Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Giải pháp nâng cao công chứng hợp đồng tại Hà Nội hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Công chứng hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn thành phố Hà Nội dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
3.1. Những vướng mắc còn tồn tại về mặt quy định của pháp luật có liên quan đến công chứng hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
Hạn chế trong quy định về đào tạo, bồi dưỡng và bổ nhiệm công chứng viên:
Hiện nay theo quy định chung thì những cán bộ đã được đào tạo, công tác ở các cơ quan tư pháp, hành pháp được miễn thực tập công chứng viên mà chỉ cần trải qua kỳ thi sát hạch do Bộ Tư pháp tổ chức nếu đạt thì sẽ được Bộ Tư pháp quyết định bổ nhiệm công chứng viên. Hoặc một số trường hợp đã hành nghề luật sư 05 năm trở lên, hoặc đã là kiểm sát viên cao cấp,… sẽ được miễn lớp đạo tạo nghiệp vụ công chứng mà chỉ cần tham gia lớp đào tạo nghề công chứng 03 tháng tại Học viện tư pháp. Luận văn: Giải pháp nâng cao công chứng hợp đồng tại Hà Nội
Quy định ưu tiên đặc biệt này đó vô tình tạo ra các tiềm ẩn, nguy cơ rủi ro về nghề nghiệp trong qua trình hành nghề của các công chứng viên. Bởi lẽ, mỗi lĩnh vực có các đặc điểm riêng khác nhau, đặc biệt là đối với lĩnh vực công chứng được coi là một nghề nguy hiểm, công chứng viên phải chịu trách nhiệm suốt đời. Do đó, công chứng viên phải là những người được đào tạo, bồi dưỡng đầy đủ, kỹ lưỡng các kiến thức, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ, góp phần nâng cao chất lượng, hạn chế rủi ro trong quá trình hoạt động nghề nghiệp.
Hạn chế trong việc thực hiện quy định về tài sản thế chấp là QSDĐ:
Đây là loại hạn chế phổ biến trong thế chấp QSDĐ, pháp luật quy định khi thế chấp QSDĐ thì QSDĐ phải hợp pháp, có giấy chứng nhận QSDĐ hợp pháp, đất không có tranh chấp, khi thế chấp phải được tất cả hoặc đa số thành viên trong hộ gia đình, trong tổ chức được cấp giấy chứng nhận QSDĐ đồng ý. Trên thực tế rất nhiều chủ thể vi phạm các quy định trên, gây tranh chấp, giải quyết rất tốn kém.
Vi phạm của chính cơ quan cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Nếu Nhà nước quản lý chặt chẽ về đất đai và bảo đảm cấp giấy chứng nhận QSDĐ đúng quy định của pháp luật thì sẽ hạn chế được nhiều tranh chấp liên quan đến thế chấp QSDĐ. Trên thực tế, từ sự quá tải của các cơ quan quản lý về đất đai, sự tắc trách của một bộ phận cán bộ, công chức làm công tác quản lý về đất đai và sự phức tạp từ yếu tố lịch sử của đất đai nên còn nhiều trường hợp các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã không thực hiện đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định về cấp giấy chứng nhận QSDĐ (xác minh đối tượng có QSDĐ, nguồn gốc đất, thực tế sử dụng đất và diện tích đất), nhưng chỉ căn cứ vào việc người sử dụng đất tự kê khai để cấp giấy chứng nhận QSDĐ, nên đã dẫn đến nhiều trường hợp cấp giấy chứng nhận QSDĐ không đúng đối tượng hoặc giấy chứng nhận QSDĐ không đủ các chủ thể có QSDĐ; cấp sai diện tích đất, cấp sai thời hạn sử dụng đất, đất đang có tranh chấp nhưng vẫn được cấp giấy chứng nhận QSDĐ… Vì vậy, khi có vi phạm việc thực hiện nghĩa vụ và phải xử lý quyền SDĐ đã thế chấp để thực hiện nghĩa vụ trả nợ ảnh hưởng đến quyền lợi của người thứ ba dẫn đến tranh chấp.
Hạn chế trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng thế chấp QSDĐ: Hạn chế loại này chủ yếu là hạn chế của các cơ quan Tư pháp trực tiếp giải quyết các tranh chấp những hợp đồng thế chấp QSDĐ.
Hạn chế trong quy định của pháp luật về quản lý, thành lập tổ chức hành nghề công chứng: Luật Quy hoạch có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2019 đã bãi bỏ quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng ở mỗi tỉnh, thành phố. Nhưng đến nay, Chính phủ và Bộ Tư pháp vẫn chưa ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề này nên các địa phương lúng túng trong triển khai thực hiện. Thêm vào đó, Luật cũng quy định rõ thẩm quyền của Sở Tư pháp trong việc cho phép các tổ chức hành nghề công chứng thay đổi địa chỉ trụ sở trong phạm vi cấp tỉnh. Vấn đề này gây ra rất nhiều khó khăn trong công tác quản lý nhà nước theo hướng vừa đảm bảo các quyền của tổ chức hành nghề công chứng được pháp luật ghi nhận, vừa đảm bảo phát triển các tổ chức này gắn với địa bàn dân cư. Ngoài ra, văn phòng công chứng được tổ chức và hoạt động theo loại hình công ty hợp danh, được điều chỉnh bởi Luật Doanh nghiệp và Luật Công chứng. Nếu Luật Doanh nghiệp có quy định cụ thể về trình tự, thủ tục chấm dứt tư cách thành viên hợp danh của công ty hợp danh thì công chứng viên hợp danh của văn phòng công chứng có thể chấm dứt tư cách thành viên hợp danh của mình bất cứ lúc nào họ muốn. Điều này làm xáo trộn, mất tính ổn định của các văn phòng công chứng.
Mặt khác, công tác tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chứng viên hàng năm triển khai còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu. Việc tổ chức kiểm tra, sát hạch, tập sự công chứng viên chưa kịp thời dẫn đến nguồn công chứng viên trên địa bàn Thàng phố thì nhiều nhưng không đủ điều kiện được bổ nhiệm.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận Văn Thạc Sĩ Luật học
3.2. Một số khó khăn gặp phải trong quá trình thực thi những quy định của pháp luật có liên quan đến công chứng hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất tại địa bàn thành phố Hà Nội Luận văn: Giải pháp nâng cao công chứng hợp đồng tại Hà Nội
Thứ nhất, thiếu văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh: Bộ luật dân sự 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017 nhưng cho đến nay các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền vẫn chưa ban hành đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật để quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành. Cụ thể thời điểm hiện tại, chỉ có Nghị định số 102/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của chính phủ về đăng ký biện pháp bảo đảm được ban hành thay thế cho Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 của Chính phủ về đăng ký giao dịch đảm bảo, đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 05/2012/NĐ-CP ngày 02/2/2012 của Chính phủ. Trong khi đó vẫn chưa ban hành Nghị định mới thay thế cho Nghị định 163/2006/NĐ- CP ngày 29/12/2006 và Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/12/2012 của Chính phủ.
Thứ hai, công tác tổ chức thi hành pháp luật còn nhiều yếu kém: Công tác tổ chức thi hành pháp của Việt Nam còn những hạn chế, vướng mắc cần khắc phục như tính khả thi của các văn bản quy phạm pháp luật còn hạn chế; thức tuân thủ pháp luật của bộ phận cán bộ, công chức và các tổ chức, cá nhân vẫn còn chưa nghiêm túc; thiếu cơ chế kiểm tra, theo dõi, tình trạng “nhờn” luật vẫn diễn ra; thiếu các điều kiện bảo đảm cho việc thi hành pháp luật được hiệu quả…. Mặc dù công tác xây dựng pháp luật trong thời gian qua có nhiều chuyển biến tốt, có nhiều văn bản pháp luật mới được ban hành nhưng khó đi vào cuộc sống vì yếu kém của công tác tổ chức thi hành.
Nội dung đầu tiên cần làm tốt trong công tác tổ thi hành pháp luật là tăng cường công tác hướng dẫn, đẩy mạnh và phổ biến công tác giáo dục pháp luật để đảm bảo quyền tiếp cận pháp luật của nhân dân. Tùy vào từng đối tượng mà có hình thức, phương pháp tuyên truyền, giáo dục thích hợp.
Có nhiều trường hợp vi phạm do thiếu hiểu biết pháp luật nhưng lại không sử dụng các dịch vụ tư vấn, trợ giúp pháp lý trong xã hội. Trong điều kiện pháp luật thế chấp QSDĐ liên quan đến nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh như quy định của Bộ luật dân sự, Luật đất đai… và các Nghị định, Thông tư của Chính phủ và các Bộ ngành rất phức tạp, nhiều quy định lại khó hiểu, nếu không có công tác hướng dẫn, giải thích pháp luật chu đáo cũng sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện pháp luật. Do đó khi sử dụng quyền sử dụng đất của mình để thế chấp vay vốn thì người có quyền sử dụng đất nên sử dụng các dịch vụ tư vấn, trợ giúp pháp lý khi ký kết hợp đồng thế chấp cũng như khi giải quyết tranh chấp phát sinh về hợp đồng thế chấp nếu có thì mới đảm bảo hạn chế các sai sót, vi phạm khi thực hiện pháp luật thế chấp QSDĐ. Luận văn: Giải pháp nâng cao công chứng hợp đồng tại Hà Nội
Thứ ba, do những yếu kém về trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, công chức các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan tư pháp, cơ quan bổ trợ tư pháp, cán bộ ngân hàng: Những yếu kém về trình độ, năng lực dẫn đến những sai sót, nhầm lẫn trong cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; trong nhận xét, đánh giá chứng cứ, trong phán xét khi xử lý, giải quyết tranh chấp hợp đồng thế chấp QSDĐ; yếu kém về phẩm chất đạo đức dẫn đến hành vi vô trách nhiệm trong quản lý, trong giải quyết tranh chấp; thậm chí là tiêu cực, tham nhũng, thông đồng với chủ thể có liên quan để cố tình làm sai lệch hồ sơ, chứng cứ, phán quyết thiếu khách quan, công tâm.
Khó khăn do quy định của Luật đất đai và Luật nhà ở gây cản trở đến hoạt động công chứng hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất:
Theo quy định của Luật đất đai và Luật nhà ở có một số quyền gắn liền với quyền sử dụng đất đáng lẽ phải bắt buộc phải thực hiện đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng. Tuy nhiên, Luật đất đai và Luật nhà ở lại không quy định rõ ràng hoặc có quy định nhưng không bắt buộc phải đăng ký. Cụ thể như sau:
Luật đất đai:
Thứ nhất: Đối với quy định về đăng ký quyền sở hữu nhà ở: Tại khoản 1 điều 95 luật đất đai thì việc đăng ký quyền sở hữu nhà ở là thủ tục được thực hiện theo yêu cầu của người sử dụng đất.
Thứ hai: Quy định về quyền đối với bất động sản liền kề: Điều 171 Luật Đất đai năm 2013 quy định về “Quyền sử dụng hạn chế đối với thửa đất liền kề”. Do chủ thể không thực hiện đăng ký đối với các quyền này nên khi đăng ký thế chấp không xác định được cá nhân, tổ chức có quyền, lợi ích liên quan dẫn đến tranh chấp, khiếu nại, khiếu kiện, điều này gây ảnh hưởng rất lớn đến việc công chứng hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất.
Luật nhà ở:
Điều 147 và Điều 148, Luật Nhà ở 2014 quy định, việc thế chấp nhà ở chỉ gồm các hình thức: Thế chấp dự án nhà ở, thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai của chủ đầu tư dự án nhà ở, thế chấp nhà ở hình thành tương lai của tổ chức, cá nhân tự xây dựng nhà ở và thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai của tổ chức, cá nhân mua nhà ở trong dự án nhà ở. Trên thực tế các tổ chức hành nghề công chứng đã từ chối thực hiện việc công chứng hợp đồng thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở giữa người mua nhà và ngân hàng.
Mặc dù, chủ sở hữu có quyền định đoạt tài sản nhưng không được làm thay đổi quyền hưởng dụng đã được xác lập. Quyền hưởng dụng có thể được xác lập trên bất động sản hữu hình như: đất đai, nhà ở, công trình xây dựng, rừng, cây trồng,… hoặc bất động sản vô hình như: quyền sử dụng đất,quyền bề mặt,… Quy định này cũng tạo ra rào cản đối với việc công chứng hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất.
Trên thực tế công chứng viên còn lúng túng khi xác định một số chủ thể tham gia giao kết hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất mà điển hình là xác định thành viên hộ gia đình.
Khó khăn trong việc nhận biết chủ thể, giấy tờ giả: Trong khi thực hiện công chứng các hợp đồng giao dịch nói chung, hợp đồng thế chấp uyền sử dụng đất nói riêng, công chứng viên đều gặp phải khó khăn khi phải đối diện với sự gian dối, giả mạo của người yêu cầu công chứng như: Giấy tờ tùy thân giả mạo; Giấy tờ quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liến với đất; Ngoài ra, có thể giả mạo cả giấy xác nhận tình trạng hôn nhân, sổ hộ khẩu,… Sau khi công chứng mà phát hiện ra chủ thể yêu cầu công chứng giả mạo hoặc chủ thể đúng người nhưng giấy tờ bị giả mạo hoặc cả hai yếu tố trên đều bị giả mạo thì đều gây ra thiệt hại và ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan.
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công chứng hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất trên địa bàn thành phố Hà Nội Luận văn: Giải pháp nâng cao công chứng hợp đồng tại Hà Nội
3.3.1. Giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng, tập sự hành nghề công chứng:
Qua 5 năm triển khai thực hiện Luật công chứng năm 2014, số lượng công chứng viên tăng lên nhưng chất lượng nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc. Thực tế có những thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, luật sư… Từ khi được bổ nhiệm đến khi chuyển sang xin bổ nhiệm công chứng viên chỉ thực hiện các vụ án hình sự, trong khi công chứng viên là chứng nhận các hợp đồng giao dịch đa số thuộc lĩnh vực dân sự, kinh tế, thương mại. Do đó, cần xem xét quy định bắt buộc các đối tượng phải qua đào tạo nghề công chứng mới được công nhận là công chứng viên.
Báo cáo của Bộ Tư pháp nêu lên các sai phạm trong hoạt động công chứng thì có đến 80% vi phạm tập trung ở nhóm đối tượng được miễn đào tạo tập sự nghề công chứng. Vậy vấn đề đặt ra ở đây, nếu như vậy thì việc khắc phục trường hợp 80% sai phạm này thì phải tăng cường đào tạo bồi dưỡng họ, nhưng ở đây chúng ta lại hoặc thu hẹp phạm vi miễn đào tạo bồi dưỡng lại, vẫn giữ nguyên như thế dẫn đến mâu thuẫn với thực tế của các sai phạm mà chúng ta được đánh giá. Đề nghị xem xét lại Điều 10 sửa lại theo hướng thu hẹp đối tượng được miễn đào tạo nghề công chứng, họ được miễn đào nghề nhưng họ phải tập sự. Bởi vì tập sự là mới vào nghề thì phải tập sự, cho nên không miễn tập sự nghề cho những đối tượng mà được miễn đào tạo.
Phải quan tâm vấn đề đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho công chứng viên. Ví dụ, quy định bắt buộc hằng năm công chứng viên phải tham gia đủ bao nhiêu thời gian, số tiết bồi dưỡng thì mới tiếp tục được hành nghề công chứng. Có chế tài xử phạt nghiêm khắc nếu công chứng viên vi phạm.
3.3.2. Giải pháp về quy định liên quan đến hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất:
Điều kiện về chủ thể: Xuất phát từ thực tiễn hiện nay, khi công chứng, chứng thực hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cơ quan công chứng có cách hiểu và áp dụng quy định của pháp luật về hộ gia đình chưa thống nhất, đặc biệt là cách hiểu về “hộ gia đình” còn được gắn với “sổ hộ khẩu”.
Về điều kiện để người sử dụng đất được thế chấp quyền sử dụng đất: Theo quy định của LĐĐ năm 2013, thì một trong những điều kiện bắt buộc khi thế chấp QSDĐ là đất không có tranh chấp. Tuy nhiên, việc xác định đất không có tranh chấp là một vấn đề khó khăn, phức tạp. Chẳng hạn như: Những trường hợp nào thì được coi là đất có tranh chấp, có bắt buộc phải có đơn khiếu nại, tố cáo, đơn khởi kiện thì mới được coi là có tranh chấp không hay cơ quan nào có thẩm quyền xác nhận đất không tranh chấp. Tất cả những điều này, pháp luật hiện nay vẫn bỏ ngỏ, các tổ chức tín dụng phải tự tìm cách tháo gỡ, tự xác minh, xác định thửa đất tại chính quyền địa phương xem có tranh chấp hay không. Nhiều khi chỉ cần một đơn thư khiếu nại nặc danh không có căn cứ, thửa đất đó được coi là đang có tranh chấp. Điều này dẫn đến việc các tổ chức tín dụng không dám nhận thế chấp, ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi của người sử dụng đất, họ không sử dụng được một trong những quyền cơ bản nhất của người sử dụng đất là thế chấp QSDĐ. Do vậy, pháp luật phải có quy định và hướng dẫn cụ thể về khái niệm đất không có tranh chấp để tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng trong quá trình áp dụng.
3.3.3. Giải pháp về nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về công chứng hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất: Luận văn: Giải pháp nâng cao công chứng hợp đồng tại Hà Nội
Trước hết cần rà soát, tổng kết, đánh giá việc tổ chức, thực hiện pháp luật về công chứng và thế chấp quyền sử dụng đất trong thời gian qua để từ đó tìm ra những hạn chế, bất cập cần phải khắc phục và sửa đổi cho phù hợp.
Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, pháp luật về công chứng và thế chấp quyền sử dụng đất nói riêng, nâng cao ý thức pháp luật cho công chứng viên, công chức, viên chức và nhân dân. Tùy từng đối tượng để xác định chủ thể, nội dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho phù hợp.
Trên thực tế, có nhiều vụ việc tranh về chấp hợp đồng thế chấp quyền SDĐ là do thiếu hiểu biết pháp luật, ký kết hợp đồng không chặt chẽ, không rõ ràng, chưa bảo đảm các điều kiện hợp pháp về giấy chứng nhận quyền SDĐ, về thân nhân của công dân, địa vị pháp lý của cơ quan, tổ chức v.v… Phải tăng cường hoạt động dịch vụ, tư vấn pháp lý, giúp cho cơ quan, tổ chức, công dân sống, làm việc theo pháp luật. Hơn nữa, một bộ phận nhân dân vì nghèo không tiếp cận được các dịch vụ, tư vấn pháp lý rất cần hoạt động trợ giúp pháp lý của các tổ chức trợ giúp pháp lý và trợ giúp pháp lý của Đoàn Luật sư, Hội Luật gia Việt Nam, những người có hiểu biết pháp luật trong xã hội.
Phải có cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm từ các khâu cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ký kết hợp đồng, thanh lý hợp đồng, giải quyết tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất.
- Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện pháp luật có liên quan như Luật Công chứng, Luật Đất đai, Luật nhà ở, Luật kinh doanh bất động sản, …
- Cần xây dựng cơ chế phối hợp giữa giữa các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm (cơ quan đăng ký biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ).
- Pháp luật cần tăng các chế tài xử lý đối với người yêu cầu công chứng có hành vi giả mạo, gian dối về chủ thể công chứng, các giấy tờ kèm theo hồ sơ công chứng như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền trên đất, sổ hộ khẩu, chứng minh thư nhân dân, giấy xác nhận tình tạng hôn nhân,… Cơ quan pháp luật sẽ căn cứ tình hình thực tế, mức độ vi phạm của người yêu cầu công chứng để xem xét, xử lý trách nhiệm hành chính. Nếu cỏ đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự thì đề xuất cơ quan có thẩm quyền khởi tố trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, cũng cần phải xem xét trách nhiệm bồi thường. Có như vậy mới tăng tính răn đe, bảo đảm tinh thần thượng tôn pháp luật, góp phần bảo vệ công chứng viên trong quá trình hoạt động nghề nghiệp. Luận văn: Giải pháp nâng cao công chứng hợp đồng tại Hà Nội
- Cấp có thẩm quyền cần xây dựng và ban hành Quy chế khai thác vận hành dữ liệu thông tin công chứng để công chứng viên có thể tiến hành tra cứu thông tin, ngồn gốc hình thành đối với tài sản là đối tượng của hợp đồng, giao dịch công chứng.
- Cần phân định một cách rõ ràng, rành mạch về quyền hạn và nhiệm vụ của cơ quan công chứng và cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm; tăng cường cơ chế phối hợp trong công tác giữa các cơ quan bảo đảm linh hoạt, hiệu quả, đúng pháp luật.
- Cần có phương án tháo gỡ vướng mắc khi hiện trạng tài sản và mô tả tài sản trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất không trung khớp với nhau.
Tiểu kết chương 3
Qua những giải pháp trên có thể thấy rằng việc tăng cường hoàn thiện các quy định về luật công chứng cũng như quy định về thế chấp QSDĐ cần được nâng cao hơn. Những quy định cần có thực tiễn cụ thể và những gì đã áp dụng trong thực tế thì nên được xem xét và đưa vào luật hoặc đưa vào các văn bản hướng dẫn thi hành luật để có sự thống nhất và phát huy tốt nhất nhằm tạo được môi trường pháp lý tương đối an toàn cho các chủ thể khi thiết lập quan hệ thế chấp. Bên cạnh những thuận lợi, thực tiễn công chứng hợp đồng thế chấp QSDĐ trên địa bàn Thành phố Hà Nội vẫn phát sinh những khó khăn, vướng mắc nhất định từ việc xác định chủ thể thế chấp, công chứng, chứng thực hợp đồng thế chấp QSDĐ đến việc định giá, xử lý QSDĐ.
KẾT LUẬN
Hoạt động công chứng nói chung, công chứng hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất nói riêng là hoạt động chiếm số lượng hợp đồng, giao dịch chủ yếu của các tổ chức hành nghề công chứng, đặc biệt là trên địa bàn thành phố Hà Nội là trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị lớn nhất cả nước. Thế chấp quyền sử dụng đất giúp các cá nhân, hộ gia đình, tổ chức trong xã hội có cơ hội tiếp cận nguồn vốn từ các ngân hàng để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư, phục vụ nhu cầu đời sống…, góp phần phát triển nền kinh tế đất nước. Còn đối với các tổ chức tín dụng, việc nhận tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất khi cho vay là một biện pháp bảo đảm tiền vay phổ biến nhất, giúp các tổ chức tín dụng giảm thiểu rủi ro trong trường hợp người đi vay không thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ trả nợ. Vì vậy, thế chấp QSDĐ cần sự điều chỉnh đặc biệt của pháp luật.
Do đó, pháp luật về thế chấp QSDĐ hiện hành đã tạo ra khung pháp lý tương đối đầy đủ, góp phần đảm bảo sự an toàn cho các chủ thể tham gia giao dịch thế chấp quyền sử dụng đất.
Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng, qua nghiên cứu thực tiễn về công chứng hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất trên địa bàn Thành phố Hà Nội, nhận thấy hệ thống pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế gây nhiều khó khăn, vướng mắc cho các tổ chức tín dụng khi nhận thế chấp loại tài sản đặc biệt này. Hoàn thiện pháp luật và tìm kiếm giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả công chứng hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất tại là mục đích nghiên cứu chính của luận văn.Trong luận văn, tác giả đã đóng góp một vài kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất và đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm giải quyết những khó khăn, vướng mắc cho các tổ chức hành nghề công chứng và các tổ chức tín dụng khi nhận thế chấp quyền sử dụng đất, qua đó góp phần ổn định thị trường tiền tệ, hiện thực hóa mục tiêu phát triển kinh tế đất nước mà Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra. Luận văn: Giải pháp nâng cao công chứng hợp đồng tại Hà Nội
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận văn: Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất tại Việt Nam