Luận văn: Giải pháp quản trị lợi nhuận Của các Cty Chứng khoán

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Giải pháp quản trị lợi nhuận Của các Cty Chứng khoán hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Nghiên cứu mối quan hệ giữa quản trị công ty và hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết trên Sở giao dịch Chứng khoán Tp.HCM dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

4.1 Kết quả hồi quy mô hình nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận Luận văn: Giải pháp quản trị lợi nhuận Của các Cty Chứng khoán

Trước khi tiến hành hồi quy, tác giả tiến hành phân tích tương quan để phát hiện hiện tượng đa cộng tuyến. Kết quả phân tích tương quan được trình bày trong bảng 4.1 chi tiết được trình trong phụ lục 01.

Bảng 4.1: Bảng ma trận tương quan giữa các biến trong mô hình (*)

Như vậy, theo kết quả trong bảng 4.1 thì với mẫu nghiên cứu trong bài thì mô hình (*) có hiện tượng đa cộng tuyến giữa biến X1 và biến X3 vì hệ số tương quan rất cao (0.9931 ≈ 1). Do đó, tác giả sẽ lưu ý các hệ số trong mô hình (*) khi tiến hành hồi quy. Nếu mô hình xảy ra hiện tượng dấu các hệ số không giống như kì vọng và hệ số không có ý nghĩa thống kê trong khi R2 cao thì tác giả sẽ tiến hành khắc phục hiện tượng trên.

Sau khi tiến hành phân tích tương quan tác giả tiến hành phân tích hồi quy mô hình (*) với 3 mô hình là Pooled OLS, mô hình REM và mô hình FEM. Kết quả hồi quy mô hình (*) với 3 mô hình Pooled OLS, mô hình REM và mô hình FEM trình bày trong bảng 4.2 (chi tiết trình bày trong phụ lục 02, phụ lục 03, phụ lục 04). Theo đó, ta có thể thấy rằng hiện tượng đa cộng tuyến được phát hiện thông qua phân tích tương quan không ảnh hưởng đến ước lượng khi mà dấu của các hệ số của cả 3 mô hình vẫn giống với kì vọng.

Bảng 4.2: Kết quả hồi quy mô hình Pooled OLS, FEM, REM giai đoạn 1

Để lựa chọn mô hình phù hợp giữa 3 mô hình Pooled OLS, FEM và REM tác giả tiến hành các kiểm định LM, và hoặc kiểm định Hausman hoặc kiểm định Likelihood.

Đầu tiên tác giả thực hiện kiểm định LM để lựa chọn giữa mô hình Pooled OLS và mô hình REM. Kết quả kiểm định LM (Phụ lục 05) có giá trị P-value = 0.0291 nhỏ hơn 0.05 tức là mô hình REM phù hợp hơn mô hình Pooled OLS với mức ý nghĩa 5%.

Kiểm định LM cho kết quả mô hình REM phù hợp hơn mô hình Pooled OLS nên tác giả tiến hành kiểm định Hausman để lựa chọn giữa REM và FEM. Kết quả kiểm định Hausman (Phụ lục 6) để lựa chọn giữa REM và FEM có P-value = 0.0092 nhỏ hơn 0.05 tức là mô hình FEM phù hợp hơn mô hình REM với mức ý nghĩa 5%.

Sau khi tiến hành kiểm định LM và kiểm định Hausman thì kết quả kiểm định cho thấy mô hình FEM là phù hợp với mẫu nghiên cứu hơn so với mô hình Pooled OLS và mô hình REM nên tác giả tiến hành kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi và tự tương quan cho mô hình FEM.

Kernel density estimate

Kernel density estimate

Normal density

kernel = epanechnikov, bandwidth = 0.0258

Biểu đồ 4.1: Biểu đồ phân phối của phần dư của mô hình FEM giai đoạn 1

Biểu đồ 4.1 cho thấy phần dư của mô hình FEM không có phân phối chuẩn nên tác giả kết luận mô hình FEM xảy ra hiện tượng phương sai thay đổi. Và kết quả kiểm định Wooldridge (Phụ lục 07) có P-value = 0.0077 nhỏ hơn 0.05 nên mô hình FEM cũng xảy ra hiện tượng tự tương quan với mức ý nghĩa 5%. Như vậy, mô hình FEM trong giai đoạn 1 xảy ra cả hiện tượng phương sai thay đổi và hiện tượng tự tương quan nên tác giả sẽ chuyển sang mô hình GLS với tùy chọn khắc phục cả hiện tượng phương sai thay đổi và hiện tượng tự tương quan.

Kết quả ước lượng mô hình GLS với tùy chọn khắc phục hiện tượng phương sai thay đổi và tự tương quan được trình bày trong bảng 4.6 chi tiết được trình bày trong phụ lục 08.

Bảng 4.3: Bảng kết quả ước lượng mô hình GLS giai đoạn 1

Biến phụ thuộc

Sau khi hồi quy theo mô hình GLS với tùy chọn khắc phục bệnh thì mô hình đã được khắc phục hiện tượng phương sai thay đổi và tự tương quan và cho kết quả về kiểm định t-test – kiểm định sự phù hợp của các hệ số hồi quy trong mô hình GLS đều có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 1% (P-value = 0.000). Và kiểm định

Wald-Chi2 – kiểm định sự phù hợp của mô hình cũng có ý nghĩa với mức ý nghĩa 1%. Dấu của các hệ số trong mô hình vẫn giống với kì vọng (hệ số ∝1  mang dấu ảnh hưởng tới ước lượng của mô hình. Do đó, tác giả có được các hệ số ∝1 = 9948.027; ∝2 = 0.0399873 và ∝3 = -0.0072398 có ý nghĩa thống kê. Theo đó, biến dồn tích có điều chỉnh (DA) được đo lường theo phương trình (4):

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế

4.2 Kết quả phân tích mối quan hệ giữa quản trị công ty và hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Luận văn: Giải pháp quản trị lợi nhuận Của các Cty Chứng khoán

4.2.1 Phân tích thống kê mô tả

Kết quả phân tích thống kê mô tả các biến trong mô hình (**) sẽ được trình bày thành hai phần là thống kê mô tả cho biến liên tục (bảng 4.4 chi tiết được trình bày trong phụ lục 09) và thống kê mô tả cho biến không liên tục (bảng 4.5 chi tiết được trình bày trong phụ lục 10)

Bảng 4.4: Bảng thống kê mô tả cho biến liên tục trong mô hình (**)

Biến EM là biến đại diện cho hành vi điều chỉnh lợi nhuận có giá trị lớn nhất là 2.329, giá trị nhỏ nhất là (-0.870). Giá trị trung bình là 0.021 và độ lệch chuẩn là 0.202 cho thấy các công ty trong mẫu không có sự đồng đều trong điều chỉnh lợi nhuận. Các công ty trong mẫu điều chỉnh trong khoảng giảm từ 0.180 đến tăng 0.223.

Biến BDNEXE là biến đại diện cho tỷ lệ các thành viên Hội đồng quản trị không điều hành có giá trị lớn nhất là 1 nhỏ nhất là 0 cho thấy có những công ty không có thành viên điều hành trong Hội đồng quản trị nhưng cũng có công ty toàn bộ thành viên Hội đồng quản trị đều tham gia điều hành. Tỷ lệ các thành viên Hội đồng quản trị không tham gia điều hành trong mẫu trung bình trong mẫu là 0.561 với độ lệch chuẩn là 0.189 có thể thấy tỷ lệ các thành viên không tham gia điều hành trong Hội đồng quản trị dao động trong khoảng 0.372 đến 0.750.

Biến BDIND là biến đại diện cho tỷ lệ các thành viên Hội đồng quản trị độc lập có giá trị lớn nhất là 0.75 nhỏ nhất là 0 cho thấy có những công ty không có thành viên độc lập trong Hội đồng quản trị nhưng cũng có công ty 3/4 thành viên Hội đồng quản trị độc lập. Tỷ lệ các thành viên Hội đồng quản trị độc lập trong mẫu là 0.196 với độ lệch chuẩn là 0.203 có thể thấy tỷ lệ các thành viên độc lập trong Hội đồng quản trị dao động trong khoảng 0 đến 4.

Biến BDSIZE là đại diện cho quy mô Hội đồng quản trị với quy mô nhỏ nhất là 4 thành viên và nhiều nhất là 11 thành viên. Trung bình trong mẫu quy mô Hội đồng quản trị khoảng 5.814 với độ lệch chuẩn là 1.185 cho thấy có sự đồng đều cao trong quy mô Hội đồng quản trị, dao động khoảng từ 5 thành viên đến 7.

Biến AUDIND là biến đại diện cho tỷ lệ thành viên Ban kiểm soát không kiêm nhiệm chức vụ trong công ty có giá trị lớn nhất là 1 và thấp nhất là 0. Cho thấy có những công ty có tất cả thành viên Ban kiểm soát là thành viên bên ngoài nhưng cũng có công ty toàn bộ Ban kiểm soát là thành viên kiêm nhiệm. Với giá trị trung bình là 0.631 và độ lệch chuẩn là 0.310 cho thấy tỷ lệ thành viên Ban kiểm soát không kiêm nhiệm chức vụ trong công ty dao động từ 0.321 đến 0.941. Luận văn: Giải pháp quản trị lợi nhuận Của các Cty Chứng khoán

Biến FNEXPERT là biến đại diện cho tỷ lệ thành viên Ban kiểm soát có chuyên môn về tài chính – kế toán – kiểm toán. Tương tự như biến AUDIND biến FNEXPERT cũng có giá trị lớn nhất là 1 và thấp nhất là 0. Cho thấy có những công ty có Ban kiểm soát với tất cả thành viên có chuyên môn về tài chính – kế toán – kiểm toán nhưng cũng có công ty tất cả thành viên Ban kiểm soát không có chuyên môn về tài chính – kế toán – kiểm toán. Với giá trị trung bình là 0.683 và độ lệch chuẩn là 0.257 cho thấy tỷ lệ thành viên Ban kiểm soát không có chuyên môn tài chính – kế toán – kiểm toán dao động từ 0.326 đến 0.940.

Biến STKOWN là biến đại diện cho tỷ lệ cổ phiếu nắm giữ bởi thành viên Hội đồng quản trị không điều hành có giá trị lớn nhất là 0.875 và thấp nhất là 0. Cho thấy có những công ty thành viên Hội đồng quản trị không điều hành không nắm giữ cổ phiếu và có công ty thì thành viên Hội đồng quản trị không điều hành nắm giữ tới hơn 3/4 cổ phiếu của công ty. Với giá trị trung bình là 0.183 và độ lệch chuẩn là 0.201 cho thấy tỷ lệ cổ phiếu nắm giữ bởi thành viên Hội đồng quản trị không điều hành dao động từ 0 đến 0.384.

Biến MANOWN là biến đại diện cho tỷ lệ cổ phiếu nắm giữ bởi Ban giám đốc có giá trị lớn nhất là 0.678 và thấp nhất là 0. Cho thấy có những công ty có sự tách biệt rõ ràng về quyển sở hữu và quyền kiểm soát khi mà Ban giám đốc không hề nắm giữ cổ phiếu và có công ty lại có sự gắn kết lợi ích của Ban giám đốc với lợi ích chung của công ty rất lớn khi mà Ban giám đốc nắm giữ tới hơn 2/3 cổ phiếu của công ty. Với giá trị trung bình là 0.167 và độ lệch chuẩn là 0.171 cho thấy tỷ lệ cổ phiếu nắm giữ bởi Ban giám đốc dao động từ 0 đến 0.338.

Biến AUDOWN là biến đại diện cho tỷ lệ cổ phiếu nắm giữ bởi Ban kiểm soát có giá trị lớn nhất là 0.651 và thấp nhất là 0. Cho thấy có những công ty có Ban kiểm soát là những cổ đông lớn hoặc đại diện cho cổ đông lớn nắm giữ hơn 2/3 cổ phiếu của công ty, nhưng cũng có công ty Ban kiểm soát hoàn toàn không nắm giữ cổ phiếu. Với giá trị trung bình là 0.013 và độ lệch chuẩn là 0.06 cho thấy tỷ lệ cổ phiếu nắm giữ bởi Ban kiểm soát dao động từ 0 đến 0.073. Những công ty có Ban kiểm soát là cổ đông lớn hay đại diện cho cổ đông lớn là rất hiếm, chủ yếu những cổ đông lớn hay đại diện cho cổ đông lớn thường ngồi ở vị trí Hội đồng quản trị thay vì Ban kiểm soát. Vì Ban kiểm soát ở Việt Nam không có thẩm quyền như Ủy ban kiểm toán, Ban kiểm soát không có thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm hay cách chức các thành viên trong Hội đồng quản trị.

Biến CFO là biến đại diện cho lưu chuyển tiền thuần từ HĐKD của công ty có giá trị lớn nhất là 6,251,743 triệu và thấp nhất là (-2,195,205 triệu). Cho thấy có những công ty có dòng tiền vào rất lớn nhưng cũng có những công ty lại có dòng tiền ra lớn hơn dòng tiền vào rất nhiều. Với giá trị trung bình là 98,946.2 triệu và độ lệch chuẩn là 506,342.2 triệu cho thấy dòng tiền từ HĐKD của các công ty trong mẫu dao động từ (-407,396 triệu) đến 605,288.4 triệu.

Bảng 4.5: Bảng thống kê mô tả cho biến không liên tục trong mô hình (**)

Biến DUAL là biến giả đại diện cho việc tách vai trò Chủ tịch Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc. Biến DUAL có giá trị bằng 1 nếu Chủ tịch Hội đồng quản trị không phải là Tổng giám đốc, ngược lại thì bằng 0. Theo thống kê trong bảng 4.8 thì trong tổng số 590 quan sát có 205 quan sát có giá trị bằng 0 tương ứng với tỷ lệ là 40.41%, và có 300 quan sát có giá trị bằng 1 tương ứng với 59.41%. Như vậy, tỷ lệ các công ty có Chủ tịch Hội đồng quản trị không đồng thời là Tổng giám đốc chiếm tỷ lệ 59.4%. Một con số gần như là 50 – 50, có thể nói rằng một nửa mẫu các công ty có Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc – hai vị trí quyền lực trong công ty do một cá nhân đảm nhiệm.

4.2.2 Phân tích tương quan Luận văn: Giải pháp quản trị lợi nhuận Của các Cty Chứng khoán

Kết quả phân tích tương quan các biến trong mô hình (**) được trình bày trong bảng 4.6 chi tiết trình bày trong phụ lục 11.

Xét cặp biến thứ nhất, biến phụ thuộc EM và biến độc lập DUAL, ta thấy biến DUAL có tương quan nghịch với biến EM với hệ số tương quan là (-0.0558). Điều nay phù hợp với dự đoán của tác giả rằng việc tách biệt vai trò Chủ tịch Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc thì tương quan nghịch với hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Tuy nhiên với chỉ số Sig (0.2103) lớn hơn 0.05. thì hệ số tương quan không có ý nghĩa thống kê.

Xét cặp biến thứ hai, biến phụ thuộc EM và biến độc lập BDNEXE, ta thấy biến BDNEXE có tương quan nghịch với biến EM với hệ số tương quan là (-0.0314). Điều này phù hợp với dự đoán của tác giả rằng tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị không điều hành tương quan nghịch với hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Tuy nhiên với chỉ số Sig (0.4815) lớn hơn 0.05. thì hệ số tương quan không có ý nghĩa thống kê.

Xét cặp biến thứ ba, biến phụ thuộc EM và biến độc lập BDIND, ta thấy biến BDIND có tương quan nghịch với biến EM với hệ số tương quan là (-0.0452). Hay tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị độc lập thì tương quan nghịch với hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Tuy nhiên, hệ số tương quan lại không có ý nghĩa thống kê khi chỉ số Sig (0.9913) lớn hơn 0.05.

Xét cặp biến thứ tư, biến phụ thuộc EM và biến độc lập BDSIZE, ta thấy biến BDSIZE có tương quan nghịch với biến EM với hệ số tương quan là (-0.0116). Hay quy mô Hội đồng quản trị thì tỷ lệ nghịch với hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Tuy nhiên, hệ số tương quan lại không có ý nghĩa thống kê khi chỉ số Sig (0.3105) lớn hơn 0.05.

Xét cặp biến thứ năm, biến phụ thuộc EM và biến độc lập AUDIND, ta thấy biến AUDIND có tương quan nghịch với biến EM với hệ số tương quan là (-0.0005). Điều này phù hợp với dự đoán của tác giả rằng tỷ lệ thành viên Ban kiểm soát không kiêm nhiệm chức vụ trong công ty thì tương quan nghịch biến với hành điều chỉnh lợi nhuận. Tuy nhiên, hệ số tương quan lại không có ý nghĩa thống kê khi chỉ số Sig (0.8060) lớn hơn 0.05.

Xét cặp biến thứ sáu, biến phụ thuộc EM và biến độc lập FNEXPERT, ta thấy biến FNEXPERT có tương quan nghịch với biến EM với hệ số tương quan là (-0.0030). Điều này phù hợp với dự đoán của tác giả rằng tỷ lệ thành viên Ban kiểm soát có chuyên môn về tài chính – kế toán – kiểm toán thì tương quan nghịch biến với hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Tuy nhiên, hệ số tương quan lại không có ý nghĩa thống kê khi chỉ số Sig (0.9498) lớn hơn 0.05.

Xét cặp biến thứ bảy, biến phụ thuộc EM và biến độc lập STKOWN, ta thấy biến STKOWN có tương quan thuận với biến EM với hệ số tương quan là 0.0305. Tác giả đã dự đoán rằng tỷ lệ cổ phiếu nắm giữ bởi thành viên Hội đồng quản trị không điều hành tương quan nghịch biến với hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Tuy nhiên, Trong phân tích này lại cho kết quả biến STKOWN tương quan thuận với biến EM, dù vậy nhưng hệ số tương quan không có ý nghĩa thống kê khi chỉ số Sig (0.5130) lớn hơn 0.05.

Xét cặp biến thứ tám, biến phụ thuộc EM và biến độc lập MANKOWN, ta thấy biến MANOWN có tương quan nghịch với biến EM với hệ số tương quan là (-0.0762). Điều này phù hợp với dự đoán rằng tỷ lệ cổ phiếu nắm giữ bởi Ban giám đốc thì tương quan nghịch biến với hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Tuy nhiên, hệ số tương quan không lại có ý nghĩa thống kê khi chỉ số Sig (0.1003) lớn hơn 0.05.

Xét cặp biến thứ tám, biến phụ thuộc EM và biến độc lập AUDKOWN, ta thấy biến AUDOWN có tương quan nghịch với biến EM với hệ số tương quan là (-0.0032). Điều này phù hợp với dự đoán rằng tỷ lệ cổ phiếu nắm giữ bởi Ban kiểm soát thì tương quan nghịch biến với hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Tuy nhiên, hệ số tương quan không lại có ý nghĩa thống kê khi chỉ số Sig (0.9450) lớn hơn 0.05.

Cặp biến cuối cùng là biến phụ thuộc EM với biến kiểm soát CFO, ta thấy biến CFO có tương quan nghịch với biến EM với hệ số tương quan là (-3135) và chỉ số Sig = 0.000. Như vậy, hệ số tương quan giữa biến CFO và biến EM có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa là 1%. Hay dòng tiền từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tương quan nghịch với hành vi điều chỉnh lợi nhuận.

Bảng 4.6: Bảng ma trận tương quan giữa các biến trong mô hình (**)

Theo kết quả phân tích tương quan trong bảng 4.6 thì các hệ số tương quan giữa các biến độc lập trong mô hình (**) có ý nghĩa thống kê đều nhỏ hơn 0.8 hay ta có thể kết luận không có hiện tượng đa cộng tuyến trong mẫu nghiên cứu.

Mô hình không xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến nên ta có thể yên tâm về kì vọng dấu của các hệ số. Hai hiện tượng cần quan tâm còn lại là hiện tượng phương sai thay đổi và hiện tượng tự tương quan.

4.2.1 Phân tích hồi quy Luận văn: Giải pháp quản trị lợi nhuận Của các Cty Chứng khoán

Tương tự như giai đoạn 1, tác giả cũng hồi quy mô hình (**) theo 3 mô hình là mô hình Pooled OLS, mô hình REM, mô hình FEM. Kết quả ước lượng được trình bày trong bảng 4.7 chi tiết trình bày trong phụ lục 12, phụ lục 13 và phụ lục 14.

Theo kết quả trong bảng 4.10 thì mô hình Pooled OLS có kết quả với nhiều biến có ý nghĩa thống kê hơn mô hình REM và mô hình FEM.

Mô hình Pooled OLS cho kết quả là biến DUAL có tương quan nghịch với biến EM có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 5% (P-value = 0.014). Biến BDNEXE tương quan nghịch với biến EM có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 5% (P-value = 0.014). Biến STKOWN có tương quan thuận với biến EM có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 5% (P-value = 0.040). Biến MANOWN có tương quan nghịch với biến EM có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 1% (P-value = 0.003). Biến CFO có tương quan nghịch với biến EM có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 1% (P-value = 0.000).

Mô hình REM cho kết quả biến BDNEXE tương quan nghịch với biến EM có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 5% (P-value = 0.049). Biến MANOWN có tương quan nghịch với biến EM có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 5% (P-value = 0.032). Biến CFO có tương quan nghịch với biến EM có ý nghĩa thống kê với mức nghĩa 1% (P-value = 0.000).

Trong khi mô hình Pooled OLS và mô hình REM cho kết quả có những biến có ý nghĩa thống kê thì mô hình FEM lại cho kết quả là không có hệ số nào có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, tác giả sẽ không lựa chọn mô hình dựa vào kết quả này mà vẫn tiến hành các kiểm định để lựa chọn.

Bảng 4.7: Bảng kết quả hồi quy mô hình Pooled OLS, FEM, REM giai đoạn 2

Để lựa chọn giữa mô hình Pooled OLS, mô hình REM, mô hình FEM, tác giả cũng tiến hành các kiểm định là kiểm định LM và hoặc kiểm định Hausman hoặc kiểm định Likelihood.

Đầu tiên, tác giả cũng tiến hành kiểm định LM để lựa chọn giữa mô hình Pooled OLS và mô hình REM. Kết quả kiểm định LM (phụ lục 15) cho thấy giá trị P-value = 0.0524 lớn hơn 0.05, do đó, ta bác bỏ giả thuyết H0, hay mô hình Pooled OLS phù hợp hơn mô hình REM.

Vì mô hình Pooled OLS thể hiện sự phù hợp hơn mô hình REM nên tác giả tiến hành kiểm định Likelihood để lựa chọn giữa mô hình Pooled OLS và mô hình FEM thay vì kiểm định Hausman như giai đoạn 1. Kết quả quả kiểm định Likelihood (phụ lục 14) có P-value = 0.000 nhỏ hơn 0.05 nên mô hình FEM phù hợp hơn mô hình Pooled OLS với mức ý nghĩa 5%.

Như vậy, sau các kiểm định để lựa chọn giữa 3 mô hình thì mô hình FEM thể hiện sự phù hợp hơn mô hình Pooled OLS và REM nên tác giả tiến hành các kiểm định về hiện tượng phương sai thay đổi và hiện tượng tự tương quan cho mô hình FEM.

Biểu đồ 4.2: Biểu đồ phân phối của phần dư của mô hình FEM giai đoạn 2

Theo kết quả kiểm định Wooldridge trình bày trong phụ lục 16 thì P-value = 0.8257 lớn hơn 0.05 nên mô hình FEM không xảy ra hiện tượng tự tương quan. Tuy nhiên, dựa vào biểu đồ 4.2, ta thấy phần dư của mô hình FEM không có phân phối chuẩn hay mô hình FEM xảy ra hiện tượng phương sai thay đổi. Do đó, tác giả chuyển sang mô hình GLS với tùy chọn khắc phục hiện tượng phương sai thay đổi.

Kết quả hồi quy mô hình (**) theo mô hình GLS với tùy chọn khắc phục hiện tượng phương sai thay đổi trình bày trong bảng 4.8 chi tiết trình bày trong phụ lục 17. Luận văn: Giải pháp quản trị lợi nhuận Của các Cty Chứng khoán

Bảng 4.8: Bảng kết quả hồi quy mô hình GLS giai đoạn 2

Biến DUAL là một biến giả đại diện cho Chủ tịch Hội đồng quản trị không đồng thời là Tổng giám đốc. Biến DUAL có hệ số âm (β1 = -0.0365592) và kiểm định t-test có chỉ số P-value = 0.000. Như vậy, có thể kết luận rằng biến DUAL tỷ lệ nghịch với hành vi điều chỉnh lợi nhuận và có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 1% hay độ tin cậy là 99% hay việc tách vai trò Chủ tịch Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc sẽ giúp làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Lei, 2006; Murhadi, 2010 và Gulzar &Wang, 2011. Vai trò của Chủ tịch Hội đồng là để tổ chức các cuộc họp Hội đồng quản trị và giám sát các quá trình tuyển dụng, sa thải, đánh giá và bồi thường cho các Ban giám đốc. Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc sẽ làm giảm vai trò giám sát của Hội đồng quản trị, làm cho Hội đồng quản trị mất đi tính độc lập. Do đó, vấn đề tách biệt vai trò Chủ tịch Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc là quan trọng trong việc làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Như vậy, giả thuyết H1 của nghiên cứu là tách vai trò của Chủ tịch Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc sẽ làm giảm với hành điều chỉnh lợi nhuận đã được kiểm định hay ta chấp nhận giả thuyết H1.

Biến BDNEXE là biến đại diện cho tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị không điều hành. Biến BDNEXE có hệ số âm (β2 = -0.0896714) và kiểm định t-test có chỉ số P-value = 0.001. Như vậy, có thể kết luận rằng biến BDNEXE tỷ lệ nghịch với hành vi điều chỉnh lợi nhuận và có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 1% hay độ tin cậy là 99% hay việc tăng tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị không điều hành sẽ giúp làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Kết quả này hỗ trợ quan điểm cho rằng một Hội đồng quản trị với đa số các thành viên không điều hành sẽ phát huy vai trò giám sát của Hội đồng quản trị hơn là một Hội đồng quản trị với đa số các thành viên tham gia điều hành. Như vậy, giả thuyết H2 của nghiên cứu là tăng tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị không điều hành sẽ giúp làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận đã được kiểm định hay ta chấp nhận giả thuyết H2.

Biến BDNIND là biến đại diện cho tỷ lệ thành viên Hội đồng độc lập không điều hành. Biến BDIND có hệ số âm (β3 = -0.0499433) và kiểm định t-test có chỉ số P-value = 0.015. Như vậy, có thể kết luận rằng biến BDIND tỷ lệ nghịch với hành điều chỉnh lợi nhuận và có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 5% hay độ tin cậy là 95% hay việc tăng tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị độc lập không điều hành sẽ giúp làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Như vậy, giả thuyết H3 của nghiên cứu là tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị độc lập có tương quan với hành vi điều chỉnh lợi nhuận đã được kiểm định hay ta chấp nhận giả thuyết H3. Cụ thể hơn là mối quan hệ giữa thành viên Hội đồng quản trị độc lập và hành vi điều chỉnh lợi nhuận là tương quan nghịch biến hay việc tăng tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị độc lập sẽ giúp làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Kết quả này phù hợp với kiểm định giả thuyết H2, cho rằng tăng tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị không điều hành thì giúp làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Hay việc tăng tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị không điều hành và thành viên Hội đồng quản trị độc lập không điều hành đều làm giảm bớt sự thống trị của thành viên điều hành, giúp tăng tính độc lập cho Hội đồng quản trị và tăng hiệu quả vai trò giám sát của Hội đồng quản trị. Một số nghiên cứu tương tự cũng tìm thấy vai trò của thành viên Hội đồng quản trị độc lập trong việc làm giảm gian lận báo cáo tài chính hay cụ thể hơn là hành vi điều chỉnh lợi nhuận như nghiên cứu của Beasley (1996), Dechow, et al. (1996), Lei (2006), Muhardi (2010), Gluzar & Wang (2011).

Biến BDSIZE đại diện cho quy mô Hội đồng quản trị có hệ số âm (β4 = – 0.0032359) điều này có nghĩa quy mô Hội đồng quản trị tỷ lệ nghịch với hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Theo Xie và các cộng sự (2003) thì một quy mô Hội đồng quản trị lớn hơn có thể mang đến một số lượng lớn các thành viên có kinh nghiệm và họ cung cấp bằng chứng cho thấy một Hội đồng quản trị lớn hơn sẽ giúp làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này mối quan hệ giữa quy mô Hội đồng quản trị và hành vi điều chỉnh lợi nhuận không có ý nghĩa thống kê với chỉ số kiểm định t-test có chỉ số P-value = 0.407 lớn hơn 0.05 nên tác giả có thể kết luận rằng hệ số β4 không có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 5%. Như vậy, giả thuyết H4 của nghiên cứu là quy mô Hội đồng quản trị có tương quan với hành vi điều chỉnh lợi nhuận là không đủ bằng chứng để kết luận hay ta bác bỏ giả thuyết H4. Tương tự nghiên cứu của Lei (2006), với một mẫu các công ty Anh cũng cho thấy mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa quy mô Hội đồng quản trị với hành vi điều chỉnh lợi nhuận nhưng hệ số cũng không có ý nghĩa thống kê với mức nghĩa 5% vì P-value lớn hơn 0.05.

Biến AUDIND là biến đại diện cho tỷ lệ thành viên Ban kiểm soát không kiêm nhiệm chức vụ trong công ty. Biến AUDIND có hệ số âm (β5 = -0.0006258) với kiểm định t-test có chỉ số P-value = 0.966 lớn hơn 0.05 ta chấp nhận giả thuyết H0 cho rằng hệ số β5 = 0. Như vậy, giả thuyết H5 của nghiên cứu là đa số các thành viên trong Ban kiểm soát không kiêm nhiệm chức vụ trong công ty thì tỷ lệ nghịch với hành vi điều chỉnh lợi nhuận bị bác bỏ. Như vậy, trong nghiên cứu này không tìm ra bằng chứng cho thấy có sự liên quan giữa việc kiêm nhiệm chức vụ trong công ty của thành viên Ban kiểm soát thì ảnh hưởng đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Khác với kết quả nghiên cứu của Chtourou & các cộng sự (2001) cho rằng tăng tỷ lệ thành viên bên ngoài trong Ban kiểm soát sẽ làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận.

Biến FNEXPERT là biến đại diện cho chuyên môn về tài chính – kế toán – kiểm toán của Ban kiểm soát. Biến FNEXPERT có hệ số dương (β6 = 0.0027189) với kiểm định t-test có chỉ số P-value = 0.890 lớn hơn 0.05 nên tác giả có thể kết luận rằng hệ số β6 không có y nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 5%. Như vậy, ta bác bỏ giả thuyết H6 của nghiên cứu cho rằng tăng tỷ lệ thành viên Ban kiểm soát có chuyên môn về tài chính – kế toán – kiểm toán sẽ làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Ban kiểm soát chịu trách nhiệm giám sát quá trình báo cáo tài chính, lựa chọn công ty kiểm toán độc lập, và nhận kết quả kiểm toán nội bộ và độc lập do đó, một Ban kiểm soát có chuyên môn về tài chính – kế toán – kiểm toán thì cần thiết trong việc làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận là kết quả của Chtourou, et al. (2001) và Xie, et al. (2003). Tuy nhiên, nghiên cứu này lại không tìm ra mối quan hệ giữa thành viên Ban kiểm soát có chuyên môn về tài chính – kế toán – kiểm toán với hành vi điều chỉnh lợi nhuận.

Biến STKOWN là biến đại diện cho tỷ lệ cổ phiếu nắm giữ bởi thành viên Hội đồng quản trị không điều hành. Biến STKOWN có hệ số dương (β7 = 0.0224438) với kiểm định t-test có chỉ số P-value = 0.376 lớn hơn 0.05 nên tác giả có thể kết luận rằng hệ số β7 không có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 5%. Như vậy, giả thuyết H7 của nghiên cứu cho rằng tăng tỷ lệ sở hữu cổ phần của thành viên Hội đồng quản trị không điều hành sẽ làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận bị bác bỏ. Kết quả này khác với kết quả nghiên cứu của Beasley (1996) cho rằng tỷ lệ sở hữu cổ phiếu phổ thông của thành viên Hội đồng quản trị không điều hành tăng lên sẽ làm giảm gian lận báo cáo tài chính.

Biến MANOWN là biến đại diện cho tỷ lệ cổ phiếu nắm giữ bởi ban giám đốc. Biến MANOWN có hệ số âm (β8 = -0.1133382) với kiểm định t-test có chỉ số P-value = 0.000 nhỏ hơn 0.01 nên tác giả có thể kết luận hệ số β8 có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 1%. Như vậy, giải thuyết H8 của nghiên cứu cho rằng tăng tỷ lệ sở hữu cổ phần của ban giám đốc sẽ làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận được chấp nhận. Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Che & Warfield (2005) và Lei (2006) và cũng hỗ trợ quan điểm cho rằng để làm giảm bớt sự xung đột lợi ích giữa nhà quản lý và các cổ đông thì nên gắn kết lợi ích của nhà quản lý với lợi ích chung của công ty.

Biến AUDOWN là biến đại diện cho tỷ lệ cổ phiếu nắm giữ bởi Ban kiểm soát. Biến AUDOWN có hệ số âm (β9 = -0.1207597) với kiểm định t-test có chỉ số P-value = 0.201lớn hơn 0.05 nên ta chấp nhận giả thuyết cho rằng hệ số β9 = 0 hay hệ số β9 không có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 5%. Như vậy, giải thuyết H9 của nghiên cứu cho rằng tăng tỷ lệ sở hữu cổ phần của Ban kiểm soát sẽ làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận bị bác bỏ. Kết quả này khác với kết quả nghiên cứu của Chtourou & các cộng sự (2001) cho rằng việc bồi thường cho Ban kiểm soát bằng quyền chọn mua cổ phiếu thì giúp làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận.

Biến CFO là lưu chuyển tiền thuần từ HĐKD của công ty. Biến CFO có hệ số âm (β10 = -1.39e-07) với kiểm định t-test có chỉ số P-value = 0.000 nhỏ hơn 0.01 nên hệ số β10 có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 1%. Như vậy, một công ty có dòng tiền từ HĐKD càng lớn càng làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Kết quả này phù hợp với kết quả của các nghiên cứu như Peasnell, et al., (2000) và Sukeecheep, et al., (2013) Luận văn: Giải pháp quản trị lợi nhuận Của các Cty Chứng khoán

Như vậy, cuối cùng tác giả có được các kết quả kiểm định của các giả thuyết trong nghiên cứu được trình bày trong bảng 4.9

Bảng 4.9: Bảng kết quả kiểm định các giả thuyết trong nghiên cứu.

(Giá trị P-value được đặt trong ngoặc đơn)

Với kết quả kiểm định các giả thuyết là trong 9 giả thuyết thì chỉ chấp nhận giả thuyết nên mô hình mối quan hệ giữa quản trị công và hành vi điều chỉnh lợi nhuận chỉ còn lại 1 biến phụ thuộc là hành vi điều chỉnh lợi nhuận và 4 biến độc lập thuộc quản trị công ty cùng với 1 biến kiểm soát là lưu chuyển tiền thuần từ HĐKD.

Cuối cùng, ta có được mô hình mối quan hệ giữa quản trị công và hành vi điều chỉnh lợi nhuận mô hình (***)

EM = 0.1407296 – 0.0365592DUAL – 0.0896714BDNEXE – 0.0499433BDIND – 0.1133383MANOWN – 1.39*10-10 CFO (***)

Kết luận

Trong chương 4 tác giả đã trình bày kết quả nghiên cứu với hai giai đoạn chạy hồi quy. Kết quả hồi quy giai đoạn 1 là tất cả hệ số trong mô hình đều có ý nghĩa thống kê và mô hình là phù hợp để đo lường biến DA trong mẫu nghiên cứu. Sau khi đã đo lường được biến DA tác giả chạy hồi quy giai đoạn 2 kết quả hồi quy cho thấy có 5 biến có ý nghĩa thống kê, 5 biến còn lại không có mối quan hệ với hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Những yếu tố như tách vai trò Chủ tịch Hội đồng quản trị với tổng giám đốc, tăng tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị không điều hành, tăng tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị độc lập làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận và tăng tỷ lệ sở hữu cổ phần của Ban giám đốc sẽ làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Và các công ty có lưu chuyển tiền thuần từ HĐKD càng lớn thì càng làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Nghiên cứu không tìm thấy mối quan hệ giữa quy mô Hội đồng quản trị, tỷ lệ thành viên Ban kiểm soát không kiêm nhiệm chức vụ trong công ty, tỷ lệ thành viên Ban kiểm soát có chuyên môn về tài chính – kế toán – kiểm toán, tỷ lệ sở hữu cổ phần của Ban kiểm soát cũng như tỷ lệ sở hữu cổ phần của thành viên Hội đồng quản trị với hành vi điều chỉnh lợi nhuận.

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

5.1 Kết luận

Với mục tiêu là nghiên cứu mối quan hệ giữa quản trị công ty và hành vi điều chỉnh lợi nhuận, thông qua mẫu dữ liệu thu thập từ 101 công ty niêm yết trên Sở giao dịch Chứng khoán Thành Phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2009-2013. Trước hết, luận văn thực hiện mô hình hồi quy nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của (Dechow, et al., 1995) để đo lường biến biến dồn tích có điều chỉnh – DA là biến đại diện cho hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Giai đoạn 2 thực hiện mô hình hồi quy với một biến phụ thuộc là hành vi điều chỉnh lợi nhuận cùng 9 biến độc lập thuộc yếu tố quản trị công ty và 1 biến kiểm soát.

Thông qua việc ước lượng và kiểm định các giả thuyết nghiên cứu, tác giả rút ra những kết luận cho luận văn như sau:

Thứ nhất, kết quả nghiên cứu cho thấy việc tách vai trò Chủ tịch Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc sẽ làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận, cùng kết quả với nghiên cứu này có các nghiên cứu của Lei, 2006; Murhadi, 2010 và Gulzar &Wang, 2011.

Thứ hai, tăng tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị không điều hành làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Kết quả này hỗ trợ quan điểm cho rằng tăng tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị không điều hành giúp tăng vai trò giám sát của Hội đồng quản trị.

Thứ ba, tăng tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị độc lập làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Nghiên cứu của Lei (2006), Muhardi (2010), Gluzar & Wang (2011) cũng tìm thấy việc tăng tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị độc lập làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận.

Thứ tư, tăng tỷ lệ sở hữu cổ phần của Ban giám đốc làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận, kết quả này tương đồng với kết quả của Che & Warfield (2005) và Lei (2006).

Thứ năm, các công ty có lưu chuyển tiền thuần từ HĐKD càng lớn thì càng làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Nghiên cứu của Peasnell & các cộng sự (2000) và Sukeecheep & các cộng sự (2013) cũng có kết quả tương tự.

Cuối cùng, nghiên cứu không tìm ra mối quan hệ giữa quy mô Hội đồng quản trị, tỷ lệ thành viên Ban kiểm soát không kiêm nhiệm chức vụ trong công ty, tỷ lệ thành viên Ban kiểm soát có chuyên môn về tài chính – kế toán – kiểm toán, tỷ lệ sở hữu cổ phiếu của Ban kiểm soát cũng như tỷ lệ sở hữu cổ phiếu của thành viên Hội đồng quản trị với hành vi điều chỉnh lợi nhuận.

5.2 Kiến nghị Luận văn: Giải pháp quản trị lợi nhuận Của các Cty Chứng khoán

Theo kết quả kiểm định thì việc tách vai trò Chủ tịch Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc sẽ làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận nên tác giả đề xuất các công ty nên thực hiện việc tách vai trò Chủ tịch Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc. Các nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam đã cung cấp bằng chứng cho thấy việc tách vai trò Chủ tịch Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc sẽ giúp tăng hiệu quả hoạt động và giá trị doanh nghiệp (Vo & Phan, 2012; Nguyễn Văn Viên, 2014), và nghiên cứu này tác giả cung cấp bằng chứng cho thấy việc tách vai trò Chủ tịch Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc sẽ làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Như vậy, hai vị trí quyền lực nhất trong công ty không nên do một thành viên đảm nhận. Việc tách vai trò Chủ tịch Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc là cần thiết để giảm bớt quyền lực tập trung trong tay một người và tăng tính độc lập cho Hội đồng quản trị cũng như tăng hiệu quả vai trò giám sát của Hội đồng quản trị từ đó giúp làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận.

Đồng thời với việc tách vai trò Chủ tịch Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc thì việc tăng tỷ lệ các thành viên Hội đồng quản trị không điều hành cũng sẽ giúp tăng vai trò giám sát cho Hội đồng quản trị. Và để tăng tính khách quan, độc lập cho Hội đồng quản trị cũng như giảm nguy cơ lạm dụng của những người quản lý và giải quyết xung đột lợi ích giữa cổ đông nhỏ và cổ đông lớn thì việc tăng thành viên Hội đồng quản trị độc lập không đều hành và vấn đề cấp thiết hiện nay. Tuy nhiên, thế nào là thành viên Hội đồng quản trị độc lập không điều hành thì nhiều doanh nghiệp tại Việt Nam chưa nắm rõ và nhiều khi còn nhầm lẫn giữa thành viên Hội đồng quản trị độc lập với thành viên Hội đồng quản trị không điều hành. Để làm rõ vai trò của thành viên Hội đồng quản trị độc lập, tác giả xin được trình bày về thành viên Hội đồng quản trị độc lập theo quan điểm của TS.Nguyễn Hữu Long đăng trên Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn số 20, ngày 13-5-2010 như sau:

“Thành viên Hội đồng quản trị độc lập là tên đầy đủ là thành viên Hội đồng quản trị độc lập không điều hành. Là thành viên Hội đồng quản trị không có quan hệ vật chất với công ty, hay các công ty con, công ty liên kết của công ty – dù là trực tiếp hay gián tiếp (với tư cách đối tác, cổ đông, hoặc nhân viên của các tổ chức có quan hệ kinh doanh với công ty). Định nghĩa này có thể diễn giải thành các điều kiện sau (tùy theo quốc gia và tùy theo công ty):

  • Thành viên Hội đồng quản trị độc lập không điều hành không phải là người lao động của công ty hay các công ty con, công ty liên kết trong vòng ba năm gần nhất.
  • Thành viên Hội đồng quản trị độc lập không điều hành không có người trong gia đình là thành viên Hội đồng quản trị, tổng giám đốc, người quản lý khác, hay cổ đông lớn của công ty, công ty con, công ty liên kết trong ba năm gần nhất.
  • Thành viên Hội đồng quản trị độc lập không điều hành không sở hữu cổ phần ở công ty hay công ty con, công ty liên kết với công ty.
  • Thành viên Hội đồng quản trị độc lập không điều hành không nhận bất kỳ khoản thù lao nào khác từ công ty, ngoại trừ khoản thù lao được trả cho vai trò thành viên Hội đồng quản trị.
  • Thành viên Hội đồng quản trị độc lập không điều hành không tham gia vào các chương trình quyền chọn cổ phần (share option scheme) hoặc bất kỳ chương trình nào khác của công ty liên quan đến việc trả thu nhập theo hiệu quả làm việc.
  • Thành viên Hội đồng quản trị độc lập không điều hành không là thành viên của kế hoạch hưu trí (pension scheme) của công ty.
  • Thành viên Hội đồng quản trị độc lập không điều hành không có quan hệ lãnh đạo chéo hoặc có mối liên hệ đáng kể nào với các thành viên Hội đồng quản trị khác thông qua việc cùng tham gia vào các tổ chức, doanh nghiệp khác.
  • Thành viên Hội đồng quản trị độc lập không điều hành không là đại diện Ủy quyền của một cổ đông lớn nào cả.
  • Ngoài ra, ở một số công ty, còn có thêm các điều kiện khác như:
  • Thời gian tham gia vào Hội đồng quản trị của công ty không quá 10 năm.
  • Chưa từng làm việc tại công ty hoặc tham gia thành viên ban kiểm soát của công ty.”

Như vậy, thành viên Hội đồng quản trị độc lập khi không có mối quan hệ vật chất với công ty thì sẽ có thể đưa ra những ý kiến độc lập, khách quan đặt lợi ích của tổng thể công ty lên trên hết chứ không vì lợi ích của cá nhân hay nhóm người nào. Do đó, sẽ giúp giải quyết xung đột lợi ích giữa cổ đông lớn và cổ đông nhỏ. Đặc biệt, vai trò của thành viên Hội đồng quản trị độc lập tại Việt Nam càng phát huy rõ ràng hơn trong mô hình công ty “gia đình trị” và mô hình công ty cổ phần hóa với tỷ lệ sở hữu nhà nước lớn. Mô hình “gia đình trị” là mô hình mà chúng ta có thể bắt gặp ở các doanh nghiệp đi lên từ doanh nghiệp tư nhân. Người chủ này sẽ nắm phần lớn cổ phiếu và sẽ kiêm luôn chức Chủ tịch Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc. Đồng thời với mô hình này thì việc tăng thành viên Hội đồng quản trị không điều hành cũng khó tăng tính độc lập cho Hội đồng quản trị khi mà các thành viên thường có mối quan hệ với nhau và dễ xảy ra tình trạng thông đồng, gây bất lợi cho cổ đông nhỏ. Mô hình công ty cổ phần hóa với tỷ lệ sở hữu nhà nước lớn thì Chủ tịch Hội đồng quản trị cũng kiêm Tổng giám và các thành viên trong Hội đồng quản trị thường thuộc ban điều hành trong công ty cũ, có mối quan hệ thân thiết nên việc thông đồng dễ dàng xảy ra. Điển hình như vụ sụp đổ của Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin) cũng bắt nguồn từ quản lý yếu kém, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc và sự thông đồng trong ban lãnh đạo cấp cao của tập đoàn. Với hai mô hình này thì việc tăng tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị sẽ tăng tính độc lập là bảo vệ lợi ích cho cổ đông nhỏ và nhà đầu tư.

Kết quả bài nghiên cứu cũng cho thấy việc tăng tỷ lệ sở hữu cổ phần của Ban giám đốc sẽ làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận. việc gắn kết lợi ích của Ban giám đốc với lợi ích chung của công ty sẽ làm giảm bớt cách biệt giữa sự tách biệt quyền sở hữu của cổ đông và quyền kiểm soát của Ban giám đốc. Do đó, các công ty nên tăng cường gắn kết lợi ích của Ban giám đốc với lợi ích chung của công ty để làm giảm hành vi tư lợi của Ban giám đốc hay cụ thể hơn là làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Luận văn: Giải pháp quản trị lợi nhuận Của các Cty Chứng khoán

Ngoài sự tự giác của các công ty khi chấp hành quy định về quản trị công ty đại chúng thì các cơ quan pháp lý cũng cần phải có những quy định khắt khe hơn trong việc xử phạt những công ty vi phạm. Thực tế khi thu thập dữ liệu, tác giả thấy rằng mặc dù Bộ tài chính có quy định tối thiểu 1/3 thành viên Hội đồng quản trị phải là thành viên không điều hành (khoản 2, điều 11, thông tư 121/2012/TT-BTC) nhưng vẫn có những công ty không đáp ứng đủ 1/3 thành viên Hội đồng quản trị là thành viên không điều hành, thậm chí một số công ty không có thành viên không điều hành.

Các cơ quan cũng nên có thêm nhiều thông tư hướng dẫn những vấn đề mà các công ty chưa nắm rõ. Ví dụ như hiện nay, các công ty muốn tăng tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị độc lập nhưng vì các công ty chưa hiểu rõ khái niệm thế nào là thành viên Hội đồng quản trị độc lập và vẫn thường nhầm lẫn thành viên Hội đồng quản trị độc lập là thành viên Hội đồng quản trị không điều hành nên việc các công ty tăng tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị độc lập thực chất chỉ là tăng tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị không điều hành. Do đó, các cơ quan pháp lý cần phải có những thông tư hướng dẫn giải thích rõ ràng để các công ty có thể hiểu về thành viên Hội đồng quản trị độc lập.

Các cơ quan pháp lý của Việt Nam đã và đang nỗ lực đáng kể trong việc cải thiện hiệu quả quản trị công ty của các công ty đại chúng. Ví dụ như như việc nỗ lực ban hành các thông tư nghị định mới. Thông tư mới nhất hiện nay là thông tư 121/2012/TT-BTC của Bộ tài chính quy định về việc áp dụng quản trị công ty đại chúng cho các doanh nghiệp Việt Nam. Hay việc hợp tác với IFC thực hiện nghiên cứu quản trị công ty tại Việt Nam thông qua Báo cáo Thẻ điểm Quản trị Công ty. Theo báo cáo của IFC năm 2010, 2011, 2012 tương ứng với dữ liệu 2009, 2010, 2011 của 100 doanh nghiệp niêm yết trên HOSE và HNX thì quản trị công ty tại Việt Nam là chưa tốt. Số điểm đạt được luôn dưới mức trung bình cho năm 2009 đạt 43.9%, năm 2010 tăng lên 44.7%, và năm 2011 giảm xuống 42.5%. Do đó, để có được một bộ máy quản trị công ty hiệu quả hay cụ thể hơn là một bộ máy quản trị công ty có thể giám sát được hành vi điều chỉnh lợi nhuận và làm trong sạch môi trường đầu tư tại Việt Nam thì các công ty và cơ quan pháp lý tại Việt Nam cần nỗ lực nhiều hơn nữa.

Thủ thuật được sử dụng để điều chỉnh lợi nhuận là dựa vào các xét đoán kế toán, do đó vấn đề về xét đoán kế toán là vấn đề cần được quan tâm. Các xét đoán kế toán mang tính chủ quan cao nhưng việc loại bỏ các xét đoán kế toán trong hạch toán kế toán là điều khó có thể thực hiện. Do đó, Bộ tài chính cần phải có những quy định buộc các công ty phải trình bày và cung cấp chi tiết hơn nữa những phương pháp kế toán áp dụng và các khoản mục mang tính chất xét đoán trong bản thuyết minh báo cáo tài chính. Ngoài những thông tin mang tính bắt buộc phải công bố thì cũng nên khuyến khích các công ty trong vấn đề công bố tự nguyện. Nghĩa là tự nguyện cung cấp thêm những thông tin nhằm thỏa mãn nhu cầu của những người sử dụng thông tin bên ngoài doanh nghiệp như các nhà phân tích tài chính, các công ty tư vấn, các nhà đầu tư các tổ chức,..

Hoạt động kiểm toán cũng là hoạt động cần phải được quan tâm vì hoạt động kiểm toán nhằm góp phần công khai, minh bạch thông tin kinh tế, tài chính của đơn vị được kiểm toán, làm lành mạnh môi trường đầu tư. Các nghiên cứu ở nước ngoài về mối quan hệ giữa quản trị công ty và hành vi điều chỉnh lợi nhuận thường có biến kiểm soát là biến BIG5 hay hiện nay là biến BIG4. BIG4 là biến đại diện cho những công ty kiểm toán hàng đầu thế giới với lập luận những công ty được kiểm toán bởi những đơn vị kiểm toán hàng đầu thế giới sẽ làm giảm hành điều chỉnh lợi nhuận. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này tác già không đưa biến này vào nghiên cứu vì tác giả tin rằng hiện nay các công ty kiểm toán trong nước cũng đang nỗ lực hết mình trong việc nâng cao chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính. Theo thống kê của Vietstock thì tính đến hết ngày 08/04/2014 trong 500 doanh nghiệp niêm yết đã phát hành báo cáo tài chính đã kiểm toán thì có tới 80% doanh nghiệp phải điều chỉnh lại chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế. Như vậy, các đơn vị kiểm toán đang hoạt động hiệu quả trong vai trò minh bạch thông tin kinh tế. Theo đó, ngày càng phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, đạo đức, phẩm chất nghề nghiệp cho kiểm toán viên. Đặc biệt phải chắc chắn kiểm toán viên hiểu về hành vi điều chỉnh lợi nhuận đang tồn tại hiện nay. Cần nhấn mạnh với kiểm toán viên phải đặc biệt chú ý đối với các khoản mang tính chất xét đoán trên báo cáo tài chính để nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Bộ tài chính cũng nên thường xuyên kiểm tra, giám sát và công bố danh sách các công ty kiểm toán đủ năng lực, uy tín, đảm bảo được chất lượng kiểm toán. Cũng cần phải có những hình thức xử phạt nghiêm khắc với những kiểm toán viên độc lập và những đơn vị kiểm toán khi mà báo cáo tài chính đã được họ kiểm toán bị phát hiện là không trung thực để mang tính răn đe, làm gương.

Ngoài những nỗ lực của công ty và của các cơ quan pháp lý thì nhà đầu tư cũng nên thu thập thông tin để tự bảo vệ mình. Hiện nay, theo qui định của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) thì các công ty có kết quả hoạt động kinh doanh không tốt cũng đã được đưa vào danh sách lưu ý, hay UBCKNN cũng đã có nhiều phân tích đánh giá về thị trường chứng khoán để các nhà đầu tư có thể có thông tin để ra quyết định. Nhà đầu tư cũng cần phải có kiến thức tổng hợp về BCTC và sự không minh bạch trong BCTC để có thể phân tích một cách hợp lý các yếu tố cấu thành nên BCTC và nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Ngoài ra, bên cạnh việc xem xét bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh, các nhà đầu tư cũng cần lưu ý tới dòng tiền trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ khi quyết định đầu tư. Theo kết quả nghiên cứu trong nghiên cứu này thì dòng tiền từ HĐKD tỷ lệ nghịch với hành vi điều chỉnh lợi nhuận, hay nói cách khác là các công ty có lưu chuyển tiền thuần từ HĐKD doanh càng lớn thì càng ít hành vi điều chỉnh lợi nhuận.

Đây được xem như là một dấu hiệu giúp nhà đầu tư cân nhắc khi quyết định đầu tư.

5.3 Hạn chế bài nghiên cứu và định hướng nghiên cứu trong tương lai Luận văn: Giải pháp quản trị lợi nhuận Của các Cty Chứng khoán

5.3.1 Hạn chế bài nghiên cứu

Số lượng các công ty được chọn làm mẫu nghiên cứu nhỏ (101 công ty) và thời gian nghiên cứu chưa dài (giai đoạn 2009 – 2013), do đó đã xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến trong mẫu ở giai đoạn 1.

Nghiên cứu chỉ nghiên cứu các công ty niêm yết trên Sở giao dịch Chứng khoán Tp.HCM nên kết quả nghiên cứu chưa thực sự mang tính đại diện cho các công ty Việt Nam.

Dữ liệu sử dụng trong bài là dữ liệu bảng cân bằng (Balanced panel) vì tác giả chỉ thu thập dữ liệu những công ty có đủ dữ liệu trong 5 năm nên kết quả chỉ có ý nghĩa với các công ty hoạt động liên tục trong 5 năm, với các công ty chưa hoạt động đủ 5 năm có thể kết quả của bài nghiên cứu chưa thực sự phù hợp.

Nghiên cứu đã không đủ bằng chứng kết luận về mối quan hệ giữa thành viên Ban kiểm soát độc lập, chuyên môn Ban kiểm soát, tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của Ban kiểm soát, tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của thành viên Hội đồng quản trị không điều hành, quy mô Hội đồng quản trị với hành vi điều chỉnh lợi nhuận.

Do giới hạn trong việc thu thập dữ liệu nên tác giả chưa nghiên cứu mối quan hệ giữa số lượng cuộc họp của Hội đồng quản trị, số lượng chức danh bên ngoài của thành viên Hội đồng quản trị, số lượng cuộc họp của Ban kiểm soát, thẩm quyền của Ban kiểm soát, số lượng chức danh bên ngoài của thành viên ban kiểm soát, hình thức bồi thường cho Ban điều hành,… với hành vi điều chỉnh lợi nhuận.

Nghiên cứu sử dụng các yếu tố thuộc quản trị công ty tác động tới hành vi điều chỉnh lợi nhuận dựa vào các nghiên cứu trước chứ chưa tìm ra được các nhân tố mới.

5.3.2 Định hướng nghiên cứu trong tương lai Luận văn: Giải pháp quản trị lợi nhuận Của các Cty Chứng khoán

Các nghiên cứu sau nên mở rộng phạm vi nghiên cứu, không chỉ nghiên cứu các công ty niêm yết trên Sở giao dịch Chứng khoán Tp.HCM mà nên nghiên cứu cả những công ty niêm yết trên các Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội để có cái nhìn tổng thể về mối quan hệ giữa quản trị công ty và hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty tại Việt Nam.

Các nghiên cứu sau có thể kiểm định lại những biến quản trị công ty mà nghiên cứu này không đủ bằng chứng kết luận, cụ thể là mối quan hệ giữa thành viên Ban kiểm soát độc lập, chuyên môn Ban kiểm soát, tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của Ban kiểm soát, tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của thành viên Hội đồng quản trị không điều hành, quy mô Hội đồng quản trị với hành vi điều chỉnh lợi nhuận.

Các nghiên cứu nước ngoài đã có những bằng chứng kết luận về mối quan hệ giữa số lượng cuộc họp của Hội đồng quản trị, số lượng chức danh bên ngoài của thành viên Hội đồng quản trị, số lượng cuộc họp của Ban kiểm soát, thẩm quyền của Ban kiểm soát, số lượng chức danh bên ngoài của thành viên ban kiểm soát, hình thức bồi thường cho Ban điều hành,… với hành vi điều chỉnh lợi nhuận nên các nghiên cứu sau cũng nên nghiên cứu những vấn đề trên để giúp tìm ra những yếu tố tác động đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty Việt Nam.

Các nghiên cứu sau cũng có thể nghiên cứu về mối quan hệ giữa công bố thông tin trên thuyết minh BCTC với hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Vì khi các công ty điều chỉnh lợi nhuận thông qua các xét đoán kế toán thì phải công bố trên thuyết minh BCTC.

Hiện nay, vấn đề về công bố tự nguyện cũng đang được quan tâm. Công bố tự nguyện là cung cấp thêm những thông tin nhằm thỏa mãn nhu cầu của những người sử dụng thông tin bên ngoài doanh nghiệp như các nhà phân tích tài chính, các công ty tư vấn, các nhà đầu tư các tổ chức,.. Khi một công ty có hành vi điều chỉnh lợi nhuận thì liệu công ty đó có sẵn sàng công bố thêm nhiều thông tin ra bên ngoài nên các nghiên cứu sau có thể nghiên cứu về mối quan hệ giữa công bố tự nguyện với hành vi điều chỉnh lợi nhuận.

Hoạt động của kiểm toán viên độc lập được xem là góp phần công khai, minh bạch thông tin kinh tế, tài chính của đơn vị được kiểm toán, làm lành mạnh môi trường đầu tư. Do đó, hiện nay vấn đề nâng cao nhận thức của kiểm toán viên cũng là vấn đề đang được quan tâm. Các nghiên cứu sau có thể tiến hành nghiên cứu nhận thức của kiểm toán viên về hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Vì nhận thức về hành vi điều chỉnh lợi nhuận của kiểm toán viên có thể sẽ ảnh hưởng đến kiểm toán viên trong việc phát hiện hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Luận văn: Giải pháp quản trị lợi nhuận Của các Cty Chứng khoán

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY 

===>>> Luận văn: Hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các Cty Chứng khoán

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x