Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Giải pháp nâng cao HQ bán lẻ chứng khoán các Cty hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty cổ phần ở Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
3.1. Yêu cầu và các vấn đề đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty cổ phần ở Việt Nam
Để đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật CBCKRL cho CTCP ở Việt Nam, trước hết cần phải đặt vấn đề CBCKRL của CTCP trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện nay và từ thực trạng pháp luật CBCKRL, qua đó để thấy rõ sự cần thiết phải có giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả của hoạt động CBCKRL nói chung và của CTCP nói riêng.
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật để đáp ứng yêu cầu phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam Luận văn: Giải pháp nâng cao HQ bán lẻ chứng khoán các Cty
TTCK Việt Nam đã đi vào hoạt động được hơn 13 năm và đang có những bước tiến dài trên con đường phát triển. Tuy nhiên, sự ra đời của TTCK Việt Nam có nhiều điểm khác biệt so với một số TTCK trên thế giới. Xét về điều kiện, nền kinh tế Việt Nam cuối những năm 90 là chưa đủ điều kiện để TTCK ra đời. Tại thời điểm đó, chúng ta chưa có kinh tế thị trường, những điều kiện như hệ thống pháp luật, ngân hàng, cơ sở vật chất kĩ thuật… còn nhiều hạn chế. Sự ra đời của TTCK Việt Nam không xuất phát từ yêu cầu của thị trường mà hình thành một cách tự giác, có sự can thiệp của Nhà nước.
Ngày 11/07/1998, Chính phủ ban hành Nghị định 44/1998/NĐ-CP về chứng khoán và TTCK tạo cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc hình thành TTCK Việt Nam. Sau đó, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 127/1998/QĐ-TTg thành lập TTGDCK thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 28/7/2000 trung tâm này chính thức đi vào hoạt động và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên. Năm 2004, Bộ Tài chính ban hành Quyết định 244/2004/QĐ-BTC ban hành quy chế tạm thời về tổ chức giao dịch chứng khoán tại TTGDCK Hà Nội, ngày 08/3/2005 TTGDCK Hà Nội chính thức đi vào hoạt động. Đây là những sự kiện quan trọng đánh dấu sự ra đời của TTCK Việt Nam. Qua đó cho thấy vai trò quan trọng của nhà nước trong việc thúc đẩy sự ra đời của TTCK Việt Nam.
Việt Nam nước có nền kinh tế chuyển đổi, hình thành từ nền sản xuất nhỏ, TTCK Việt Nam ra đời nhằm thực hiện một số chính sách kinh tế, xã hội của Đảng và Nhà nước như quá trình đổi mới, sắp xếp các DNNN, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành CTCP… So với nhiều nước trên thế giới TTCK Việt Nam còn khá non trẻ. Vì vậy, bên cạnh những biện pháp kinh tế khác thì để TTCK Việt Nam hoạt động có hiệu quả, đem lại nguồn vốn thúc đẩy sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thì việc hoàn thiện pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ nói riêng và chào bán chứng khoán nói chung là yêu cầu cần thiết, góp phần tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động huy động vốn quan trọng này.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận Văn Thạc Sĩ Luật Học
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật để khắc phục những vướng mắc, bất cập từ thực tiễn hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ ở Việt Nam
Như đã phân tích ở Chương 2, thực trạng pháp luật Việt Nam về hoạt động CBCKRL đa dạng và phức tạp, có nhiều văn bản khác nhau cùng điều chỉnh hoạt động này nhưng hiệu lực pháp lý không cao, phần lớn là văn bản dưới luật; nhiều cơ quan có thẩm quyền quản lý nhưng chưa có cơ quan quản lý chung thống nhất làm ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động này. Văn bản Luật quan trọng trong điều chỉnh hoạt động của tất cả các loại hình doanh nghiệp là Luật Doanh nghiệp 2005 cỏn bỏ ngỏ nhiều vấn đề pháp lý về chào bán chứng khoán riêng lẻ
Hơn nữa, trong mỗi văn bản điều chỉnh hoạt động CBCKRL còn tồn tại nhiều bất cập cần được sửa đổi, bổ sung, chẳng hạn, có sự mâu thuẫn trong việc quy định điều kiện chào bán trái phiếu của CTCP giữa Luật doanh nghiệp 2005 và Nghị định 90/2011/NĐ-CP, những bất cập về điều kiện chào bán trái phiếu quy định tại Nghị định này hạn chế khả năng huy động vốn của doanh nghiệp.
Do vậy, phương hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động CBCKRL phải bảo đảm phù hợp với thực tế và góp phần giải quyết những mâu thuẫn, bất cập giữa các văn bản pháp luật.
3.2. Một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty cổ phần
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty cổ phần Luận văn: Giải pháp nâng cao HQ bán lẻ chứng khoán các Cty
Sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật về chào bán cổ phiếu riêng lẻ của công ty cổ phần
Việt Nam, trước khi có Nghị định số 01/2010/NĐ-CP của Chính phủ về chào bán cổ phần riêng lẻ của CTCP, do có khoảng cách khá lớn về quy định của pháp luật về chào bán riêng lẻ và chào bán ra công chúng, thay vì chào bán công khai, nhiều CTCP, mặc dù có đủ điều kiện phát hành ra công chúng đã tổ chức phát hành riêng lẻ để thành lập CTCP mới hoặc thu về khoản thặng dư vốn lớn. Làn sóng phát hành riêng lẻ nhiều nhất trong ngành dầu khí, điện xây dựng và bất động sản. Do thực trạng chuyển đổi từ công ty nhà nước sang CTCP, ở Việt Nam, có trường hợp công ty nhà nước ngay sau khi chuyển sang hình thức CTCP đã đầu tư thành lập ra nhiều CTCP con với những ngành nghề kinh doanh tương tự như công ty mẹ, mang tên của công ty mẹ trong tên kinh doanh của công ty con. Chủ trương của việc thành lập các công ty con này là để chào bán cổ phần riêng lẻ. Thực chất của việc chào bán cổ phần riêng lẻ này là để thay đổi cơ cấu sở hữu nhưng không làm tăng vốn điều lệ công ty và thu về một khoản thặng dư vốn rất lớn cho những cổ đông lớn ở công ty con (đồng thời là cổ đông lớn của công ty mẹ) mới thành lập. Thông qua chào bán riêng lẻ, những cổ đông lớn giảm tỷ lệ sở hữu của mình, chuyển sang cho các nhà đầu tư khác và thu về khoản thặng dư vốn của đợt phát hành. Thực trạng này đem lại cho nhà đầu tư những rủi ro rất lớn đối với khoản đầu tư mua cổ phần của CTCP.
Vì vậy, Việt Nam cần thiết phải có cơ sở pháp luật rõ ràng, minh bạch, chính xác để áp dụng đối với hoạt động chào bán cổ phần riêng lẻ. Các quy định điều chỉnh hoạt động chào bán cổ phần riêng lẻ trong CTCP trong Nghị định 01/2010/NĐ-CP trước đây và Nghị định 58/2012/NĐ-CP hiện tại đã phần nào giải quyết được những hạn chế của pháp luật điều chỉnh hoạt động chào bán cổ phần riêng lẻ. Tuy nhiên Nghị định 58/2012/NĐ-CP vẫn còn một số điểm bất cập, chưa giải quyết thấu đáo những vướng mắc trong Nghị định 01/2010/NĐ-CP trước đây, chưa đáp đứng được nhu cầu được điều chỉnh bằng một khung pháp luật hợp lý và đầy đủ hơn đối với hoạt động chào bán cổ phần riêng lẻ. Chính vì vậy, trong thời gian tới, Nhà nước cần ban hành những quy định sửa đổi Nghị định 58/2012/NĐ-CP của Chính phủ trên cơ sở một số đề xuất sau:
Hiện Dự thảo Luật doanh nghiệp sửa đổi đã được cơ quan ban ngành trình Quốc Hội xem xét thông qua tại kỳ họp Quốc hội thứ 8 sắp tới. Liên quan đến các quy định về chào bán chứng khoán riêng lẻ, tác giả đề xuất bổ sung vào Luật doanh nghiệp các quy định cụ thể về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của Công ty cổ phần và Công ty TNHH, bao gồm các quy định về: Chủ thể chào bán, điều kiện chào bán, hồ sơ thủ tục chào bán chứng khoán riêng lẻ và nghĩa vụ của tổ chức phát hành chứng khoán riêng lẻ trước và sau đợt phát hành. Ngoài ra để thống nhất với quy định của Pháp luật chứng khoán và thị trường chứng khoán, Luật Doanh nghiệp sửa đổi, bổ sung cũng cần phải quy định chi tiết về trách nhiệm công bố thông tin của các doanh nghiệp phát hành chứng khoán. Việc công khai hóa thông tin sẽ tạo điều kiện dễ dàng cho các chủ thể tiếp cận thông tin về doanh nghiệp, tạo cơ sở cho sự giám sát của bên thứ ba đối với hoạt động của doanh nghiệp. Theo đó, các doanh nghiệp phát hành chứng khoán riêng lẻ có nghĩa vụ báo cáo và công bố thông tin trong suốt đợt chào bán, giúp cho các chủ thể tham gia vào quá trình phát hành chứng khoán, gồm Nhà Đầu tư, cơ quan giám sát Nhà nước và các tổ chức trung gian nắm bắt đầy đủ thông tin. Công khai minh bạch hóa thông tin là cơ sở thúc đẩy chủ thể phát hành thực hiện đúng quy định pháp luật, Nhà đầu tư tiếp cận được các thông tin chính xác để quyết định đầu tư hay không và Cơ quan quản lý Nhà nước dễ dàng chỉ đạo, giám sát. .
Sửa đổi quy định CTCP chưa đại chúng tiến hành chào bán cổ phần riêng lẻ phải thực hiện thủ tục đăng ký chào bán tại cơ quan có thẩm quyền theo Nghị định số58/2012/NĐ-CP. Đối với công ty đại chúng, thủ tục phát hành riêng lẻ thực hiện qua UBCK đã được quy định chi tiết và tiến hành khá thuận lợi. Luận văn: Giải pháp nâng cao HQ bán lẻ chứng khoán các Cty
Còn đối với CTCP chưa đại chúng, nếu Bộ Kế hoạch và Đầu tư không có hướng dẫn chi tiết quy trình tiếp nhận và xử lý hồ sơ phát hành riêng lẻ tại cơ quan đăng ký kinh doanh, thì vướng mắc cũ của Nghị định 01/2010/NĐ-CP có nguy cơ tái diễn khả năng cơ quan đăng ký kinh doanh tiếp tục nại lý do chưa có thông tư hướng dẫn để không thụ lý hồ sơ của doanh nghiệp. Mặt khác, với khoảng 500.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta hiện nay, một cơ chế thông báo và công bố thông tin phù hợp, khác và rút ngắn hơn so với với yêu cầu thông báo và công bố thông tin về phát hành cổ phần riêng lẻ của công ty đại chúng sẽ giúp cho việc lành mạnh hóa thị trường và bảo đảm được an toàn cho cổ đông nhỏ, lẻ. Vì vậy, để loại bỏ bất cập trên, cần sửa đổi theo hướng Nghị định 58/2012/NĐ-CP chỉ quản lý hoạt động phát hành riêng lẻ của CTCP đại chúng, công ty niêm yết, ngân hàng thương mại cổ phần đại chúng, công ty chứng khoán và quy định rõ đối với hoạt động phát hành riêng lẻ của các CTCP chưa đại chúng, công ty TNHH chuyển đổi thành CTCP thì doanh nghiệp tự thực hiện theo các quy định của Luật Doanh nghiệp.
Quy định hạn chế chuyển nhượng trong vòng 01 năm kể từ ngày hoàn thành đợt chào bán và các đợt phát hành phải cách nhau ít nhất 06 tháng áp dụng với CTCP đại chúng đang bị mâu thuẫn với quy định của Luật doanh nghiệp 2005, quy định này hạn chế quyền tự do sở hữu của cổ đông và khả năng huy động vốn của Doanh nghiệp. Vì vậy, cần xem xét sửa đổi quy định này và giành việc hạn chế này cho các chủ thể có liên quan, đó chính là chủ thể chào bán và nhà đầu tư.
Để việc tiếp nhận và xử lý hồ sơ chào bán cổ phiếu riêng lẻ của CTCP được thực hiện nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu huy động vốn của CTCP và thủ tục chào bán không bị mắc kẹt như thời gian qua, cần ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành Nghị định 58/2012/NĐ-CP về nội dung này, tránh gây ra sự lúng túng và “ách tắc” trong quy trình huy động vốn qua chào bán chứng khoán riêng lẻ, đảm bảo cho các cơ quan quản lý Nhà nước có cơ sở để tiếp nhận và xử lý các hồ sơ chào bán của Doanh nghiệp.
Hiện tượng các doanh nghiệp lợi dụng phát hành trái phiếu riêng lẻ cho các đối tác chiến lược để chào bán với giá cổ phiếu rất thấp so với giá trị thực tế, và vấn đề đưa ra tiêu chí xác định đối tác chiến lược của nhiều doanh nghiệp cũng hết sức mập mờ. Điều này dễ gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của cổ đông hiện hữu cũng như tác động xấu đến sự phát triển ổn định và lành mạnh của TTCK. Do đó, cần sớm ban hành cơ sở xác định giá chào bán cho cổ phiếu riêng lẻ cũng như tiêu chí xác định đối tác chiến lược. Nhằm góp phần bảo về cổ đông hiện hữu, tạo hành lang pháp lý lành mạnh cho hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ.
Sửa đổi, bổ sung pháp luật về chào bán trái phiếu riêng lẻ của công ty cổ phần:
Nghị định 90/2011/NĐ-CP là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất trực tiếp điều chỉnh hoạt động phát hành trái phiếu riêng lẻ của doanh nghiệp. Nghị định này thay thế và khắc phục nhiều hạn chế của Nghị định 52/2005/NĐ-CP. Tuy nhiên như đã phân tích về tại mục thực trạng pháp luật CBCKRL ở chương 2, Nghị định 90/2011/NĐ-CP vẫn còn nhiều điểm hạn chế gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi thực hiện phương thức huy động vốn bằng phát hành trái phiếu riêng lẻ. Cụ thể là quy định về điều kiện chào bán trái phiếu riêng lẻ của tất cả các doanh nghiệp chào bán nói chung và CTCP nói riêng thì năm kinh doanh liền kề trước đợt chào bán phải có lãi và báo cáo kiểm toán không có ý kiến ngoại trừ. Điều này là rào cản lớn đối với các CTCP có ý định phát hành trái phiếu riêng để huy động vốn, bổ sung nguồn vốn hoạt động. Trong tình hình kinh tế khó khăn hiện nay, việc doanh nghiệp duy trì hoạt động đã là một việc tương đối khó khăn đối với các doanh nghiệp nhỏ, để đảm bảo điều kiện kinh doanh không thua lỗ là một điều không phải doanh nghiệp nào cũng thực hiện được. Thực tế, nếu doanh nghiệp chứng minh được có khả năng và phương án trả nợ tốt, có tài sản đảm bảo hoặc được bảo lãnh cho việc phát hành thì thiết nghĩ các nhà làm luật nên tạo điều kiện cho những doanh nghiệp này được phát hành trái phiếu thay vì bắt buộc năm kinh doanh liền kề phải có lãi. Việc phát hành trái phiếu riêng lẻ, điểm quan trọng nhất là tìm được nhà đầu tư đồng ý mua, nên việc có được nhà đầu tư sẵn sàng mua được coi là một sự thành công của doanh nghiệp phát hành vì chính nhà đầu tư khi quyết định mua họ cũng đã chấp nhận rủi ro, điều này tuân thủ quy tắc tự vay, tự trả và tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp phát hành.
Một vấn đề cũng cần phải lưu ý khắc phục đó là điều kiện chào bán trái phiếu riêng lẻ của CTCP theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005 và Nghị định 90/2011/NĐ-CP không thống nhất với nhau. Do đó, các cơ quan có thẩm quyền cần có văn bản hướng dẫn vấn đề này để không gây ra tình trạng lúng túng cho các doanh nghiệp cũng như cơ quan quản lý Nhà nước trong quá trình áp dụng pháp luật, đảm bảo công bằng trong quyền năng phát hành trái phiếu giữa CTCP và các loại hình công ty khác. Nghị định 90/2011/NĐ-CP là văn bản điều chỉnh chung cho lĩnh vực phát hành trái phiếu riêng lẻ của các loại hình DN hiện nay. Đây là cơ sở cho một sân chơi chung của các loại hình doanh nghiệp trong chào bán trái phiếu riêng lẻ. Tuy nhiên cũng không thể đánh giá thấp quy định về điều kiện phát hành theo Luật doanh nghiệp được, vì đảm bảo vấn đề trả nợ sẽ giúp thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển vững chắc. Vì vậy, thiết nghĩ cần phải bổ sung 2 điều kiện cấm phát hành của công ty cổ phần quy định tại khoản 2 Điều 88 Luật doanh nghiệp 2005 vào trong điều kiện chào bán trái phiếu chung quy định tại Nghị định 90/2011/NĐ-CP.
3.2.2. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ Luận văn: Giải pháp nâng cao HQ bán lẻ chứng khoán các Cty
Phần lớn các chứng khoán được chào bán riêng lẻ là những chứng khoán chưa niêm yết và giao dịch ngoài thị trường tập trung. Mức độ rủi ro của các chứng khoán này khá cao. Vì vậy, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động CBCKRL và đưa các giao dịch chứng khoán chưa niêm yết vào khuôn khổ pháp lý là việc làm cần thiết. Trong các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động CBCKRL của doanh nghiệp, đã có nhiều văn bản đề cập đến vấn đề này. Nghị định 90/2011/NĐ-CP của Chính phủ đã quy định về nội dung và thực hiện công bố thông tin nhưng cần cụ thể hơn nội dung những thông tin phải công bố công khai, chất lượng thông tin, trách nhiệm của tổ chức phát hành về tính chính xác, trung thực của thông tin. Bổ sung quy định trách nhiệm của tổ chức trung gian, tổ chức kinh doanh chứng khoán trong hoạt động CBCKRL.
Hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng được điều chỉnh khá chặt chẽ bởi luật chứng khoán 2006 và chịu sự quản lý, giám sát của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Đối với hoạt động chào bán riêng lẻ, thẩm quyền quản lý thuộc về nhiều cơ quan khác nhau. Do vậy, cần quy định rõ trách nhiệm của mỗi cơ quan, người chịu trách nhiệm chính, tăng cường phối hợp quản lý rủi ro trong CBCKRL giữa các cơ quan.
Đặc biệt cần tăng cường công tác thanh tra, giám sát trong việc xác định các tiêu chuẩn, điều kiện, thủ tục chào bán, quy định về hồ sơ, công bố thông tin trước và sau khi chào bán… bảo đảm cho hoạt động này diễn ra công bằng, đúng pháp luật. Trước hết tập trung giám sát việc công bố thông tin, hoạt động của các tổ chức trung gian trên thị trường, giám sát hoạt động giao dịch của nhà đầu tư đặc biệt nhà đầu tư nước ngoài bảo đảm mục tiêu phát triển bền vững và phòng tránh rủi ro trong CBCKRL.
Một bước tiến đáng ghi nhận trong công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán là việc tăng cường giám sát hoạt động này bằng cách quy định cụ thể, chặt chẽ về chế độ công bố thông tin, đặc biệt là hoạt động chào bán cổ phiếu của công ty cổ phần đại chúng và công ty niêm yết. Thông tư mới nhất quy định về chế độ công bố thông tin trên thị trường chứng khoán là Thông tư số 52/2013/TT-BTC ngày 05/04/2012. Trên thực tế, cơ quan quản lý Nhà nước cũng đang thể hiện sự sát sao trong việc giám sát và xử lý vi phạm về công bố thông tin của các chủ thể là đối tượng điều chỉnh của Thông tư 52/2013/TT-BTC, bao gồm công ty đại chúng, công ty niêm yết, công ty quản lý quỹ … và cổ đông sáng lập, cổ đông lớn của các tổ chức này. Điều này thể hiện quy định công bố thông tin định kỳ của các tổ chức phát hành cũng như công bố thông tin bất thường khi có giao dịch cổ phiếu với tỷ lệ sở hữu lớn. Ngoài ra UBCKNN đã và đang tăng cường công tác kiểm tra giám sát và có quyết định xử lý hành vi vi phạm công bố thông tin kịp thời. Những hành động kiên quyết này đã góp phần làm cho TTCK ngày càng công khai, minh bạch hơn, đảm bảo lợi ích của các chủ thể tham gia TTCK.
3.2.3 Một số biện pháp khác Luận văn: Giải pháp nâng cao HQ bán lẻ chứng khoán các Cty
Xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp trong hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ
Tranh chấp trong hoạt động chào bán chứng khoán rất tinh vi, khó phát hiện. Có thể là xung đột lợi ích giữa chủ thể phát hành và nhà đầu tư, có thể là tranh chấp giữa tổ chức phát hành và tổ chức trung gian, tranh chấp giữa các cổ đông hiện hữu với nhau hoặc giữa cổ đông và chủ thể phát hành… Những tranh chấp này có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng tới hoạt động chào bán chứng khoán, đợt chào bán có thể thất bại, uy tín của chủ thể phát hành có thể bị giảm sút. Do đó, cần có cơ chế phù hợp xác định tranh chấp và giải quyết tranh chấp trong hoạt động chào bán chứng khoán, bảo đảm hoạt động này diễn ra an toàn, hiệu quả. Quy định cụ thể về hình thức, trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp, chế tài áp dụng, cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp.
Yêu cầu các doanh nghiệp thực hiện công bố thông tin, có thể đưa công bố thông tin vào điều kiện CBCKRL. Khi thông tin được công khai hoạt động chào bán diễn ra lành mạnh, hạn chế những tranh chấp phát sinh.
Bổ sung các yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp của nhân viên công ty chứng khoán. Đây là nguyên nhân của nhiều tiêu cực và tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán như sử dụng thông tin nội bộ, giao dịch nội gián, bán khống, khớp lệnh không theo thứ tự ưu tiên…
Tạo điều kiện cho nhà đầu tư tiếp cận với thông tin thông qua các buổi đối thoại, diễn đàn trực tiếp giữa tổ chức phát hành và nhà đầu tư. Nhà đầu tư nắm được những thông tin cần thiết đưa ra những quyết định đầu tư đúng đắn, tự bảo vệ mình bằng những đánh giá và kỹ năng riêng.
Đẩy mạnh công tác đào tạo, tuyên truyền kiến thức về chứng khoán, TTCK.
Hiện nay, chứng khoán và TTCK không còn quá xa lạ đối với công chúng đầu tư. Tuy nhiên, những người thực sự am hiểu kiến thức về chứng khoán và TTCK chưa nhiều. Do vậy, cần đẩy mạnh công tác đào tạo, tuyên truyền kiến thức chuyên môn, chính sách pháp luật về chứng khoán và TTCK. Trong quá trình xây dựng và phát triển TTCK, công tác nghiên cứu khoa học về chứng khoán và đào tạo nguồn nhân lực cho TTCK đã được Chính phủ, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước quan tâm chỉ đạo, coi đây là nhiệm vụ hàng đầu có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp mới mẻ nhưng rất quan trọng này.
Các hình thức đào tạo như mở lớp, thành lập các trung tâm đào tạo chứng khoán, các ấn phẩm, sách báo, tạp chí chứng khoán… ngày càng được mở rộng. Công tác này có ý nghĩa quan trọng trong điều kiện TTCK Việt Nam đang phát triển với tốc độ nhanh chóng và trước những yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Các giải pháp nâng cao trách nhiệm của các chủ thể tham gia trong quá trình chào bán chứng khoán riêng lẻ
Đối với Cơ quan quản lý Nhà Nước:
- Cần tăng cường hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp lý có liên quan đến nội dung, quy trình thủ tục, điều kiện cấp phép hồ sơ phát hành của doanh nghiệp và cả quy định mức phạt, chế tài các vi phạm có liên quan đến phát hành cổ phiếu doanh nghiệp (như cần nâng mức phạt tiền cao hơn 70 triệu đồng như hiện hành). Loại bỏ những thủ tục rườm rà, không cần thiết.
- Nâng cao trình độ chuyên môn, tinh thần trách nhiệm và năng lựcthẩm tra, thẩm định, cũng như hệ thống thông tin quản lý nhànước, quản lý doanh nghiệp liên ngành, đa ngành và chuyên ngành cần thiết phục vụ xây dựng, triển khai và giám sát thực hiện cácphương án phát hành cổ phiếu doanh nghiệp…
- Tăng cường phối hợp với các đơn vị hữu quan, như các Sở Giao dịch Chứng khoán và Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, các cơ quan thanh tra, giám sát, điều tra và tư pháp… để nâng cao chất lượng các hồ sơ phát hành; tăng cường ngăn chặn, xử lý kịp thời và hiệu quả các sai phạm liên quan đến cấp phép hồ sơ và thực hiện các phương án phát hành chứng khoán riêng lẻ.
Đối với đơn vị tư vấn: Luận văn: Giải pháp nâng cao HQ bán lẻ chứng khoán các Cty
- Không coi phát hành chứng khoán là mục đích tự thân hoặc là cơ hội đầu cơ kinh doanh chứng khoán của doanh nghiệp, nhất là phát hành cổ phiếu bổ sung, cổ phiếu thưởng mà phải gắn với kế hoạch sảnxuất kinh doanh rõ ràng, cụ thể, khả thi.
- Thu thập thông tin đầy đủ về các vấn đề có liên quan tới xây dựng, triển khai, giám sát thực hiện phương án phát hành chứng khoán.
- Thành lập bộ phận chuyên trách xây dựng phương án phát hành chứng khoán gồm các cơ quan tư vấn và cán bộ có trách nhiệm, trình độ chuyên môn và đạo đức tốt.
Đối với doanh nghiệp:
Đề ra phương án sử dụng vốn chi tiết trước khi phát hành chứng khoán riêng lẻ để huy đông vốn sản xuất kinh doanh. Điều quan trọng của một đợt phát hành cần có là dự án thật sự và khả thi, đồng thời phải có trước “con số mục tiêu”, mà cụ thể là quy mô vốn cần huy động là bao nhiêu với kế hoạch sử dụng vốn cụ thể. Đặc biệt, không chỉ phát hành xong là thôi mà việc sử dụng vốn cần được tiếp tục giám sát và đây là việc tối quan trọng, vì nếu không sẽ dễ dẫn đến tình trạng sử dụng vốn sai mục đích ban đầu hay thậm chí tùy tiện, không đạt được hiệu quả trong việc sử dụng vốn.
KẾT LUẬN
Cùng với hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng, hoạt động CBCKRL có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của TTCK, góp phần giải quyết nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển và thực hiện một số chính sách của Nhà nước. Bên cạnh đó, hoạt động CBCKRL là phương thức huy động vốn linh hoạt, hiệu quả được các CTCP sử dụng thường xuyên, là nguồn huy động vốn quan trọng, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động CBCKRL của CTCP là rất quan trọng, bảo đảm cho TTCK phát triển lành mạnh, ổn định.
Từ khi TTCK Việt nam ra đời, pháp luật Việt Nam đã có sự chú trọng, quan tâm điều chỉnh hoạt động CBCKRL. Tuy nhiên, trong những năm đầu tiên khi mới hình thành TTCK ở việt Nam, hoạt động CBCKRL chưa có văn bản điều chỉnh chuyên biệt mà được quy định chung trong các văn bản luật, bao gồm: Luật chứng khoán 2006; Luật Doanh nghiệp 2005; Luật tín dụng 1997,2004; Luật Ngân hàng 1997, 2004. Sau một thời gian áp dụng pháp luật vào hoạt động CBCKRL, thực tế cho thấy cần có văn bản điều chỉnh chuyên biệt, hướng dẫn cụ thể cho hoạt động này. Vì thế, Chính phủ đã ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành Luật chứng khoán 2006 như: Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19/05/2006 về phát hành TPDN và được thay thế bằng Nghị định 90/2011/NĐ-CP ngày 14/10/2011; Nghị định 01/2010/NĐ-CP ngày 04/01/2010 về CBCKRL; Nghị định số 58/2012/NĐ-CP ngày 20/07/2012 về hướng dẫn thi hành Luật chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán. Các quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt động CBCKRL đã làm rõ các điều kiện, hồ sơ, thủ tục chào bán, góp phần hạn chế tình trạng gian lận, rủi ro trong quá trình CBCKRL. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nêu trên, các quy định về hoạt động CBCKRL còn một số hạn chế như: thực trạng pháp luật Việt Nam về hoạt động CBCKRL đa dạng và phức tạp, có nhiều văn bản khác nhau cùng điều chỉnh hoạt động này nhưng hiệu lực pháp lý không cao, phần lớn là văn bản dưới luật; Nhiều cơ quan có thẩm quyền quản lý hoạt động CBCKRL nhưng chưa có cơ quan quản lý chung thống nhất làm ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động này. Hơn nữa, trong mỗi văn bản điều chỉnh hoạt động CBCKRL còn tồn tại nhiều bất cập cần được sửa đổi, bổ sung; Các quy định chưa rõ ràng, mâu thuẫn nhau giữa các văn bản luật đã gâp khó khăn cho hoạt động CBCKRL, hạn chế khả năng huy động vốn của doanh nghiệp.
Trên cơ sở đó, để đáp ứng được nhu cầu và sự phát triển của hoạt động CBCKRL ổn định trong tương lai thì việc xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật và chính sách pháp luật về CBCKRL là hết sức cần thiết. Cần phải hoàn thiện hệ thống luật và văn bản dưới luật điều chỉnh về hoạt động CBCKRL, khắc phục tính trạng mâu thuẫn, chồng chéo giữa các văn bản luật chứng khoán.
Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật CBCKRL, cần hoàn thiện cơ chế giám sát của cơ quan Nhà nước đối với hoạt động này. Ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về thủ tục tiếp nhận và xử lý hồ sơ CBCKRL của các doanh nghiệp. Về mặt thực tiễn, cần thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao kiến thức, hiểu biết pháp luật về hoạt động CBCKRL như đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về TTCK, xây dựng thị trường giao dịch cho chứng khoán riêng lẻ. Những thay đổi trên sẽ góp phần hoàn thiện pháp luật về CBCKRL và đảm bảo cho hoạt động CBCKRL của CTCP có điều kiện phát triển, đáp ứng nhu cầu huy động vốn của các doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập với kinh tế thế giới. Luận văn: Giải pháp nâng cao HQ bán lẻ chứng khoán các Cty
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Bán chứng khoán riêng lẻ của Cty cổ phần ở Việt Nam