểm lại những ý kiến đã nói (viết) về khía cạnh ấy bằng cách nào?
- Nêu và bảo vệ quan điểm của mình như thế nào để đạt được yêu cầu: chặt chẽ, sắc sảo, có sức thuyết phục mạnh mẽ người đọc (người nghe)?
Tìm cách diễn đạt:
Anh (chị) sẽ hành văn như thế nào để thể hiện được nhiệt tình thuyết phục?
- Kiểm tra cẩn thận văn bản viết để sữa chữa, bổ sung những chỗ cần thiết.
- Để công việc luyện tập đạt kết quả tốt, anh (chị) nên tham khảo những đoạn trích có chủ đề tương tự, chẳng hạn (…)
- Giả sử anh (chị) phải trình bày một luận điểm trong bài văn nghị luận bàn về một trong những phẩm chất mà người thanh niên ngày nay cần có, anh (chị) có thể tiến hành luyện tập theo các bước sau:
a) Bước thứ nhất
- Xác định chủ đề của bài văn: Anh (chị) sẽ bàn về phẩm chất cụ thể nào?
- Xây dựng cho bài làm một dàn ý rành mạch, hợp lí để làm rõ chủ đề.
b) Bước thứ hai: Tìm cách trình bày một luận điểm trong phần thân bài của dàn ý vừa xây dựng:
- Chọn luận điểm nào để trình bày? Luận điểm ấy nằm ở vị trí nào trong bài văn?
- Viết câu mở đầu thế nào vừa giới thiệu được luận điểm, vừa liên kết được với đoạn trên?
- Cần đưa ra những luận cứ nào để làm sáng tỏ luận điểm? Các luận cứ ấy dùng thao tác lập luận nào là chủ yếu: phân tích, so sánh, bác bỏ hay bình luận? Vì sao?
- Kết hợp thao tác lập luận chủ yếu với các thao tác lập luận bổ trợ thế nào để đoạn văn có thể trở thành một khối hữu cơ, thống nhất?
c) Bước thứ ba
- Diễn đạt các ý đã tìm được thành một (hoặc một số) đoạn văn có liên kết chặt chẽ và thể hiện rõ phong cách ngôn ngữ chính luận.
- Đọc đoạn văn đã viết trước nhóm học tập (hay trước lớp), sửa chữa lại theo góp ý của tập thể nhằm nâng cao chất lượng của văn bản.
3.1.2.5. Dạng bài tập sửa lỗi lập luận
Dạng bài tập này được dùng chủ yếu trong bài học Chữa lỗi lập luận và Thực hành chữa lỗi lập luận. Mục đích của dạng bài tập này là giúp HS phát hiện, phân tích và sửa chữa được các lỗi về lập luận; đồng thời rèn kỹ năng tạo các đoạn văn có lập luận chặt chẽ, sắc sảo. Ví dụ:
- Tìm hiểu những đoạn văn (…) và cho biết việc nêu luận điểm mắc lỗi gì? Hãy chữa lại những đoạn văn trên để nêu rõ luận điểm cần trình bày.
- Chỉ rõ các lỗi nêu luận cứ trong các đoạn văn sau: (a, b, c). Hãy sửa lỗi trong các đoạn văn trên.
Ngoài những dạng bài tập nêu trên, SGK còn yêu cầu HS sưu tầm những đoạn văn (bài văn) hay mà trong đó tác giả đã sử dụng một thao tác lập luận hoặc kết hợp thành công các thao tác lập luận khác nhau. Đồng thời, SGK cũng cung cấp cho HS những bài Đọc thêm có liên quan đến nội dung bài học để các em có thể tham khảo trong quá trình học tập và rèn luyện KNLL.
Nhìn chung hệ thống bài tập rèn luyện KNLL của SGK khá đa dạng. Nếu xét về tương quan giữa bài học và bài tập, giữa lý thuyết và thực hành thì bài tập thực hành chiếm phần lớn. Đây là một bước tiến mới trong dạy – học Làm văn nói chung cũng như dạy – học KNLL nói riêng.
3.1.3. Tình hình sử dụng hệ thống bài tập rèn luyện KNLL của SGK Luận văn: Giải phát rèn luyện kỹ năng nghị luận ở THPT
Việc sử dụng hệ thống bài tập rèn KNLL phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó chủ yếu là phụ thuộc vào GV và HS. Song, trên thực tế thì hầu hết HS không có khái niệm về bài tập rèn luyện KNLL, các em chỉ biết đến bài viết kiểm tra, ngay cả GV cũng chưa có khái niệm đúng đắn về việc thực hiện bài tập làm văn của HS như bài tập của các môn học khác. Đặc biệt là ở lớp 12, lớp học cuối cấp phải chịu nhiều áp lực về những kỳ thi quan trọng, GV và HS chỉ tập trung vào những bài giảng văn, những kiến thức về văn học mà quên đi những kiến thức về kỹ năng Làm văn. Nghịch lý là ở chỗ: hệ thống bài tập rèn luyện KNLL trong chương trình Ngữ văn 12 lại được biên soạn tốt hơn, cụ thể, thiết thực hơn và mang tính thực hành rõ hơn so với bài tập của chương trình lớp 10 và 11.
Theo khảo sát của chúng tôi, trong các giờ dạy lý thuyết, nhiều GV sa đà vào giảng lý thuyết suông, chỉ có 6% GV dành 15 phút cho HS luyện tập; 35.3% GV dành khoảng 5-10 phút cho HS luyện tập; nhưng có đến 58.7% GV không dành thời gian cho HS luyện tập (bảng 1.4). Các giờ thực hành cũng không được GV đầu tư về phương pháp nên hiệu quả giờ học chưa cao.
Lối dạy chiếu lệ, sự thiếu trách nhiệm của GV đã tác động xấu đến HS. Từ chỗ không thích học văn, không hứng thú với các giờ Làm văn, HS càng trở nên lơ là trong việc thực hành. Theo kết quả khảo sát thì có đến 83.3% HS không tập trung, chưa chủ động, tích cực trong các giờ học về KNLL (xem bảng 1.5). GV giao bài tập về nhà cho HS nhưng không thường xuyên theo dõi và không có biện pháp kiểm tra việc tự rèn luyện của HS dẫn đến tình trạng HS lười biếng trong luyện tập, không thấy được tác dụng của việc chăm chỉ luyện tập, không thấy được vai trò của bài tập trong SGK. Thực tế cho thấy khi GV cho bài tập về nhà để HS rèn luyện thì chỉ có 16.8% HS làm tất cả bài tập, còn lại là làm một ít (73.3%) và không làm bài (9.9%) (xem bảng 1.6).
3.1.4. Biện pháp sử dụng hiệu quả hệ thống bài tập rèn luyện KNLL của SGK
Muốn nâng cao chất lượng dạy – học KNLL, nâng cao năng lực lập luận của HS thì trước hết phải phát huy hiệu quả sử dụng hệ thống bài tập của SGK. Nói cách khác, GV và HS phải sử dụng hệ thống bài tập của SGK một cách hợp lý, khoa học, tích cực và chủ động trong quá trình rèn luyện KNLL.
3.1.4.1. Về phía GV Luận văn: Giải phát rèn luyện kỹ năng nghị luận ở THPT
Trong các giờ lý thuyết, GV cần sắp xếp thời gian hợp lý giữa việc truyền đạt kiến thức và cho HS luyện tập trên lớp nhằm củng cố kiến thức, đồng thời kiểm tra mức độ hiểu và vận dụng kiến thức của HS. Luyện tập có thể thực hiện vào 15 phút cuối của tiết học, hoặc cũng có thể tiến hành xen kẽ sau mỗi nội dung của bài học theo một quá trình khép kín giúp HS nắm vững kiến thức hơn. Nếu không thể hướng dẫn HS làm tất cả bài tập của SGK thì ít nhất cũng thực hiện được một đến hai bài tập tiêu biểu ở trên lớp để làm mẫu cho HS.
Giờ thực hành, với số lượng bài tập nhiều mà thời gian thì giới hạn chỉ 45 phút, làm thế nào để sử dụng hiệu quả những bài tập rèn luyện KNLL của SGK? Rõ ràng cần phải có sự đầu tư, chuẩn bị chu đáo của cả thầy và trò. GV phải dặn dò HS làm bài tập ở nhà, tuyệt đối không để đến khi lên lớp các em mới bắt đầu làm bài tập. Nghĩa là, trước khi đến lớp, HS phải hoàn thành xong tất cả bài tập thực hành của SGK; giờ thực hành trên lớp, GV tập trung sửa bài cho HS, đồng thời nhấn mạnh những điều cần lưu ý, những kinh nghiệm được rút ra từ những lỗi lập luận mà HS thường mắc phải. Sau đó, GV cho HS làm số bài tập bổ sung và sửa bài tại lớp. Lưu ý ở bài tập bổ sung này, GV nên tập trung vào dạng Bài tập viết đoạn văn nghị luận để kiểm tra khả năng lập luận của HS và rèn KNLL trong đoạn văn nghị luận cho các em.
Trong giờ trả bài Làm văn nghị luận, GV lấy ngữ liệu là bài viết của HS rồi tiến hành theo quy trình của một giờ trả bài, nhưng có chú trọng đến đặc trưng riêng của từng giờ trả bài nhằm rèn luyện các kỹ năng Làm văn cho HS, trong đó có KNLL. Chẳng hạn: GV đưa ra những đoạn văn mắc lỗi về lập luận rồi yêu cầu HS nhận xét và sửa những lỗi lập luận đó,…
Nhìn chung, mỗi GV cần phải thực sự đầu tư, đổi mới phương pháp dạy học, phải thực sự chủ động và sáng tạo trong dạy học để mỗi giờ học của phân môn Làm văn trở nên sinh động, lôi cuốn, kích thích tinh thần tự giác, tích cực của HS. Lâu nay, HS lười học bài, làm bài tập và coi nhẹ những giờ học của phân môn Làm văn một phần lớn là do thầy cô giáo chúng ta cũng chưa thật sự xem trọng các giờ học của phân môn Làm văn; chưa tích cực trong việc rèn luyện KNLL cho mỗi HS; do lối dạy nhàm chán, đơn điệu hoặc sửa bài qua loa, hoặc lớn tiếng la rầy gây áp lực nặng nề cho các em mà quên đi sự hướng dẫn tận tình bằng cả trái tim yêu trẻ và tâm huyết với nghề.
Thực tế cho thấy, bao giờ những lời chỉ bảo ân cần, những lời khuyên đúng chỗ đúng lúc và cả những khích lệ động viên của thầy cô cũng giúp HS nhìn nhận tốt hơn về ưu khuyết điểm, có tinh thần, có động lực để học tập. Vì vậy, dù bận rộn đến đâu, dù nhiều áp lực về công việc và cuộc sống thì GV chúng ta cũng cần cố gắng dành thời gian để kiểm tra, theo dõi quá trình rèn luyện KNLL của HS một cách thường xuyên để kịp thời nhắc nhở đồng thời có biện pháp phê bình cũng như khen thưởng hợp lý với từng đối tượng HS.
3.1.4.2. Về phía HS
Với vai trò là đối tượng trung tâm của giờ học, là chủ thể của quá trình học tập và chiếm lĩnh tri thức, mỗi HS cần phải ý thức sâu sắc về vai trò của hệ thống bài tập rèn luyện KNLL của SGK trong các giờ học ở phân môn Làm văn, cũng như thấy được ý nghĩa của việc thường xuyên luyện tập trong quá trình rèn luyện KNLL. Từ đó, mỗi HS cần xây dựng cho mình một kế hoạch học tập và rèn luyện cụ thể, thiết thực; chăm học, chăm làm, tích cực, chủ động trong mỗi giờ học trên lớp cũng như ngoài giờ lên lớp. Chỉ khi nào HS nhận thức được tầm quan trọng của hệ thống bài tập SGK, có ý thực tự học và tự rèn luyện thì việc học KNLL nói riêng cũng như kết quả học tập môn Làm văn của các em mới đạt được kết quả cao. Có câu “văn ôn, võ luyện” là vì vậy.
Tóm lại, cốt lõi của dạy – học Làm văn nói chung và dạy – học KNLL nói riêng là dạy cho HS cách thực hành; HS phải thực hành, phải rèn luyện từng thao tác cụ thể qua hệ thống bài tập và vận dụng chúng một cách linh hoạt trong bài văn nghị luận. Sách Ngữ văn và sách Bài tập Ngữ văn đã hướng tới những kỹ năng cụ thể, lấy việc rèn luyện kỹ năng cho HS làm mục đích. Nhìn nhận một cách khách quan thì nếu có sự quan tâm đúng mức và phương pháp dạy học phù hợp từ phía GV, với sự cộng tác nhiệt tình và tích cực của HS trong các giờ học thì tất yếu sẽ phát huy hiệu quả của hệ thống bài tập rèn luyện KNLL của SGK.
3.2. Rèn KNLL qua việc xây dựng hệ thống bài tập bổ sung Luận văn: Giải phát rèn luyện kỹ năng nghị luận ở THPT
3.2.1. Sự cần thiết của việc xây dựng hệ thống bài tập bổ sung
Chúng ta biết rằng học Làm văn cốt là ở thực hành; HS càng chú trọng rèn luyện KNLL qua việc làm nhiều bài tập thì năng lực lập luận mới tốt, bài làm văn mới đạt kết quả cao. Tuy nhiên, việc rèn luyện KNLL cho HS THPT nếu chỉ dựa vào hệ thống bài tập của SGK thì chưa đủ. Bởi vì bên cạnh rất nhiều ưu điểm thì hệ thống bài tập của SGK vẫn còn những hạn chế nhất định. Chẳng hạn:
- Số lượng bài tập trong SGK vẫn còn rất ít. Hầu hết các bài học chỉ có khoảng hai đến ba bài tập, có bài chỉ có một bài tập (như bài Thao tác lập luận so sánh). Sự phân bố các dạng bài tập trong một đơn vị bài học cũng không đều và không đa dạng.
- Hệ thống bài tập của SGK chủ yếu xoay quanh vài dạng quen thuộc như: bài tập phân tích ngữ liệu, bài tập vấn đáp, bài tập viết đoạn văn có vận dụng một (/một số) thao tác lập luận, bài tập sửa lỗi lập luận.
- Dạng Bài tập phân tích ngữ liệu có rất nhiều ưu điểm, tuy nhiên SGK chỉ mới dừng lại ở việc đưa ra những ngữ liệu mang tính chuẩn mực của các tác giả có tên tuổi, mà chưa mạnh dạn đưa ra những ngữ liệu do chính HS tạo lập. Chúng tôi cho rằng: việc học tập được rút ra từ những cái sai của chính HS cũng là một phương pháp dạy học tích cực, vừa thiết thực, vừa gần gũi với các em.
- Ở dạng Bài tập vấn đáp có những bài tập mà hình thức giống như một đề làm văn, lại không có những hướng dẫn cụ thể để HS làm bài (như đã nói
- Cho nên, những bài tập này là quá sức của HS; HS thường bỏ qua bài tập này hoặc có làm cũng không đạt hiệu quả.
- Dạng Bài tập đưa ra những hướng dẫn cụ thể cho HS rèn luyện KNLL là dạng những bài tập được đánh giá cao nhưng còn ít ỏi trong hệ thống những bài tập của SGK. Và một điều khó hiểu là: Tại sao những bài tập này lại xuất hiện trong chương trình cuối cấp (SGK 11, tập 2 và SGK 12) mà không phải là đầu cấp (SGK 10 hay SGK 11, tập 1)?
Qua khảo sát thực tế (ở chương 1), chúng tôi nhận thấy năng lực lập luận của HS vẫn còn rất yếu. Các em mắc rất nhiều lỗi về lập luận trong bài làm, kể cả những bài viết khá tốt vẫn mắc lỗi này. Hơn nữa, qua nghiên cứu sơ bộ về lý thuyết lập luận dưới góc độ của Ngữ dụng học, chúng tôi nhận thấy hệ thống lý thuyết này rất hữu ích cho việc xây dựng hệ thống bài tập rèn luyện KNLL cho HS (xem mục 2.5). Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào thật sự chú trọng đến vấn đề này.
Từ những lí do trên, chúng tôi cho rằng việc ứng dụng Ngữ dụng học vào xây dựng hệ thống bài tập thực hành, bổ sung thêm một số dạng bài tập khác để HS rèn luyện và phát triển năng lực lập luận cho HS là một yêu cầu rất cần thiết và cấp bách trong thực tế dạy – học KNLL ở trường THPT hiện nay.
3.2.2. Nguyên tắc xây dựng hệ thống bài tập bổ sung
3.2.2.1. Nguyên tắc toàn diện
Nguyên tắc này yêu cầu khi xây dựng hệ thống bài tập bổ sung để rèn luyện KNLL phải giúp HS có được một hệ thống bài tập toàn diện, đầy đủ để HS được tiếp xúc với nhiều dạng bài tập. Như vậy các em sẽ được rèn luyện KNLL một cách thành thạo, có thể vận dụng kiến thức và kỹ năng vào giải đề, làm tốt một bài văn (dù đó có là những vấn đề mới lạ).
3.2.2.2. Nguyên tắc thống nhất Luận văn: Giải phát rèn luyện kỹ năng nghị luận ở THPT
Nguyên tắc này thể hiện ở sự thống nhất giữa lý thuyết về KNLL với bài tập thực hành KNLL; đặc biệt là sự thống nhất giữa việc ứng dụng lý thuyết lập luận dưới góc độ Ngữ dụng học vào xây dựng hệ thống bài tập bổ sung.
Khi xây dựng hệ thống bài tập rèn luyện KNLL, chúng tôi chú trọng xây dựng bài tập dựa trên cơ sở những lỗi mà HS thường mắc phải khi lập luận. Nói cách khác là, HS thường mắc lỗi lập luận nào, chúng tôi sẽ chú ý xây dựng bài tập giúp các em khắc phục lỗi đó.
Hệ thống bài tập bổ sung phải đảm bảo sự thống nhất giữa các vấn đề về rèn luyện KNLL từ bậc THCS đến bậc THPT, giữa các lớp học trong cùng một cấp học, giữa KNLL với các kỹ năng khác trong bài làm văn nghị luận, v.v…
3.2.2.3. Nguyên tắc đa dạng
Nguyên tắc đa dạng thể hiện ở chỗ: cùng một thao tác, một kỹ năng nhưng có nhiều dạng bài tập rèn luyện khác nhau. Như vậy sẽ tránh được sự nhàm chán, đơn điệu; tạo sự hứng thú và kích thích suy nghĩ của HS.
3.2.2.4. Nguyên tắc vừa sức
Nguyên tắc này yêu cầu hệ thống bài tập bổ sung nhằm rèn luyện KNLL cho HS phải vừa sức của các em. Vừa sức ở đây tức là những bài tập này không quá khó mà cũng không quá dễ đối với HS. Căn cứ vào đặc điểm bài học, vào trình độ HS và điều kiện cụ thể của mỗi lớp, mỗi trường ở mỗi địa phương cụ thể để xây dựng hệ thống bài tập tương ứng tạo được sự hứng thú cho HS khi rèn luyện.
3.2.2.5. Nguyên tắc từ dễ đến khó Luận văn: Giải phát rèn luyện kỹ năng nghị luận ở THPT
Nguyên tắc này đòi hỏi hệ thống bài tập bổ sung phải được thiết kế sao cho quá trình thực hành của HS đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, bài trước sẽ là cơ sở để làm bài sau. Ví dụ: Sắp xếp các câu hỏi trong một dạng bài tập đi từ dễ đến khó, hoặc các dạng bài tập trong một bài học được sắp xếp từ dễ đến khó, v.v…
3.2.3. Hệ thống bài tập bổ sung rèn luyện KNLL cho HS THPT
Nhằm đảm bảo sự thống nhất giữa lý thuyết với thực hành về KNLL, chúng tôi đã thiết kế hệ thống bài tập bổ sung rèn luyện KNLL cho HS THPT theo hai mảng sau đây:
Thứ nhất: hệ thống lại các dạng bài tập rèn luyện KNLL của SGK và bổ sung thêm một số kiểu bài tập ở mỗi dạng đó. Ví dụ: bài tập xác định luận điểm, bài tập xác định luận cứ, bài tập xác định phương pháp lập luận, bài tập chữa lỗi lập luận.
Thứ hai: vận dụng lý thuyết lập luận của Ngữ dụng học vào xây dựng hệ thống bài tập mới nhằm rèn luyện KNLL cho HS theo các cấp độ từ đơn giản đến phức tạp. Chẳng hạn:
- Xây dựng dạng bài tập rèn KNLL trong câu văn nghị luận qua các hình thức viết câu dựa vào những từ cho sẵn; hình thức điền khuyết qua việc tìm và lựa chọn những từ, ngữ thích hợp điền vào chỗ trống,… Những từ ngữ này chính là những tác tử lập luận và những kết tử lập luận.
- Xây dựng dạng bài tập rèn KNLL trong đoạn văn nghị luận qua các hình thức như: bài tập viết đoạn văn vận dụng một (/một số) thao tác lập luận; bài tập sắp xếp trật tự logic trong đoạn văn; bài tập về suy luận logic,… Những bài tập này vận dụng lý thuyết lập luận của Ngữ dụng học nhằm rèn cho HS cách tư duy logic, cách viết đoạn văn nghị luận sao cho chặt chẽ và thuyết phục.
- Xây dựng dạng bài tập rèn KNLL trong văn bản như bài tập về liên kết trong văn bản qua hai hình thức sử dụng từ ngữ để liên kết và sử dụng câu văn để liên kết,… Những bài tập này giúp HS chú ý đến tính mạch lạc trong văn bản và kỹ năng tạo lập một văn bản nghị luận hoàn chỉnh.
Sau đây là hệ thống bài tập bổ sung do chúng tôi đề xuất:
3.2.3.1. Bài tập xác định luận điểm Luận văn: Giải phát rèn luyện kỹ năng nghị luận ở THPT
Trong ba bước xây dựng lập luận thì xác định luận điểm chính xác minh bạch là bước đầu tiên khá quan trọng, nhưng không phải HS nào cũng đạt được yêu cầu này. Nhiều em sau khi đọc đề xong thì cắm cúi viết, viết khi chưa định hướng rõ những luận điểm chính của bài, viết lan man, rối rắm. Theo khảo sát của chúng tôi, có đến 85.2% HS mắc lỗi xác định và trình bày luận điểm không rõ ràng, minh bạch. Để giúp HS khắc phục nhược điểm này, chúng tôi xin đưa ra dạng Bài tập xác định luận điểm với hai kiểu bài tập cơ bản sau đây:
Kiểu 1: Cho sẵn văn bản nghị luận rồi yêu cầu HS xác định các luận điểm của văn bản đó. Kiểu này tương tự như dạng Bài tập phân tích ngữ liệu của SGK (xem 3.2.1.1).
Kiểu 2: Không cho sẵn văn bản nghị luận, chỉ cho đề bài, sau đó yêu cầu HS tìm các luận điểm của đề bài đó. Kiểu bài tập này là mảng đề tài còn thiếu sót của SGK. Do đó, chúng tôi tập trung vào kiểu bài tập này để rèn luyện KNLL cho HS.
Ví dụ: Xác định các luận điểm cho những đề bài sau đây:
- Trong lớp, nhiều bạn thích câu tục ngữ “Ở hiền gặp lành” và lấy đó làm phương châm sống. Nhưng một số bạn khác phản đối, cho câu tục ngữ trên không hẳn đúng, nhiều người “ở hiền” vẫn không “gặp lành”. Ý kiến của anh (chị) về vấn đề này.
- “Một người đánh mất niềm tin vào bản thân thì chắc chắn còn đánh mất nhiều thứ quý giá khác” (Theo sách Dám thành công – Nhiều tác giả, NXB Trẻ, 2008, 90). Suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến trên.
- “Như một thứ a-xit vô hình, thói vô trách nhiệm ở mỗi cá nhân có thể làm ăn mòn cả một xã hội”. Từ ý kiến này, anh (chị) suy nghĩ như thế nào về tinh thần trách nhiệm và thói vô trách nhiệm của con người trong cuộc sống hiện nay.
- “Đạo đức giả là một căn bệnh chết người luôn nấp sau bộ mặt hào nhoáng”. Từ ý kiến này, anh (chị) suy nghĩ như thế nào về sự nguy hại của đạo đức giả đối với con người và cuộc sống.
Bài tập xác định luận cứ
Sau khi xác định được luận điểm, người viết cần phải tìm các luận cứ để làm sáng tỏ luận điểm đó. Nhưng qua khảo sát (bảng 1), chúng tôi nhận thấy có đến 64.5% HS mắc các lỗi về luận cứ như: luận cứ không chuẩn xác, không đáng tin cậy, dẫn chứng thực tế không đúng, số liệu không trung thực,… làm ảnh hưởng đến chất lượng của bài viết, khiến bài viết không có sức thuyết phục cao. Để giúp HS khắc phục nhược điểm này, chúng tôi đưa ra dạng Bài tập xác định luận cứ với hai kiểu bài tập cơ bản như sau:
Kiểu 1: Cho sẵn văn bản nghị luận rồi yêu cầu HS đọc và phân tích các luận điểm, luận cứ của văn bản đó. Kiểu này tương tự như những yêu cầu trong dạng bài tập phân tích ngữ liệu của SGK (xem 3.2.1.1)
Kiểu 2: Cho các luận điểm và yêu cầu HS tìm các luận cứ làm sáng tỏ các luận điểm đã cho. Trong SGK, những bài tập kiểu này còn rất ít, chưa đủ để rèn luyện KNLL cho HS. Sau đây là một số bài tập bổ sung:
- Để chứng minh quan điểm: “Hạnh phúc là đấu tranh”, anh (chị) sẽ dẫn ra những bằng chứng và lí lẽ nào?
- Tìm các luận cứ lần lượt làm sáng tỏ cho các luận điểm sau:
- Biết tự hào về bản thân là cần thiết nhưng biết xấu hổ còn quan trọng hơn.
- Đừng cố gắng trở thành người nổi tiếng mà trước hết hãy là người có ích.
- Một ngày so với một đời người là quá ngắn ngủi, nhưng một đời người lại do mỗi ngày tạo nên.
- Trước nhiều ngã đường đến tương lai, chỉ có chính bạn mới lựa chọn được con đường đúng cho mình.
Bài tập xác định phương pháp lập luận
Lựa chọn phương pháp lập luận là bước thứ ba trong quá trình xây dựng lập luận. Tính thuyết phục của lập luận phụ thuộc rất nhiều vào cách luận chứng. Nhưng theo khảo sát của chúng tôi thì có đến 75.5% HS mắc các lỗi về lập luận như: luận chứng thiếu logic, luận điểm và luận cứ không phù hợp nhau, luận cứ không đầy đủ, luận cứ sắp xếp lộn xộn,… làm ảnh hưởng đến chất lượng của bài viết, khiến bài viết không có sức thuyết phục cao.
Mặc dù, trong SGK, ở dạng bài tập phân tích ngữ liệu, chúng ta cũng có thể bắt gặp một vài bài tập yêu cầu HS xác định hoặc phân tích cách luận chứng trong văn bản; nhưng số lượng bài tập này lại quá ít, chưa đủ để đáp ứng nhu cầu rèn luyện KNLL của HS. Mặt khác, khi trình bày sự bổ sung của Ngữ dụng học vào đổi mới lý thuyết lập luận ở phân môn Làm văn, chúng tôi có đề cập đến sự một số thao tác lập luận khác (mà SGK chưa nêu ra hoặc chưa chú trọng xây dựng bài tập rèn luyện) như: suy luận diễn dịch, suy luận quy nạp, lập luận theo quan hệ nhân – quả, lập luận theo kiểu vấn đáp,…
Với những lý do trên, chúng tôi cho rằng rất cần thiết phải tách những bài tập này thành dạng bài tập riêng. Đó là Bài tập xác định phương pháp lập luận với hai kiểu cơ bản:
Kiểu 1: Cho sẵn văn bản nghị luận rồi yêu cầu HS chỉ ra các phương pháp lập luận được vận dụng trong văn bản đó.
Ví dụ:
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi nêu ở dưới:
“Thế nào là một cuộc sống đẹp nhất của người Việt Nam ta? Theo tôi, một cuộc sống đẹp phải xây dựng trên những cơ sở sau đây:
Một là tình thương đối với Tổ quốc, đối với đồng bào, đối với nhân dân lao động. Một xã hội tốt đẹp là một xã hội trong đó mọi người yêu thương lẫn nhau, mọi người sống trong đoàn kết, thân ái, trong hợp tác, tương trợ.
Hai là đấu tranh chống các thế lực phản động, chống cường quyền, áp bức và quét sạch mọi tư tưởng lề thói của xã hội cũ còn rơi rớt lại, nhất là thói lười biếng, ăn bám. Luận văn: Giải phát rèn luyện kỹ năng nghị luận ở THPT
Ba là lao động. Mọi người đều phải lao động; lao động vì tập thể, vì xã hội, lao động có kỷ luật, có kỹ thuật và có năng suất cao.
Bốn là mọi người vươn tới đỉnh cao về nhân phẩm và trí tuệ. Phải rèn luyện các đức tính: tận tuỵ, trung thành, hy sinh, xả thân, thật thà, dũng cảm, khiêm tốn. Phải nâng cao trình độ học vấn, ra sức phát huy năng lực sáng tạo, cống hiến nhiều nhất cho xã hội.
Trong các điểm trên, tình thương là cơ sở quan trọng nhất tạo nên cái đẹp của xã hội chủ nghĩa. Tình thương là hạnh phúc của con người, là tình cảm cao đẹp thuộc bản chất của người lao động”.
- Tác giả đã sử dụng thao tác lập luận nào?
- Căn cứ vào đâu mà anh (chị) cho rằng tác giả sử dụng thao tác đó?
- Chỉ ra các thao tác lập luận được vận dụng trong những đoạn văn sau:
- “Đau thương bao giờ cũng là nguồn cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa lớn lao của văn học nghệ thuật. Nguyễn Du, Tônxtôi, Lỗ Tấn đã trở thành những nghệ sĩ lớn trước hết là vì hơn bất cứ ai họ đã thông cảm sâu sắc và đau đớn da diết những nỗi đau nhân tình trong thời đại họ”
- “… Từ oan hồn của chị Diệu:
Hồn kêu trên mái muôn nhà
Hồn kêu trai gái trẻ già đứng lên!
đến những oan hồn Phú Lợi:
Nghìn hồn bay khắp nhân gian
Thù muôn đời, muôn kiếp không tan!
Từ cái khẳng định cũng trong bài “Thù muôn đời” vào đầu năm 1959:
Bão ngày mai là gió nổi hôm nay!
Trời chớp giật, tất đến ngày sét đánh đến lời thúc giục một năm sau trong “Ba mươi năm đời ta có Đảng”:
Căm hờn lại giục căm hờn
Máu kêu trả máu, đầu van trả đầu! đến cái rạo rực trong “Bài ca mùa xuân 1961”:
Mấy hôm nay như đứa nhớ nhà
Ta vẩn vơ hoài, rạo rực vào ra
Nghe tiếng mõ và nghe tiếng súng
Miền Nam dậy, hò reo náo động! rõ ràng thơ Tố Hữu đã theo sát các bước đi của phong trào cách mạng miền Nam. Người ta thường nói đến tính thời sự của thơ Tố Hữu. Tính thời sự ấy không chỉ ở chỗ Tố Hữu hay đề cập đến các vấn đề thời sự, mà chủ yếu là ở chỗ, vô luận đề cập đến vấn đề gì, ý thơ, lời thơ, giọng thơ Tố Hữu thường phản ánh đúng sự chuyển biến của tình hình. Nếu không phải là người luôn luôn đứng ở mũi nhọn của cuộc chiến đấu chung và đã từng dạn dầy trong chiến đấu thì hồn thơ khó mà nhạy bén như vậy”.
“Câu chuyện lẽ ra chấm hết ở chỗ đó, nhưng nhân dân ta không chịu nhận cái tình thế đau đớn ấy, và cố đem một nét huyền ảo để an ủi ta. Vi thế mới có đoạn thứ hai, kể chuyện nàng Trương xuống thủy cung, và sau lại gặp mặt chồng một lần nữa”.
“Ai trồng cây đào cây mận thì mùa hè được bóng mát nghỉ, mùa thu được quả ngon ăn. Ai trồng cây lật lê thì mùa hè được bóng mát không có, mùa thu chỉ được những chông gai. Cứ như vậy thì có phải là tại do cây mình trồng lúc trước không? Nay các ông sở dĩ đi đến nông nỗi này là vì ông gây dựng cho những kẻ không ra gì. Cho nên người quân tử phải chọn người trước rồi sau mới gây dựng”.
Bài tập 2a dùng thao tác lập luận diễn dịch (suy luận diễn dịch). Câu thứ nhất là nguyên lí phổ biến (bao giờ cũng là); câu thứ hai là một nhận định mới về các nhà văn cụ thể được suy ra từ quan điểm của câu thứ nhất (nhấn mạnh trước hết).
Bài tập 2b dùng thao tác lập luận quy nạp (suy luận quy nạp). Bằng cách trích dẫn và phân tích ngắn gọn một số câu thơ phản ánh kịp thời thực tế đấu tranh rút từ các bài thơ của Tố Hữu, tác giả đi đến nhận định khái quát rằng thơ Tố Hữu có tính thời sự và phản ánh đúng diễn biến của tình hình.
Hoài Thanh đã luận chứng theo kiểu quy nạp.
Bài tập 2c lập luận theo quan hệ nhân – quả. Câu thứ nhất nêu nguyên nhân, câu thứ hai đưa ra kết quả. Bài tập 2d lập luận theo kiểu vấn đáp: tạo ra sự đối thoại, tranh luận trong bài viết để đi đến kết luận.
Kiểu 2: Yêu cầu HS xác định và vận dụng các phương pháp lập luận thích hợp để giải quyết các vấn đề cần nghị luận.
Ví dụ:
- Xác định hướng nghị luận của những đề bài sau:
- Vẻ đẹp của bài thơ “Thuật hoài” (Phạm Ngũ Lão).
- Triết lí sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ “Nhàn”.
- Tiếng khóc của Nguyễn Du trong bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí.
- Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi trong bài “Đại cáo bình Ngô”
- Vận dụng các phương pháp lập luận thích hợp để làm sáng tỏ các vấn đề sau đây:
- “Rèn luyện viết văn là một công việc phải thực hành thường xuyên, một cách kiên trì, bền bỉ, lại phải có phương pháp tốt” [1, 48].
- Bi kịch của người phụ nữ trong xã hội cũ qua bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du) và đoạn trích Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm).
- Quan niệm của Nguyễn Du về đồng tiền trong Truyện Kiều và quan niệm của anh (chị) về đồng tiền trong cuộc sống hôm nay.
Những bài tập này rèn luyện cho HS cách phân tích đề văn nghị luận và định hướng cách lập luận trong một bài văn. Tất nhiên, ở những bài tập này, bao giờ HS cũng phải vận dụng nhiều thao tác lập luận như: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, so sánh,…
Bài tập sửa lỗi lập luận
Đây là một trong những dạng bài tập rèn KNLL của SGK, tập trung chủ yếu ở bài Thực hành chữa lỗi lập luận. Tuy nhiên, những bài tập thuộc dạng này chưa nhiều; mặt khác, ngữ liệu của những bài tập này hầu hết là những ngữ liệu do người biên soạn đưa ra nên còn xa lạ với HS. Trong khi đó, những bài Làm văn của HS lại là một nguồn ngữ liệu vô cùng phong phú và thiết thực cho việc thiết kế dạng Bài tập sửa lỗi lập luận. Việc tìm và chữa những lỗi lập luận trong bài làm của HS sẽ thu hút được sự chú ý và hứng thú học tập của các em. Luận văn: Giải phát rèn luyện kỹ năng nghị luận ở THPT
Hơn nữa, khi làm những Bài tập sửa lỗi lập luận của SGK, HS chỉ mới dừng lại ở việc đánh giá những lỗi lập luận trong bài viết của người khác chứ chưa được rèn luyện kỹ năng tự đánh giá những lỗi lập luận trong bài viết của mình. Mà kỹ năng tự đánh giá là một kỹ năng rất được đề cao trong quan điểm dạy học hiện đại.
Thực tế cho thấy kỹ năng tự đánh giá ở hầu hết HS THPT hiện nay còn rất kém. Nói như GS. Phan Trong Luận: “Có một điều khá phổ biến là HS khi làm bài văn xong không thể tự mình rút kinh nghiệm, tự mình đánh giá xem bài làm có chỗ nào được, chỗ nào chưa được trong giờ trả bài. Hiện tượng HS bất ngờ về số điểm thường xảy ra luôn. Có HS làm bài xong, thấy lòng nhẹ nhõm, cứ nghĩ mình viết trôi chảy, ý tứ không nghèo nàn thế mà số điểm lại thấp! Có HS thấy mình làm bài vất vả không thoả mãn nhưng điểm số lại cao” [46, 291]. Vì vậy, việc xây dựng Bài tập sửa lỗi lập luận từ những bài viết cụ thể của HS sẽ giúp các em phát huy khả năng tự đánh giá, nhờ đó mà tự nhận ra được những nhược điểm của mình và tìm cách khắc phục chúng.
Tùy theo tình hình thực tế của từng lớp, từng trường, tùy vào từng đối tượng HS mà thầy cô giáo sẽ thiết kế những bài tập sửa lỗi tương ứng. Chẳng hạn, trong luận văn này, chúng tôi sẽ xây dựng một số Bài tập sửa lỗi lập luận dựa trên cơ sở là bài viết của HS tại các trường THPT trên địa bàn TP.HCM và trường THPT Nguyễn Thái Học (Khánh Hòa) mà chúng tôi đã tiến hành khảo sát ở chương 1.
Ví dụ: Hãy tìm và sửa lỗi sai về lập luận trong những đoạn văn sau đây:
- Vậy trung thực là không gian dối. “Trung” là trung với nước. “Thực” là sự thực. Vậy trung thực là làm một việc gì đó một cách chính đáng, không giả tạo, giả dối, hay dùng những tiểu xảo để có thể đạt được mục tiêu, mang lợi về cho bản thân. “Trung thực” của HS, sinh viên, thể hiện qua những hành động, suy nghĩ trong việc học, là không gian lận trong bài kiểm tra, hay nói dối thầy cô,…
- Lười nhát một trong số những nguyên nhân tạo ra những lối suy nghĩ mờ nhạt, không chính chắn và bất cẩn. Đối với HS, công việc học tập ngày càng nặng nề vốn kiến thức quá nhiều nhưng “học nhiều mà chẳng hiểu bao nhiêu, học qua loa, học cho có. Đến khi thi, trong đầu thì nghĩ “A, học rồi”nhưng khi cầm bút lên thì lại không biết viết gì. Không một tia hi vọng nào để nhớ nỗi kiến thức, dường cùng các bạn dở trò gian lận, liếc riều qua mắt thợ.
- Lòng trung thực trong thi cử sẽ làm cho mọi người không tin vào nhau và làm mất uy tín vào người khác. Đối với HS làm mất lòng trung thực trong học tập và thi cử sẽ bị thầy cô hạ bậc hạnh kiểm, trừ điểm vào bài thi và mời phụ huynh lên làm việc.
- Nếu như không trung thực trong học tập thì chỉ làm ta yếu đi về mặt học lực lẫn tinh thần. Khi chúng ta kiểm tra không biết làm một phần gì đó thì chúng ta sẽ quay bài bạn kế bên hoặc xem tài liệu. Điều đó chỉ giúp chúng ta về mặt điểm số thế nhưng về mặt học lực, chúng ta không biết ta sai chỗ nào, không thèm đọc lại hay không thèm học bài thì học lực sẽ đi xuống. Nếu ra thi cho lại một đề bài giống y hệt như vậy chúng ta sẽ ỷ vào copy nhưng lỡ chẳng may bị thầy cô bắt gặp thì chỉ làm cho mọi việc rối rắm thêm, rồi sau này ra đời cũng không có được tí kinh nghiệm nào.
Ngoài ra, GV có thể yêu cầu HS: Đọc lại bài viết số… của anh (chị) và sửa tất cả những lỗi về lập luận trong bài viết đó.
Trên đây là hệ thống bài tập rèn luyện KNLL được xây dựng chủ yếu dựa vào lý thuyết lập luận của phân môn Làm văn. Ngoài những bài tập này, chúng tôi còn xây dựng thêm một số dạng bài tập khác theo cách ứng dụng lý thuyết lập luận của Ngữ dụng học như: Bài tập rèn luyện KNLL trong câu văn nghị luận, Bài tập rèn luyện KNLL trong đoạn văn nghị luận, Bài tập rèn luyện KNLL trong văn bản nghị luận.
3.2.3.5. Bài tập rèn KNLL trong câu văn nghị luận Luận văn: Giải phát rèn luyện kỹ năng nghị luận ở THPT
Chúng ta biết rằng, câu là đơn vị nhỏ nhất của hệ thống ngôn ngữ, thực hiện chức năng thông báo. Trong văn nghị luận, lập luận bắt đầu từ đơn vị câu. Muốn lập luận hay, trước hết phải viết câu đúng. Câu đúng phải đảm bảo hai yêu cầu: một là “nội dung câu phải hợp lý về mặt logic và ngữ nghĩa”, hai là “cấu trúc cú pháp của câu phải phù hợp với quy tắc cấu tạo câu của tiếng Việt” [1,254]. Thực tế cho thấy, dù đã học đến bậc THPT nhưng HS vẫn viết câu sai, chẳng hạn: “sai cấu trúc nòng cốt, câu thiếu vế, câu sai quan hệ logic, câu có kết nối nát, câu không đảm bảo sự phát triển liên tục của ý trong đoạn văn” [1,258]
Dưới góc độ Ngữ dụng học, lý thuyết lập luận trở nên đơn giản và dễ hiểu hơn, bởi vì Ngữ dụng học đã chỉ ra những hình thức ngôn ngữ cụ thể giúp cho việc lập luận trong câu, trong đoạn trở nên rõ ràng, mạch lạc, chặt chẽ. Dựa vào những hình thức ngôn ngữ này, chúng tôi xây dựng một số bài tập rèn KNLL trong câu văn nghị luận theo các kiểu sau:
Kiểu 1: Viết câu hoàn chỉnh dựa vào những từ ngữ cho sẵn.
Những từ ngữ này chính là tác tử lập luận và kết tử lập luận của Ngữ dụng học.
Ví dụ: Dựa vào những từ ngữ sau đây, anh (chị) hãy viết thành câu hoàn chỉnh: … không kém gì…; … không hơn gì…; … có … thôi; … những … kia; Tuy… nhưng…; Mới… đã…; Chỉ… mới (có)… thôi…; Hoặc … hoặc…; Đã … vẫn còn…; Vì… nên….; Hễ… thì….; Mới … đã…
Kiểu bài tập điền khuyết này giúp HS làm quen với những tác tử và kết tử lập luận, biết được tác dụng của từng tác tử, kết tử lập luận. Từ đó vận dụng chúng vào bài viết của mình sao cho phù hợp để lập luận chặt chẽ, rõ ràng và rành mạch hơn.
Kiểu 2: Viết câu theo những mô hình cho sẵn và xác định mô hình câu đó thuộc phương phương lập luận nào.
Ví dụ: Anh (chị) hãy viết câu theo những cấu trúc sau đây và cho biết chúng thuộc mô hình câu của phương pháp lập luận nào?
- Đã A (mà) lại B
- A hơn B về x. Vả lại A còn y. Cho nên, chọn A
- (Có kết quả) A bởi vì (/ tại vì/ là vì/ do (vì)/ chẳng qua là (vì)) B.
- (Hành động) A để (/ nhằm/ vì/ hòng) B.
- A, điều đó có nghĩa là B.
- Không A thì cũng không B.
- A không kém gì B.
- Một khi có A thì sẽ có B.
- Không A vẫn có thể B.
Từ góc độ Ngữ dụng học, chúng ta biết rằng mỗi thao tác lập luận đều có có những dấu hiệu riêng, sử dụng những hình thức ngôn ngữ, những mô hình câu khác nhau. Vì vậy, mục đích của chúng tôi khi xây dựng kiểu bài tập này là vừa rèn kỹ năng viết câu nghị luận cho HS vừa giúp các em nhận biết được mô hình câu đó thuộc thao tác lập luận nào để vận dụng cho phù hợp khi làm văn.
Kiểu 3: Lựa chọn những từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống để tạo thành câu hoàn chỉnh.
Ví dụ: Điền các từ ngữ thích hợp để những câu văn sau đây được hoàn chỉnh:
- Đã từng có những cuốn sách không chỉ “mở rộng cho những chân trời mới” cho một người, trăm người, triệu người, (1) cho cả nhân loại.
- Câu chuyện lẽ ra chấm hết ở chỗ đó, (1) nhân dân ta không chịu nhận cái tình thế đau đớn ấy, (2) cố đem một nét huyền ảo để an ủi ta. mới có đoạn thứ hai, kể chuyện nàng Trương xuống thuỷ cung và gặp lại mặt chồng một lần nữa. (Nguyễn Đình Thi)
Những từ ngữ được dùng để điền vào chỗ trống là những tác tử lập luận và kết tử lập luận. Nếu ở kiểu bài tập 1, HS được cho sẵn các từ lập luận thì ở kiểu bài tập này các em phải tự tìm những tác tử, kết tử để điền vào chỗ trống. Nói chung, hai kiểu bài tập này đều rèn cho HS cách vận dụng các tác tử và kết tử lập luận ở mức độ đơn giản, giúp các em viết câu văn nghị luận tốt hơn, làm cơ sở cho quá trình tạo lập văn bản nghị luận sau này.
3.2.3.6. Bài tập rèn KNLL trong đoạn văn văn nghị luận Luận văn: Giải phát rèn luyện kỹ năng nghị luận ở THPT
Dạng bài tập này được SGK chú trọng để rèn luyện KNLL cho HS, tuy nhiên số lượng bài tập vẫn còn ít, những bài tập này chưa đủ để rèn luyện và nâng cao KNLL cho HS. Vì vậy, chúng tôi đã xây dựng thêm một số kiểu bài tập rèn luyện KNLL trong đoạn văn nghị luận như: Bài tập viết đoạn vận dụng một thao tác lập luận; Bài tập viết đoạn vận dung kết hợp các thao tác lập luận; Bài tập về suy luận logic trong đoạn văn nghị luận; Bài tập sắp xếp trật tự logic trong đoạn văn nghị luận.
Kiểu 1: Bài tập viết đoạn vận dụng một thao tác lập luận
- Viết đoạn văn sử dụng thao tác chứng minh để làm sáng tỏ luận điểm “Không có vinh quang nào mà không trải qua gian khổ, đắng cay”.
- Cho luận điểm sau: “Nguyễn Du không chỉ tài hoa trong khắc hoạ nhân vật mà còn hết sức tài hoa trong việc miêu tả thiên nhiên”.
- Viết một đoạn văn sử dụng thao tác quy nạp. b) Viết một đoạn văn sử dụng thao tác diễn dịch.
- Dùng thao tác so sánh để viết đoạn văn trình bày quan điểm của mình về các vấn đề sau:
- Vị tha và ích kỉ
- Cho và nhận
- Được và mất ở đời
- Giọt nước và biển cả.
- Viết đoạn văn phân tích nét đặc sắc về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của các câu thơ:
Sao anh không về chơi thôn Vỹ ? Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền
- Viết đoạn văn bình luận các vấn đề sau đây:
- Thuốc lá với sức khoẻ con người
- Tin học với thanh niên
- Tri thức trong thời đại ngày nay
- Nếu cuộc sống thiếu âm nhạc
- Lập luận để bác bỏ sai lầm trong các luận điểm sau:
- Có tiền là có hạnh phúc
- Thật thà là cha dại
Kiểu 2: Bài tập viết đoạn vận dụng kết hợp các thao tác lập luận
- Cho ý sau: Đọc sách tốt chẳng khác nào nói chuyện với một người thông minh (Lep Tôn-xtôi). Viết đoạn văn kết hợp hai thao tác giải thích và chứng minh để triển khai ý trên.
- Kết hợp các thao tác lập luận thích hợp để viết đoạn văn thể hiện các nội dung sau:
- “Ôi, sống đẹp là gì hỡi bạn?” (Tố Hữu)
- “Yêu là tên gọi khác của sự hiểu nhau” (Ta-go) c) Con người không thể thiếu bạn.
- Lý tưởng là nguồn sáng và sức mạnh trong đời.
Kiểu 3: Bài tập về suy luận logic trong đoạn văn nghị luận
Chúng ta biết rằng, trong logic, từ một hoặc một số phán đoán (mệnh đề) đã biết, ta suy ra được một phán đoán mới thì sự suy ra đó được gọi là phép suy luận hay một lập luận. Suy luận logic là một vấn đề đặc biệt quan trọng của lập luận trong văn nghị luận, rèn luyện KNLL cho HS nhất thiết phải cho các em làm kiểu Bài tập về suy luận logic. Tuy nhiên, SGK (cơ bản) lại không chú trọng đến kiểu bài tập này, còn SGK (nâng cao) có đề cập đến nhưng những bài tập kiểu này còn rất ít.
Ứng dụng Ngữ dụng học vào xây dựng bài tập rèn luyện KNLL, chúng tôi chú ý rèn cho HS khả năng tư duy logic, giúp HS làm quen với các dạng suy luận như: suy luận theo logic truyền thống (gồm suy luận một tiền đề và suy luận hai tiền đề: tam đoạn luận) và suy luận theo logic hình thức (gồm phép giải thích và phép kéo theo). Một số bài tập minh hoạ:
Nhận xét của anh (chị) về những suy luận sau đây:
- Người ta nói trên mặt trăng có chị Hằng, có chú Cuội, thế tức là người ta nghĩ rằng trên mặt trăng có người ở.
- Trong bài làm của bạn Nam có một số chữ dùng sai, chứng tỏ bài ấy hỏng.
- Những người phiên dịch và GV ngoại ngữ đều phải học ngoại ngữ. Tôi không phải là người phiên dịch, cũng không phải là GV ngoại ngữ, cho nên tôi không học ngoại ngữ.
- Nếu hoạt động thể thao quá nghiều thì sẽ ảnh hưởng tới học tập, còn nếu hoạt động thể thao ít quá thì ảnh hưởng không tốt tới thân thể. Như vậy nói chung là hoạt động thể thao quá nhiều hay quá ít đều không tốt đối với học tập và đối với thân thể.
Những suy luận trên đây vi phạm tính logic của lập luận. Những luận cứ được đưa ra chưa đủ để đi đến kết luận. Những lập luận trên đều có phản lập luận, vì vậy chúng không thuyết phục được người đọc (người nghe). Luận văn: Giải phát rèn luyện kỹ năng nghị luận ở THPT
- Những lập luận sau đây đúng hay sai?
- Người ta thường nói “tiền nào của ấy” để hàm ý rằng, hàng giá rẻ thì chất lượng không tốt. Nhưng thực tế ở quê tôi, những thứ quà như bún riêu, bánh giò… đều rất rẻ mà lại ngon.
- Thường có ý kiến cho rằng, người nổi tiếng đều xuất thân từ các gia đình nổi tiếng. Nhưng nếu xét kĩ lí lịch những người nổi tiếng thì thấy gia đình họ thường gặp nhiều khó khăn, chẳng giàu có gì, thậm chí không có nghề gì nổi tiếng hơn con cháu họ. Có thể kết luận: những người nổi tiếng đều xuất thân từ những gia đình không nổi tiếng.
- Tác giả của bài “Tống biệt hành” là Thâm Tâm, tức Nguyễn Tuấn Trình, đã từng từ giã gia đình đi hoạt động cách mạng. Do đó, người ra đi trong bài thơ của ông là một nhà cách mạng.
Trừ câu a thì hai lập luận b và c đều không thuyết phục. Theo lý thuyết lập luận của Ngữ dụng học thì lập luận đời thường khác với lập luận logic. Lập luận đời thường dựa vào những “lẽ thường”, những kinh nghiệm sống được đúc kết dưới dạng một nguyên lý cho nên chúng có thể đúng hoặc sai. Lập luận đời thường có phản lập luận (trường hợp a là một ví dụ).
Còn lập luận logic thì khác. Ở tam đoạn luận logic, kết luận là hệ quả tất yếu của đại tiền đề, tiểu tiền đề và của thao tác suy diễn. Nếu đại tiền đề đúng, tiểu tiền đề đúng và thao tác suy diễn đúng thì kết luận tất yếu phải đúng. Tính đúng sai của kết luận trong một tam đoạn luận logic do tính đúng sai của các tiền đề quyết định. Một kết luận logic chỉ có hai khả năng hoặc đúng hoặc sai, đúng hay sai không thể bác bỏ, có nghĩa là nếu kết luận logic đã đúng thì không thể lập luận để chứng minh rằng nó sai. Ngược lại nếu nó đã sai thì không thể chứng minh rằng nó đúng. Vì vậy, ở trường hợp b và c, các tiền đề đưa ra không hoàn toàn đúng nên kết luận được suy ra là sai.
Kiểu 4: Bài tập sắp xếp trật tự logic trong đoạn văn nghị luận.
Đây là dạng bài tập có vai trò rất quan trọng trong việc rèn luyện KNLL cho HS, nhưng theo khảo sát của chúng tôi thì hệ thống bài tập của SGK hoàn toàn không có bài tập này. Nghịch lý là thực tế có rất nhiều HS mắc lỗi lập luận thiếu logic; trình bày lí lẽ và dẫn chứng còn lộn xộn, rối rắm,…
Phần lớn HS đều gặp khó khăn khi vận dụng lý thuyết vào viết một đoạn văn nghị luận đúng và hay. Vậy mà phần Luyện tập kỹ năng viết đoạn của SGK hiện nay chỉ đưa ra hai dạng: Bài tập phân tích ngữ liệu và Bài tập viết đoạn văn nghị luận với độ khó chênh lệch khá xa.
Từ hai lí do trên, chúng tôi tiến hành xây dựng Bài tập sắp xếp trật tự logic nhằm tạo ra một khâu trung gian, một “bước đệm” trong quá trình rèn luyện KNLL cho HS. Yêu cầu của kiểu bài tập này là: từ những câu văn cho sẵn, HS sẽ phải tìm cách sắp xếp chúng theo một trật tự logic để tạo thành đoạn văn hoàn chỉnh, mạch lạc; qua đó mà rèn kỹ năng tư duy, kỹ năng viết đoạn văn nghị luận cho HS.
Sau đây là một số bài tập minh hoạ:
Hãy nhận xét về tính logic của lập luận trong hai cách sắp xếp sau đây:
- Thế nào là sách tốt? Chúng giúp con người hiểu rõ về số phận của mình để có ý thức đúng về nghĩa vụ của mình trong đời sống. Nó phải ca ngợi sự công bằng và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Đó là những cuốn sách phản ánh chính xác quy luật của tự nhiên và của đời sống xã hội. Một cuốn sách tốt phải giúp cho các dân tộc hiểu biết nhau hơn để gần gũi nhau hơn. Nó phải khiến cho tâm hồn con người trở nên phong phú hơn, độ lượng hơn, trong sáng hơn. Nó phải khiến cho con người thêm tự hào về mình, thêm vững tin ở cuộc sống để chiến đấu cho cuộc sống mỗi ngày một hợp lí và hạnh phúc hơn.
- Thế nào là sách tốt? Đó là những cuốn sách phản ánh chính xác quy luật của tự nhiên và của đời sống xã hội. Chúng giúp con người hiểu rõ về số phận của mình để có ý thức đúng về nghĩa vụ của mình trong đời sống. Một cuốn sách tốt phải giúp cho các dân tộc hiểu biết nhau hơn để gần gũi nhau hơn. Nó phải ca ngợi sự công bằng và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Nó phải khiến cho con người thêm tự hào về mình, thêm vững tin ở cuộc sống để chiến đấu cho cuộc sống mỗi ngày một hợp lí và hạnh phúc hơn. Nó phải khiến cho tâm hồn con người trở nên phong phú hơn, độ lượng hơn, trong sáng hơn.
Sắp xếp lại những câu văn dưới đây thành một đoạn văn hoàn chỉnh:
- Cuộc sống vật chất được ấm no sẽ là cơ sở để cải thiện đời sống tinh thần ngày thêm phong phú.
- Nguồn của cải vật chất phong phú được sản xuất ra sẽ làm cho cuộc sống của nhân dân ngày càng ấm no.
- Đời sống vật chất và tinh thần phong phú sẽ là nguồn hạnh phúc to lớn đối với con người.
- Lao động đã tạo ra của cải vật chất ngày càng phong phú cho xã hội.
- Chính vì vậy, lao động là nguồn hạnh phúc thiêng liêng của con người.
Chọn một số câu có nội dung khái quát dưới đây và hãy nghĩ thêm một số câu khác, xếp chúng thành một đoạn văn có cách trình bày quy nạp hoặc diễn dịch:
a) Nam Cao đã rất thành công trong việc đi sâu phân tích ý nghĩ, tâm lí nhân vật.
b) Không ai trưởng thành mà không có một lần vấp ngã.
c) Mọi tiết kiệm suy cho xùng là tiết kiệm thời gian (C.Mac).
3.2.3.7. Bài tập rèn luyện KNLL trong văn bản nghị luận Luận văn: Giải phát rèn luyện kỹ năng nghị luận ở THPT
Nói cách khác, đây là dạng Bài tập về liên kết trong văn bản nghị luận. Sở dĩ chúng tôi chỉ tập trung xây dựng dạng bài tập này là vì: “Bài văn là một thể thống nhất, hoàn chỉnh được tạo nên bởi các phần, các đoạn, các câu. Do đó, giữa các phần, các đoạn, các câu cần phải có sự kết dính với nhau tạo nên tính chỉnh thể của bài văn. Sự kết dính với nhau ấy gọi là sự liên kết. Nhờ sự liên kết mà chuỗi câu trở thành đoạn, chuỗi đoạn trở thành bài văn” [12, 18]. Song, thực tế khảo sát cho thấy phần lớn bài làm văn của HS thiếu sự liên kết nên các ý rời rạc, bài văn bị đứt mạch, lập luận vì vậy cũng không có sức thuyết phục cao.
Nói đến sự liên kết văn bản là nói đến các phép liên kết câu và các cách liên kết đoạn. Để liên kết, người ta thường dùng các cách sau:
- Dùng từ hoặc ngữ để liên kết câu văn, đoạn văn. Đây cũng chính là những tác tử lập luận và kết tử lập luận, những hình thức ngôn ngữ mà ở chương 2 (mục 2.3) chúng tôi đã đề cập đến.
- Đối với đoạn văn, người ta còn dùng câu để liên kết. Đó là những câu nối thường đứng ở đầu hoặc có khi đứng ở cuối đoạn văn nhằm mục đích liên kết đoạn có chứa nó với các đoạn khác. Nội dung thông tin chứa trong câu nối này hoặc đã được đề cập đến ở đoạn trước hoặc sẽ được trình bày kĩ ở đoạn sau. Câu nối có những dạng: câu nối liên kết với đoạn trước, câu nối liên kết với đoạn sau, câu nối liên kết với cả đoạn trước lẫn đoạn sau.
- Từ những điều trên đây, chúng tôi đã xây dựng hai kiểu bài tập về liên kết trong văn bản nghị luận như sau:
Kiểu 1: Bài tập dùng từ hoặc ngữ để liên kết các câu, các đoạn trong văn bản nghị luận.
Đọc đoạn văn sau và cho biết các câu trong đoạn được liên kết với nhau nhờ những phương tiện liên kết nào. Chỉ ra tác dụng của từng phương tiện liên kết đã dùng.
Bởi vậy, từ câu nói của nhà văn vô sản Nga, ta có thể tự xác định cho mình một thái độ đối với sách. Trước hết, phải biết quý trọng sách và coi việc đọc sách là một công việc rất cần thiết, vừa rất thú vị, vừa rất bổ ích. Sống mà không đọc sách, không ham mê sách là một điều không thể chấp nhận được. Nhưng phải biết chọn sách để đọc. Không bị mê hoặc bởi sự hấp dẫn của hình thức, không để bị lôi cuốn bởi những thị hiếu tầm thường, phải tìm đến những cuốn sách thật sự tốt, có ích. Mặt khác, đọc sách không chỉ là một sự hưởng thụ, mà còn là một cách hành động ở đời. Cho nên, đọc sách là để rút ra những bài học bổ ích cho cuộc sống tốt hơn. Đọc sách mà không tiêu hoá được, không vận dụng được vào hành động, thì dẫu đọc hàng nghìn cuốn sách cũng không hơn gì cái tủ mọt đựng sách (Trần Thanh Đạm).
Hãy thay thế những từ ngữ (phương tiện liên kết) trong đoạn văn trên bằng các cách diễn đạt đồng nghĩa.
Điền các phương tiện liên kết vào chỗ trống, cho biết các phương tiện liên kết đó thuộc phép liên kết nào?
Nguyễn Du đã nói giùm nỗi niềm cho tất cả những người bị đày đọa. hơn một trăm năm qua, hàng trăm vạn người đã xem Truyện Kiều là truyện của mình và mượn lời thơ của Nguyễn Du làm một tiếng kêu bi thiết. (Hoài Thanh) Luận văn: Giải phát rèn luyện kỹ năng nghị luận ở THPT
Thật vậy, học tập là nhiệm vụ suốt đời của người cách mạng. Kiến thức của nhân loại vô cùng phong phú, khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển, người cách mạng dù có nỗ lực học tập, học mãi cũng không bao giờ hết mạng ngày càng cao, người cán bộ, người thanh niên (3) không học (4) không đủ trình độ (5) khả năng đảm nhận những công tác ngày càng khó khăn (6) phức tạp. (Lê Duẩn)
Lấy những bài viết văn nghị luận của anh (chị) và phân tích các bình diện, các phương tiện liên kết giữa các câu trong đó.
Kiểu 2: Bài tập dùng câu để liên kết các đoạn trong văn bản nghị luận.
- Dưới đây là một số câu có tác dụng liên kết các đoạn văn với nhau. Anh (chị) hãy phân tích xem chúng có gì khác về nội dung và hình thức so với những câu bình thường khác:
- a) “Trở lên, tôi đã đứng về phía người đọc, người nghe mà nhìn nhận tác dụng của phê bình. Cũng có thể đứng về phía người sáng tác mà nhìn vấn đề”. (Hoài Thanh)
- Ở trên mới chỉ đề cập đến mảng văn xuôi từ năm 1945 đến nay, phần tiếp theo chúng ta sẽ xem xét kĩ hơn mảng thơ ca, đặc biệt là thơ ca cách mạng.
- Hãy xác định xem đâu là câu nối trong những đoạn văn dưới đây:
- Trở lên là mấy điều về giảng văn nói chung. Sau đây là việc làm cụ thể khi chuẩn bị một bài giảng văn. Xin phép được dùng ngôi thứ nhất để tiện kể, lúc cần. (Lê Trí Viễn)
- Ngô Tất Tố đã dùng một loạt chi tiết vừa chân thực vừa điển hình để bóc trần bản chất địa chủ của vợ chồng lão Nghị. Chẳng hạn như thái độ dửng dưng của chúng, thản nhiên ngồi ăn, mặc cho chị Dậu bị cả một đàn chó xúm lại cắn “máu tươi chảy ra đầm đìa” v.v…(Nguyễn Đăng Mạnh)
- Trên kia có nhắc đến hai bài “Lời tuyệt vọng” và “Truỵ lạc” cũng là để thấy thơ ca lãng mạn thời 1930 – 1945 cuối cũng đi đến khủng hoảng và bế tắt là điều hợp quy luật. Nhưng phần chính của thơ Thế Lữ không phải ở đó mà ở chỗ khác, chúng tôi sẽ trình bày dưới đây”.(Lê Đình Kỵ)
- Hãy liên kết hai đoạn văn sau đây bằng những câu nối thích hợp theo hai cách:
Câu nối đặt ở vị trí cuối đoạn thứ nhất – Câu nối đặt ở vị trí đầu đoạn thứ hai
Trong ca dao Việt Nam, có nhiều bài nói đến con cò. Con cò là một trong những con vật gần gũi với người nông dân hơn cả. Những lúc cày cuốc, cấy hái, người nông dân Việt Nam thường thấy con cò ở bên cạnh họ. Con cò lội theo luống cày, con cò bay trên đồng lúa, con cò đứng trên bở ruộng rỉa lông, ngắm nhìn người nông dân làm lụng.
Con trâu rất thân thiết với người lao động. Nhưng con trâu phải cái nặng nề, chậm chạp, sống cuộc sống vất vả, chẳng mấy lúc thảnh thơi. Vì vậy, chỉ khi nghĩa đến đời sống nhọc nhằn cực khổ của mình, người nông dân mới liên hệ đến con trâu, con vật tiêu biểu nhất cho sức sản xuất nơi đồng ruộng.
- Khi bật ra-đi-ô, anh (chị) nghe thấy câu: Về vấn đề chúng tôi vừa nêu, chúng tôi xin tổng kết lại như sau. Hãy cho biết câu mà anh (chị) vừa nghe có thể đứng đầu hoặc đứng cuối văn bản không? Tại sao?
- Hãy dựa vào những từ ngữ gợi ý sau đây để viết câu nối đoạn văn:
- Trước hết … sau đó … xem xét …
- Phần trên … dưới đây … đề cập đến …
- Ở trên … phần tiếp theo … xét kĩ …
- Chúng ta đã … sau đây chúng ta sẽ …
- Phần trên dành cho … phần dưới đây dành cho …
Mặc dù bài tập này giống với bài tập rèn luyện KNLL trong câu văn nghị luận (xem 3.2.3.5), nhưng vì mục đích sử dụng của chúng khác nhau nên chúng tôi vẫn xây dựng bài tập này ở dạng bài tập rèn KNLL trong bài văn nghị luận. Tác dụng của bài tập này là rèn cho HS cách viết những câu nối đoạn, chuyển đoạn, chuyển ý trong bài văn nghị luận, giúp bài văn trở nên mạch lạc, logic và chặt chẽ hơn.
Ngoài việc xây dựng hệ thống bài tập bổ sung theo lý thuyết lập luận của Ngữ dụng học và sử dụng hợp lý hệ thống bài tập rèn luyện KNLL của SGK, chúng tôi còn chú ý đến những hoạt động khác nhằm rèn luyện và phát triển KNLL cho HS THPT.
3.3. Rèn KNLL qua các hoạt động khác (ngoài phân môn Làm văn)
Có rất nhiều hoạt động khác ngoài phân môn Làm văn tham gia vào quá trình rèn luyện KNLL cho HS. Ở luận văn này, chúng tôi quan tâm đến một vài hoạt động như: Rèn KNLL qua việc tích hợp với các giờ Đọc – hiểu văn bản nghị luận và giờ dạy Tiếng; Rèn KNLL qua việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp; Rèn KNLL qua việc theo dõi quá trình tự học của HS.
3.3.1. Rèn KNLL qua việc tích hợp với các giờ Đọc – hiểu văn bản nghị luận và giờ dạy Tiếng Luận văn: Giải phát rèn luyện kỹ năng nghị luận ở THPT
Ngày nay, “tích hợp” đã không còn là vấn đề xa lạ với mỗi thầy cô giáo chúng ta. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu xoay quanh vấn đề này. Theo GS. Nguyễn Thanh Hùng: “Có thể hiểu tích hợp là phương hướng phối hợp một cách tốt nhất các quá trình học tập của nhiều phân môn như Văn – Tiếng Việt – Làm văn trong một bộ môn như Ngữ văn” [38, 16]. PGS. Đỗ Ngọc Thống cho rằng:“Tích hợp là theo tinh thần ba phân môn hợp nhất lại, hòa trộn trong nhau, học cái này thông qua cái kia và ngược lại” [71, 143].
3.3.1.1. Rèn KNLL qua việc tích hợp với giờ Đọc – hiểu văn bản nghị luận
Với ý nghĩa là cơ sở, là nền tảng cho quá trình học tập Ngữ văn ở nhà trường phổ thông, việc rèn luyện KNLL trong văn nghị luận nhất thiết phải chú ý đến nguồn ngữ liệu quan trọng từ các giờ Đọc – hiểu văn bản, nhất là văn bản nghị luận.
Chúng ta biết rằng cấu trúc và nội dung chương trình của SGK hiện nay có những ưu điểm là làm nổi bật đặc trưng của các kiểu văn bản, từ đó giúp HS học cách tiếp cận, khai thác văn bản và nhất là cách vận dụng văn bản. So với chương trình cũ thì SGK bậc THPT hiện nay đã tăng một số lượng đáng kể những văn bản nghị luận, trong đó có cả NLXH và NLVH. Coi trọng đúng mức những tác phẩm văn học chính luận, những tác phẩm có màu sắc học thuật để tăng cường, tô đậm bản chất văn hoá của văn học. Việc đưa thêm văn nghị luận, tăng cường bản chất văn hoá của Văn học là để giúp HS vận dụng Văn học vào cuộc sống. Bởi vì văn nghị luận, nhất là nghị luận trong Văn học hiện đại và NLXH luôn gắn bó, gần gũi với cuộc sống của HS, nên đã giúp các em rất nhiều từ cách tư duy logic, cách lập luận đến cách viết một bài văn nghị luận hoàn chỉnh.
Vì vậy, rèn luyện KNLL qua việc tích hợp với giờ Đọc – hiểu văn bản nghị luận là một biện pháp thiết thực, phù hợp với nguyên tắc dạy học theo hướng đổi mới hiện nay. Việc tích hợp này đồng thời cũng góp phần phát huy ưu thế của việc khai thác văn bản dựa vào đặc trưng thể loại. Với phương pháp này, người học không chỉ có điều kiện tiếp cận và tiếp nhận văn bản, mà còn được rèn luyện thêm về KNLL và kỹ năng tạo lập văn bản nghị luận. Luận văn: Giải phát rèn luyện kỹ năng nghị luận ở THPT
Nhìn chung, những văn bản nghị luận được lựa chọn giảng dạy trong chương trình Ngữ văn bậc THPT khá phong phú về đề tài và đa dạng về thể loại. Chẳng hạn: Lớp 10 có Đại cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi), Hiền tài là nguyên khí quốc gia (Thân Nhân Trung); Lớp 11 có Chiếu cầu hiền (Ngô Thì Nhậm), Xin lập khoa luật (Nguyễn Trường Tộ), Về luân lý xã hội ở nước ta (Phan Châu Trinh), Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức (Nguyễn An Ninh), Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác (Ăng – ghen), Một thời đại trong thi ca (Hoài Thanh – Hoài Chân); Lớp 12 có Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh), Nguyễn Đình Chiểu_ ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc (Phạm Văn Đồng), Mấy ý nghĩ về thơ (Nguyễn Đình Thi), Nhìn về vốn văn hoá dân tộc (Trần Đình Hượu),…
Trong những giờ Đọc – hiểu văn bản nghị luận này, GV có thể vận dụng quan điểm tích hợp để rèn luyện KNLL cho HS qua việc hướng dẫn các em khai thác tối đa các hình thức nghệ thuật, thấy được ý nghĩa và tác dụng của chúng trong việc biểu hiện nội dung của tác phẩm văn học. Bởi vì những văn bản nghị luận của các tác giả nổi tiếng là những tác phẩm xuất sắc, đạt đến chuẩn mực của nghệ thuật lập luận mà HS cần noi theo. Khi phân tích những văn bản này, GV cần hướng dẫn HS khai thác triệt để nghệ thuật lập luận của tác giả từ góc độ xây dựng bố cục, kết cấu các ý, cách trình bày lĩ lẽ, dẫn chứng, cách lựa chọn các phương pháp lập luận để làm sáng tỏ các quan điểm của mình và để thuyết phục được người đọc (người nghe).
Ví dụ: Trong giờ Đọc – hiểu văn bản Đại cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi), GV có thể tích hợp phân tích tác phẩm với việc rèn luyện KNLL cho HS qua các bước sau:
Bước 1: GV hướng dẫn HS tìm bố cục của bài Cáo để thấy được bài Đại cáo bình Ngô có 4 luận điểm chính là:
- Nêu luận đề chính nghĩa
- Vạch rõ tội ác của kẻ thù
- Kể lại quá trình chinh phạt gian khổ và tất thắng của cuộc khởi nghĩa.
- Tuyên bố chiến quả, khẳng định sự nghiệp chính nghĩa.
Bước 2: Ở mỗi luận điểm của bài Cáo, GV hướng dẫn HS tìm và phân tích các biện pháp nghệ thuật được tác giả sử dụng để làm sáng tỏ luận điểm đó (lưu ý: phân tích nghệ thuật lập luận qua cách mà tác giả đưa ra những lí lẽ và dẫn chứng).
Bước 3: GV hướng dẫn HS tổng kết giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của bài, đặc biệt chú trọng đến những đặc sắc trong nghệ thuật viết văn chính luận của Nguyễn Trãi.
Một ví dụ khác là tích hợp rèn luyện KNLL trong giờ Đọc – hiểu văn bản nghị luận hiện đại qua đoạn trích Về luân lí xã hội ở nước ta (trích Đạo đức và luân lí Đông Tây) của tác giả Phan Châu Trinh. GV có thể tiến hành những bước sau đây:
Bước 1: Hướng dẫn HS tìm chủ đề tư tưởng và cấu trúc của đoạn trích nhằm giúp HS xác định được luận đề và các luận điểm làm sáng tỏ luận đề đó.
Bước 2: Ở mỗi luận điểm, GV hướng dẫn HS tìm và phân tích nghệ thuật lập luận của tác giả qua cách ông đưa ra những lí lẽ và dẫn chứng, cách lựa chọn các phương pháp lập luận (chẳng hạn: cách vào đề bằng phương pháp lập luận bác bỏ; sử dụng phương pháp lập luận so sánh xã hội “bên Châu Âu”, “bên Pháp” với “bên ta”, v.v…)
Bước 3: GV hướng dẫn HS tổng kết giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của đoạn trích, đặc biệt chú trọng đến phong cách chính luận độc đáo của Phan Châu Trinh (lúc từ tốn, mềm mỏng; lúc kiên quyết, đanh thép; lúc mạnh mẽ, lúc nhẹ nhàng mà đầy sức thuyết phục).
3.3.1.2. Rèn KNLL qua việc tích hợp với giờ Tiếng Việt Luận văn: Giải phát rèn luyện kỹ năng nghị luận ở THPT
Chúng ta biết rằng cấu trúc của một bài học Tiếng Việt gồm hai phần là lý thuyết và thực hành. Lý thuyết của bài học được trình bày theo phương pháp quy nạp, nghĩa là đi từ phân tích ngữ liệu để rút ra kết luận. Còn phần luyện tập thì cung cấp một số bài tập cho HS thực hành nhằm củng cố lý thuyết. Dựa vào cấu trúc này, GV có thể tích hợp rèn luyện KNLL cho HS trong cả hai phần thông qua các bài tập của SGK hoặc những bài tập do chính GV tự thiết kế.
Tuy nhiên không phải ở bài học nào chúng ta cũng có thể tích hợp rèn luyện KNLL cho HS. Theo GS. Lê A: “Vận dụng tích hợp trong dạy học Ngữ văn cần lưu ý về nội dung, mức độ, thời điểm cũng như cách thức tích hợp” [2,47]. Vì vậy, sau khi xem xét chương trình Tiếng Việt bậc THPT, chúng tôi cho rằng việc tích hợp rèn KNLL cho HS có thể tiến hành qua các bài học sau đây: Những yêu cầu về sử dụng Tiếng Việt (lớp 10), Thực hành về lựa chọn trật tự các bộ phận trong câu và Phong cách ngôn ngữ chính luận (lớp 11),…
Việc tích hợp rèn luyện KNLL qua các giờ Tiếng Việt chủ yếu là thông qua các bài tập cụ thể. Với tinh thần này, TS. Trần Thanh Bình trong bài “Về một hướng gắn bó Ngữ pháp với Làm văn” đã đặt ra vấn đề gắn bó Ngữ pháp với Tập làm văn, hướng tới loại “bài tập văn bản”, đó là một dạng bài tập ngữ pháp để tạo cơ sở cho sự tích hợp giữa Ngữ pháp với Làm văn nhưng chưa phải là bài tập Làm văn vì trong hệ thống bài tập dạy học Tiếng Việt, những kiến thức của phần văn pháp sẽ được tiến hành trực tiếp dưới một bài tập riêng – bài tập văn bản, cho nên chúng ta hoàn toàn có thể xác lập được một mối quan hệ hết sức gắn bó giữa chương trình Ngữ pháp với chương trình Tập làm văn.
Ví dụ: Bài Những yêu cầu về sử dụng Tiếng Việt [SGK Ngữ văn 10, tập 2] trình bày kiến thức theo hai nội dung: Một là, khi sử dụng Tiếng Việt trong giao tiếp cần đảm bảo những yêu cầu cơ bản về ngữ âm – chữ viết, về từ ngữ, về ngữ pháp và về phong cách chức năng. Hai là, phải sử dụng Tiếng Việt một cách sáng tạo, uyển chuyển, linh hoạt để đạt hiệu quả giao tiếp cao.
Để tích hợp rèn luyện KNLL cho HS trong bài học này, GV cần nhấn mạnh đến các Bài tập phân tích ngữ liệu ở phần lý thuyết và Bài tập thực hành ở phần luyện tập trong SGK; hoặc thay thế và bổ sung bằng một số bài tập khác do GV tự thiết kế. Chẳng hạn: Bài tập rèn kỹ năng viết câu nghị luận (3.2.3.5), Bài tập rèn kỹ năng viết đoạn văn nghị luận (3.2.3.6), Bài tập sửa lỗi lập luận (3.2.3.4), v.v… bài Thực hành về lựa chọn trật tự các bộ phận trong câu [SGK Ngữ văn 11, tập 1], mục tiêu cần đạt là giúp HS nâng cao nhận thức về vai trò, tác dụng của trật tự các bộ phận câu trong việc thể hiện ý nghĩa và liên kết ý trong văn bản; có ý thức cân nhắc, lựa chọn trật tự tối ưu cho các bộ phận câu; có kỹ năng sắp xếp trật tự câu khi nói và viết. Do đó, trong bài học này, GV có thể tích hợp rèn KNLL cho HS qua việc bổ sung thêm một số Bài tập rèn kỹ năng viết câu nghị luận (3.2.3.5).
So với hai bài học trên thì bài Phong cách ngôn ngữ chính luận [SGK
Ngữ văn 11, tập 2]có mức độ tích hợp cao hơn. Vì mục tiêu của bài học này là giúp HS hiểu khái niệm ngôn ngữ chính luận, các loại văn bản chính luận và đặc điểm của phong cách ngôn ngữ chính luận; biết cách phân tích và viết bài văn nghị luận. Vì vậy, để tích hợp rèn luyện KNLL cho HS trong bài học này, GV cần nhấn mạnh đến các Bài tập phân tích ngữ liệu ở phần lý thuyết và Bài tập thực hành ở phần luyện tập trong SGK; đồng thời bổ sung thêm một số bài tập khác do GV tự thiết kế. Ví dụ như: Bài tập rèn kỹ năng viết câu nghị luận (3.2.3.5), Bài tập rèn kỹ năng viết đoạn văn nghị luận (3.2.3.6), Bài tập sửa lỗi lập luận (3.2.3.4), Bài tập dùng từ đúng phong cách văn nghị luận, v.v…
3.3.2. Rèn KNLL qua việc tổ chức các hoạt động ngoại khoá Luận văn: Giải phát rèn luyện kỹ năng nghị luận ở THPT
3.3.2.1. Khái quát về hoạt động ngoại khóa
Hoạt động ngoại khóa là hoạt động giáo dục ngoài giờ, nằm ngoài chương trình chính thức, thường mang tính chất tự nguyện hơn là bắt buộc, là một hoạt động không đặt sự giảng dạy của GV lên hàng đầu mà xem trọng hoạt động tự giác, sự vận dụng sáng tạo của HS.
Hoạt động ngoại khóa Văn học là một bộ phận của hoạt động dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông. Hoạt động này sẽ giúp cho việc dạy và học có cơ sở thực tế, tạo hưng phấn cho giờ học chính khóa. Qua các hoạt động ngoại khóa Văn học như: Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu văn học; các cuộc hội thảo, tranh luận, hùng biện; các cuộc gặp gỡ giao lưu với những tác giả đương thời, v.v…, HS có điều kiện củng cố, mở rộng, bổ sung, kiến thức đã được học; phát huy cao độ tính tích cực, khả năng hoạt động tự lập cũng như kỹ năng làm việc nhóm. Đồng thời, giúp GV hiểu hơn về HS của mình, phát huy được khả năng của các em, từ đó mà điều chỉnh phương pháp dạy học cho phù hợp.
3.3.2.2. Ý nghĩa của việc tổ chức các hoạt động ngoại khóa trong quá trình rèn KNLL cho HS Luận văn: Giải phát rèn luyện kỹ năng nghị luận ở THPT
Chúng ta biết rằng, cốt lõi của dạy học Làm văn nói chung và dạy học KNLL nói riêng là ở thực hành, nhưng thời gian dành cho chương trình chính khóa không đủ để GV và HS thực hiện mục đích này. Còn hoạt động ngoại khóa, một trong những mảng hoạt động giáo dục quan trọng ở nhà trường phổ thông lại khác, khi tham gia các hoạt động ngoại khóa, đặc biệt là các cuộc hội thảo, thảo luận, tranh luận, hùng biện,… HS sẽ có nhiều điều kiện để rèn luyện KNLL.
Sở dĩ chúng ta nói như vậy là vì: Đề tài của các cuộc hội thảo, thảo luận, tranh luận, hùng biện bao giờ cũng hướng đến một vấn đề nào đó trong cuộc sống hay trong văn học. Nói cách khác, đây chính là những đề văn nghị luận. Trong quá trình thảo luận, tranh luận, hùng biện,… HS phải trình bày những suy nghĩ, ý kiến riêng của mình để làm sáng tỏ vấn đề và bảo vệ được kiến của mình trước tập thể. Muốn vậy, HS phải biết cách lập luận, phải lập luận vấn đề một cách chặt chẽ, thuyết phục. Tức là phải trình bày sáng rõ các luận điểm (quan điểm) của mình, đưa ra những luận cứ (lí lẽ và dẫn chứng) xác thực, đáng tin cậy và phải lựa chọn được phương pháp lập luận phù hợp. Vì vậy, khi tích cực tham gia các hoạt động ngoại khóa, HS sẽ có nhiều điều kiện để củng cố kiến thức và rèn luyện KNLL.
Hơn nữa, khi tham gia các hoạt động thảo luận, tranh luận, hùng biện, HS còn được luyện kỹ năng nói trước công chúng. Đây là một kỹ năng rất quan trọng, có ý nghĩa rất lớn trong học tập và trong cuộc sống của HS sau này. Thường thì chỉ có những HS ưu tú mới đủ khả năng đảm nhiệm vai trò là người hùng biện, nên phần lớn HS hiện nay vẫn còn rất yếu kém ở kỹ năng này. Làm sao để nói năng lưu loát, làm sao để lập luận, trình bày vấn đề một cách logic trước bạn bè, trước công chúng,… là điều mà tất cả HS đều mong muốn nhưng không dễ thực hiện. Tiếc thay, trong chương trình Làm văn của trường THPT hiện nay, ngoại trừ ở ban nâng cao có 2 bài Luyện nói, thì SGK ban cơ bản thì không có tiết Luyện nói nào. Đây quả là một hạn chế của chương trình Làm văn hiện nay. Tuy nhiên hạn chế này có thể được khắc phục khi GV tổ chức các hoạt động ngoại khóa cho tất cả HS luyện nói thông qua các cuộc thi tranh luận, hùng biện, giúp các em mạnh dạn, tự tin, nêu lên những suy nghĩ của riêng mình.
Một ưu điểm nữa của hoạt động ngoại khóa là ở tính chất “học mà chơi, chơi mà học”. Khác với các giờ học chính khóa với những quy định khuôn khổ “gò bó”, ở các giờ ngoại khóa, HS cảm thấy thoải mái hơn, tự do thể hiện mình hơn. Giờ ngoại khóa là những giờ học sống động với nhiều điều lôi cuốn HS tìm tòi, khám phá, sáng tạo. Một yêu cầu hết sức quan trọng trong việc khám phá và lĩnh hội tri thức là ở sự hứng thú, mà hứng thú chỉ đến với người học khi họ ở một tâm thế thật sự thoải mái. Có lẽ vì vậy mà trong Thư gửi hội nghị cán bộ phụ trách nhi đồng toàn quốc, Bác viết: “Trong lúc học cũng cần làm cho các cháu vui, trong lúc vui cũng cần làm cho các cháu học. Ở trong nhà trường, trong xã hội, các cháu đều vui, đều học”.
Dạy học Làm văn nói chung cũng như dạy học KNLL ở trường THPT hiện nay chưa đạt hiệu quả cao là do lối dạy áp đặt, gò bó, “dạy cho có lệ” của phần lớn thầy cô khiến HS sợ phải học Văn, sợ các giờ Làm văn. Tuy nhiên, việc học Văn, rèn Văn trong các giờ ngoại khóa lại khiến HS không có cảm giác “sợ” này. Với các em, hoạt động ngoại khóa là một sân chơi thật bổ ích, giúp các em học tập mở rộng kiến thức, rèn luyện nhiều kỹ năng, được giao lưu và được khám phá. Vì vậy, chúng tôi cho rằng: việc tổ chức cho HS tham gia tích cực các hoạt động ngoại khóa văn học có ý nghĩa rất lớn trong quá trình rèn luyện KNLL của các em.
3.2.2.3. Thiết kế một số bài tập rèn KNLL trong hoạt động ngoại khóa Luận văn: Giải phát rèn luyện kỹ năng nghị luận ở THPT
Như đã biết, hoạt động ngoại khóa là một trong những mảng hoạt động giáo dục quan trọng và khá đa dạng về loại hình. Ở đây, chúng tôi chỉ quan tâm đến loại hình hoạt động ngoại khóa Văn học với các hình thức hoạt động: thảo luận, tranh luận, hùng biện; từ đó thiết kế một số bài tập rèn KNLL cho phù hợp các hình thức hoạt động này.
Đối với hoạt động Thảo luận
Thảo luận là trao đổi ý kiến về một vấn đề, có phân tích lí lẽ [60, 917].
- Hoạt động này, chủ yếu là để HS đưa ra những cách nghĩ, cách nhìn nhận vấn đề của mình và trao đổi với bạn bè để tìm ra kết luận cuối cùng, làm sáng tỏ vấn đề cần thảo luận. GV có thể cho HS một số bài tập thảo luận như sau:
- Có ý kiến cho rằng: Người có tính tự chủ là người luôn hành động theo ý mình mà không cần quan tâm đến hoàn cảnh và những người xung quanh. Anh (chị) có tán thành ý kiến trên không? Hãy cùng các bạn thảo luận và bày tỏ quan điểm của mình.
- Trong buổi sinh hoạt về chủ đề tình bạn, có ý kiến cho rằng: “Không nên kết bạn với người thua kém mình vì như thế mình sẽ không tiến bộ được”. Anh (chị) có đồng ý với ý kiến trên không? Hãy cùng các bạn thảo luận và đưa ra quan điểm của mình.
- Hãy thảo luận với các bạn về một số quan điểm sau:
- Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô.
- Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi.
- Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử được người đọc tiếp nhận rất khác nhau. Có người hiểu bài thơ là bức tranh thi vị của xứ Huế, có người lại hiểu bài thơ chỉ là sự giãi bày mối tình riêng tư của tác giả. Theo anh (chị) nên hiểu như thế nào về cảm hứng của bài thơ? Hãy cùng các bạn thảo luận và bày tỏ ý kiến của mình. Luận văn: Giải phát rèn luyện kỹ năng nghị luận ở THPT
Đối với hoạt động Tranh luận
Tranh luận là bàn cãi để tìm ra lẽ phải [60, 1024]. Nếu so với thảo luận thì tranh luận có tính chất “luận chiến” hơn. Trong hoạt động tranh luận, HS có thể sẽ tranh cãi quyết liệt giữa “Đúng” và “Sai” để bảo vệ ý kiến của mình, để tìm ra lẽ phải, chân lí. Trong hoạt động tranh luận, lập luận bác bỏ đóng vai trò chủ đạo. Sau đây là một số bài tập minh hoạ cho hoạt động tranh luận:
- Có hai ý kiến khác nhau được đưa ra tranh luận về bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu:
- Bài thơ thể hiện một quan điểm sống tích cực, khẳng định cái tôi khát khao sống, khát khao dâng hiến.
- Bài thơ chỉ là sự cổ động cho lối sống gấp tiêu cực, vị kỉ và hưởng lạc.
Nếu tham gia tranh luận, anh (chị) tán thành ý kiến nào? Hãy phát biểu để bảo vệ quan điểm của mình.
Có hai cách đánh giá như sau:
- Trọng Thủy chỉ là một kẻ gián điệp, ngay cả việc yêu Mị Châu cũng chỉ là giả dối.
- Giữa Mị Châu và Trọng Thủy có tình yêu chung thủy và hình ảnh “ngọc trai – giếng nước” đã ca ngợi mối tình đó
- kiến riêng của anh (chị) như thế nào?
Đối với hoạt động Hùng biện
Hùng biện là nói hay, giỏi, lập luận chặt chẽ, có sức thuyết phục [60,
469]. Khác với thảo luận và tranh luận, hùng biện có sự đòi hỏi rất cao về nghệ thuật lập luận. Ở hoạt động thảo luận và tranh luận, sự đối thoại diễn ra xuyên suốt hoạt động giữa nhiều HS với nhau, mỗi người một ý. Hoạt động hùng biện thì khác, lúc đầu là sự thảo luận trong nhóm, sau đó đại diện của nhóm sẽ đứng lên hùng biện trước tập thể (nhiều người, nhiều nhóm khác). Chúng ta thường bắt gặp hình thức hùng biện trong các cuộc thi thố tài năng. Chẳng hạn: Trong “Cuộc thi tìm hiểu văn học” có phần thi hùng biện, yêu cầu HS trình bày suy nghĩ về một hiện tượng đời sống, một tư tưởng đạo lí hoặc một vấn đề nào đó trong văn học. Người hùng biện giỏi là người nói hay, lập luận chặt chẽ và có sức thuyết phục cao.
Trong các cuộc thi hùng biện, GV có thể cho một số bài tập như sau:
- Có ý kiến cho rằng: Đọc sách sẽ dần bị mai một trong thời đại “công nghệ” và “nghe nhìn”. Ý kiến của anh (chị) như thế nào?
- Có ý kiến cho rằng: Lớp trẻ hiện nay rất khó tiếp nhận các tác phẩm văn học cổ (văn học trung đại) vì họ không sống trong thời đại đó nên không thể đồng cảm được với những tư tưởng, tình cảm của người xưa, hơn nữa, ngôn ngữ và cách diễn đạt của văn học cổ thực sự là một rào cản cho việc tiếp nhận. Anh (chị) suy nghĩ gì về ý kiến nêu trên?
3.3.3. Rèn KNLL qua việc theo dõi quá trình tự học của HS Luận văn: Giải phát rèn luyện kỹ năng nghị luận ở THPT
Bàn về việc học, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Lấy tự học làm cốt”. Một nhà khoa học Pháp cũng nói: “Văn hóa không nhận được từ ngoài vào mà là kết quả của việc làm bên trong, một việc làm của mình với mình”,… Trong đời sống văn hóa khoa học trong và ngoài nước, xưa và nay, đã có rất nhiều những tấm gương mà sự thành đạt của họ phần quan trọng là nhờ tự học.
Đành rằng tự học không thay thế được học tập chính quy và hệ thống; song, tự học, xét cho kĩ là một vấn đề then chốt của giáo dục đào tạo, đồng thời là một vấn đề có ý nghĩa văn hóa, khoa học, xã hội và chính trị sâu sắc. Đề cao tự học trong bối cảnh hiện nay của đất nước và thế giới là một cách nhìn vừa thực tế vừa có ý nghĩa chiến lược. Bởi vì tự học không chỉ giúp HS nắm vững kiến thức, kỹ năng nhằm nâng cao kết quả học tập mà còn hình thành thói quen học tập của người sinh viên trong tương lai. Tự học còn giúp HS rèn luyện ý chí phấn đấu, đức tính kiên trì, óc phê phán, bồi dưỡng hứng thú học tập và lòng say mê nghiên cứu khoa học.
Vì vậy, việc rèn luyện KNLL cho HS muốn đạt hiệu quả thì không thể tách rời quá trình tự học của bản thân các em. Muốn tạo viết được một bài văn nghị luận hay thì ngoài việc học tập trên lớp, HS phải biết cách tự học và chủ động tự học ở mọi lúc mọi nơi. Nói cách khác, việc tự học có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình rèn luyện KNLL của HS THPT.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy không phải HS nào cũng có ý thức tự học và tự rèn luyện KNLL. Với vai trò là người “dẫn đường”, GV cần có những biện pháp cụ thể, thiết thực nhằm hướng dẫn và theo dõi quá trình tự rèn luyện KNLL của HS. Để việc rèn luyện KNLL đạt hiệu quả, GV có thể định hướng cho HS một số cách tự học như:
- Chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Việc làm này giúp HS tiếp thu bài nhanh hơn trong các giờ học về KNLL (trên lớp).
- Tích cực, chủ động làm tất cả bài tập của SGK và những bài tập bổ sung nhằm rèn luyện KNLL mà GV cho về nhà. Bởi vì “trăm hay không bằng tay quen”, càng làm nhiều bài tập, HS càng tiến bộ.
- Sưu tầm những lời hay ý đẹp, những câu danh ngôn, những đoạn văn hay, những bài văn xuất sắc,… để tham khảo, làm giàu vốn kiến thức và kỹ năng cho mình, v.v…
Để có thể phát huy tối đa hiệu quả của việc tự học lại không lãng phí thời gian, GV cần hướng dẫn HS xây dựng kế hoạch tự học đảm bảo hợp lí giữa học tập và nghỉ ngơi, hợp lí giữa các môn học với nhau và đảm bảo “tính mềm dẻo” của kế hoạch tự học. Về phía HS, khi thực hiện kế hoạch và thời gian biểu tự học, HS cần chú ý “phải làm việc độc lập, biết tập trung tư tưởng, biết tiết kiệm thời gian và có ý thức tự kiểm tra kết hợp với kiểm tra của thầy” [54, 280].
Không chỉ hướng dẫn cách tự học, GV còn phải thường xuyên theo dõi quá trình tự học và tự rèn luyện KNLL của HS. Lâu nay, thầy cô giáo ở trường THPT hầu như không quan tâm đến việc tự học và tự rèn luyện của HS; nếu có thì cũng chỉ dừng lại việc kiểm tra bài tập một cách qua loa, chưa có những biện pháp cụ thể để khích lệ hoặc phê bình sao cho phù hợp với từng đối tượng HS (xem kết quả khảo sát ở chương 1, bảng 1.4). Nguyên nhân là do áp lực của chương trình, cuộc sống bộn bề lo toan, nhưng chủ yếu là tinh thần trách nhiệm của GV chưa cao.
Làm thế nào để thay đổi thực trạng này? Trước hết là ở tinh thần trách nhiệm của mỗi GV và ở thái độ tích cực, chủ động trong học tập của HS. Mỗi thầy cô hãy là một tấm gương sáng trong việc tự học, tự rèn luyện để HS noi theo.
3.4. Thực nghiệm bước đầu ở trường THPT Luận văn: Giải phát rèn luyện kỹ năng nghị luận ở THPT
3.4.1. Mô tả thực nghiệm
- Mục đích thực nghiệm: Kiểm tra tính khả thi của các biện pháp rèn luyện KNLL mà luận văn đã đề xuất. Từ đó đề xuất những hướng giải quyết, khắc phục hạn chế và hoàn thiện luận văn.
- Thời gian thực nghiệm: từ tháng 9 năm 2011 đến tháng 3 năm 2012. Nghĩa là, ngay từ đầu năm học tác giả luận văn đã gặp gỡ và trao đổi những vấn đề cần thực nghiệm với GV; quá trình thực nghiệm kéo dài gần như là cả năm học 2011 – 2012. Vì những biện pháp mà luận văn đưa ra cần phải có thời gian dài để thực hiện thì kết quả mới chính xác, khách quan.
- Địa điểm thực nghiệm: Để có sự thống nhất và tiện cho việc so sánh – đối chiếu nhằm đưa ra những kết luận chính xác, khách quan, chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm tại các trường THPT trên địa bàn TP. HCM và Trường THPT Nguyễn Thái Học (Khánh Học), như phần khảo sát thực trạng ở chương 1 của luận văn.
- Đối tượng thực nghiệm: cũng là 440 HS lớp 10 (như đã khảo sát ở chương 1) nhưng bây giờ các em lên lớp 11. Sở dĩ chúng tôi chọn đối tượng này vì chúng tôi muốn có sự thống nhất trong việc chọn đối tượng khảo sát và cũng để làm rõ một điều là: với cùng một đối tượng khảo sát thì trước và sau khi thực nghiệm các biện pháp mà luận văn đề xuất sẽ có sự thay đổi như thế nào.
3.4.2. Nội dung thực nghiệm
Mặc dù luận văn trình bày khá nhiều vấn đề, nhưng trọng tâm là ở việc xây dựng hệ thống bài tập bổ sung nhằm rèn luyện KNLL cho HS. Mặt khác, do dung lượng của luận văn có giới hạn, nên chúng tôi chỉ tập trung vào việc cho HS làm bài tập rèn luyện KNLL mà luận văn đã xây dựng, chứ không đi sâu vào thực nghiệm giảng dạy.
Hệ thống bài tập này sẽ được GV và HS sử dụng trong các giờ học trên lớp của phân môn Làm văn (từ giờ lý thuyết đến thực hành và trả bài văn nghị luận). Ngoài các giờ trên lớp, hệ thống bài tập này còn được sử dụng trong các giờ ngoại khóa Văn học cũng như việc tự học ở nhà của HS.
Việc thực nghiệm tuân thủ và bám sát theo chương trình cơ bản của Bộ Giáo dục; nếu có thay đổi thì cũng không đáng kể, không làm đảo lộn trật tự và kế hoạch giảng dạy của nhà trường và của bản thân GV thực nghiệm.
3.4.3. Cách thức tiến hành Luận văn: Giải phát rèn luyện kỹ năng nghị luận ở THPT
Bước 1: Tác giả luận văn gặp gỡ và trao đổi với các GV về nội dung thực nghiệm và cách thức thực nghiệm.
Bước 2: Kiểm tra chất lượng bài làm của HS sau khi thực nghiệm để đánh giá hiệu quả của các biện pháp mà luận văn đã đề xuất.
Bước 3: Thống kê kết quả kiểm tra, rút ra kết luận.
3.4.4. Cách thức đánh giá
Sau một thời gian dài tiến hành thực nghiệm, chúng tôi sẽ cho HS làm bài kiểm tra để đánh quá trình rèn luyện KNLL của HS. Thời gian kiểm tra là vào cuối đợt thực nghiệm (tháng 3 năm 2012), như vậy kết quả thực nghiệm mới có thể khách quan, chính xác.
GV ra một đề văn nghị luận và yêu cầu HS làm bài trong thời gian 90 phút. GV chấm bài, đánh giá kết quả bài làm đạt và không đạt yêu cầu; đánh giá những lỗi về lập luận mà HS thường mắc phải (xem tiêu chí đánh giá ở chương 1, mục 1.1.5). Căn cứ vào kết quả kiểm tra, chúng tôi sẽ tiến hành so sánh – đối chiếu, phân tích – tổng hợp, từ đó đánh giá mức độ chênh lệch giữa kết quả trước và sau khi thực nghiệm nhằm kiểm tra tính hiệu quả của các biện pháp mà luận văn đã đề xuất.
Bài kiểm tra được đưa ra để đánh giá chất lượng HS tất nhiên không lặp lại lần trước nhưng có cùng kiểu, cùng mức độ, yêu cầu chất lượng như nhau, độ khó – dễ cũng tương đương với nhau.
3.4.5. Phép đo thực nghiệm Luận văn: Giải phát rèn luyện kỹ năng nghị luận ở THPT
Chúng tôi thống nhất kiểm tra trên tổng số 440 HS. Điều này có nghĩa là đối tượng khảo sát và thực nghiệm là như nhau, chỉ thay đổi ở chỗ: khi khảo sát thực trạng, các em là HS lớp 10, bây giờ các em lên lớp 11 (sau khi đã được thực nghiệm những biện pháp rèn luyện KNLL mà luận văn đề xuất trong thời gian gần một năm). Bài làm văn mà chúng tôi khảo sát là Bài viết số 6 theo phân phối chương trình Làm văn 11 (cơ bản) ở trường THPT hiện nay.
3.4.5.1. Đề kiểm tra
“Như một thứ a-xit vô hình, thói vô trách nhiệm ở mỗi cá nhân có thể làm ăn mòn cả một xã hội”. Từ ý kiến này, anh (chị) suy nghĩ như thế nào về tinh thần trách nhiệm và thói vô trách nhiệm của con người trong cuộc sống hiện nay.
3.4.5.1. Yêu cầu cần đạt
Mở bài: Nêu vấn đề “thói vô trách nhiệm ở mỗi cá nhân như một thứ a-xit có thể làm ăn mòn cả xã hội”. (1 điểm)
Thân bài: Lần lượt triển khai các luận điểm, luận cứ làm rõ vấn đề:
Giải thích ý kiến: (2 điểm)
- Về nội dung, ý kiến này đề cập đến mối nguy hại ngấm ngầm rất cần cảnh giác của thói vô trách nhiệm; nó xuất phát từ mỗi các nhân nhưng lại gây hậu quả to lớn đối với toàn xã hội.
- Về thực chất, ý kiến này là sự cảnh báo về một vấn nạn đạo đức mang tính thời sự: thói vô trách nhiệm và hậu quả khôn lường của nó.
- Luận bàn về tinh thần trách nhiệm và thói vô trách nhiệm của con người:
Tinh thần trách nhiệm: (2 điểm)
- Tinh thần trách nhiệm là ý thức và nỗ lực nhằm hoàn thành tốt những phận sự của mình. Nó được thể hiện cụ thể và sống động trong ba mối quan hệ cơ bản: giữa cá nhân với gia đình, cá nhân với toàn xã hội và cá nhân với bản thân mình.
- Tinh thần trách nhiệm là một phẩm chất cao đẹp, một thước đo giá trị con người; là cơ sở để xây dựng hạnh phúc của mỗi gia đình; đồng thời tinh thần trách nhiệm cũng góp phần quan trọng tạo nên quan hệ xã hội tốt đẹp, thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Thói vô trách nhiệm: (2 điểm)
- Thói vô trách nhiệm là một biểu hiện của lối sống phi đạo đức, thể hiện ở ý thức và hành động không làm tròn phận sự của mình đối với xã hội, gia đình và bản thân, gây nên những hậu quả tiêu cực. Hiện nay, do nhiều nguyên nhân khác nhau, lối sống ấy đang khá phổ biến, trở thành một vấn nạn trong xã hội.
- Tác hại của thói vô trách nhiệm: làm băng hoại đạo đức; gây tổn hại hạnh phúc gia đình; gây tổn thất cho cộng đồng, kìm hãm sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Bài học nhận thức và hành động: (2 điểm)
- Bản thân cần nhận thức sâu sắc tinh thần trách nhiệm là thước đo phẩm giá con người; không ngừng nâng cao ý thức trách nhiệm của mình trong mọi lĩnh vực đời sống.
- Cần ý thức rõ tác hại và có thái độ kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện của thói vô trách nhiệm trong xã hội.
Kết bài: Khẳng định lại vấn đề và liên hệ với bản thân. (1 điểm)
3.4.6. Kết quả thực nghiệm bước đầu Luận văn: Giải phát rèn luyện kỹ năng nghị luận ở THPT
Bảng 3.1: Kết quả bài làm đạt và không đạt yêu cầu
Trong đó: – N là tổng số bài làm của HS;
- n1 là số bài làm đạt yêu cầu ;
- n2 là số bài làm không đạt yêu cầu.
Bảng 3.2: Tổng hợp kết quả bài làm trước và sau khi thực nghiệm
Trong đó: – T là thời điểm đánh giá;
- T1: Trước khi thực nghiệm;
- T2: Sau khi thực nghiệm;
- N là tổng số bài làm của HS;
- n1 là số bài làm đạt yêu cầu;
- n2 là số bài làm không đạt yêu cầu.
Bảng 3.3: Kết quả các loại lỗi về lập luận
Trong đó:- N là tổng số bài làm của HS
- n là số lỗi về lập luận (ở từng loại)
(Lưu ý: Một bài làm văn của HS có thể mắc nhiều lỗi khác nhau. Trong bảng thống kê này, chúng tôi chỉ tập trung vào những lỗi cơ bản về lập luận mà HS mắc phải; và cũng chỉ tính từng loại lỗi về lập luận so với tổng số bài).
Bảng 3.4: Tổng hợp kết quả các loại lỗi về lập luận trước và sau khi thực nghiệm
Trong đó: – T là thời điểm đánh giá;
- T1: Trước khi thực nghiệm;
- T2: Sau khi thực nghiệm;
- N là tổng số bài làm của HS;
- n là số lỗi về lập luận (ở từng loại).
3.4.7. Đánh giá chung về kết quả thực nghiệm Luận văn: Giải phát rèn luyện kỹ năng nghị luận ở THPT
Căn cứ vào kết quả tổng hợp ở các bảng trên đây, chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:
- Kết quả bài làm của HS trước và sau khi thực nghiệm có sự chuyển biến rõ rệt. Trước khi thực nghiệm những biện pháp mà luận văn đề xuất, chỉ có 156 bài làm đạt yêu cầu về lập luận (chiếm 35.5%). Nhưng sau khi thực nghiệm những biện pháp mà luận văn đề xuất thì kết quả bài làm đạt yêu cầu về lập luận đã tăng lên đến 315 bài (chiếm 71.6%). Đồng thời số bài làm không đạt yêu cầu về lập luận có sự giảm xuống từ 284 (64.5%) còn 125 (28.4%). Đây là một sự chuyển biến khá lớn về số lượng cũng như chất lượng.
- Kết quả các loại lỗi về lập luận mà HS thường mắc phải cũng giảm đi khá nhiều. Cụ thể là:
- Luận điểm không rõ ràng giảm từ 85.2% xuống còn 19.8% (tức là giảm 65.4%).
- Luận cứ không chính xác giảm từ 64.5% xuống còn 15.7% (tức là giảm 48.8%).
- Luận chứng thiếu logic giảm từ 75.5% xuống còn 18.2% (tức là giảm 57.3%).
Trên thực tế, đối tượng khảo sát (ở chương 1) và thực nghiệm (ở chương 3) là không có sự thay đổi (vẫn là 440 HS đó). Có chăng, sự thay đổi đây là khi khảo sát thực trạng: các em học lớp 10, bây giờ các em lên lớp 11 (có sự trưởng thành hơn trong nhận thức). Nhưng chúng tôi cho rằng sự phát triển về nhận thức vẫn chưa phải là nguyên nhân chính dẫn đến sự tiến bộ trong bài làm văn của HS. Cái chính ở đây là trong suốt quá trình từ lớp 10 đến lớp 11 – một khoảng thời gian khá dài – các em được học tập và rèn luyện KNLL theo những biện pháp mà luận văn đưa ra. Bằng những việc làm cụ thể thiết thực, đặc biệt là sự chăm chỉ luyện tập, đến nay sự cố gắng của các em đã thu được kết quả.
Tuy nhiên, đây cũng chỉ là những kết quả ban đầu, mặc dù có nhiều khả quan nhưng để tránh sự lí tưởng hóa chúng tôi cho rằng những biện pháp mà luận văn đề xuất vẫn cần có nhiều thời gian để thực tế kiểm nghiệm và cần nhiều sự đóng góp chân thành từ nhiều phía để trong thời gian gần nhất, những biện pháp mà luận văn đề xuất thật sự là những trao đổi thiết thực, mang tính sư phạm và có giá trị thực tiễn.
KẾT LUẬN
“Văn nghị luận là tiếng nói của trí tuệ, của lí trí, nó thuyết phục người đọc chủ yếu bằng nội dung luận thuyết, chất liệu và sức mạnh chủ yếu của nó là lí lẽ, là lập luận. Cho nên muốn viết tốt một bài văn nghị luận, chúng ta phải rèn luyện KNLL, thực chất là phải mài sắc năng lực tư duy logic, tư duy lý luận và trau luyện óc suy nghĩ khoa học” [12, 178].
Tuy nhiên, kết quả khảo sát thực tế dạy – học ở trường THPT hiện nay đã cho thấy việc rèn luyện KNLL trong văn nghị luận vẫn còn nhiều vấn đề “nan giải” từ chương trình dạy học đến phương pháp giảng dạy của GV và cả tinh thần, thái độ học tập của HS. Muốn nâng cao chất lượng dạy – học KNLL ở trường THPT hiện nay nhất thiết phải có sự thay đổi đồng bộ ở cả ba yếu tố: SGK, GV và HS.
Qua việc nghiên cứu lý thuyết lập luận trong chương trình Làm văn bậc THPT và lý thuyết lập luận dưới góc độ Ngữ dụng học, chúng tôi đã mạnh dạn đưa ra những nhận xét về ưu điểm và hạn chế của lý thuyết lập luận trong chương trình Làm văn, đồng thời đề xuất những ý kiến về sự bổ sung của Ngữ dụng học vào đổi mới lý thuyết lập luận ở phân môn Làm văn. Từ lý thuyết này, chúng tôi đã xây dựng hệ thống bài tập rèn luyện KNLL và tiến hành thực nghiệm bước đầu ở trường THPT để kiểm tra, đánh giá tính hiệu quả của chúng.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn không tránh khỏi những khó khăn về việc thu thập các tài liệu tham khảo, nhất là tài liệu tham khảo ở bình diện Ngữ dụng học. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn cố gắng trình bày một cách cụ thể các khía cạnh đóng góp của bình diện Ngữ dụng học vào dạy – học KNLL sao cho thống nhất từ lý thuyết đến thực hành.
“Dạy Làm văn thực chất là dạy thực hành Làm văn” [46, 285]. Cho nên những biện pháp rèn luyện KNLL mà luận văn đưa ra chủ yếu là: sử dụng hợp lí hệ thống bài tập của SGK trong các giờ học Làm văn và xây dựng hệ thống bài tập bổ sung phù hợp với năng lực của HS (theo lý thuyết lập luận của Ngữ dụng học). Ngoài ra, luận văn còn đề cập đến những biện pháp khác nhằm rèn KNLL cho HS như: rèn KNLL qua việc tích hợp với các giờ Đọc – hiểu văn bản nghị luận và giờ Tiếng Việt; rèn KNLL qua việc tổ chức các hoạt động ngoại khóa và rèn KNLL qua việc theo dõi quá trình tự học, tự rèn luyện của HS.
Lúc đầu, khi thực hiện đề tài này, chúng tôi băn khoăn: Với thời lượng chương trình dành cho việc dạy học KNLL ở trường THPT còn ít như hiện nay, GV phải làm sao để phân bố thời gian dạy lý thuyết và thực hành cho hợp lí? Liệu GV có thật sự quan tâm đến những đóng góp của bình diện Ngữ dụng học vào dạy – học KNLL không? HS có thật sự hứng thú và tích cực rèn luyện KNLL qua những biện pháp mà luận văn đề xuất không?,… Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng việc rèn luyện KNLL không chỉ được thực hiện trong chương trình chính khóa mà còn được thực hiện trong các hoạt động ngoại khóa, không chỉ ở phân môn Làm văn mà còn tích hợp ở các phân môn khác như Văn học – Tiếng Việt, không chỉ ở trên lớp mà còn ở quá trình tự học, tự rèn luyện (ở nhà) của HS. Và điều quan trọng là trước hết phải nâng cao nhận thức của GV và HS về tầm quan trọng của việc rèn luyện KNLL trong dạy học Làm văn.
Thay đổi thực trạng dạy học ở trường THPT không phải là việc làm “một sớm, một chiều”, đặc biệt là thực trạng dạy học KNLL của phân môn Làm văn – vốn là một lĩnh vực khó khăn. Vì vậy, những biện pháp mà luận văn đề xuất cần được tiếp tục kiểm nghiệm trong thực tế một cách rộng rãi, đầy đủ và lâu dài hơn. Tuy nhiên, với những nổ lực cố gắng, chúng tôi mong rằng những biện pháp mà luận văn đề xuất sẽ đóng góp tích cực vào việc rèn luyện KNLL trong văn nghị luận của HS, từ đó nhằm nâng cao chất lượng dạy – học Làm văn ở trường THPT hiện nay. Luận văn: Giải phát rèn luyện kỹ năng nghị luận ở THPT
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Rèn luyện kỹ năng lập luận cho học sinh THPT