Luận văn: Điều lệ áp dụng các Cty chứng khoán Việt Nam

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Điều lệ áp dụng các Cty chứng khoán Việt Nam hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Điều lệ mẫu áp dụng cho các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Chứng khoán Việt Nam mở phiên giao dịch đầu tiên vào tháng 07 năm 2000. Tính đến ngày 30 tháng 12 năm 2011, đã có tổng số hơn 700 công ty niêm yết trên cả hai sàn (Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh). Trong gần mười hai năm hoạt động, VN Index trải qua bao thăng trầm, vui buồn, như bất cứ thị trường chứng khoán lâu đời và lừng danh nào. Bởi lẽ, suy cho cùng, thị trường chứng khoán dù non trẻ hay lâu đời thì cũng đều là nơi giao dịch vốn mà tiền thì quả thật ở đâu cũng hấp dẫn. Vì vậy, số lượng các công ty tham gia niêm yết ở Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội sẽ không dừng lại ở con số trên. Doanh nghiệp muốn tham gia vào thị trường giao dịch tập trung phải đảm bảo những yêu cầu chung đối với công ty được niêm yết được quy định trong “Điều lệ mẫu” áp dụng cho các công ty niêm yết ban hành kèm theo Quyết định số 15/2007/QĐ – BTC ngày 19 tháng 03 năm 2007 (“Quyết định 15”) [2]. Có thể xem Điều lệ công ty là một đạo luật có tính chất tổng hợp về cơ cấu, tổ chức, hoạt động của chính doanh nghiệp trên cơ sở các quy định của pháp luật kinh doanh. Việc xây dựng một bản Điều lệ tốt là nền tảng cho hoạt động Công ty. Tác giả chọn đề tài nêu trên vì những lý do sau đây:

  • Mong muốn được nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện, tổng quát về Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Chứng khoán và các quy định có liên quan đến tổ chức, quản lý, hoạt động của công ty cổ phần nói chung, công ty niêm yết nói riêng.
  • Luật Doanh nghiệp 2005 khi ra đời được đánh giá là một trong những luật thành công nhất trong các luật và bộ luật. Trên thực tế, nó đã nhận được sự đón nhận nồng nhiệt của giới doanh nhân và sự bằng lòng phần nào của những người làm công tác pháp luật. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện, Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán và các văn bản pháp luật liên quan đã bộc lộ nhiều nhược điểm cần được bổ sung, sửa đổi. “Điều lệ mẫu” ban hành là sự kết hợp các quy định của Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Chứng khoán, các quy định khác của pháp luật có liên quan cũng như vay mượn ý tưởng từ các văn bản pháp luật khác trong và ngoài nước. Do vậy “Điều lệ mẫu” áp dụng cho các công ty niêm yết ban hành kèm theo Quyết định 15 không tránh khỏi những bất cập của chính các văn bản trên, sự chắp vá khập khiễng giữa các văn bản luật trong và ngoài nước. Việc nghiên cứu “Điều lệ mẫu” một mặt chỉ ra những điểm tích cực, những mặt hạn chế của Điều lệ mẫu nhằm tạo cơ sở cho sự ra đời của một văn bản pháp luật về Điều lệ mẫu hợp lý hơn nhưng đồng thời cũng góp phần tham gia vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh doanh. 
  • Việc nghiên cứu đề tài là cơ hội để tác giả có điều kiện khảo sát, đánh giá về việc xây dựng Điều lệ của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam từ đó rút ra kiến thức và kinh nghiệm quý báu trong hoạt động nghề nghiệp của mình khi tham gia tư vấn cho hoạt động thành lập, tổ chức và quản lý doanh nghiệp. Điều lệ Công ty – văn bản pháp lý khởi thảo của các công ty nói chung, công ty niêm yết nói riêng và cơ chế giải quyết các vấn đề phát sinh nếu có trong hoạt động của các công ty niêm yết.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Luật Học

2. Tình hình nghiên cứu đề tài Luận văn: Điều lệ áp dụng các Cty chứng khoán Việt Nam

Trước và sau khi luật Doanh nghiệp 2005 được ban hành, đã có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về Luật Doanh nghiệp. Nhiều diễn đàn được tổ chức, nhiều bài viết trên các báo và tạp chí chuyên ngành bàn về Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán… Viết về đề tài “Điều lệ mẫu áp dụng cho các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam” tưởng là nhỏ mà không nhỏ vì nó đụng chạm đến những nội dung cơ bản của luật kinh doanh, đặc biệt là Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán, Luật Dân sự… Tưởng là cũ mà không cũ vì các công trình chuyên khảo, các bài báo hoặc là đánh giá tổng quát về Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán… hoặc khai thác các khía cạnh riêng của của hệ thống pháp luật kinh doanh. Trong khi đó, “Điều lệ mẫu” áp dụng cho các công ty niêm yết là sự rút gọn và tổng hợp từ các văn bản trên nhằm xây dựng một luật tiêu chuẩn chung về cơ cấu tổ chức, quản lý và hoạt động của công ty niêm yết. Kể từ khi Quyết định 15/2007/QĐ – BTC về Điều lệ mẫu áp dụng cho các công ty niêm yết ban hành ngày 19/03/2007 cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về “Điều lệ mẫu áp dụng cho các công ty niêm yết” với tư cách là một đạo luật” về cơ cấu, tổ chức và hoạt động của công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài

Thực hiện luận văn này, tác giả sẽ tập trung vào tìm hiểu, phân tích cơ sở pháp lý, cấu trúc, kỹ thuật pháp lý và nội dung của Điều lệ mẫu. Qua đó, tác giả đưa ra những nhận xét, đánh giá về nội dung, cấu trúc của Điều lệ mẫu trong mối tương quan với các quy định có liên quan của pháp luật trong nước và tham khảo đến các quy định của pháp luật nước ngoài.

Việc khảo sát thực tế là một phần vô cùng cần thiết và quan trọng của đề tài bởi lẽ thực tế là tấm gương soi đường cho lý luận, là tiền đề của lý luận, là nền tảng cho sự tồn tại và phát triển lý luận. Sự tìm tòi, khảo sát Điều lệ của một loạt các công ty niêm yết đã minh chứng cho phần lý luận mà tác giả đã đề cập ở các phần trên và là cơ sở để đưa ra những đề xuất và kiến nghị nghiên cứu pháp lý sâu sắc, gắn liền với thực tiễn.

Từ đó, hướng đến việc hoàn thiện quy định về “Điều lệ mẫu” và những đề xuất đối với các quy định pháp luật liên quan.

4. Ý nghĩa và điểm mới của đề tài

Đề tài mang ý nghĩa cho việc xây dựng một bản Điều lệ tương đối đầy đủ, hợp lý, lô gích và chặt chẽ làm chuẩn mực chung cho các công ty niêm yết. Đồng thời là cơ sở để mỗi doanh nghiệp tự xây dựng Điều lệ riêng phù hợp với đặc thù ngành nghề, quy mô, văn hoá kinh doanh… của từng đơn vị. Thông qua Điều lệ, các quy định pháp luật của Nhà nước được Công ty “nội luật hoá” trở thành luật của chính Công ty. Điều lệ Công mang bản chất của một hợp đồng, trong đó là thể hiện ý chí của đại đa số cổ đông, mọi cổ đông và những người không phải là cổ đông làm việc trong công ty có nghĩa vụ tuân thủ.

Sự tìm tòi, phân tích, kiến nghị của đề tài hy vọng sẽ góp phần hoàn thiện các quy định về pháp luật kinh doanh nói chung và Điều lệ mẫu nói riêng. Tác giả cũng hy vọng với sự đầu tư nghiên cứu nghiêm túc, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là tài liệu tham khảo có giá trị.

5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn: Điều lệ áp dụng các Cty chứng khoán Việt Nam

Để thực hiện đề tài trên, luận văn đã sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu bao gồm:

  • Phương pháp nghiên cứu chung: Phương pháp luận Chủ nghĩa duy vật lịch sử và duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
  • Phương pháp cụ thể: Phương pháp nghiên cứu lý thuyết, phân tích, đánh giá và so sánh các quy định của Điều lệ mẫu trong mối liên quan với pháp luật kinh doanh trong nước đồng thời tham khảo pháp luật áp dụng đối với công ty niêm yết của một số nước trên thế giới.

Ngoài ra, tác giả sử dụng phương pháp điều tra khảo sát Điều lệ của các công ty niêm yết trong nước. Từ đó rút ra các ưu, nhược điểm của Điều lệ mẫu nói riêng, các quy định pháp luật kinh doanh nói chung và hướng hoàn thiện.

6. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục, nội dung của luận văn gồm 04 chương:

Chương 1: Điều lệ – Quy chế pháp lý về cơ cấu tổ chức, quản lý và hoạt động của Công ty niêm yết.

Chương 2: Về cấu trúc, kỹ thuật pháp lý và nội dung của Điều lệ mẫu.

Chương 3: Khảo sát Điều lệ của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam và một số so sánh về pháp luật áp dụng cho các công ty niêm yết của Việt Nam với một số nước trên thế giới.

Chương 4: Một số đề xuất và kiến nghị.

CHƯƠNG1: ĐIỀU LỆ – QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ CƠ CẤU TỔ CHỨC, QUẢN LÝ VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY NIÊM YẾT

1.1. Vai trò của Điều lệ đối với Công ty Luận văn: Điều lệ áp dụng các Cty chứng khoán Việt Nam

Pháp luật ra đời chỉ mang tính định khung, định hướng và trong khuôn khổ đó, mỗi chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật do các quy phạm này điều chỉnh hoặc phải chấp nhận những điều kiện “tĩnh” hoặc có quyền lựa chọn những phương án cụ thể trên nền của phương án “mở” do Nhà Nước đặt ra. Các chủ thể cần phải nhận thức rõ và có sự lựa chọn ngay trước khi dấn mình vào sân chơi chung. Trong kinh doanh cũng vậy, khi các chủ thể có nhu cầu hợp tác với nhau cùng kiếm lợi nhuận, pháp luật yêu cầu họ phải có thỏa thuận hay suy cho cùng Điều lệ chính là bản hợp đồng thỏa thuận giữa những người bỏ vốn đứng ra thành lập Công ty, những người có vốn tham gia vào Công ty. Giống như bất cứ một hợp đồng nào, Điều lệ cũng phải tuân thủ các yếu tố của một hợp đồng. Cụ thể là:

Thứ nhất, về chủ thể: Chủ thể của Điều lệ CTCP là các cổ đông (được gọi là người góp vốn) bao gồm các cá nhân có đủ năng lực hành vi dân sự, có tài sản và các pháp nhân (được thành lập hợp pháp theo quy định của pháp luật) không thuộc các đối tượng bị cấm kinh doanh theo quy định của pháp luật và các văn bản quản lý chuyên ngành.

Thứ hai, về nội dung: Sự thỏa thuận hoạt động dưới tư cách một chủ thể kinh tế duy nhất giữa các cá nhân, pháp nhân phải tuân theo các quy định của pháp luật (các quy định cứng) và các quy định tùy nghi do các bên thỏa thuận lựa chọn. Đó là các quy định cần thiết đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng. Ngoài những nội dung căn bản, giữa các bên có thể thỏa thuận các quy định khác, miễn là không trái pháp luật và đạo đức xã hội.

Thứ ba, Điều lệ được xây dựng trên tinh thần tự do ý chí, tự nguyện tham gia của các bên nhằm hướng đến mục đích kinh doanh kiếm lời. Tuy nhiên, tính chất tự nguyện, bình đẳng trong Hợp đồng – Điều lệ khác với hợp đồng thông thường khác ở chỗ Hợp đồng – Điều lệ là sự bình đẳng tương đương với số tiền vốn mà các chủ thể góp vào. Nghĩa là: chủ thể/nhóm chủ thể nào có nhiều tiền thì nhóm chủ thể đó có nhiều quyền năng hơn, đồng thời có thể sẽ phải gánh chịu nhiều rủi ro hơn. Điều đó, suy cho cùng cũng là lẽ công bằng. Luận văn: Điều lệ áp dụng các Cty chứng khoán Việt Nam

Thứ tư, Điều lệ chỉ có giá trị khi được thể hiện dưới hình thức văn bản. Không thể có một pháp nhân ra đời mà không có Điều lệ. Chỉ khi ý chí của các chủ thể thành lập pháp nhân được thể hiện dưới một hình thức pháp lý luật định thì pháp nhân đó mới được người khác thừa nhận và tôn trọng. Điều lệ của Công ty không chỉ là một văn bản pháp lý có giá trị điều chỉnh quan hệ giữa các thành viên công ty, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ nội bộ mà còn có giá trị đối với bên thứ ba và những người có các quyền và nghĩa vụ liên quan, những người tham gia vào hoạt động của Công ty, nhà nước, các cơ quan tố tụng (khi có tranh chấp xảy ra) và còn là cơ chế để nhà nước kiểm soát hoạt động của Công ty. Các chủ thể không thể tham gia vào một sân chơi kinh doanh mà không có cơ chế gia nhập, ràng buộc của mình.

Điều lệ CTCP là do các CĐSL Công ty lập ra nhằm ấn định quyền hạn và trách nhiệm của các cổ đông, của các thành viên HĐQT và mối tương quan giữa các loại cổ đông với nhau để điều chỉnh các hoạt động nội bộ của công ty. Pháp luật nhiều nước coi Điều lệ là một bản hợp đồng giữa công ty với các cổ đông và giữa các cổ đông với nhau. Chẳng hạn:

  • Kỳ ĐHĐCĐ thường niên năm 2011 của Công ty Vibex được tổ chức vào ngày 22/4/2011 với nhiều nội dung quan trọng, trong đó có việc bầu ra HĐQT gồm 5 thành viên và BKS nhiệm kỳ 2011- 2015. Việc bầu thành viên HĐQT được thực hiện trên nguyên tắc bầu dồn phiếu đã được pháp luật và Điều lệ Công ty quy định, nên nhóm các cổ đông nắm giữ 10,92% vốn điều lệ đã thực hiện đầy đủ thủ tục đề cử bà Nguyễn Thanh Bình vào danh sách bầu thành viên HĐQT. Nhưng danh sách đề cử bà Nguyễn Thanh Bình đã bị Đoàn Chủ tịch điều hành cuộc họp ĐHĐCĐ bác bỏ với lý do bản lý lịch cá nhân của bà Bình không được xác nhận bởi cơ quan chức năng. Ngay tại cuộc họp ĐHĐCĐ, nhóm các cổ đông nắm giữ 10,92 % vốn điều lệ đã đồng loạt có văn bản phản đối. Đồng thời, đại diện nhóm cổ đông nhỏ cũng tiến hành các thủ tục khởi kiện Công ty Vibex và ông Nguyễn Văn Sơn, Chủ tịch HĐQT Công ty nhiệm kỳ 2006 – 2011 ra Tòa án Nhân dân Thành phố Hà Nội đề nghị Tòa tuyên hủy kết quả bầu HĐQT và BKS Công ty tại kỳ Đại hội ngày 22/4/2011.
  • Ở Anh, năm 1989, có vụ án Woods kiện Odessa Water Work, trong đó Điều lệ quy định Công ty có quyền tuyên bố trả cổ tức cho cổ đông. Công ty ra một nghị quyết thường niên không trả cổ tức nhưng đưa cho cổ đông trái phiếu. Một cổ đông tên là Wood bèn kiện ra tòa, xin ngăn không cho công ty thực hiện nghị quyết trên. Tòa án đã ra bản cho ngăn chặn với lý do: trả cổ tức là trả bằng tiền mặt trong khi trái phiếu chỉ là một sự hứa sẽ trả [28, tr.95].

Luật của Việt Nam trước kia cũng như hiện nay chỉ xem Điều lệ như một thành phần hồ sơ doanh nghiệp mà không đề cập đến mục đích cũng như bản chất pháp lý của nó. Vì thế, các Điều lệ đã từng ban hành trước đây thường hay có những điều khoản áp đặt ý chí của cơ quan công quyền hoặc coi Điều lệ như là luật pháp của nhà nước được chi tiết hóa cho từng công ty. Thực tế, Điều lệ của các công ty Nhà nước trước đây thuần túy là những quy định hành chính, mệnh lệnh theo ý chí của nhà nước. Sau này, cùng với sự mở cửa kinh tế, chính sách pháp luật đối với hoạt động kinh tế và tổ chức kinh tế đã dần mở ra. Nhưng ý thức hệ của nhà làm luật và chính các doanh nhân sinh ra, trưởng thành, phát triển trong một đất nước ngàn năm phong kiến và kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp thì không thể một sớm một chiều có thể khai thông và gặp gỡ được nhau. Điều này đã diễn ra trong các cuộc thảo luận của Quốc hội kỳ họp tháng 05/1999, dự thảo LDN có những câu như “trừ trường hợp điều lệ công ty quy định thời hạn khác ngắn hơn” thì đã có đại biểu cho rằng như vậy văn bản dưới luật quy định trái ngược với luật. Thực ra câu này chỉ nói lên nguyên tắc tự do kết ước của luật về hợp đồng. Trước áp lực của những ý kiến đó, các câu nêu trên đã bị bỏ hết trong LDN được ban hành năm 2000. Đến khi soạn thảo LDN 2005, trước áp lực và yêu cầu “cởi trói” cho doanh nghiệp, tư duy pháp luật kinh tế của nhà làm luật nới thêm một bước khi quy định: “Trừ trường hợp điều lệ công ty có quy định khác”. Câu này cho phép các cổ đông ghi thêm những nội dung nào họ thấy cần thiết trong bản Điều lệ. Cũng có lẽ vì thế mà, UBCKNN thông qua Bộ Tài chính, đã ban hành một Bản ĐLM cho CTNY trên TTCK và đưa vào đó những điều khoản ngoài và khác LDN 2005 bắt buộc các CTNY thực hiện.

Trong toàn bộ các tài liệu cấu thành công ty thì Điều lệ đóng vai trò quan trọng nhất khi công ty hoạt động. Cổ đông mới nhìn vào đó để biết quyền lợi và nghĩa vụ của họ. Người ngoài nhìn vào Điều lệ để biết công ty được làm gì, đại diện theo pháp luật của nó là ai, thẩm quyền trong công ty được quy định như thế nào, các giao dịch và mua bán cổ phần trong công ty, việc bầu/bãi miễn thành viên HĐQT hay thành viên BKS Công ty được thực hiện ra sao? Tất cả những điều đó được ghi nhận trong Điều lệ Công ty. Cổ đông phải tìm hiểu và tìm ra các điều khoản liên quan đến mình để đảm bảo thực hiện hợp lý các nước phát triển, người ta đặc biệt lưu ý đến các vấn đề pháp lý trước khi thành lập công ty, trong đó thường thỏa thuận rất rõ các vấn đề cần thực hiện, quyền và nghĩa vụ của các bên. Tuy nhiên, ở Việt Nam thì các vấn đề pháp lý trước khi thành lập công ty dường như chưa được các chủ thể kinh doanh quan tâm đúng mức mà chỉ thực hiện cho đúng thủ tục để cho ra đời một doanh nghiệp. Chỉ khi các tranh chấp xảy ra, lúc đó các chủ thể mới nhận ra tầm quan trọng của Bản Điều lệ.

Nói rằng Điều lệ quy định các quyền lợi và nghĩa vụ của cổ đông, nhưng thực tế, nó là sự sắp đặt mà người sáng lập công ty – hay người bỏ vốn lớn đưa ra nhằm cân bằng quyền lợi trong công ty ở một mức nào đó để thu hút được nhiều người khác bỏ vốn vào công ty nhưng vẫn giữ được quyền kiểm soát cho mình. Bản Điều lệ thể hiện ý đồ của người sáng lập trong tương quan giữa họ với các cổ đông khác. Vì thế, ngoài những vấn đề bị luật pháp ràng buộc không thể làm khác được, người soạn thảo Điều lệ sẽ tính toán hai vấn đề chính: Một là, dành cho các cổ đông những quyền lợi như thế nào để khuyến khích họ đầu tư vào công ty của mình; hai là, xây dựng cơ cấu quyền lực trong công ty mà trọng tâm là phân chia quyền hành giữa ĐHĐCĐ và HĐQT. Một cách cụ thể hơn, Điều lệ công ty là sự sắp xếp trong hành lang luật pháp của người sáng lập công ty, những người có số vốn lớn nhất, để thực hiện ý đồ kinh doanh của mình để làm sao họ phải có nhiều quyền năng, lợi ích nhất vì họ là người bỏ ra nhiều tiền nhất và họ cũng có thể là người phải gánh chịu rủi ro nhiều nhất.

Vậy, có những sự khác nhau như thế nào giữa Hợp đồng thành lập công ty và Điều lệ công ty?

Câu trả lời không quá phức tạp: Hợp đồng được tạo nên bởi ý chí của các bên trên cơ sở tự do ý chí. Vì vậy, về mặt nguyên tắc, pháp luật không ràng buộc hay hạn chế quyền tự do thoả thuận hay cam kết của các bên nếu không có lý do xác đáng. Tuy hợp đồng được xem là luật của các bên tham gia giao kết nhưng để đảm bảo trật tự xã hội và thúc đẩy giao lưu dân sự, tránh đến mức thấp nhất các thiệt hại, tranh chấp hay khiếu kiện giữa các bên nên pháp luật cũng đòi hỏi các bên ít nhất phải thoả thuận về những điểm cốt yếu của hợp đồng.

Trong thực tế, không phải ai cũng có khả năng lập một hợp đồng đầy đủ như các luật gia, luật sư nên đối với các hợp đồng, các bên thường chỉ cần thỏa thuận với nhau về các điều khoản quan trọng, chủ yếu và mục đích của hợp đồng. Khi tranh chấp xảy ra, pháp luật về hợp đồng có nhiệm vụ giải thích cho ý chí của các bên nếu hợp đồng quy định không đầy đủ hay không rõ nghĩa các điều khoản. Tuy nhiên, Hợp đồng thành lập công ty có nhiều đặc điểm khác biệt với các loại hợp đồng thông thường vì nó tạo ra một pháp nhân. Pháp nhân này có khả năng gây ảnh hưởng lớn đến xã hội. [29]. Nhằm bảo vệ trật tự công cộng, đạo đức xã hội và người thứ ba, bảo hộ quan hệ hợp đồng, đặc biệt là quyền lợi của các bên, đồng thời để công ty do hợp đồng tạo ra đi theo một định hướng nhất định phục vụ tốt cho sự phát triển kinh tế, xã hội, pháp luật yêu cầu loại hợp đồng này phải thể hiện nhiều điều khoản bắt buộc.

Luật Công ty Singapore quy định giấy tờ pháp lý bắt buộc phải nộp khi thành lập công ty là Biên bản ghi nhớ (Memorandum) và Điều lệ công ty (Article of Association). Cả hai loại này đều theo mẫu do Cơ quan đăng ký kinh doanh Singapore cấp trong đó phải thể hiện các nội dung: tên công ty, số lượng cổ phần, trách nhiệm của cổ đông [68]. Các điều khoản về thành lập Công ty được xem là luật của Công ty bao gồm các quy định liên quan đến việc Công ty sẽ được quản trị như thế nào. Điều đó có nghĩa rằng Biên bản ghi nhớ (Memorandum) là sự thoả thuận giữa các cá nhân với nhau về việc thành lập công ty và là cơ sở để cụ thể hoá trong Điều lệ công ty (Article of Association).

Luật Công ty của Anh quy định thủ tục bắt buộc trong Biên bản ghi nhớ về việc thành lập công ty – một chứng thư được ký kết bởi ít nhất hai thành viên sáng lập (promoter) tuyên bố và xác định hiến pháp và quyền lực của công ty mà trong đó phải có các điều khoản bắt buộc nhau như: tên của từng thành viên công ty, mong muốn thành lập công ty theo Luật này và đồng trở thành thành viên của công ty đồng nghĩa với việc chấp nhận các thoả thuận trong Bản ghi nhớ này, thống nhất về việc đặt tên công ty, trụ sở đăng ký của công ty, mục tiêu của công ty, trách nhiệm của các thành viên trong công ty, số vốn cổ phần được phát hành và tỷ lệ nắm giữ cũng như cam đoan về trách nhiệm của mỗi thành viên [65]. Tuy nhiên, pháp luật của Anh có sự phân định rõ giữa Biên bản ghi nhớ về việc thành lập công ty (Memorandum of Assocition) với các quy định về hoạt động của công ty (Articles of Association) khi tại Điều 18 quy định:

  • A company must have articles of association prescribing regulation of the company.
  • Unless it is a company to which model articles apply by virtue of section 20 (default application of mdel articles in case of limited company), it must register articles of association.
  • Articles of association registered by a company must:
  • be contained in a single document, and
  • be divided into paragraphs numbered consecutively.
  • Refenrences in the Companies Acts to a company‟s „articles” are to its articles of association.

Qua các quy định tại Chương 2 (Articles of Association) của Luật Công ty Anh cho thấy cái gọi là “Articles of Assocition” trong Luật Anh cũng giống như Điều lệ công ty trong pháp luật doanh nghiệp của Việt Nam. Luận văn: Điều lệ áp dụng các Cty chứng khoán Việt Nam

Luật Công ty Trung Quốc quy định: “The promoters of a joint stock limited company shall undertake the preparatory work of the company. They shall conclude a promoter‟s agreement to clarify their respective rights and obligations during the course of establishing the company [67, Điều 80]. Như vậy, cái gọi là “promoter agreement” (thỏa thuận của các sáng lập viên) có thể xem như là Hợp đồng thành lập công ty còn “the article of association” lại là một văn bản khác. Đây là văn bản pháp lý bắt buộc phải có trong tài liệu thành lập công ty và nó tương tự như Điều lệ về tổ chức và hoạt động của các công ty Việt Nam vì nó do các cổ đông ban hành, thông qua tại cuộc họp thành lập công ty. Điều lệ CTCP bao gồm những nội dung sau:

  • Tên và địa chỉ công ty;
  • Phạm vi hoạt động của công ty;
  • Hình thức công ty;
  • Tổng số cổ phần, mệnh giá của mỗi cổ phần và số lượng vốn đăng ký của Công ty;
  • Tên của CĐSL, cổ phần đăng ký mua, hình thức góp vốn và ngày góp vốn;
  • Việc thành lập, quyền hành, thời hạn và quy định về thủ tục của BGĐ;
  • Đại diện theo pháp luật của Công ty;
  • Thành phần, quyền hạn, và quy định về thủ tục của BGĐ;
  • Thành phần, quyền hạn, và quy định về thủ tục của BKS;
  • Phương pháp phân chia lợi nhuận;
  • Điều kiện giải thể Công ty và phương thức thanh toán khi giải thể;
  • Cách thức phát hành thông báo hoặc tuyên bố thông tin của Công ty;
  • Các vấn đề cần thiết khác do cuộc họp của ĐHĐCĐ quyết định” [67, Điều 82].

Pháp luật Malaysia quy định mọi công ty phải đăng ký Hợp đồng thành lập công ty như một điều kiện thiết yếu cho việc ra đời của mình và không phải mọi công ty đều bị buộc phải đăng ký Điều lệ của mình. Các nội dung chủ yếu của hợp đồng thành lập công ty ở các nước này bao gồm: Tên công ty; Mục tiêu của công ty; Số lượng cổ phần hay phần lợi và giá trị của mỗi cổ phần hay phần lợi; Cách thức phân chia vốn thành các cổ phần hay phần lợi; Chế độ trách nhiệm của các thành viên; Tên, địa chỉ và nghề nghiệp của những người góp vốn; Cam kết của các thành viên về việc theo đuổi các mục tiêu của công ty và số vốn đóng góp hay cổ phần sẽ mua. Pháp luật Malaysia quan niệm rằng, Điều lệ công ty là các quy tắc nội bộ của công ty và phụ thuộc vào bản hợp đồng thành lập công ty và cả hai tạo ra quan hệ hợp đồng giữa công ty với mỗi thành viên, và một thành viên này với mỗi thành viên khác [64, tr.37- 41].

Pháp luật Việt Nam, riêng trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài thực hiện theo hình thức liên doanh từ trước và sau khi có Luật Đầu tư đều có quy định về hợp đồng liên doanh (cũng đồng thời là Hợp đồng thành lập công ty) bên cạnh Điều lệ công ty, nhưng nhiều điều khoản không khác gì Điều lệ của của công ty [6, Điều 13, Điều 14 và Điều 15], [9, Điều 54]. Còn pháp luật về doanh nghiệp áp dụng cho người Việt từ trước đến nay nay không nhắc tới hợp đồng thành lập công ty mà đồng nghĩa hợp đồng này với Điều lệ công ty. Nghị định số 03/2000/NĐ- CP ngày 03/02/2000 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của LDN năm 2000 quy định: “Điều lệ công ty là bản cam kết của tất cả thành viên về thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của công ty” [7, Điều 10.1].

Như vậy, pháp luật của mỗi nước quy định về Hợp đồng thành lập công ty/Biên bản ghi nhớ về việc thành lập công ty giữa các thành viên với nhau có thể bắt buộc có hoặc không trong hồ sơ pháp lý thành lập công ty nhưng về cơ bản đó là văn bản pháp lý nội bộ giữa các thành viên với nhau. Trên cơ sở của Hợp đồng thành lập công ty/Biên bản ghi nhớ này, một văn bản pháp lý khác được hình thành để trưng ra ngoài với mọi người để mọi người biết và thừa nhận đồng thời đăng ký với cơ quan có thẩm quyền về quản lý doanh nghiệp và được gọi là Điều lệ Công ty. Khi có tranh chấp xảy ra, Hợp đồng thành lập công ty/Biên bản ghi nhớ là một trong những chứng cứ quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Ở những nước không quy định về Điều lệ công ty thì Hợp đồng thành lập công ty cũng có ý nghĩa như Điều lệ công ty. Song, theo quan điểm của người viết, dưới góc độ quản trị khách quan, khi công ty được thành lập hoặc phát triển ở một mức độ nhất định với số lượng thành viên/cổ đông lớn, với phạm vi và quy mô hoạt động kinh doanh đa dạng, phức tạp, nó cần tuân thủ và bám sát luật công ty – luật của tổ chức và phân tách khỏi luật hợp đồng.

1.2. Điều lệ mẫu đối với công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam Luận văn: Điều lệ áp dụng các Cty chứng khoán Việt Nam

Điều lệ công ty là văn bản pháp lý quan trọng trong hoạt động nội bộ Công ty và với các bên thứ ba. Điều lệ của CTNY – đối tượng chủ thể có vai trò và sức lan toả trong nền kinh tế, ngoài việc phải đảm bảo các yêu cầu chung về chủ thể, nội dung, hình thức, tự do ý chí của CTCP thì còn đòi hỏi nhiều yêu cầu và yếu tố hơn. Đó lý do ra đời của Quyết định số 07/2002/QĐ-VPCP ngày 19/11/2002 của Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ về việc ban hành Điều lệ mẫu áp dụng cho các CTNY (“Quyết định 07”) và sau đó được thay thế bằng Quyết định số 15/2007/QĐ-Ttg ngày 19/03/2007 về ĐLM áp dụng cho các CTNY trên Sở Giao dịch Chứng khoán/Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Việt Nam [26], [2]:

1.2.1. Về phương diện chủ thể

Chủ thể của Điều lệ CTNY phải đáp ứng những điều kiện chặt chẽ. Các điều kiện này là khác nhau phụ thuộc vào lĩnh vực hoạt động và sàn giao dịch của mỗi công ty. Cụ thể:

  • Đối với Công ty niêm yết tại HOSE, điều kiện để trở thành công ty niêm yết bao gồm:
  • Là CTCP có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết từ 80 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán;
  • Hoạt động kinh doanh hai năm liền trước năm đăng ký niêm yết phải có lãi và không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký niêm yết;
  • Không có các khoản nợ quá hạn chưa được dự phòng theo quy định của pháp luật; công khai mọi khoản nợ đối với công ty của thành viên HĐQT, BKS, GĐ/TGĐ, Phó GĐ/Phó TGĐ, Kế toán trưởng, cổ đông lớn và những người có liên quan;
  • Tối thiểu 20% cổ phiếu có quyền biểu quyết của công ty do ít nhất 100 cổ đông không phải là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và không phải là cổ đông lớn nắm giữ, trừ trường hợp doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi thành công ty cổ phần theo quy định của Thủ tướng Chính phủ;

Cổ đông là thành viên HĐQT, BKS, GĐ/TGĐ, Phó GĐ/Phó TGĐ và

Kế toán trưởng của công ty phải cam kết nắm giữ 100% số cổ phiếu do mình sở hữu trong thời gian 6 tháng kể từ ngày niêm yết và 50% số cổ phiếu này trong thời gian 6 tháng tiếp theo, không tính số cổ phiếu thuộc sở hữu Nhà nước do các cá nhân trên đại diện nắm giữ [10, Điều 8.1], [13, Điều 1.8 và Điều 1.9].

Đối với Công ty niêm yết tại HNX, điều kiện để trở thành công ty niêm yết bao gồm:

  • Là CTCP có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết từ 10 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán;
  • Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký niêm yết phải có lãi, không có các khoản nợ phải trả quá hạn trên một năm và hoàn thành các nghĩa vụ tài chính với Nhà nước và có tình hình tài chính lành mạnh đến thời điểm đăng ký niêm yết;
  • Cổ phiếu có quyền biểu quyết của công ty do ít nhất 100 cổ đông nắm giữ;
  • Cổ đông là thành viên HĐQT, BKS, GĐ/TGĐ, Phó GĐ hoặc Phó TGĐ và Kế toán trưởng của công ty phải cam kết nắm giữ 100% số cổ phiếu do mình sở hữu trong thời gian 6 tháng kể từ ngày niêm yết và 50% số cổ phiếu này trong thời gian 6 tháng tiếp theo, không tính số cổ phiếu thuộc sở hữu Nhà nước do các cá nhân trên đại diện nắm giữ [10, Điều 9.1], [13, Điều 1.14 và Điều 1.15].

Đấy là quy định chung đối với các chủ thể muốn niêm yết trên HOSE và HNX. Tuy nhiên, đối với các CTNY trong từng lĩnh vực ngành nghề đặc thù lại có những quy định riêng, chẳng hạn:

Đối với các CTNY thuộc lĩnh vực đầu tư chứng khoán thì phải đáp ứng điều kiện sau:

  • Có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết từ 50 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán;
  • Thành viên HĐQT, BKS, GĐ/TGĐ, Phó GĐ hoặc Phó TGĐ, Kế toán trưởng của công ty đầu tư chứng khoán phải cam kết nắm giữ 100% số cổ phiếu do mình sở hữu trong thời gian 6 tháng kể từ ngày niêm yết và 50% số cổ phiếu này trong thời gian 6 tháng tiếp theo;
  • Có ít nhất 100 cổ đông nắm giữ cổ phiếu của công ty đầu tư chứng khoán đại chúng [10, Điều 8.3].

Hay việc niêm yết cổ phiếu của các doanh nghiệp thành lập mới thuộc lĩnh vực cơ sở hạ tầng hoặc công nghệ cao, doanh nghiệp 100% vốn nhà nước chuyển đổi thành CTCP không phải đáp ứng điều kiện quy định tại Điều 9.1.b [10, Điều 9.1.e].

1.2.2. Về phương diện nội dung Luận văn: Điều lệ áp dụng các Cty chứng khoán Việt Nam

Do số vốn lớn với những đặc quyền riêng có của loại hình CTNY: có thể huy động vốn rộng rãi trong/ngoài nước, số lượng cổ đông tham gia phức tạp với nhiều thành phần và có ảnh hưởng đến xã hội. Vì vậy, Nhà nước cần phải kiểm soát nhằm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của nhà đầu tư, trật tự xã hội bằng cách yêu cầu các CTNY tuân thủ và công khai các nội dung cơ bản theo quy định của ĐLM. Ngoài ra, Điều lệ của CTNY là các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ niêm yết bên cạnh việc tuân thủ quy định tại Điều 22 – LDN 2005 còn phải tuân thủ các quy định chuyên ngành của LCK, các văn bản hướng dẫn như Điều lệ công ty chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định 27/2007/QĐ – BTC ngày 24/04/2004 và mẫu Điều lệ Công ty quản lý quỹ ban hành theo Quyết định 25/2007/QĐ-BTC ngày 15/05/2004

Đối với CTNY là các tổ chức tín dụng thì phải tuân thủ chặt chẽ các quy định về điều kiện tổ chức, nguyên tắc hoạt động nhằm đảm bảo cho hoạt động của các tổ chức tuân theo các chế độ, chính sách quản lý tài chính, tiền tệ của ngân hàng, bảo đảm sự lành mạnh và vững mạnh của tổ chức tín dụng nói riêng, hệ thống ngân hàng nói chung [11], [22].

Nói cách khác, để thực hiện việc niêm yết trên TTCK Việt Nam, pháp luật buộc các Công ty đồng thời phải có một thoả thuận nằm trong tiêu chí chung của nhà nước và các cổ đông phải thể chế hoá thoả thuận đó trong tổ chức và hoạt động của Công ty. Chí ít tối thiếu với những quy định trong ĐLM, Công ty mới đủ điều kiện để niêm yết trên TTCK ở Việt Nam, đủ tạo dựng niềm tin ban đầu từ nhà nước, nền kinh tế và các cổ đông. Không có những tiêu chí bắt buộc đó giống như những điều khoản của một bản hợp đồng, một sự cam kết thật khó có thể hình dung về một Công ty sở hữu vốn đến hàng chục, hàng trăm và hàng ngàn tỷ đồng, nắm giữ tài sản của không biết bao nhiêu con người và những hệ lụy về kinh tế – xã hội mà nó có thể mang lại. Cần phải có một cơ chế pháp lý để cả nhà nước, cổ đông và cả xã hội có thể thực hiện quyền năng của mình với mục tiêu, lợi ích khác nhau.

ĐLM đã và phải làm điều đó.

1.2.3. Cơ sở pháp lý của Điều lệ mẫu Luận văn: Điều lệ áp dụng các Cty chứng khoán Việt Nam

Chứng khoán Việt Nam mở phiên giao dịch đầu tiên vào tháng 07 năm 2000 nhưng mãi đến hơn 02 năm sau, chúng ta mới có Quyết định 07.

Vậy trước đó thì sao?

Những công ty đầu tiên tham gia giao dịch trên TTCK Việt Nam là những công ty được Nhà nước vận động nhằm thực hiện mục tiêu thí điểm TTCK cho một đất nước Việt Nam vẫn nghèo nàn và đang “lần mò” trên con đường học hỏi các nước phương Tây. Điều lệ về tổ chức hoạt động của các CTNY lúc đó vẫn theo Luật Công ty, LDN cũ và có hơi hướng của một vài quy định chứng khoán quốc tế mà chúng ta vừa học được. Mãi hai năm sau chúng ta mới có một Bản Điều lệ cho các CTNY khi ban hành Quyết định 07. Bản hướng dẫn Điều lệ cho CTNY này được các luật sư nước ngoài soạn và sau đó được dịch sang tiếng Việt để ban hành chính thức [28, tr.97]. Từ năm 2002 cho đến thời điểm áp dụng Quyết định 15, hàng trăm công ty đã bước lên sàn niêm yết và tuân thủ theo Quyết định 07. Tại thời điểm năm 2002, sự ra đời của Quyết định 07 đã là một sự cố gắng và nỗ lực của các cơ quan quản lý. Cho dù sau đó đã có rất nhiều vần đề bàn cãi về nội dung, về văn phong của văn bản này nhưng với Quyết định 07, có thể được xem như là một sự định hướng ban đầu cho các CTNY.

Cùng với sự hội nhập và thúc đẩy kinh tế, pháp luật của Việt Nam, đặc biệt là hệ thống pháp luật kinh doanh không ngừng được hoàn thiện. Sự ra đời của LDN 2005, LCK thể hiện những bước tiến dài và vượt bậc của pháp luật kinh doanh tại Việt Nam. ĐLM áp dụng cho các CTNY ban hành kèm theo Quyết định 15 hình thành trên cơ sở LDN 2005, LCK, các văn bản hướng dẫn thi hành hai văn bản luật trên cùng với việc tiếp thu kiến thức pháp lý về quản trị CTNY từ bên ngoài [49], nhằm thay thế cho ĐLM của Quyết định 07. Bắt đầu từ tháng 04 năm 2007, Điều lệ của các CTNY tuân theo hướng dẫn của Quyết định 15. Luận văn: Điều lệ áp dụng các Cty chứng khoán Việt Nam

Một CTNY trước hết là doanh nghiệp và nó phải tuân theo LDN 2005. Do vậy, Điều lệ của các CTNY gồm 57 điều trong 21 mục đã đảm bảo các nội dung cơ bản tại Điều 22 – LDN 2005. Bên cạnh đó, nội dung của ĐLM cũng cần tuân thủ quy định của LCK và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đây là cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của các CTNY nhằm đảm bảo cho các giao dịch niêm yết, phát hành, thực hiện quyền và nghĩa vụ của cổ đông công ty, người quản lý công ty, người có liên quan theo LCK. Nói tóm lại, nếu ĐLM dựa trên LDN 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành để quyết định về tổ chức và quản trị, quyền và nghĩa vụ của từng đối tượng trong trong công ty thì LCK quy định về các hoạt động, cách thức, điều kiện thực hiện các hoạt động mà CTNY sẽ làm, có thể làm và phải làm với tư cách là một pháp nhân như chào bán chứng khoán, niêm yết, kinh doanh, đầu tư…

Ngoài ra, với việc gia nhập WTO, mở cửa kinh tế và hội nhập với thế giới, trên phương diện pháp lý cũng đã du nhập những yếu tố pháp lý từ bên ngoài vào và trở thành một thành tố mới của pháp luật Việt Nam. Doanh nghiệp cần phải học hỏi, thực hiện và tuân thủ luật chơi toàn cầu nếu muốn phát triển, hội nhập, kết giao, làm ăn với các đối tác bên ngoài. Vì vậy, rất nhiều quy định pháp lý về tổ chức, quản trị đối với CTNY trong ĐLM được tiếp thu từ văn hoá nhân loại.

Nếu không tuân thủ các căn cứ pháp lý chặt chẽ, ĐLM cũng như bất cứ một hợp đồng nào, có thể bị vô hiệu toàn bộ hoặc một phần. ĐLM của CTNY không chỉ là sự thống nhất giữa các cổ đông, các nhà đầu tư về về việc các cổ đông nhà đầu tư sẽ góp vốn như thế nào, làm gì với số vốn đó, có quyền gì với số tiền mình bỏ ra và thoả thuận về việc tổ chức cho cái pháp nhân mà họ thành lập như thế nào, ai làm gì trên cơ sở quy định của pháp luật về doanh nghiệp, về LCK và các luật chuyên ngành khác. Do tính phức tạp và phạm vi ảnh hưởng rộng lớn của CTNY trong nền kinh tế, ĐLM của CTNY đòi hỏi nhiều hơn và sâu hơn trên cái nền tảng của Điều lệ chung của các CTCP. Cổ đông của công ty muốn niêm yết phải theo một cơ chế thoản thuận đặc biệt hơn, họ có nhiều quyền và có thể thu được nhiều rất nhiều lợi ích từ thị trường nhưng họ cũng có thể phải gánh chịu rủi ro hoặc họ có thể mang lại sự bất ổn, xáo trộn trong nền kinh tế. Vì vậy, pháp luật buộc họ phải ngồi lại với nhau thông qua từng vấn đề: họ phải “chẻ” phần vốn của họ theo mệnh giá cổ phần của CTNY trên sàn giao dịch chứ không phải mệnh giá mà họ thích nữa; họ phải ấn định rõ quyền, nghĩa vụ của người góp vốn rất cụ thể; họ phải tổ chức lại doanh nghiệp một cách rất chặt chẽ với đầy đủ các cơ quan, ban bệ và cơ chế hoạt động của mỗi cơ quan theo thông lệ chung với sự định hướng mang tính bắt buộc của nhà nước thông qua hệ thống pháp luật.

Tóm lại, ĐLM của CTNY là sự thoả thuận và thống nhất của cổ đông có sự tham gia và giám sát của nhà nước. Nhà nước bằng các quy định pháp lý đã vươn tay vào sự quản lý CTNY một cách sát sao hơn. Điều này xuất phát từ tính đại chúng rộng lớn của loại hình tổ chức kinh tế này đến nhà đầu tư, đến thị trường tài chính và nền kinh tế.

Một vấn đề cần được làm rõ về tính chất pháp lý của Điều lệ mẫu đó là: Điều 22 – LDN 2005 nêu ra 15 nội dung quan trọng mà Điều lệ một công ty phải có và còn quy định thêm: “Các nội dung khác do thành viên, cổ đông thoả thuận nhưng không được trái với quy định của pháp luật”; Quyết định 15 chỉ ghi đơn giản: “Ban hành kèm theo Quyết định này Điều lệ mẫu áp dụng cho các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán/Trung tâm Giao dịch chứng khoán” nên đã dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau về tính chất “mẫu” của ĐLM này. Cả cơ quan nhà nước và cổ đông của công ty sắp niêm yết đều không thống nhất với nhau sẽ phải tuân thủ các nội dung mẫu trong ĐLM như thế nào. Ban soạn thảo Điều lệ của nhiều doanh nghiệp sắp niêm yết thường băn khoăn, họ phải vận dụng nội dung của 57 điều này vào thực tế hoạt động của công ty như thế nào? Ngoài nội dung 57 điều này, họ có thể thêm hoặc bỏ bớt đi được không, vì nhiều vấn đề thực tế đã được quy định trong LDN 2005. Cán bộ các SGDCK cũng có cách hiểu khác nhau về tính chất “mẫu” của ĐLM, có người yêu cầu CTNY áp dụng nguyên nội dung ĐLM, có người lại chấp nhận cho sửa đổi, bổ sung nội dung, miễn là không trái với quy định của pháp luật và các điều khoản khác trong ĐLM.

Cần phải thấy rằng ĐLM là những quy định chung nhất mà mọi CTNY phải thể hiện được trong văn bản pháp lý quy định về tổ chức và hoạt động của mình. Còn đối với từng công ty, tuỳ thuộc vào lĩnh vực hoạt động chuyên ngành, văn hoá công ty… mà Điều lệ của mỗi công ty có thể đưa thêm vào các điều khoản khác. Như đã đề cập ở phần trên, nếu ĐLM là một khung pháp lý bắt buộc mọi CTNY phải tuân theo thì người ta sẽ không thể hiểu một CTCP chứng khoán Đầu tư Việt Nam (mã IVS) khác thế nào với một CTCP Ngân hàng thương mại Sài Gòn Thương Tín (mã STB) hoặc một CTCP Đầu tư và Phát triển Du lịch Vinaconex (mã VCR). Vậy nên, phải chăng chỉ nên xem ĐLM là một trong những cơ sở pháp lý quan trọng đối với CTNY bên cạnh các cơ sở pháp lý khác. Mới đây nhất, tại cuộc Hội thảo rà soát về LDN 2005, các đại biểu đã nêu ra ý kiến nên xem LDN 2005 là luật chung về doanh nghiệp cũng như BLDS là luật chung về hợp đồng. Nhưng khi đã có các loại Hợp đồng chuyên biệt mà các luật chuyên ngành đã điều chỉnh thì áp dụng theo quy định của luật đó. Tương tự như vậy, doanh nghiệp trong lĩnh vực đặc thù như tài chính, ngân hàng bên cạnh việc tuân thủ quy định về quản lý, tổ chức, đại diện pháp luật của doanh nghiệp… theo luật chung thì còn phải thực hiện quy định đặc thù của ngành nghề kinh doanh nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động nghề nghiệp của mình và cho cả xã hội.

Kết luận Chương 1:

Chương 1 xem xét Điều lệ công ty nói chung và Điều lệ CTNY nói riêng với tư cách một hợp đồng đặc biệt về tổ chức, quản lý và hoạt động của công ty. Do tính chất của Hợp đồng này là sự ra đời của một pháp nhân mà quyền, lợi ích và trách nhiệm của mỗi chủ thể là rất khác nhau. Hoạt động của chủ thể này có ảnh hưởng lâu dài, sâu sắc, trực tiếp đến các cổ đông, đến nền kinh tế nên cần có sự thỏa thuận chi tiết, kỹ lưỡng của mọi đối tượng liên quan. Đặc biệt, Nhà nước với vị trí là cơ quan quản lý, giám sát đã xây dựng các quy định chặt chẽ và đặc thù về yêu cầu chủ thể, sự thỏa thuận tự nguyện giữa các bên, nội dung và hình thức của Hợp đồng – Điều lệ của CTNY nhằm tạo điều kiện để các CTNY tạo dựng một khung pháp lý cho chính mình nhưng đồng thời phải đảm bảo vận hành trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước. Để hiểu rõ tính chất, nội dung cũng như giá trị pháp lý của của loại hợp đồng đặc biệt này, tác giả đi sâu vào xem xét và phân tích từng vấn đề cụ thể của ĐLM áp dụng cho các CTNY trên TTCK Việt Nam tại chương 2. Luận văn: Điều lệ áp dụng các Cty chứng khoán Việt Nam

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY    

===>>> Luận văn: Khái quát về cấu trúc pháp lí tại các Cty chứng khoán

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x