Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các Cty Chứng khoán hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Nghiên cứu mối quan hệ giữa quản trị công ty và hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết trên Sở giao dịch Chứng khoán Tp.HCM dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài Luận văn: Hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các Cty Chứng khoán
Lợi nhuận là một chỉ tiêu quan trọng được trình bày trên báo cáo tài chính. Tuy nhiên, các công ty lại có xu hướng điều chỉnh lợi nhuận sao cho có lợi nhất cho công ty. Theo thống kê mới nhất của Vietstock, tính đến hết ngày 08/04/2014 trong 500 doanh nghiệp đã phát hành báo cáo tài chính hợp nhất kiểm toán năm 2013 thì có đến 80% doanh nghiệp phải điều chỉnh lại chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế. Thông tin này gây hoang mang cho các nhà đầu tư và đặt ra một nghi vấn về tính trung thực hợp lý của báo cáo tài chính. Một sự bất đối xứng thông tin ở đây sẽ gây bất lợi cho nhà đầu tư khi quyết định đầu tư vào các công ty. Rủi ro xảy ra khi các doanh nghiệp điều chỉnh lợi nhuận sẽ gây ảnh hưởng lớn đến nhà đầu tư vì các nhà đầu tư có xu hướng đầu tư vào những công ty làm ăn có hiệu quả và có triển vọng tăng trưởng cao. Các công ty niêm yết có xu hướng điều chỉnh tăng lợi nhuận để thu hút nhà đầu tư (Phạm Thị Minh Trang, 2012). Tuy nhiên, mức độ điều chỉnh lợi nhuận sẽ tương đồng với nguy cơ phá sản (Võ Văn Nhị & Hoàng Cẩm Trang, 2013). Quản trị công ty liệu có thể làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty hay không. Theo nghiên cứu của Vo & Phan (2012) thì các yếu thuộc quản trị công ty có mối quan hệ với hiệu quả hoạt động của công ty. Quản trị công ty tốt cho phép tối đa hóa giá trị doanh nghiệp, và minh bạch trong công bố thông tin ( Gupta & Sharma, 2014). Quản trị công ty không tốt dẫn đến hậu quả xấu, thậm chí phá sản công ty. Sự sụp đổ của những tập đoàn nước ngoài như Enron, Worldcom hay của các tập đoàn lớn của nước ta như Vinashin, Vinalines đều có nguyên nhân sâu xa từ việc thực hiện quản trị công ty không tốt. Với mong muốn tìm ra các yếu tố thuộc quản trị công ty giúp làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận ở các công ty đại chúng, tác giả thực hiện bài viết “nghiên cứu mối quan hệ giữa quản trị công ty và hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán TP.HCM”.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế
2. Mục tiêu nghiên cứu Luận văn: Hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các Cty Chứng khoán
Mục tiêu của nghiên cứu là xem xét mối quan hệ giữa quản trị công ty và hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết trên Sở giao dịch Chứng khoán Thành Phố Hồ Chí Minh đồng thời đề xuất một số giải pháp góp phần làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận đó.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là lý luận và thực tiễn về vấn đề mối quan hệ giữa quản trị công ty và hành vi điều chỉnh lợi nhuận tại các công ty đại chúng.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn giới hạn với mẫu gồm 101 công ty cổ phần niêm yết trên Sở giao dịch Chứng khoán Thành Phố Hồ Chí Minh trong 5 năm từ 2009 – 2013.
4. Phương pháp nghiên cứu
Về mặt lý luận: Tổng hợp các lý thuyết có liên quan đến đề tài nghiên cứu. Về mặt thực tiễn:
- Thu thập tài liệu từ các nghiên cứu khoa học, chuẩn mực kế toán, các thông tư và các bài báo liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Thu thập dữ liệu từ các công ty cổ phần niêm yết trên Sở giao dịch Chứng khoán Thành Phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2009 – 2013. Dữ liệu thu thập được tổng hợp thành dạng bảng (panel data) để phục vụ cho việc nghiên cứu.
- Dựa vào tài liệu và dữ liệu thu thập, tiến hành tổng hợp dữ liệu, phân tích và đánh giá. Đưa ra các kiến nghị nhằm làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận tại các công ty cổ phần niêm yết trên Sở giao dịch Chứng khoán Thành Phố Hồ Chí Minh.
5. Những đóng góp của luận văn Luận văn: Hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các Cty Chứng khoán
Về mặt lý luận: trình bày các lý thuyết về hành vi điều chỉnh lợi nhuận và lý thuyết về quản trị công ty.
Về mặt thực tiễn: Tìm ra mối quan hệ giữa quản trị công ty và hành vi điều chỉnh lợi nhuận là việc tách vai trò Chủ tịch Hội đồng quản trị với Tổng giám đốc, tăng tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị không điều hành và thành viên Hội đồng quản trị độc lập sẽ làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Tăng tỷ lệ sở hữu cổ phần của Ban giám đốc cũng làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Các công ty có lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh càng lớn thì càng ít hành vi điều chỉnh lợi nhuận.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, luận văn được trình bày gồm 5 chương:
Chương 1: Tổng quan các nghiên cứu liên quan: chương này tác giả trình bày các nghiên cứu liên quan trước đây đã nghiên cứu về hành vi điều chỉnh lợi nhuận tại Việt Nam và quốc tế.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết: chương này trình bày các lý thuyết về hành vi điều chỉnh lợi nhuận và quản trị công ty.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu: chương này tác giả phát triển các giả thuyết nghiên cứu trong bài, đưa ra mô hình nghiên cứu về mối quan hệ giữa quản trị công ty với hành vi điều chỉnh lợi nhuận và trình bày phương pháp thu thập dữ liệu, phương pháp phân tích dữ liệu.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận: chương này trình bày kết quả hồi quy qua 2 giai đoạn và thảo luận về mối quan hệ giữa quản trị công ty và hành vi điều chỉnh lợi nhuận.
Chương 5: Kết Luận – Kiến nghị: Chương này tác giả trình bày kết luận của bài nghiên cứu, hạn chế bài nghiên cứu và đề xuất định hướng nghiên cứu trong tương lai.
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
1.1 Các nghiên cứu quốc tế Luận văn: Hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các Cty Chứng khoán
Nghiên cứu “Boad monitoring and Earnings managerment: Do outside directors influence abnormal accruals?” của Peasnell & các cộng sự (2000) đã sử dụng mô hình nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của Dechow & các cộng sự (1995) – Modified Jones với một mẫu gồm 1271 quan sát các công ty Anh giai đoạn 1993 – 1995. Nghiên cứu cho thấy sự gia tăng tỷ lệ các thành viên Hội đồng quản trị bên ngoài làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận và sự hiện diện của một Ủy ban kiểm toán sẽ hỗ trợ vai trò giám sát của Hội đồng quản trị. Nghiên cứu cũng tìm thấy các công ty có lưu chuyển tiền thuần từ HĐKD càng tăng thì càng làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Tuy nhiên, nghiên cứu không tìm thấy mối quan hệ giữa quy mô Hội đồng quản trị và tần số cuộc họp của Hội đồng quản trị với hành điều chỉnh lợi nhuận.
Nghiên cứu “Corporate governance and Earnings managerment” của Chtourou & các cộng sự (2001) đã sử dụng mô hình nhận diện hành vi điều đỉnh lợi nhuận của Jones (1991) với một mẫu gồm 3947 công ty Mỹ trên Compustat năm 1996. Kết quả cho thấy rằng tỷ lệ thành viên Ủy ban kiểm toán là thành viên độc lập không điều hành và không phải là quản lý của các công ty khác cũng như mức bồi thường bằng quyền chọn mua cổ phiếu và chuyên môn của Ủy ban kiểm toán thì ảnh hưởng đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Nghiên cứu cũng cho thấy tăng tỷ lệ các thành viên Hội đồng quản trị độc lập không điều hành và tách vai trò Chủ tịch Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc thì không ảnh hưởng đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận.
Nghiên cứu “Earnings managerment and Corporate governance: The roles of the board and the audit commmitee” của Xie & các cộng sự (2003) đã sử dụng mô hình nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của Dechow & các cộng sự (1995) – Modified Jones với một mẫu gồm 282 quan sát các công ty Mỹ trong năm 1992, 1994 và 1996. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng một quy mô Hội đồng quản trị lớn, một Ủy ban kiểm toán có chuyên môn về tài chính và tăng tần số cuộc họp của Ủy ban kiểm toán sẽ làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Nghiên cứu không có đủ bằng chứng để kết luận tần số cuộc họp của Hội đồng quản trị và tỷ lệ các thành viên Hội đồng quản trị bên ngoài có liên quan tới hành vi điều chỉnh lợi nhuận.
Nghiên cứu “Board composition and earnings management in Canada” Park Shin (2004) đã sử dụng mô hình nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của Dechow & các cộng sự (1995) – Modified Jones với một mẫu gồm 539 quan sát các công ty Canada giai đoạn 1991-1997. Thứ nhất, nghiên cứu cho thấy sự hiện diện của thành viên Hội đồng quản trị đến từ các trung gian tài chính và sự hiện diện của cổ đông là tổ chức thì làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Thứ hai, tăng tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị bên ngoài làm tăng hành vi điều chỉnh lợi nhuận, kết quả này trái ngược với quan điểm cho rằng tăng tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị bên ngoài sẽ giúp Hội đồng quản trị tăng tính độc lập, giải quyết xung đột lợi ích giữa cổ đông nhỏ và cổ đông lớn. Lý giải cho kết quả này, Park & Shin lập luận rằng các thành viên Hội đồng quản trị bên ngoài ở các công ty Canada thiếu sự tinh tế trong lĩnh vực tài chính hay thiếu sự truy cập thông tin để phát hiện hành vi điều chỉnh lợi nhuận, thêm vào đó có thể các thành viên bên ngoài thiếu quan tâm đến hoạt động công ty vì họ thiếu quyền sở hữu, hoặc là do họ thiếu sự độc lập thực sự và thiếu quyền lực để thực hiện việc giám sát.
Nghiên cứu “Board, audit committee, culture and earnings management:
Malaysian evidence” của Rahman & Ali (2006) đã sử dụng mô hình nhận diện hành điều đỉnh lợi nhuận của Jones (1991) với một mẫu gồm 97 công ty niêm yết ở Malaysia giai đoạn 2002-2003. Kết quả của nghiên cứu cho thấy rằng một Hội đồng quản trị với quy mô nhỏ sẽ phát huy vai trò giám sát hơn là một Hội đồng quản trị lớn. Kết quả này trái ngược với kết quả nghiên cứu của Xie & các cộng sự (2003). Nghiên cứu không có đủ bằng chứng để kết luận, việc tách vai trò của Chủ tịch Hội đồng quản trị với Tổng giám đốc, tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị độc lập không điều hành cũng tỷ lệ thành viên Ủy ban kiểm toán độc lập không điều hành có liên quan đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận.
Nghiên cứu “Earnings Management And Corporate Governance In The UK: The Role Of The Board Of Directors And Audit Committee” của Lei (2006) đã sử dụng mô hình nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của Dechow & các cộng sự (1995) – Modified Jones với một mẫu gồm 344 công ty niêm yết ở Anh giai đoạn 2000-2002. Nghiên cứu cho thấy việc tách vai trò của Chủ tịch Hội đồng quản trị với Tổng giám đốc, tăng tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị bên ngoài sẽ tác động làm giảm hành vi điều chỉnh tăng lợi nhuận. Còn việc tăng tần số cuộc họp của Ủy ban kiểm toán sẽ tác động làm giảm hành vi điều chỉnh giảm lợi nhuận. Nghiên cứu không tìm thấy mối quan hệ giữa tỷ lệ thành viên độc lập của Ủy ban kiểm toán cũng như chuyên môn về tài chính – kế toán – kiểm toán của các thành viên Ủy ban kiểm toán với hành vi điều chỉnh lợi nhuận.
Nghiên cứu “Good Corporate Governance And Earnings Management Practices: An Indonesian Cases” của Muhardi (2010) đã sử dụng mô hình nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của Jones (1991) với một mẫu gồm 128 công ty Indonesia giai đoạn 2005-2007. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự tách biệt vai trò Chủ tịch Hội đồng quản trị với Tổng giám đốc và tỷ lệ sở hữu của cổ đông kiểm soát lớn hơn 51% thì tác động làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Nghiên cứu cho thấy không có mối quan hệ giữa tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị độc lập không điều hành và tỷ lệ thành viên độc lập trong Ủy ban kiểm toán cũng như sự hiện diện của chuyên gia phân tích tài chính – sử dụng nợ với hành vi điều chỉnh lợi nhuận.
Nghiên cứu “Corporate Governance Characteristics and Earnings Management: Empirical Evidence from Chinese Listed Firms” của Gulzar & Wang (2011) đã sử dụng mô hình nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của Jones (1991) với một mẫu gồm 1009 công ty Trung quốc trong giai đoạn 2002-2006. Kết quả nghiên cứu cho thầy rằng sự tách biệt vai trò Chủ tịch Hội đồng quản trị với Tổng giám đốc, tăng tỷ lệ thành viên nữ trong Hội đồng quản trị và tăng tần số cuộc họp của Hội đồng quản trị và tập trung sở hữu thì làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận.
Nghiên cứu không tìm thấy mối quan hệ giữa quy mô Hội đồng quản trị, tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị độc lập với hành vi điều chỉnh lợi nhuận.
Nghiên cứu “Earnings Management and Board Characteristics in Thai Listed Companies” của Sukeecheep & các cộng sự (2013) đã sử dụng mô hình nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của Dechow & các cộng sự (1995) – Modified Jones với một mẫu gồm 550 công ty niêm yết ở Thái Lan trong giai đoạn 2006-2010. Thứ nhất, nghiên cứu tìm ra rằng tăng tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị tham gia Hội đồng quản trị của các công ty khác thì làm làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận và các công ty có lưu chuyển tiền thuần từ HĐKD càng tăng thì càng làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Thứ hai, nghiên cứu tìm thấy thành viên Hội đồng quản trị độc lập không điều hành thì làm tăng hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Park & Shin (2004), Sukeecheep & các cộng sự giải thích cho kết quả này là do thành viên Hội đồng quản trị độc lập tại các công ty niêm yết của Thái Lan thiếu sự độc lập thật sự và thiếu quyền lực để điều tra hành vi sai trái của Ban quản lý. Cuối cùng nghiên cứu không tìm ra mối quan hệ giữa sự tách biệt vai trò của Chủ tịch Hội đồng quản trị với Tổng giám đốc, quy mô Hội đồng quản trị và tần số cuộc họp của Hội đồng quản trị với hành vi điều chỉnh lợi nhuận.
1.2 Các nghiên cứu trong nước Luận văn: Hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các Cty Chứng khoán
Nghiên cứu “Mô hình nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết ở Sở giao dịch Chứng khoán TP.HCM” của Phạm Thị Bích Vân (2012) sử dụng mô hình nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của Dechow & các cộng sự (1995) – Modified Jones với một mẫu nghiên cứu gồm 54 doanh nghiệp niêm yết trên Sở giao dịch Chứng khoán TP.HCM (HOSE) trong năm 2010. Kết quả nghiên cứu cho thấy mô hình Modified Jones không hiệu quả trong việc nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết trên HOSE. Và tác giả Phạm Thị Bích đề nghị một mô hình khác để nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận cho các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, theo tác giả trong nghiên cứu của tác giả Phạm Thị Bích Vân thì tác giả Phạm Thị Bích Vân sử dụng mô hình của Dechow & các cộng sự (1995) nhưng lại tiếp cận dựa trên khoản doanh thu và nợ phải thu thay vì khoản thay đổi trong doanh thu và khoản thay đổi trong nợ phải thu như Dechow & các cộng sự (1995).
Nghiên cứu “Vận dụng mô hình của DeAnglelo và Friedlan để nhận dạng hành động điểu chỉnh lợi nhuận của nhà quản trị” của Nguyễn Thị Minh Trang (2012) đã sử dụng mô hình điều chỉnh lợi nhuận của DeAngelo (1986) và Friedlan (1994) nghiên cứu với mẫu là 20 doanh nghiệp thuộc 4 loại hình doanh nghiệp là doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn. Kết quả nghiên cứu cho thấy các công ty cổ phần có xu hướng điều chỉnh tăng lợi nhuận nhằm thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài. Các loại hình doanh nghiệp còn lại có xu hướng điều chỉnh giảm lợi nhuận nhằm tiết kiệm chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp.
Nghiên cứu “Nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty cổ phần trong năm đầu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam” của Huỳnh Thị Vân (2012) cũng sử dụng đồng thời mô hình DeAngelo (1986) và mô hình Friedlan (1994) nghiên cứu với một mẫu gồm 43 công ty cổ phần trong năm đầu niêm yết trên Sở giao dịch Chứng khoán TP.HCM (HOSE) và Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) giai đoạn 2008-2010. Nghiên cứu cho thấy phần lớn các công ty điều chỉnh tăng lợi nhuận trong năm đầu niêm yết. Thêm vào đó nghiên cứu cũng tìm thấy vấn đề ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp trong năm đầu niêm yết tác động làm tăng hành vi điều chỉnh lợi nhuận.
Nghiên cứu “Hành vi điều chỉnh lợi nhuận và nguy cơ phá sản của các công ty niêm yết trên Sở giao dịch Chứng khoán TP.HCM” của Võ Văn Nhị & Hoàng Cẩm Trang (2013) đã xem xét mối quan hệ giữa hành vi điều chỉnh lợi nhuận và nguy cơ phá sản của 85 công ty niêm yết trên HOSE niên độ kế toán 2011 thông qua việc sử dụng mô hình của Leuz & cộng sự (2003) để xác định hành vi điều chỉnh lợi nhuận và sử dụng chỉ số Z của Altman (2000) để xác định nguy cơ phá sản công ty. Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ điều chỉnh lợi nhuận thì tương đồng với nguy cơ phá sản.
Như vậy, các nghiên cứu ở Việt Nam về hành vi điều chỉnh lợi nhuận mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu về mô hình nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận (Phạm Thị Bích Vân, 2012), động cơ của hành vi điều chỉnh lợi nhuận (Nguyễn Thị Minh Trang, 2012; Huỳnh Thị Vân, 2012) và rủi ro hay hậu quả của hành vi điều chỉnh lợi nhuận (Võ Văn Nhị & Hoàng Cẩm Trang, 2013). Chưa có nghiên cứu nào nghiên cứu về yếu tố giám sát thuộc quản trị công ty giúp làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Các nghiên cứu quốc tế nghiên cứu về yếu tố giám sát thuộc quản trị công ty để làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận thì kết quả nghiên cứu là khác nhau giữa các nghiên cứu. Do đó, nghiên cứu này sẽ nghiên cứu mối quan hệ giữa quản trị công ty và hành vi điều chỉnh lợi nhuận nhằm tìm ra các yếu tố giám sát giúp làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận cho các công ty tại Việt Nam.
Kết luận
Tác iả đã trình bày tổng quan các nghiên cứu quốc tế và nghiên cứu trong nước liên quan tới vấn đề nghiên cứu trong chương này. Toàn bộ các công trình nghiên cứu quốc tế đều là những công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa quản trị công ty và hành vi điều chỉnh lợi nhuận tại các quốc gia khác nhau trong những thời điểm khác nhau. Các công trình nghiên cứu trong nước được trình bày là những công trình nghiên cứu đã nghiên cứu về mô hình nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận, động cơ của hành vi điều chỉnh lợi nhuận và rủi ro của hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Luận văn: Hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các Cty Chứng khoán
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Khái quát về hành vi điều chỉnh lợi nhuận của công ty