Luận văn: Giải pháp Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Giải pháp Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này. 

3.1. ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY LUÂṬ Ở VIÊṬ NAM

3.1.1. Pháp luật về công ty luật cần đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp Luận văn: Giải pháp Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam

Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 nêu rõ định hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật: “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bổ trợ tư pháp (luật sư, công chứng, giám định, cảnh sát tư pháp…) theo hướng đáp ứng ngày càng đầy đủ, thuận lợi các nhu cầu đa dạng về hỗ trợ pháp lý của nhân dân, doanh nghiệp; thực hiện xã hội hóa mãnh mẽ các hoạt động bổ trợ tư pháp; kết hợp quản lý nhà nước với tự quản của các tổ chức xã hội nghề nghiệp”.[1]

Công cuộc cải cách tư pháp đòi hỏi phải đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp. Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nêu rõ: “Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội”.[2] Hoàn thiện pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc cải cách tư pháp.

Chính vì vậy, định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật về công ty luật cần đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp. Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trịvề chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra nhiệm vụ: “Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư. Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý để phát huy chế độ tự quản của tổ chức luật sư; đề cao trách nhiệm của các tổ chức luật sư đối với thành viên của mình”.

Pháp luật về công ty luật là hệ thống pháp luật quy định về hình thức tổ chức hành nghề luật sư. Để đáp ứng yêu cầu công cuộc cải cách tư pháp, pháp luật về công ty lật cần phải tiếp tục hoàn thiện cả về nội dung và hình thức. Hệ thống pháp luật về công ty luật cần quy định một cách đồng bộ, thống nhất, đảm bảo tính khả thi cao, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho sự phát triển cả về số lượng và chất lượng đội ngũ luật sư. Sự lớn mạnh nhanh chóng của đội ngũ luật sư đã góp phần tích cực trong việc nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, thúc đẩy quá trình thực hiện chủ trương đổi mới thủ tục tố tụng tư pháp, trước hết là nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà, qua đó góp phần nâng cao chất lượng hoạt động xét xử của toà án, phù hợp với yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Luật

3.1.2. Pháp luật về công ty luật cần phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế Luận văn: Giải pháp Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam

Ngày nay, nghề luật sư phát triển và chiếm ưu thế trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong quan hệ quốc tế. Quá trình hội nhập quốc tế tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Tuy nhiên, việc phải thực hiện các nghĩa vụ thành viên, các cam kết quốc tế khi là thành viên của các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đặt các doanh nghiệp của Việt Nam, cơ quan Nhà nước Việt Nam trước sức ép cạnh tranh gay gắt hơn, không chỉ trên thị trường thế giới mà ngay cả thị trường trong nước. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, làn sóng thương mại và đầu tư nước ngoài vào nước ta tăng lên cùng với tính chất phức tạp của các vụ tranh chấp thương mại và đầu tư. Ðiều này đặt ra những yêu cầu mới đối với luật sư, như tranh tụng bằng ngoại ngữ, hiểu biết về quy tắc UNCITRAL, về pháp luật của WTO liên quan tới GATT, GATS, TRIMS,… cũng như pháp luật của các nước có chủ thể tham gia tố tụng hữu quan. Khách hàng quốc tế của luật sư Việt Nam ngày càng nhiều và đa dạng, các vụ án liên quan đến tranh chấp thương mại quốc tế ngày càng tăng. Tuy nhiên, số luật sư am hiểu luật pháp quốc tế hoặc có kinh nghiệm hành nghề trong môi trường đa quốc gia còn thiếu, rất ít luật sư thành thạo ngoại ngữ và có chuyên môn sâu trong các lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Hiện nay, chủ yếu các công ty luật Việt Nam “có gì làm nấy”, không chuyên sâu. Sự hội nhập và mở cửa thị trường dịch vụ pháp lý đã đặt ra những thách thức không nhỏ tạo nên sức ép phải tồn tại và phát triển cho các công ty luật. Nhất là khi thị trường pháp lý hiện nay đang có sự tham gia của các công ty luật nước ngoài được cấp phép, đặt ra sự canh tranh gay gắt giữa các công ty luật của Việt Nam với các công ty luật nước ngoài. Chính những thực tại đó, định hướng để hoàn thiện hệ thống pháp luật về công ty luật Việt Nam phải phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế.

3.1.3. Pháp luật về công ty luật cần đảm bảo tính linh hoạt của hành nghề luật sư nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động Luận văn: Giải pháp Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam

Nghề luật sư không giống như những nghề bình thường khác, ngoài những yêu cầu về kiến thức và trình độ chuyên môn về pháp luật, thì yêu cầu về việc hành nghề luật sư còn phải tuân thủ theo quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Đây là một nét đặc thù riêng của nghề luật sư, tác động sâu sắc đến kỹ năng hành nghề, đặc biệt là kỹ năng tư vấn, tranh tụng của luật sư. Hoạt động nghề nghiệp của luật sư là hành nghề độc lập và chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt động nghề nghiệp của mình. Tuy nhiên, để hỗ trợ, giúp đỡ nhau trong hành nghề, đồng thời đáp ứng nhu cầu của khách hàng, nâng cao uy tín trước khách hàng, các luật sư có thể hợp tác với nhau trong các tổ chức hành nghề nhất định. Xuất phát từ đặc thù riêng của nghề luật sư, cần phải tập trung hoàn thiện các quy định liên quan đến hình thức công ty luật sao cho phù hợp với đặc điểm chung của nghề luật sư. Khi hình thức của công ty luật phù hợp với nghề luật sư, sẽ tạo điều kiện để luật sư hành nghề một các hiệu quả, luật sư có thể tự lựa chọn hành nghề theo tư cách cá nhân hoặc hành nghề trong các công ty luật.

Ngoài ra, pháp luật về công ty luật cũng cần hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của công ty luật, để tạo điều kiện cho luật sư có cơ sở pháp lý để hành nghề một cách độc lập. Thực tế ở nước ta cho thấy, các công ty luật có quy mô nhỏ, cơ sở vật chất thiếu thốn, quản lý điều hành kém còn chiếm đa số (chiếm hơn 70%). Phần lớn các công ty luật được thiết lập theo mô hình lỏng lẻo, thiếu tính chuyên nghiệp như trụ sở đặt tại nhà riêng của cá nhân luật sư hoặc của người dân. Số các công ty luật chuyên hoặc chủ yếu cung cấp dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực kinh tế như đầu tư, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, hàng không còn hạn chế. Trong khi đó, công ty luật có khả năng thực hiện dịch vụ pháp lý cho các tổ chức kinh tế, nhà đầu tư nước ngoài còn ít. Để hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động cho các công ty luật, thì trước hết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của công ty luật. Khi tổ chức và hoạt động của công ty luật được quy định cụ thể, phù hợp với nghề luật sư, thì mới đảm bảo được tính linh hoạt của hành nghề luật sư, tạo điều kiện để các luật sư hành nghề một cách chuyên tâm và hiệu quả, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty luật.

3.1.4. Pháp luật về công ty luật tạo điều kiện để các luật sư hoàn thiện sứ mệnh bảo vệ quyền con người và quyền công dân Luận văn: Giải pháp Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nhà nước dân chủ, nhà nước “của dân, do dân, vì dân” các quyền con người được Hiến pháp ghi nhận và đảm bảo thực hiện: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (Khoản 1, Điều 14, Hiến pháp năm 2013). Để đảm bảo quyền con người, Nhà nước thực hiện thông qua nhiều thiết chế khác nhau, trong đó các tổ chức xã hội đóng một vai trò không nhỏ trong việc thực hiện quyền con người. Tổ chức luật sư là một tổ chức xã hội nghề nghiệp được thành lập để hỗ trợ Nhà nước trong lĩnh vực hoạt động tư pháp. Với ví trí, vai trò của mình, tổ chức luật sư, mà cụ thể là các luật sư đã góp phần tích cực vào việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Theo Điều 3 Luật Luật sư 2006 (được sửa đổi, bổ sung năm 2012), chức năng xã hội của luật sư là: “Hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.

Do trình độ dân trí của nước ta còn thấp, một bộ phận người dân chưa am hiểu pháp luật, do đó khi tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự, kinh tế, lao động… họ không biết được quyền và nghĩa vụ của mình nên không thể bảo vệ được các quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình, do đó luật sư lúc này là chỗ dựa tốt nhất của người dân. Trong lĩnh vực tố tụng, đặc biệt là tố tụng hình sự, vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền con người càng được thể hiện rõ nét hơn. Sự tham gia của luật sư trong tố tụng không chỉ giúp bị can, bị cáo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, mà còn góp phần trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án, giúp việc điều tra, truy tố và xét xử được nhanh chóng, chính xác, tránh làm oan người vô tội, để lọt tội phạm.Luận văn: Giải pháp Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam

Để tạo điều kiện cho các luật sư hoàn thành sứ mệnh bảo vệ quyền con người và quyền công dân, pháp luật về công ty luật cần hoàn thiện theo hướng quy định đầy đủ, đồng bộ và thống nhất, tạo điều kiện cho các công ty luật có cơ sở pháp lý để hoàn thiện phù hợp với đặc trưng của nghề luật sư, qua đó tạo điều kiện cho các luật sư hoàn thiện sư mệnh bảo vệ quyền con người và quyền công dân một cách tốt nhất.

3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIÊṆ PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY LUÂṬ Ở VIÊṬ NAM

3.2.1. Hoàn thiện các quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Luật sư liên quan đến hình thức tổ chức hành nghề luật sư

Luật Luật sư đã tiến một bước dài theo hướng đưa các tổ chức hành nghề luật sư xích lại gần với các loại hình doanh nghiệp. Theo quy định của Luật Luật sư thì tổ chức hành nghề luật sư bao gồm: (i) Văn phòng luật sư là tổ chức hành nghề luật sư do một luật sư thành lập được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân; (ii) Công ty luật bao gồm công ty luật hợp danh và công ty luật trách nhiệm hữu hạn. So với Pháp lệnh Luật sư năm 2001, Luật Luật sư đã quy định thêm loại hình công ty luật trách nhiệm hữu hạn. Hơn nữa, để phù hợp với quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Luật sư còn quy định công ty luật trách nhiệm hữu hạn có thể là công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên hoặc công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Văn phòng luật sư, công ty luật có các quyền, nghĩa vụ theo quy định của Luật Luật sư, Luật Doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan.Luận văn: Giải pháp Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam

Tuy nhiên, quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Luật sư liên quan đến hình thức tổ chức hành nghề luật sư còn nhiều bất cập, cần được tiếp tục hoàn thiện, cụ thể:

Thứ nhất, Có sự không thống nhất, mâu thuận giữa Luật Luật sư, Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Luật sư và Luật Doanh nghiệp. Theo quy định tại Điều 14 Nghị định 123/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật luật sư thì “Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên có thể chuyển đổi sang hình thức công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. Công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có thể chuyển đổi sang hình thức công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Công ty luật trách nhiệm hữu hạn có thể chuyển đổi sang hình thức công ty luật hợp danh. Công ty luật hợp danh có thể chuyển đổi sang hình thức công ty luật trách nhiệm hữu hạn”. Trong khi đó Luật Doanh nghiệp không cho phép chuyển đổi công ty hợp danh thành công ty trách nhiệm hữu hạn và ngược lại, đây là mâu thuận nghiêm trọng cần được sửa đổi.

Từ những vướng mắc trên, trong thời gian tới sửa đổi quy định của pháp luật theo hướng: Sửa đổi những quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Luật sư và các văn bản pháp luật liên quan một cách thống nhất, đồng bộ.

Thứ hai, Luật Doanh nghiệp quy định công ty hợp danh có tư cách pháp nhân, khác với Doanh nghiệp tư nhân. Nhờ đó, một loại hình doanh nghiệp đã ra đời. Trên thực tế, dù không có nhiều công ty được thành lập theo hình thức công ty hợp danh nhưng vẫn có những công ty hợp danh trong lĩnh vực kiểm toán, pháp luật, khám chữa bệnh, tư vấn thiết kế… đang hoạt động có hiệu quả. Trong một số trường hợp, những người hành nghề độc lập lại rất cần hình thức hợp danh để hoàn toàn chủ động đối với hoạt động của mình. Chẳng hạn, ba bác sĩ, có thể thành lập một công ty hợp danh khám chữa bệnh và mỗi người mở một phòng khám riêng với danh nghĩa công ty. Bất kỳ một loại hình doanh nghiệp nào cũng có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Việc lựa chọn loại hình doanh nghiệp nào hoàn toàn phụ thuộc vào yêu cầu hoạt động của những người góp vốn. Vì vậy, quy định của Luật Doanh nghiệp về công ty hợp danh sẽ cho các nhà đầu tư nhiều cơ hội lựa chọn hơn khi quyết định thành lập doanh nghiệp.Luận văn: Giải pháp Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam

Tuy nhiên, quy định của Điều 130, Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã tạo ra một doanh nghiệp “lưỡng cực”. Các thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình, còn các thành viên góp vốn thì chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Hơn nữa, điểm c khoản 2 Điều 140 Luật Doanh nghiệp năm 2005 lại quy định một hạn chế quan trọng với thành viên góp vốn là không được tham gia quản lý công ty, không được tiến hành công việc kinh doanh nhân danh công ty.

Với quy định nêu trên, rất ít nếu không nói là không hề có thành viên góp vốn trong công ty hợp danh. Bởi, khi góp vốn vào công ty hợp danh, người góp vốn sẽ chịu rủi ro cao hơn nhiều so với khi cho vay hoặc gửi tiền vào tiết kiệm. Hơn nữa, thành viên góp vốn không được quản lý công ty, do đó họ sẽ chịu rủi ro rất lớn. Nếu các thành viên hợp danh hoạt động không có hiệu quả, người góp vốn chẳng những không thu được lãi, mà có thể bị mất vốn góp mà không thể quy trách nhiệm cho ai. Hơn nữa, nếu không có thành viên góp vốn, các thành viên hợp danh có được thành lập công ty hợp danh không? Đó là vấn đề không rõ ràng, vì luật không quy định công ty hợp danh bắt buộc phải có thành viên góp vốn. Do đó, nếu chỉ có 2 thành viên hợp danh góp vốn thành lập công ty, thì công ty đó sẽ phải chịu trách nhiệm vô hạn, không khác gì doanh nghiệp tư nhân, nhưng công ty hợp danh lại có tư cách pháp nhân. Điều đó mâu thuẫn với quy định về pháp nhân tại Điều 84 Bộ luật Dân sự năm 2005 và tạo ra sự bất bình đẳng giữa doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh.

Từ những phân tích trên, cần hoàn thiện các quy định về Luật Doanh nghiệp theo hướng quy định công ty hợp danh không có tư cách pháp nhân, công ty hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn và không có những thành viên góp vốn. Quy định như vậy cũng phù hợp với thông lệ quốc tế hiện nay.Luận văn: Giải pháp Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam

Thứ ba, theo quy định của Luật Luật sư, công ty luật gồm công ty luật hợp danh và công ty luật trách nhiệm hữu hạn. Công ty luật trách nhiệm hữu hạn có thể là công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên hoặc công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Có thể thấy, từ khi Luật Công ty năm 1990 có hiệu lực đến Luật Doanh nghiệp năm 2005 ra đời, chế độ trách nhiệm hữu hạn cũng đã được chính thức thừa nhận để tham gia vào hoạt động kinh doanh. Luật Luật sư năm 2006 đã thừa nhận công ty luật trách nhiệm hữu hạn là hình thức tổ chức hành nghề luật sư nhằm đảm bảo sự phù hợp giữa quy định của Luật Luật sư và Luật Doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực tế việc thừa nhận công ty luật trách nhiệm hữu hạn là hình thức tổ chức hành nghề luật sư là không phù hợp với chế độ trách nhiệm vô hạn đối với luật sư trong hoạt động nghề nghiệp. Trong chế độ trách nhiệm hữu hạn, có sự tách bạch giữa tài sản riêng của cá nhân và tài sản chung của công ty. Theo đó, các thành viên của công ty góp một khoản vốn nhất định theo thoả thuận và chỉ chịu trách nhiệm đối với khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn mà từng thành viên đóng góp. Trong khi đó, hoạt động nghề của luật sư là hành nghề độc lập và chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt động nghề nghiệp của mình.

Do dó, để phù hợp với đặc thù của nghề luật sư, pháp luật không nên quy định loại hình công ty luật trách nhiệm hữu hạn là hình thức tổ chức hành nghề luật sư, mà pháp luật cần quy định hình thức tổ chức hành nghề luật sư gồm: (i) Văn phòng luật sư  hành nghề độc lập (sole practitioner/principal);

  • Công ty hợp danh (partnership).

3.2.2. Hoàn thiện các quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Luật sư liên quan đến tổ chức và hoạt động của công ty luật Luận văn: Giải pháp Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam

Cần làm rõ khái niệm công ty hợp danh trong Luật Doanh nghiệp năm 2005 và phân biệt rõ ràng hai loại hình công ty với các tên gọi khác nhau, tránh sự nhầm lẫn giữa công ty hợp danh (general partnership hay simply partnership) và công ty hợp vốn đơn giản (limited partnership). Quy định tách bạch hai loại hình công ty hợp danh giống như một số nước trên thế giới, đó là hợp danh vô hạn và hợp danh hữu hạn, vì bản chất pháp lý của hai loại hình này là khác nhau. Một công ty hợp danh chỉ bao gồm các thành viên hợp danh chắc chắn sẽ rất khác với một công ty hợp danh bao gồm cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn. Vì vậy, quy định chung chung như hiện nay là công ty hợp danh buộc phải có tối thiểu hai thành viên hợp danh và sẽ bị giải thể nếu vi phạm điều này cũng tỏ ra không phù hợp đối với loại hình công ty hợp vốn đơn giản. Mỗi loại hình liên kết sẽ có quy chế pháp lý cụ thể về cách thức tổ chức, hoạt động và giải thể của công ty.

Thứ nhất, Luật Doanh nghiệp cần quy định cụ thể hai loại hình công ty hợp danh, đó là công ty hợp danh vô hạn và công ty hợp danh hữu hạn. Qua đó, thiết lập mô hình tổ chức và hoạt động riêng cho hai loại hình công ty này. Thực tế mô hình tổ chức và hoạt động của công ty hợp danh được Luật Doanh nghiệp điều chỉnh chủ yếu áp dụng cho công ty hợp danh có thành viên góp vốn (hợp vốn đơn giản). Trong khi, quy định của Luật Luật sư về công ty luật hợp danh có đặc điểm riêng, theo đó công ty luật hợp danh không có thành viên góp vốn. Điều này dẫn đến việc quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của loại hình công ty hợp danh không có thành viên góp vốn chưa đầy đủ, còn nhiều bất cập, dẫn đến khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật.

Thứ hai, Luật Doanh nghiệp cần sửa đổi đối với loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, cụ thể:

  • Cho phép công ty linh hoạt hơn trong quy định trình tự, thủ tục triệu tập họp hội đồng thành viên trong trường hợp cuộc họp lần thứ nhất không đủ điều kiện tiến hành họp.
  • Thừa nhận giá trị pháp lý của cuộc họp hội đồng thành viên dưới hình thức hội nghị trực tuyến hoặc phương tiện thông tin tương tự khác.

Thứ ba, Luật Doanh nghiệp cần sửa đổi, bổ sung đối với loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, cụ thể:

  • Quy định chi tiết hơn và bổ sung một số quyền của kiểm soát viên, như tham dự và thảo luận tại các cuộc họp của hội đồng thành viên, cuộc họp của công ty.Luận văn: Giải pháp Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam
  • Bãi bỏ yêu cầu đăng ký chuyển đổi loại hình doanh nghiệp trong trường hợp công ty kết nạp thêm thành viên.

Các nội dung bổ sung bao gồm: Quy định rõ nguyên tắc thực hiện quyền chủ sở hữu trong một số trường hợp đặc biệt như chủ sở hữu chết, mất tích, bị kết án tù, chấm dứt hoạt động.

Thứ tư, hạn chế đối với giám đốc hoặc tổng giám đốc của công ty trách nhiệm hữu hạn từ hai thành viên trở lên và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Pháp luật cần quy định giám đốc hoặc tổng giám đốc của công ty TNHH từ hai thành viên trở lên và công ty TNHH một thành viên không được đồng thời là giám đốc hoặc tổng giám đốc của doanh nghiệp khác. Quy định như trên sẽ tránh được việc yếu kém trong quản lý điều hành của doanh nghiệp hay tránh việc mở, thành lập công ty một cách tràn lan sau đó không thực hiện được việc quản lý.

Thứ năm, hoàn thiện các quy định của Luật Luật sư hiện hành để tạo điều kiện cho công ty luật Việt Nam có thể cạnh tranh bình đẳng với công ty luật nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam và liên quan đến việc tư vấn pháp luật Việt Nam.

Hiện nay, pháp luật không phân định rõ phạm vi giấy phép hành nghề của tổ chức luật sư nước ngoài, cũng như vai trò, năng lực và điều kiện hành nghề của luật sư Việt Nam trong tổ chức luật sư nước ngoài. Luật Luật sư không đưa ra cơ chế để khuyến khích các công ty và dự án trong nước sử dụng luật sư Việt Nam. Trên thực tế, các công ty của Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản thường thuê luật sư của nước họ và luật sư đó sẽ đi thuê luật sư nước ngoài khác. Đây là cơ chế để luật sư Việt Nam học hỏi kinh nghiệm luật sư nước ngoài để giúp doanh nghiệp Việt Nam và Chính phủ Việt Nam giám sát luật sư nước ngoài.

3.2.3. Hoàn thiện các quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Luật sư để nâng cao trách nhiệm nghề nghiệp của các luật sư và tổ chức hành nghề luật sư Luận văn: Giải pháp Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam

Luật sư không chỉ mang trên vai mình trách nhiệm theo quy định của pháp luật trong hoạt động nghề nghiệp, mà còn có trách nhiệm đạo đức đối với khách hàng và xã hội. Trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư được thể hiện bởi sự giới hạn những hành vi của luật sư trong hoạt động nghề nghiệp, điều đó có nghĩa là luật sư phải tuân thủ các quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động hành nghề luật sư. Nếu luật sư không tuân thủ đi ngược lại quy tắc hành nghề đã được pháp luật quy định, thì phải chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi vi phạm, sẽ bị trừng phạt và bồi thường cho những hành vi trái pháp luật đó. Trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư bao gồm trách nhiệm đạo đức và trách nhiệm pháp lý. Trách nhiệm đạo đức thể hiện lương tâm nghề nghiệp, đạo đức nghề nghiệp của luật sư, còn trách nhiệm pháp lý là trách nhiệm luật sư phải chịu khi vi phạm các quy định của pháp luật về hành nghề luật sư. Để nâng cao trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư và tổ chức hành nghề luật sư, trước hết cần hoàn thiện các quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Luật sư một cách đầy đủ, đồng bộ và thống nhất.

Thứ nhất, hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản trị công ty. Đây là một nội dung quan trọng của Luật Doanh nghiệp được thể hiện bằng số lượng lớn các quy định trong luật. Các nguyên tắc quản trị doanh nghiệp được xây dựng tương ứng theo các loại hình doanh nghiệp, cụ thể: Doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Tuy nhiên, thực tế triển khai cho thấy, rất nhiều quy định của Luật Doanh nghiệp, đặc biệt là các nguyên tắc quản trị công ty trách nhiệm hữu hạn và cổ phần, vô tình hoặc cố tình không tuân thủ đúng hoặc không đầy đủ.

Thứ hai, hoàn thiện quy định pháp luật về xử lý vi phạm đối với luật sư và tổ chức hành nghề luật sư. Luật Luật sư cần phân định rõ việc xử lý kỷ luật đối với luật sư, xử lý vi phạm hành chính đối với luật sư, tổ chức hành nghề luật sư và giải quyết tranh chấp liên quan đến hoạt động hành nghề luật sư.

Luật Luật sư cần quy định cụ thể hình thức và thẩm quyền xem xét, xử lý kỷ luật của đoàn luật sư theo hướng xem xét, xử lý kỷ luật đối với luật sư do đoàn luật sư thực hiện. Trong trường hợp luật sư bị xử lý kỷ luật bằng hình thức xoá tên khỏi danh sách luật sư của đoàn luật sư, thì đoàn luật sư phải thông báo bằng văn bản với Sở Tư pháp và đề nghị Bộ Tư pháp thu hồi chứng chỉ hành nghề luật sư, đề nghị tổ chức luật sư toàn quốc thu hồi thẻ luật sư. Ban thường vụ tổ chức luật sư toàn quốc có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định xử lý kỷ luật của Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư.

Luật Luật sư cần quy định cụ thể việc xử lý vi phạm hành chính đối với luật sư, tổ chức hành nghề luật sư, những hành vi vi phạm của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư. Cá nhân luật sư, tổ chức hành nghề luật sư vi phạm pháp luật nghiêm trọng sẽ bị thu hồi chứng chỉ hành nghề, giấy phép hành nghề

hoặc Giấy đăng ký hoạt động. Có như vậy mới đảm bảo sự chính xác, khách quan của việc xử lý vi phạm hành chính, đồng thời tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với hành nghề luật sư, góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm, tuân thủ pháp luật của luật sư trong hành nghề.Luận văn: Giải pháp Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam

Tiểu kết Chương 3

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật luôn là vấn đề được Ðảng và Nhà nước ta dành sự quan tâm đặc biệt, nhất là hiện nay chúng ta đang tiến hành xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đổi mới tổ chức và hoạt động của các công ty luật không những phải theo định hướng phục vụ tốt hơn yêu cầu của hoạt động tư pháp nói chung, của hoạt động hành nghề luật sư nói riêng, mà còn là nhân tố quan trọng hỗ trợ các quan hệ kinh tế thị trường phát triển. Trước yêu cầu của tình hình mới, đặc biệt là khi Việt Nam là thành viên của WTO, việc hoàn thiện pháp luật về công ty luật, một hệ thống pháp luật điều chỉnh trực tiếp hoạt động hành nghề luật sư là một yêu cầu cấp thiết. Trong định hướng hoàn thiện pháp luật về công ty luật, cần đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế, tạo điều kiện để các luật sư hoàn thành sứ mệnh bảo vệ quyền con người và quyền công dân. Pháp luật về công ty luật được điều chỉnh bởi Luật Doanh nghiệp, Luật Luật sư và một số văn bản pháp luật liên quan. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật về công ty luật còn nhiều bất cập, thiếu thống nhất giữa quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Luật sư, cần được sửa đổi hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Để hoàn thiện pháp luật về công ty luật, đáp ứng yêu cầu công cuộc cải cách tư pháp, trước hết chúng ta phải tiến hành rà soát lại các quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Luật sư liên quan trực tiếp đến tổ chức và hoạt động của công ty luật, từ đó đưa ra các giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp luật về công ty luật ở Việt Nam hiện nay.

KẾT LUẬN

Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thì các nguyên tắc về tôn trọng và bảo vệ quyền con người bình đẳng, công bằng trong hoạt động tư pháp cần được tôn trọng hơn bao giờ hết. Để đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao năng lực, hiệu quả, hiệu lực của hoạt động tư pháp, Nhà nước ta đã từng bước thể chế hoá các quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp trong các văn bản pháp luật như: Luật Tổ chức Toà án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Luật sư… Cùng với sự phát triển của hệ thống pháp luật, cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, tổ chức bổ trợ tư pháp, trong đó có luật sư đặc biệt được quan tâm từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới với việc ban hành Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987 và hiện nay là Luật Luật sư. Nhà nước đã bước đầu thể chế hóa các quan điểm của Đảng về tổ chức và hoạt động của luật sư, xây dựng hệ thống pháp luật về công ty luật nhằm tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển đội ngũ luật sư và hoạt động nghề nghiệp của họ. Trên thực tế, pháp luật về công ty luật ở Việt Nam hiện nay đáp ứng được yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển đội ngũ luật sư cả về số lượng và chất lượng. Hệ thống pháp luật về công ty luật hiện nay được quy định tương đối cụ thể ở các luật chuyên ngành và các văn bản dưới luật. Tuy nhiên, trước yêu cầu của tình hình mới, pháp luật về công ty luật còn có nhiều vấn đề bất cập như thiếu tính thống nhất, đồng bộ giữa luật chuyên ngành và các văn bản dưới luật, vừa yếu về chất lượng và chưa ngang tầm với nhiệm vụ, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của xã hội.Luận văn: Giải pháp Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam

Cùng với sự tăng trưởng kinh tế của đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, nhất là doanh nghiệp cũng gia tăng nhanh chóng; số lượng vụ việc, khách hàng của luật sư sẽ nhiều hơn, đa dạng hơn. Phạm vi hoạt động hành nghề của luật sư ngày càng được mở rộng. Bên cạnh đó, yêu cầu của xã hội về chất lượng dịch vụ, trách nhiệm pháp lý, kỷ luật hành nghề đối với luật sư ngày càng cao; với việc thực hiện cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), sự cạnh tranh trên thị trường dịch vụ pháp lý trong nước và quốc tế ngày càng gay gắt. Để tạo điều kiện cho luật sư đáp ứng được yêu cầu trên, pháp luật về công ty luật cần được hoàn thiện một cách đồng bộ, thống nhất, mang tính khả thi cao, đảm bảo đầy đủ cả về số lượng và chất lượng; tạo điều kiện cho các công ty luật được thành lập và hoạt động một các hiệu quả, phù hợp với đặc thù của nghề luật sư và thông lệ quốc tế.

Trên quan điểm đó, Luận văn đi vào nghiên cứu đề tài này với các nhiệm vụ chủ yếu là phân tích về mặt lý luận, các đặc điểm pháp lý chủ yếu của pháp luật về công ty luật, từ đó nêu lên những mặt mạnh, ưu thế của các loại hình công ty này so với các loại hình công ty khác. Đồng thời, trên cơ sở phân tích đánh giá thực trạng pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động của các loại hình công ty luật để chỉ ra những hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật hiện hành, từ đó đề xuất một số giải pháp cụ thể cho việc hoàn thiện khung pháp lý về pháp luật luật sư nói chung và pháp luật về công ty luật nói riêng.

Mặc dù Luận văn đã có sự so sánh, nghiên cứu với pháp luật trong nước và thế giới, cũng như tìm hiểu thực tiễn hoạt động của các công ty luật ở Việt Nam, nhưng do điều kiện tiếp cận cả về tài liệu lẫn thực tiễn còn nhiều hạn chế, nên Luận văn khó tránh khỏi những khiếm khuyết. Tuy nhiên, tác giả mong muốn đóng góp một phần nỗ lực nhỏ bé của mình để góp phần hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật về luật sư nói chung và pháp luật về công ty luật nói riêng. Rất mong nhận được sự chia sẽ và đóng góp ý kiến của các thầy cô, đồng nghiệp và bạn bè./.Luận văn: Giải pháp Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Luận văn: Lý luận Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x