Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Đắk Lắk hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Quản lý nhà nước đối với tổ chức hành nghề công chứng từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Cải cách hành chính luôn là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của nhà nước, với mục tiêu nhằm xây dựng một nền hành chính hiện đại, một chính phủ kiến tạo, phát triển, tiệm cận với nền tư pháp tiên tiến của các nước trên thế giới đồng thời nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã có những bước đi hết sức quan trọng, đạt được nhiều thành tựu trên con đường phát triển kinh tế – xã hội. Đặc biệt, trong năm 2018, nền kinh tế Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất kể từ năm 2008 và thuộc nhóm các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất khu vực và thế giới. Điều này mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội mới nhưng đồng thời cũng đặt ra những thách thức không nhỏ. Luận văn: Tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Đắk Lắk
Công chứng là một trong những hoạt động bổ trợ tư pháp, giúp đảm bảo tính an toàn pháp lý đối với các giao dịch dân sự, thương mại, đặc biệt là các giao dịch chuyển quyền liên quan đến các tài sản có giá trị lớn…vốn đã tồn tại nhiều nguy cơ dẫn đến tranh chấp. Trong những năm gần đây, nhu cầu về giao dịch dân sự, thương mại giữa các cá nhân tổ chức trong xã hội… diễn ra ngày càng mạnh mẽ hơn kéo theo đó là nhu cầu công chứng các hợp đồng, giao dịch phát sinh trong đời sống xã hội ngày càng tăng cao. Điều này đặt ra yêu cầu, cần có những thay đổi trong quy định pháp luật về hoạt động công chứng sao cho nó có thể điều chỉnh được các hành vi xã hội kịp thời và không bị thụ động trước những thay đổi mới phát sinh của hoạt động đặc thù này. Có thể kể đến một trong những thay đổi lớn nhất trong quy định pháp luật về hoạt động công chứng đó là cho phép thực hiện xã hội hóa hoạt động công chứng, làm gia tăng số lượng các phòng công chứng và VPCC đáp ứng kịp thời nhu cầu của xã hội.
Hoạt động công chứng nói riêng và các tổ chức hành nghề công chứng nói chung đóng một vai trò quan trọng, không thể thiếu trong đời sống kinh tế – xã hội của Việt Nam hiện nay. Do nhu cầu về công chứng của nhân dân ngày càng cao khiến cho mối quan hệ trong hoạt động công chứng ngày càng phức tạp, điều này đặt ra yêu cầu cần có một loại hình văn bản Luật cụ thể tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động công chứng. Luật Công chứng 2006 và Luật Công chứng 2014 ra đời đã góp phần quan trọng vào tiến trình này.
Tuy nhiên trong thực tiễn áp dụng, Luật Công chứng 2014 đang bộc lộ một số hạn chế trong hoạt động quản lý nhà nước và hiệu quả hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng. Hoạt động quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng nói chung và đối với tỉnh Đắk Lắk nói riêng đang còn gặp nhiều bất cập như: phân bố các VPCC không đồng đều ở các địa bàn trong tỉnh; chưa thành lập được các VPCC ở huyện vùng sâu, vùng xa; công tác thanh tra, kiểm tra đối với các tổ chức hành nghề công chứng không được tiến hành thường xuyên; chưa có sự phối hợp với các thủ tục hành chính khác liên quan, khiến người yêu cầu công chứng phải mất nhiều thời gian, công sức; chưa phát huy hết các ưu điểm và khắc phục các nhược điểm của việc chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã – một hình thức chứng thức thông dụng hiện nay…
Xuất phát từ thực tiễn đó, tôi chọn đề tài “Quản lý nhà nước đối với tổ chức hành nghề công chứng từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk” làm đề tài luận văn Thạc sĩ Luật học của mình.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Luật học
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Luận văn: Tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Đắk Lắk
Hoạt động công chứng xuất hiện khá sớm ở Việt Nam, kể từ khi thực dân Pháp thiết lập chế độ bảo hộ ở nước ta. Hoạt động công chứng của nước ta ở giai đoạn này đều áp dụng theo mô hình của Pháp chủ yếu phục vụ cho chính sách cai trị của Pháp tại Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng. Trong một khoảng thời gian dài, nước ta có rất ít quy phạm điều chỉnh hoạt động công chứng, chứng thực. Hoạt động công chứng, chứng thực thời kỳ phân chia hai miền Nam – Bắc (1954-1975) và từ khi thống nhất đất nước (sau năm 1975) cũng chưa phổ biến và chưa được điều chỉnh bằng các văn bản luật chi tiết.Mãi đến ngày 29/11/2006, Quốc hội thông qua Luật công chứng, chính thức có hiệu lực thi hành vào ngày 1/7/2007 nhằm điều chỉnh hoạt động công chứng diễn ra ngày càng phức tạp do những nhu cầu về công chứng của nhân dân ngày càng cao.
So với những văn bản quy phạm pháp luật khác điều chỉnh các hành vi trong xã hội, chế định pháp luật điều chỉnh hoạt động công chứng xuất hiện muộn hơn trong hệ thống pháp luật nước ta, nhưng nhiều công trình, đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này đã được các học giả quan tâm nghiên cứu từ lâu nay. Trước khi Luật Công chứng số 82/2006/QH11 được ban hành, có thể kể đến các công trình: Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện tổ chức và hoạt động công chứng ở Việt Nam, do Viện Khoa học Pháp lý – Bộ Tư pháp chủ trì vào năm 1993; Công chứng nhà nước những vấn đề lý luận và thực tiễn ở nước ta, Luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Ngọc Nga; Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác định phạm vi, nội dung hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ của tác giả Đặng Văn Khanh năm 2000; Tổ Chức và hoạt động công chứng nhà nước ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ của tác giả Dương Khánh năm 2002. Và nhiều đề tài nghiên cứu sau khi Luật Công chứng 2014 có hiệu lực, như: Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay, của tác giả Lê Thị Phương Hoa năm 2013; Thực hiện pháp luật công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội của tác giả Nguyễn Thanh Hà năm 2014; Thẩm quyền của Ủy ban nhân dân trong lĩnh vực thực hiện các việc công chứng, luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Thị Thúy; Hoàn thiện pháp luật về công chứng, chứng thực ở Việt Nam hiện nay – lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ của tác giả Tuấn Đạo Thanh; Nâng cao hiệu quả hoạt động công chứng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Chí Thiện; Luận văn thạc sĩ Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Phú Yên năm 2017 của tác giả Trương Nữ Trần Chung; Quản lý nhà nước về công chứng trong lĩnh vực chuyển nhượng tài sản từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Vi Châu Khánh năm 2018…
Luận án tiến sĩ của tác giả Đặng Văn Khanh năm 2000 về đề tài Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác định phạm vi, nội dung hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng ở nước ta hiện nay gần như là một trong những tác phẩm trước nhất nghiên cứu chuyên sâu về hoạt động công chứng. Luận án đã đưa ra những phân tích mang tính lý luận và thực tiễn về hoạt động công chứng ở Việt Nam thời kỳ đầu đổi mới. Tác phẩm phân tích bản chất hoạt động của hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng mang lại. Đặt trong bối cảnh hoạt động công chứng ở Việt Nam lúc bấy giờ diễn ra khá ít, không phát triển công trình khoa học của tác giả Đặng Văn Khanh đã đem đến những phân tích, đánh giá sâu rộng hoạt động này. Một trong số đó là kết luận “không nên xem công chứng là việc “chứng nhận” các hợp đồng, giấy tờ. Mà phải quan niệm công chứng là việc “tạo lập” các hợp đồng, giấy tờ nhằm đem lại cho hợp đồng, giấy tờ đó dấu ấn của công quyền” nhằm tạo những chứng cứ không thể phản bác, đảm bảo an toàn về mặt pháp lý cho các giao dịch kinh tế, dân sự.
Năm 2014, tại thời điểm Luật Công chứng 2006 đang còn hiệu lực thi hành, Luận văn thạc sĩ Thực hiện pháp luật công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội của tác giả Nguyễn Thanh Hà đã chỉ ra được những bất cập của Luật Công chứng năm 2006 trong quá trình áp dụng. Như tình trạng: tiêu chuẩn Công chứng viên, tiêu chuẩn thành lập VPCC còn quy định đơn giản, chưa chặt chẽ; sau khi thành lập thiếu sự kiểm tra, thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước; chưa có quy định về việc chuyển đổi mô hình VPCC do một công chứng viên thành lập sang mô hình VPCC do 2 công chứng viên trở lên thành lập và ngược lại; chưa quy định việc chia sẻ và khai thác cơ sở dữ liệu công chứng giữa tổ chức hành nghề công chứng và các cơ quan liên quan. Thủ tục công chứng chưa cụ thể, rõ ràng, chưa có sự phối hợp, liên thông với các thủ tục hành chính khác liên quan… Từ những phân tích trên, Luận văn đã làm sáng tỏ hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật công chứng trong giai đoạn này, đưa ra các đề xuất giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật công chứng ở Việt Nam nói chung.
Luận văn thạc sĩ Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Phú Yên năm 2017 của tác giả Trương Nữ Trần Chung tập trung vào nội dung lý luận về quản lý nhà nướcvà chức năng quản lý của Nhà nước đặc biệt trong lĩnh vực công chứng. Luận văn đưa ra những nguyên nhân dẫn đến quản lý chưa hiệu quả các tổ chức hành nghề công chứng từ công đoạn ban hành văn bản quy phạm pháp luật, như: một số văn bản còn chồng chéo nhau về nội dung; một số văn bản quy phạm pháp luật chưa có văn bản hướng dẫn thi hành kịp thời, hoặc nếu có thì nội dung lại chưa cụ thể; tính minh bạch, hệ thống của pháp luật còn hạn chế. Phát triển nguồn công chứng viên, nâng cao chất lượng của các VPCC đi kèm với số lượng xây dựng lộ trình phát triển, hoàn thiện mô hình VPCC, xây dựng cơ sở dữ liệu, thông tin ngăn chặn… Luận văn: Tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Đắk Lắk
Luận văn của tác giả Hà Lan Hương về đề tài Đánh giá thực trạng công tác công chứng, chứng thực các giao dịch về đất đai trên địa bàn quận Đống Đa, tp. Hà Nội tập trung phân tích các giao dịch liên quan đến bất động sản phải được công chứng, chứng thực và hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng khi thực hiện công chứng các giao dịch liên quan đến loại tài sản này. Nhìn chung, luận văn mới dừng lại ở mức khái quát về mặt lý luận quy định của pháp luật đối với các chủ thể có liên quan khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ liên quan đến quyền sử dụng đất (QSDĐ). Từ đó tác giả nêu ra của một vài thực trạng trong hoạt động công chứng, chứng thực các giao dịch liên quan đến loại hình giao dịch này. Cũng nghiên cứu về nội dung liên quan đến hoạt động công chứng trong lĩnh vực chuyển nhượng tài sản, đặc biệt là bất động sản, là Luận văn thạc sĩ của tác giả Vi Châu Khánh năm 2018 về: Quản lý nhà nước về công chứng trong lĩnh vực chuyển nhượng tài sản từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn này trình bày được hai vấn đề lớn đó là những vấn đề lý luận về công chứng và nội dung quản lý nhà nước về hoạt động này trong lĩnh vực chuyển nhượng tài sản. Đặt trong bối cảnh luận văn nghiên cứu sau khi Luật Công chứng 2014 ra đời và có hiệu lực, cộng với thực tiễn phát triển của một trong những thành phố lớn nhất ở Việt Nam, như Hồ Chí Minh, luận văn đã nêu ra được những đánh giá giá trị thực thi của các văn bản pháp luật công chứng sau vài năm thực hiện, hiệu quả đạt được và những mặt hạn chế phát sinh trong giai đoạn này.
Có thể thấy, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu hoạt động công chứng ở những góc độ khác nhau từ khái quát lý luận đến thực tiễn áp dụng trong một số lĩnh vực, địa bàn khác nhau. Các đề tài, công trình nghiên cứu trên đã nghiên cứu những vấn đề mang tính tổng thể hoặc những khía cạnh, phạm vi cụ thể khác nhau của hoạt động công chứng. Nhưng đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu về quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng, đặc biệt trong phạm vi một địa phương cụ thể: tỉnh Đắk Lắk. Có thể khẳng định, đề tài Quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk là đề tài đầu tiên nghiên cứu về khía cạnh này. Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, tác giả cũng cần phải kế thừa, vận dụng có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các công trình nêu trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận một cách có hệ thống về hoạt động quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ khi Luật Công chứng 2014 có hiệu lực thi hành, để từ đó đề xuất hướng nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích một số vấn đề lý luận và pháp lý về quản lý nhà nước, công chứng và tổ chức hành nghề công chứng.
Đánh giá kết quả quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, xác định những hạn chế, vướng mắc còn tồn tại trong quá trình thực hiện quản lý nhà nước.
Đề xuất những kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
4. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu Luận văn: Tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Đắk Lắk
Đối tượng nghiên cứu:
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về thời gian: Thực tiễn thực hiện pháp luật về hoạt động công chứng và hoạt động quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 2014 đến nay.
- Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định về quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng và phân tích những vướng mắc, bất cập từ thực tiễn áp dụng pháp luật trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Để hoàn thành các mục tiêu nghiên cứu, trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài, luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, về cải cách hành chính, cải cách tư pháp và đổi mới hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung, bổ trợ tư pháp nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu và trình bày, luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau bao gồm: phương pháp phân tích, tổng hợp; Phương pháp thống kê, so sánh; các phương pháp điều tra, phân tích thực tiễn tổ chức và hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng, quản lý nhà nước về công chứng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn Luận văn: Tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Đắk Lắk
Luận văn đóng góp thêm những vấn đề lý luận quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng đặc biệt từ thực tiễn của tỉnh Đắk Lắk.
Từ đó, tác giả hy vọng luận văn có thể mang lại những đề xuất nhằm khắc phục phần nào những hạn chế còn tồn tại, là cơ sở để hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng, giúp nâng cao hiệu quả hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh nói chung và hoạt động quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng nói riêng. Đồng thời đưa hoạt động công chứng thực sự là một công cụ hữu hiệu của nhà nước trong việc điều chỉnh các quan hệ pháp luật về dân sự.
7. Kết cấu Luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, danh mục bảng biểu và danh mục tài liệu tham khảo nội dung của luận văn gồm 3 chương:
CHƯƠNG 1: Những vấn đề lý luận – pháp lý về quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng
CHƯƠNG 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
CHƯƠNG 3: Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN – PHÁP LÝ VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG
1.1. Khái quát chung về công chứng và tổ chức hành nghề công chứng Luận văn: Tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Đắk Lắk
1.1.1. Khái niệm công chứng và tổ chức hành nghề công chứng
Khái niệm công chứng
Nguồn gốc của hoạt động công chứng có từ thời Ai Cập cổ đại, thời đại mà việc “chính thức hóa” các văn bản ghi chép trở nên quan trọng với nhân loại lúc bấy giờ. Ở Ai Cập cổ đại vào năm 2750-2250 trước Công nguyên, người Ai Cập cổ đại “sesh” hay người chép sách ở Vương quốc cổ Ai Cập được biết đến là những người chép biên niên sử đầu tiên được lịch sử ghi lại. Những người chép sách góp phần tạo nên một cấp độ của bộ máy quan liêu thời Ai Cập cổ đại. Từ thư cá nhân cho đến các tuyên bố chính thức, hồ sơ thuế và các tài liệu khác đều qua tay họ.
Nguồn gốc của thuật ngữ “notary” (công chứng viên) trong Tiếng Anh bắt nguồn từ thuật ngữ “notarius”.Thời La Mã cổ đại, trước năm 535 TCN, những ông tổ thực sự của các công chứng viên được sinh ra ở Đế chế La Mã.Nhiều người cho rằng Công chứng viên đầu tiên trong lịch sử là một người nô lệ La Mã tên là Tiro. Ông đã phát minh ra một hệ thống viết tốc ký, mà ông gọi là notae nhằm để ghi chép lại bài phát biểu của nhà hùng biện nổi tiếng lúc bấy giờ Cicero. Những người viết tốc ký khác được biết đến với cái tên notarii và scribae. Thời bấy giờ, việc biết đọc biết viết không được phổ biến rộng rãi, các công chứng viên hay còn gọi là các “notarius” là người soạn hợp đồng, di chúc hoặc các loại tài liệu quan trọng khác có tính phí. Với sự phát triển của đế chế La Mã, tỷ lệ biết chữ tăng lên, nhu cầu về công chứng viên cũng tăng lên. Sau này, vào thế kỷ XV, một công chứng viên đã đồng hành cùng Christopher Columbus trong chuyến hải trình của ông ấy để đảm bảo vua Ferdinand và hoàng hậu Isabella rằng tất cả những phát hiện đều được công chứng ghi chép đầy đủ.
Công chứng viên được xem là một công chức được ủy quyền công khai để phục vụ như một người vô tư, không thiên vị làm chứng cho việc ký kết giấy tờ pháp lý. Việc ký kết hợp đồng này thường bao gồm chứng thư chuyển nhượng bất động sản, bản khai có tuyên thệ, di chúc, văn bản ủy quyền. Mục đích chính của công chứng viên là để ngăn cản sự gian lận. Công chứng viên không được từ chối làm chứng một văn bản dựa vào chủng tộc, quốc gia, vùng miền hay giới tính [56].
Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng. Trong khi đó,“chứng thực” là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào bản chính để chứng thực bản sao là đúng với bản chính, hoặc chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản là chữ ký của người đã yêu cầu chứng thực.
Công chứng viên đóng vai trò là một nhân chứng vô tư, không vụ lợi xác nhận danh tính của người ký vào văn bản [54, tr.4]. Từ điển Hán-Việt (của tác giả Đào Duy Anh), Nxb. Khoa học và Xã hội ấn hành năm 2004, đưa ra định nghĩa về công chứng như sau: “Công chứng có nghĩa là lấy quyền công mà làm chứng”. Theo từ điển Black’s Law Dictionary 8th định nghĩa công chứng viên là người được nhà nước trao quyền để quản lý thi hành việc tuyên thệ, chứng nhận văn bản, chứng thực tính xác thực của chữ ký và chính thức hóa các hành vi trong lĩnh vực thương mại như xác nhận công cụ chuyển nhượng “negotiable instruments”. Luận văn: Tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Đắk Lắk
Trong Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/02/1991 của Hội đồng Bộ trưởng về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước, Điều 1 xác định: “Công chứng nhà nước là việc chứng nhận tính xác thực các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là các tổ chức), góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN. Các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng có giá trị chứng cứ”. Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước, khái niệm công chứng được nêu tại Điều 1: “Công chứng là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là tổ chức), góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN. Các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng nhà nước chứng nhận hoặc Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền chứng thực có giá trị chứng cứ, trừ trường hợp bị Tòa án nhân dân tuyên bố là vô hiệu”.
Sau 5 năm, khái niệm “công chứng” được sửa đổi theo Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2001 của Chính phủ về công chứng, chứng thực Khoản 1, Điều 2 ghi rõ: “Công chứng là việc Phòng Công chứng chứng nhận tính xác thực của hợp đồng được giao kết hoặc giao dịch khác được xác lập trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và quan hệ xã hội khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) và thực hiện các việc khác theo quy định của Nghị định này; Chứng thực là việc Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã xác nhận sao y giấy tờ, hợp đồng, giao dịch và chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch của họ theo quy định của Nghị định này”. Theo Điều 2 Luật Công chứng 2006: “Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”.
Khoản 1 Điều 2 Luật Công chứng 2014: “Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức HNCC chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”.
Như vậy từ những khái niệm nêu trên có thể kết luận, công chứng là việc công chứng viên thực hiện quyền mà nhà nước trao cho để chứng nhận tính hợp pháp, tính xác thực của hợp đồng giao dịch.
Khái niệm tổ chức hành nghề công chứng:
Vào thời kỳ đầu của hoạt động công chứng, Nhà nước ta không thành lập cơ quan công chứng chuyên trách. Mọi động có tính chất công chứng đều do Ủy ban nhân dân cấp cơ sở thực hiện theo hình thức thị thực, chứng thực trên cơ sở Sắc lệnh số 59/SL ngày 15/11/1945 ấn định Thể lệ về việc thị thực các giấy tờ và Sắc lệnh số 85/SL ngày 29/02/1952 về Thể lệ trước bạ về các việc mua, bán, cho, đổi nhà cửa, ruộng đất [25, tr.3]. Sự ra đời của thông tư số 574/QLTPK hướng dẫn công tác công chứng Nhà nước ngày 10/07/1987 do Bộ Tư pháp ban hành, Thông tư số 858/QLTPK ngày 15/10/1987 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện các việc làm công chứng và Nghị định số 45/CP về tổ chức và hoạt động của Công chứng nhà nước ngày 27/02/1991 do Chính phủ ban hành là bước khởi đầu cho quá trình hình thành và hoạt động của các phòng công chứng trên cả nước. Lúc bấy giờ tổ chức HNCC là cơ quan nhà nước hoạt động với mục đích giúp các cá nhân, tổ chức lập và xác nhận các văn bản, sự kiện có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa và làm cho các văn bản, sự kiện đó có hiệu lực thực hiện.
Trải qua giai đoạn phát triển của lịch sử, từ việc ghi nhận văn bản pháp luật đầu tiên quy định về tổ chức hoạt động công chứng ở Việt Nam trong Nghị định số 45/HĐBT, đến việc ghi nhận sự thay đổi trong thuật ngữ “phòng công chứng nhà nước” và “phòng công chứng” đánh dấu quá trình xã hội hóa công chứng trong Nghị định số 75/2000/NĐ-CP. Theo định nghĩa về công chứng trong Nghị định này, có thể rút ra được định nghĩa tổ chức HNCC là nơi thực hiện việc chứng nhận tính xác thực của hợp đồng được giao kết hoặc giao dịch khác được xác lập trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và quan hệ xã hội khác.
Luật công chứng năm 2006 đánh dấu một dấu mốc quan trọng với sự xuất hiện của tổ chức công chứng của tư nhân là VPCC. Sự ra đời của VPCC là kết quả của quá trình thay đổi về tư duy và nhận thức về nền kinh tế thị trường của Đảng và nhà nước Việt Nam, từ chỗ hoạt động công chứng chỉ do nhà nước độc quyền thực hiện cho tới việc chuyển giao quyền nay cho tổ chức tư nhân thay mặt nhà nước cung cấp dịch vụ công. Như vậy, tổ chức HNCC hiện nay không phải là cơ quan nhà nước, mà nó tồn tại hai loại hình: là đơn vị sự nghiệp công lập đối với Phòng công chứng, và là công ty hợp danh đối với VPCC. Tuy được xây dựng thành hai loại hình khác nhau, pháp luật vẫn xây dựng quy định chung về quyền và nghĩa vụ cho các tổ chức HNCC này, mà không có sự phân biệt giữa nhà nước và tư nhân.
Như vậy, tổ chức HNCC là nơi chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự bao gồm Phòng công chứng và Văn phòng công chứng. bao gồm Phòng công chứng và Văn phòng công chứng được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật Công chứng và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
1.1.2. Đặc điểm, nguyên tắc của hoạt động công chứng Luận văn: Tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Đắk Lắk
Công chứng là hành động xác thực, là đặc điểm của hệ thống công chứng dân luật. Nó phản ánh trung thực ý chí của các bên. Hoạt động này yêu cầu một vài yếu tố cần thiết như sau:
- Hoạt động công chứng phải tuân thủ pháp luật. Công chứng viên kiểm tra, đảm bảo hành vi. Họ kiểm tra tính pháp lý của các hợp đồng, thông báo cho khách hàng biết về những về các quy định pháp luật hiện hành và đảm bảo sự tuân thủ pháp luật.
- Hành vi công chứng có hiệu lực chứng minh rằng các hành vi đã được công nhận và được kiểm tra bởi công chứng viên là chính xác và không thể bác bỏ.
- Ở hầu hết các quốc gia, hành vi công chứng có hiệu lực thi hành tương đương với một phán quyết của tòa án. Công chứng đảm bảo tính minh bạch. Hành vi công chứng là hành động xác thực, là bằng chứng về thời gian, danh tính, chữ ký và tập hợp ý chí của các bên do đó có hiệu lực thi hành giữa các bên. Ở nhiều quốc gia, hoạt động công chứng được phép thu thuế đối với những hành vi công chứng chuyển nhượng tài sản. Nghĩa vụ phải đăng ký công chứng đối với một số hoạt động đồng thời giúp chống lại việc trốn thuế. Hoạt động công chứng là một tập các sự kiện của một quốc gia. Công chứng viên đảm bảo chúng được lưu giữ dù dưới dạng soạn thảo trên giấy hay trên dữ liệu điện tử. Luận văn: Tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Đắk Lắk
Tính xác thực trong hoạt động công chứng
- Xác định đúng người: Nghĩa là xác định đúng người yêu cầu công chứng thông qua giấy tờ tùy thân của họ. Đồng thời, xác định họ phải trong trạng thái tinh thần thoải mái, tự nguyện, không chịu bất kỳ một sức ép nào từ phía bên ngoài và họ hoàn toàn ý thức được hậu quả việc làm của mình.
- Xác định đúng việc: Người yêu cầu công chứng phải xuất trình đủ các giấy tờ, tài liệu có liên quan đến hợp đồng, giao dịch đó.
- Xác định bản chất thực của các hợp đồng, giao dịch: Công chứng viên phải xác định xem những thỏa thuận của các bên đương sự có phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của họ hay không, các thỏa thuận này có nhằm che giấu bất kỳ một mục đích nào khác hay không.
Hoạt động của công chứng vừa mang tính công quyền vừa mang tính chất dịch vụ công. Tính công quyền thể hiện ở chỗ công chứng viên của phòng công chứng hay của các VPCC đều do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm để công chứng các hợp đồng giao dịch giữa các tổ chức, công dân theo quy định của pháp luật. Khi tác nghiệp, công chứng viên nhân danh nhà nước thực thi công việc. Hoạt động công chứng còn mang tính chất dịch vụ công, tức là thực hiện một loại dịch vụ của Nhà nước nhưng được Nhà nước giao cho tổ chức HNCC đảm nhiệm, đó là công chứng các hợp đồng giao dịch mà các tổ chức và cá nhân yêu cầu. Ở các nước khác, hoạt động công chứng cũng mang bản chất của là dịch vụ công.
Xuất phát từ thực tế các mối quan hệ xã hội và hành vi công dân cần được pháp luật điều chỉnh diễn ra một cách thường xuyên, liên tục theo các quá trình kinh tế – xã hội, nền hành chính Nhà nước phải hoạt động liên tục, ổn định để đảm bảo hoạt động sản xuất, lưu thông không bị gián đoạn trong bất kỳ tình huống nào. Hoạt động công chứng cũng phải đảm bảo được nguyên tắc này vì về bản chất hoạt động công chứng mang đặc điểm của dịch vụ công, nhằm hướng tới các lợi ích sau:
- Lợi ích của các bên tham gia giao dịch: Công chứng giúp cho các tổ chức, cá nhân thực hiện các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại theo đúng pháp luật, nhờ đó giảm thiểu tranh chấp, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân tham gia giao dịch.
- Lợi ích của nhà nước: Hoạt động công chứng góp phần làm cho các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại được thực hiện theo đúng khuôn khổ của pháp luật, góp phần tăng cường pháp chế XHCN.
Công chứng viên có sự độc lập, trong tác nghiệp chuyên môn, công chứng viên không chịu trách nhiệm trước các cơ quan cơ quan cấp trên hay trước trưởng phòng, trưởng văn phòng mà tự chịu trách nhiệm trước pháp luật. Vì vậy, trong tác nghiệp chuyên môn, công chứng viên không bị lệ thuộc vào cấp trên. Khi thực hiện hoạt động công chứng, tổ chức HNCC được thu phí và thù lao công chứng theo quy định. Các tổ chức HNCC được Nhà nước chuyển giao cho một phần quyền của Nhà nước để thực hiện chức năng của Nhà nước trong một lĩnh vực cụ thể là công chứng các hợp đồng giao dịch. Đồng thời, Nhà nước cũng chuyển giao cho các tổ chức HNCC một trách nhiệm và nghĩa vụ lớn là phải thực hiện công chứng một cách đúng pháp luật và đảm bảo được lợi ích của Nhà nước.
Như vậy, công chứng là hành vi của công chứng viên hành nghề theo sự ủy quyền của nhà nước. Điều này phân biệt với chứng thực là hành vi của người đại diện của cơ quan hành chính công quyền. Tính xác thực của hợp đồng, giao dịch khác được công chứng viên xác nhận. Tính xác thực của các tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch khác là vô cùng quan trọng nhằm bảo đảm cho chúng có giá trị chứng cứ. Trong pháp luật về tố tụng, khi nói đến chứng cứ thì bao giờ cũng đề cao tính xác thực của các sự kiện, tình tiết có thực, khách quan được coi là chứng cứ. Văn bản công chứng được coi là có giá trị chứng cứ cũng là do tính xác thực của các tình tiết, sự kiện có trong văn bản đó đã được công chứng viên xác nhận. Yếu tố này được công chứng viên kiểm chứng và xác nhận ngay khi nó xảy ra trong thực tế, trong số đó có những tình tiết, sự kiện chỉ xảy ra một lần, không để lại hình dạng, dấu vết về sau (ví dụ: sự tự nguyện, ý chí của các bên khi ký kết hợp đồng) và do đó, nếu không có công chứng viên xác nhận thì về sau rất dễ xảy ra tranh chấp mà tòa án không thể xác minh được. Công chứng viên xác nhận tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch. Đặc điểm này ghi nhận ở mô hình công chứng nội dung (công chứng hệ Latinh) khác biệt hoàn toàn so với mô hình công chứng hình thức (công chứng hệ Anglosaxon). Trong công chứng hệ Latinh thì các hợp đồng, giao dịch hợp pháp mới được công chứng viên xác nhận; những hợp đồng, giao dịch bất hợp pháp thì bị từ chối công chứng. Đặc điểm này của công chứng hệ Latinh quy định chức năng phòng ngừa các tranh chấp trong hợp đồng, giao dịch khác của công chứng.
1.1.3. Phân loại các tổ chức hành nghề công chứng Luận văn: Tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Đắk Lắk
Từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân các cấp thấy rằng, nhiều vụ án tranh chấp dân sự (theo nghĩa rộng) phát sinh là do nguyên nhân trong quá trình giao kết hợp đồng, giao dịch, các chủ thể không thực hiện đúng quy định về tư cách chủ thể, về hình thức, trình tự, thủ tục; nội dung thỏa thuận vi phạm quy định pháp luật. Để thuận lợi cho người dân và bảo đảm an toàn pháp lý của các hợp đồng, giao dịch dân sự, hạn chế tranh chấp dân sự xảy ra, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định nhiệm vụ về hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp, trong đó có nhiệm vụ “Hoàn thiện chế định công chứng. Xác định rõ phạm vi của công chứng và chứng thực, giá trị pháp lý của văn bản công chứng. Xây dựng mô hình QLNN về công chứng theo hướng Nhà nước chỉ tổ chức cơ quan công chứng thích hợp; có bước đi phù hợp để từng bước xã hội hóa công việc này”. Việc để tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ công là hướng phát triển tất yếu và cơ bản trong nền kinh tế hiện đại. Sau khi thực hiện thành công xã hội hóa dịch vụ công chứng, xuất hiện hai loại hình tổ chức HNCC là Phòng công chứng và VPCC.
Phòng công chứng: cơ quan công chứng do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập, là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Tư pháp, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng.Khoản 1, Điều 20 Luật Công chứng 2014 quy định: “Căn cứ vào nhu cầu công chứng tại địa phương, Sở Tư pháp chủ trì phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Sở Nội vụ xây dựng đề án thành lập Phòng công chứng trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định. Đề án nêu rõ sự cần thiết thành lập Phòng công chứng, dự kiến về tổ chức, tên gọi, nhân sự, địa điểm đặt trụ sở, các điều kiện vật chất và kế hoạch triển khai thực hiện”. Như vậy, trên cơ sở đề nghị của Sở Tư pháp đồng thời căn cứ vào tình hình địa phương, UBND tỉnh xem xét, ra quyết định thành lập.
Người đại diện theo pháp luật của Phòng công chứng là Trưởng phòng. Trưởng phòng công chứng phải là công chứng viên, do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.Phòng công chứng gồm các công chức, viên chức hưởng chế độ lương theo đơn vị sự nghiệp công lập, trong đó Trường phòng công chứng là công chức được hưởng lương quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập. Luận văn: Tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Đắk Lắk
Các Phòng công chứng tùy từng trường hợp: tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư, tự bảo đảm một phần chi thường xuyên hay do Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên thì được trích từ 50% đến 75% số tiền phí thu được để trang trải chi phí phí cho các nội dung chi dùng như: Chi thanh toán cho cá nhân thực hiện công việc, dịch vụ và thu phí: Tiền lương, tiền công, phụ cấp lương (trừ chi phí tiền lương cho cán bộ, công chức đã hưởng lương từ ngân sách nhà nước theo chế độ quy định); Chi phí phục vụ cho việc thực hiện công việc, dịch vụ và thu phí như: Văn phòng phẩm, vật tư văn phòng, thông tin liên lạc, điện, nước, công tác phí; Chi sửa chữa thường xuyên tài sản, máy móc, thiết bị; Chi mua sắm vật tư, nguyên liệu…Các Phòng công chứng phải nộp từ 25% đến 50% số tiền phí thu được còn lại vào ngân sách nhà nước theo từng trường hợp tương ứng.
Văn phòng công chứng: Mô hình văn phòng công chứng lần đầu xuất hiện trong quy định của Luật công chứng 2006, pháp luật Việt Nam ghi nhận song song hai tổ chức được hành nghề công chứng. Theo quy định tại khoản 1, Điều 22 Luật Công chứng 2014: “Văn phòng công chứng được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đối với loại hình công ty hợp danh”. Văn phòng công chứng phải có từ hai công chứng viên hợp danh trở lên.Văn phòng công chứng không có thành viên góp vốn. Người đại diện theo pháp luật của Văn phòng công chứng là Trưởng Văn phòng phải là công chứng viên hợp danh của Văn phòng công chứng và đã hành nghề công chứng từ 02 năm trở lên. Khác với phòng công chứng là đơn vị sự nghiệp công lập, văn phòng công chứng hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính bằng nguồn thu từ phí công chứng, thù lao công chứng và các nguồn thu hợp pháp khác. Vì hoạt động theo nguyên tắc tự chủ tài chính nên đối với tiền phí thu được là doanh thu của Văn phòng công chứng, Văn phòng được giữ lại 100% số tiền phí thu được để trang trải cho việc thu phí và phải khai, nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, Văn phòng công chứng phải thực hiện lập và giao hóa đơn cho đối tượng nộp phí theo quy định hiện hành của Bộ Tài chính về phát hành, quản lý, sử dụng hóa đơn.
Các tổ chức HNCC là những chủ thể trực tiếp thực hiện nhiệm vụ giúp giảm thiểu rủi ro tranh chấp và đảm bảo tính an toàn pháp lý cho các giao dịch dân sự. Ở Việt Nam, trước khi Luật Công chứng 2006 ra đời mọi hoạt động công chứng đều do cơ quan nhà nước là phòng công chứng “bao cấp” thực hiện. Trong một thời gian dài, hoạt động với tư tưởng “bao cấp”, “độc quyền”, những cơ quan này xuất hiện không ít những hạn chế và tiêu cực. Thêm vào đó, với tình hình kinh tế-xã hội ngày càng phát triển, khiến cho nhu cầu về số lượng giao dịch cần công chứng càng tăng. Nguyên nhân này làm cho các phòng công chứng lúc bấy giờ trở nên quá tải không đáp ứng kịp thời tốc độ thay đổi của xã hội, các hành vi tiêu cực lại càng xảy ra thường xuyên hơn gây bức xúc trong người dân. Đứng trước thực trạng đó, đặt ra yêu cầu phải “xã hội hóa” hoạt động này, giao nhiệm vụ này cho một tổ chức tư hoạt động riêng và chịu trách nhiệm trước nhà nước. Có thể nói, hoạt động của các VPCC đã giúp giảm tải gánh nặng cho cơ quan công chứng nhà nước, giúp cho các giao dịch của người dân diễn ra dễ dàng, nhanh chóng và hiệu quả hơn, góp phần tiết kiệm được một khối lượng đáng kể thời gian, tiền bạc và nguồn lực của tất cả các thành viên trong xã hội. Sự xuất hiện của yếu tố tư nhân trong hoạt động cung cấp dịch vụ công cũng giúp nâng cao chất lương chung của hoạt động công chứng. Trên cơ sở canh trạnh lành mạnh, các tổ chức HNCC không chỉ không ngừng phát triển, cải thiện chất lượng dịch vụ mà giúp san sẻ việc công chứng. Các tổ chức HNCC không chỉ tạo điều kiện cho người dân và các doanh nghiệp tự do lựa chọn loại hình dịch vụ mà còn tạo ra một môi trường pháp lý cạnh tranh an toàn, ổn định, rộng khắp.
1.2. Khái niệm quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng Luận văn: Tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Đắk Lắk
1.2.1. Khái quát về quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng
Quản lý là hoạt động xã hội bắt nguồn từ tính chất cộng đồng, là sự phân công, phối hợp nỗ lực của các cá nhân nhằm đạt được mục tiêu chung. Quản lý là hoạt động điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay một quá trình, căn cứ vào những quy luật, định luật hay nguyên tắc tương ứng để cho hệ thống hay quá trình ấy vận động theo ý muốn của người quản lý nhằm đạt được những mục đích đã định trước1.
Một số quan niệm khác nhau về quản lý:
Nguyễn Minh Đạo: “Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt tới mục tiêu đã đề ra” (Cơ sở khoa học quản lý, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1997).
Quản lý là việc đạt tới mục đích của tổ chức một cách có kết quả và hiệu quả thông qua quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra các nguồn lực của tổ chức” (Khoa học quản lý, tập I, Trường ĐH KTQD, Hà Nội 2001).
Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng, có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý để chỉ huy, điều khiển, liên kết các yếu tố tham gia vào hoạt động thành một chỉnh thể thống nhất, điều hoà hoạt động của các khâu một cách hợp quy luật nhằm đạt đến mục tiêu xác định trong điều kiện biến động của môi trường” – theo Vi Châu Khánh, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Quản lý nhà nước về công chứng trong lĩnh vực chuyển nhượng tài sản từ thực tiễn thành hố Hồ Chí Minh, 2018)
Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, NXB Công an, 2017, tr 10
Từ những quan niệm này cho thấy, quản lý là một hoạt động liên tục và cần thiết khi con người kết hợp với nhau trong tổ chức. Đó là quá trình tạo nên sức mạnh gắn liền các hoạt động của các cá nhân với nhau trong một tổ chức nhằm đạt được mục tiêu chung. Quản lý là tác động một cách có tổ chức và định hướng của chủ thể quản lý vào một đối tượng nhất định để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi của con người nhằm duy trì tính ổn định và phát triển của đối tượng theo những mục tiêu đã định. Như vậy, quản lý là sự tác động của các chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm mục đích điều khiển, chỉ đạo hoạt động riêng lẻ của từng cá nhân thành hoạt động chung của cả tập thể và hướng hoạt động chung đó đi theo phương hướng thống nhất nhằm đạt được mục tiêu nhất định. Luận văn: Tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Đắk Lắk
QLNN xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước. Dưới góc độ pháp lý: Thuật ngữ QLNN là chức năng quan trọng trong vận hành thường xuyên bộ máy nhà nước bảo đảm hoạt động của xã hội cũng như trên từng lĩnh vực đồi sống xã hội vận động theo một hướng, đường lối nhất định do Nhà nước đặt ra. Đây là hoạt động thực thi quyền lực NN nhằm xác lập trật tự ổn định, phát triển theo mục tiêu mà giai cấp cầm quyền đề ra thông qua việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, tổ chức thực hiện và cơ chế đảm bảo việc thực thi pháp luật bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Có thể hiểu theo nghĩa phổ biến nhất là việc hướng dẫn chấp pháp, điều hành, quản lý hành chính do cơ quan hành pháp thực hiện và đc đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế. Thông qua khái niệm trên có thể hiểu hoạt động QLNN được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, QLNN bao gồm cả hoạt động lập pháp của cơ quan lập pháp, hoạt động hành pháp của Chính phủ và hoạt động tư pháp của cơ quan tư pháp. Theo nghĩa hẹp, QLNN được hiểu là hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước điều chỉnh các quan hệ trong xã hội nhằm đạt được mục tiêu quản lý.
Như vậy, QLNN là hoạt động mang tính chất quyền lực nhà nước, được sửa dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội. QLNN được xem là một hoạt động chức năng của nhà nước trong quản lý xã hội và có thể xem là hoạt động chức năng đặc biệt. QLNN là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật nhà nước để điều chỉnh các hành vi của con người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của con người, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Xuất phát từ khái niệm QLNN và khái niệm các tổ chức HNCC, có thể định nghĩa: QLNN đối với các tổ chức HNCC là sự tác động một cách có hệ thống bằng quyền lực Nhà nước thông qua các công cụ, phương pháp cụ thể lên các tổ chức HNCC nhằm điều chỉnh hoạt động của các tổ chức HNCC diễn ra hiệu quả, đúng pháp luật, để đạt được mục tiêu duy trì và phát triển hoạt động của các tổ chức này theo đúng định hướng của Nhà nước phù hợp với điều kiện xã hội.
Có thể hiểu hoạt động QLNN là sự tác động liên tục, có tổ chức, định hướng vào các yếu tố có liên quan đến hoạt động của các tổ chức HNCC bằng một hệ thống các hình thức quản lý mang tính pháp lý và hình thức không mang tính pháp lý như: tổ chức trực tiếp, tác động kĩ thuật và các biện pháp khác nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong điều kiện cụ thể do chủ thể là các cơ quan nhà nước tiến hành. Hoạt động công chứng nói riêng và hoạt động của các tổ chức HNCC nói chung đóng một vai trò không thể thiếu trong việc đảm bảo sự phát triển ổn định và trật tự của xã hội. Để đáp ứng nhu cầu duy trì phát triển này cũng như xây dựng được một hành lang pháp lý an toàn cho các giao dịch trong xã hội, hoạt động quản lý nhà nước về các tổ chức này luôn được Nhà nước quan tâm xây dựng theo hướng hoàn thiện hơn. Hoạt động quản lý nhà nước bao gồm từ việc xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật có nội dung liên quan đến việc giám sát, tổ chức thực hiện tuyên truyền, phổ biến, chính sách pháp luật; cũng như thanh tra, kiểm tra việc chấp hành – điều hành pháp luật về hoạt động quản lý đối với các tổ chức HNCC.
1.2.2. Đặc điểm quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng
Chủ thể quản lý là cơ quan nhà nước, trong đó chủ yếu được thực hiện bởi cơ quan hành chính nhà nước.Với tư cách là chủ thể quản lý mang tính công quyền, Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhằm tạo môi trường pháp lý phát triển trật tự, ổn định, đưa tổ chức HNCC phát triển đúng mục tiêu, định hướng của Nhà nước. Nhà nước cần xây dựng các chương trình, dự án và hệ thống kế hoạch để đạt được mục tiêu lâu dài, thông qua việc:
- Xây dựng đồng bộ các chính sách pháp luật trong tất cả các lĩnh vực pháp luật từ trung ương đến địa phương đặc biệt là pháp luật về lĩnh vực công chứng.
- Đẩy mạnh, đổi mới công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về công chứng, chứng thực để nâng cao nhận thức, hểu biết của cán bộ, công chứng, viên chức và các tầng lớp nhân dân về vị trí, tính chất, vai trò của hoạt động công chứng.
- Có chính sách hỗ trợ kinh phí khuyến khích các sinh viên tốt nghiệp cử nhân luật tiếp tục học nghiệp vụ công chứng và tập sự hành nghề công chứng vừa giải quyết việc làm vừa đảm bảo phát triển đội ngũ công chứng. Luận văn: Tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Đắk Lắk
Tư nhân hóa dịch vụ công là xu hướng tất yếu của tiến trình phát triển xã hội. Hoạt động công chứng là một minh chứng cho hiệu quả của việc tư nhân hóa việc cung cấp dịch vụ công. Hoạt động cung cấp dịch vụ công chứng do các tổ chức HNCC chịu trách nhiệm hoàn toàn, Nhà nước chỉ giữ vai trò quản lý, giám sát quá trình thực hiện hoạt động của các tổ chức này. Từ đó đề ra định hướng phát triển của các tổ chức HNCC để đảm bảo phát triển đồng đều về cả về số lượng lẫn chất lượng, phân bố đồng đều ở các địa phương, hiệu quả hoạt động công chứng, duy trì môi trường pháp lý an toàn, phát triển ổn định.
Nhà nước xây dựng hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động của các tổ chức HNCC đồng thời dựa vào nó để kiểm tra, kiểm soát tổ chức, hoạt động công chứng và việc thực hiện chính sách, pháp luật của các tổ chức HNCC trong lĩnh vực này. trung ương, Bộ Tư pháp phối hợp với các bộ, ngành có liên quan ban hành hoặc tham mưu Chính phủ ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Công chứng năm 2014 và các quy định pháp luật khác liên quan đến lĩnh vực công chứng. UBND cấp tỉnh với sự tham mưu của Sở Tư pháp thực hiện chức năng QLNN ở địa phương, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động của các tổ chức HNCC ở địa phương, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra của UBND cấp tỉnh, Sở Tư pháp và Hội Công chứng viên, xử lý vi phạm tại các tổ chức HNCC phát hiện kịp thời, xử phạt nghiêm các hành vi vi phạm của công chứng viên, của tổ chức HNCC.
Đối tượng quản lý là các tổ chức HNCC. Hoạt động công chứng là hoạt động mang tính chuyên môn nghề nghiệp của công chứng viên. Công chứng viên hoạt động độc lập, không phụ thuộc vào người quản lý hay cấp trên, hành nghề khách quan, trung thực, tuân thủ các quy tắc đạo đức nghề nghiệp và chịu trách nhiệm trước pháp luật về văn bản công chứng. Hoạt động công chứng đóng vai trò ghi nhận sự thỏa thuận của các bên, chứng nhận tính hợp pháp và tính xác thực của thỏa thuận đó. Công chứng viên vừa đóng vai trò soạn thảo, vừa giữ vai trò trọng tài tư vấn công bằng cho các bên tham gia giao dịch hiểu rõ về những quyền, lợi ích và hệ quả pháp lý phát sinh khi ký kết hợp đồng, giao dịch. Nhờ vậy, hoạt động công chứng giúp giảm thiểu được những tranh chấp phát sinh trong hợp đồng sau này. Tất cả các văn bản công chứng dù theo hệ thống pháp luật nào thì cũng là một nguồn cung cấp chứng cứ đáng tin cậy cho hoạt động xét xử của tòa án nói riêng hay của những cơ quan tài phán nói chung. Văn bản công chứng giá trị thực hiện không chỉ với các bên giao kết mà còn với bên thứ ba có liên quan. Để tăng cường công tác QLNN về công chứng nói riêng và công tác QLNN đối với các tổ chức HNCC nói chung cần đảm bảo sự thống nhất quản lý trong phạm vi cả nước, đẩy mạnh phân cấp quản lý, tăng cường vai trò của UBND cấp tỉnh trong việc quản lý các tổ chức HNCC ở địa phương, đảm bảo các tổ chức này hoạt động hiệu quả, đúng pháp luật, phát huy được vai trò của công chứng trong đời sống xã hội.
Công cụ QLNN đối với các tổ chức HNCC bao gồm: pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc chung do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội; kế hoạch, phương án triển khai thực hiện, kiểm tra, giám sát việc thực hiện QLNN đối với các tổ chức HNCC; chính sách tập hợp các giải pháp nhằm đạt được mục tiêu QLNN đối với các tổ chức HNCC. Trong đó, đề cao vai trò của công cụ pháp luật trong hệ thống các công cụ, phương tiện Nhà nước sử dụng để tác động vào đối tượng quản lý là các tổ chức HNCC nhằm đạt được mục tiêu quản lý xã hội.
Mục tiêu của quản lý nhà nước đối với các tổ chức HNCC chính là đưa các tổ chức này phát triển theo đúng mục tiêu về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 được đề ra trong Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị. Thực hiện thành công và hiệu quả chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp. Đưa hoạt động công chứng và hoạt động của các tổ chức HNCC trở thành một phần không thể thiếu trong tiến trình phát triển của xã hội thúc đẩy bảo vệ công lý, đảm bảo các giao dịch diễn ra nhanh chóng, an toàn. Thành công bước đầu của quá trình xã hội hoá công chứng trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp là đã khẳng định tính đúng đắn của chủ trương xã hội hoá nói chung và mục tiêu QLNN đối với các tổ chức HNCC nói riêng, góp phần khích lệ cho việc mở rộng xã hội hoá các dịch vụ công khác theo chiến lược Cải cách tư pháp.
1.3. Thẩm quyền và nội dung quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng Luận văn: Tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Đắk Lắk
1.3.1. Cơ quan quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng
Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong việc thực hiện QLNN về công chứng, có các nhiệm vụ, quyền hạn: Ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về công chứng; Xây dựng, trình Chính phủ ban hành chính sách phát triển nghề công chứng; Chủ trì, phối hợp với bộ, ngành hướng dẫn, quản lý hoạt động của các tổ chức HNCC.
Bộ Tư pháp có quyền bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm công chứng viên trên cơ sở xem xét hồ sơ đề nghị của Sở Tư pháp, sau khi Sở Tư pháp đã tiến hành thẩm tra, rà soát chặt chẽ để bảo đảm người nộp hồ sơ phải đủ các tiêu chuẩn và điều kiện yêu cầu theo đúng quy định của pháp luật. Bộ Tư pháp có thẩm quyền: Phê duyệt Điều lệ của tổ chức xã hội-nghề nghiệp toàn quốc của công chứng viên sau khi thống nhất ý kiến với Bộ Nội vụ; Đình chỉ thi hành và yêu cầu sửa đổi những văn bản, quy định của tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên trái với quy định của Hiến pháp, Luật Công chứng và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan; Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động công chứng theo thẩm quyền.
Định kỳ hằng năm, Bộ Tư pháp có trách nhiệm báo cáo Chính phủ về hoạt động công chứng trên địa bàn cả nước. Ngoài ra, Bộ đồng thời có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến pháp luật về công chứng, chính sách phát triển nghề công chứng; quản lý và thực hiện hợp tác quốc tế về hoạt động công chứng với các quốc gia và tổ chức công chứng quốc tế đặc biệt trong xu thế hội nhập hiện nay…Các bộ, cơ quan ngang bộ khác trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc thực hiện QLNN về công chứng.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện việc QLNN về công chứng tại địa phương và có các nhiệm vụ, quyền hạn: Tổ chức thi hành, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về công chứng, chính sách phát triển nghề công chứng; Quyết định thành lập Phòng Công chứng, bảo đảm cơ sở vật chất và phương tiện làm việc cho các Phòng Công chứng; Quyết định việc giải thể hoặc chuyển đổi Phòng Công chứng theo quy định của Luật Công chứng; Ban hành tiêu chí xét duyệt hồ sơ đề nghị thành lập VPCC; Quyết định cho phép thành lập, thay đổi và thu hồi quyết định cho phép thành lập VPCC, cho phép chuyển nhượng, hợp nhất, sáp nhập VPCC; Ban hành mức trần thù lao công chứng tại địa phương; Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo về công chứng theo thẩm quyền; Phối hợp với Bộ Tư pháp trong công tác kiểm tra, thanh tra về công chứng… Bên cạnh đó, UBND cấp tỉnh có trách nhiệm báo cáo Bộ Tư pháp về việc thành lập, chuyển đổi, giải thể Phòng Công chứng; cho phép thành lập, hợp nhất, sáp nhập, chuyển nhượng VPCC trên địa bàn; Định kỳ hằng năm báo cáo Bộ Tư pháp về hoạt động công chứng tại địa phương để tổng hợp báo cáo Chính phủ.
Sở Tư pháp là cơ quan chuyên môn thực hiện chức năng tham mưu, giúp việc cho UBND cấp tỉnh, chịu trách nhiệm quản lý trực tiếp kiểm tra, thanh tra hoạt động của các tổ chức HNCC ở địa phương. Sở Tư pháp có trách nhiệm rà soát, kiểm tra việc bảo đảm tiêu chuẩn hành nghề của công chứng viên tại địa phương mình. Sở Tư pháp chủ trì phối hợp với các sở, ban ngành có liên quan, như: Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Sở Nội vụ xây dựng đề án thành lập Phòng Công chứng trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định. Đề án nêu rõ sự cần thiết thành lập Phòng Công chứng, dự kiến về tổ chức, tên gọi, nhân sự, địa điểm đặt trụ sở, các điều kiện vật chất và kế hoạch triển khai thực hiện…Sau khi được UBND cấp tỉnh xem xét, quyết định cho phép thành lập, VPCC phải đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp ở địa phương nơi đã ra quyết định cho phép thành lập. Sở Tư pháp cũng có trách nhiệm kiểm tra, rà soát và lập hồ sơ đề nghị Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định thu hồi quyết định cho phép thành lập VPCC… Sở Tư pháp chịu trách nhiệm tham mưu, giúp việc cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện QLNN đối với các tổ chức HNCC tại địa bàn tỉnh.
1.3.2. Nội dung quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng Luận văn: Tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Đắk Lắk
QLNN đối với các tổ chức HNCC là quản lý và định hướng hoạt động của các tổ chức này thông qua hệ thống các văn bản pháp luật nhằm thực hiện nội dung QLNN.
Thứ nhất, nguyên tắc thành lập tổ chức HNCC.
Việc thành lập tổ chức HNCC phải đáp ứng các tiêu chuẩn nhất định và tuân theo quy định của Luật Công chứng hiện hành nhằm hạn chế tình trạng các tổ chức HNCC xuất hiện tràn lan, đảm bảo chất lượng hoạt động của các tổ chức này, đảm bảo sự phân bổ đồng đều và hợp lý giữa các địa phương VPCC. Từ đó, đảm bảo hiệu quả hoạt động của các tổ chức này cũng như cho việc công tác quản lý của cơ quan nhà nước diễn ra hiệu quả. Tại những địa bàn chưa có điều kiện phát triển được VPCC thì mới được thành lập phòng công chứng. VPCC thành lập tại các địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của Chính phủ. UBND cấp tỉnh ban hành tiêu chí xét duyệt hồ sơ đề nghị thành lập VPCC; quyết định cho phép thành lập, thay đổi và thu hồi quyết định cho phép thành lập VPCC, cho phép chuyển nhượng, hợp nhất, sáp nhập VPCC.
Thứ hai, về việc thành lập, chuyển đổi, giải thể phòng công chứng.
Căn cứ vào nhu cầu công chứng tại địa phương, Sở Tư pháp chủ trì phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Sở Nội vụ xây dựng đề án thành lập Phòng công chứng trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định. Đề án nêu rõ sự cần thiết thành lập Phòng công chứng, dự kiến về tổ chức, tên gọi, nhân sự, địa điểm đặt trụ sở, các điều kiện vật chất và kế hoạch triển khai thực hiện. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định thành lập Phòng công chứng, Sở Tư pháp phải đăng báo trung ương hoặc báo địa phương nơi có trụ sở của Phòng công chứng trong ba số liên tiếp về: Tên gọi, địa chỉ trụ sở của Phòng công chứng; Số, ngày, tháng, năm ra quyết định thành lập và ngày bắt đầu hoạt động của Phòng công chứng. Phòng Công chứng không chịu sự ràng buộc đối với các điều kiện về số lượng công chứng viên của Phòng Công chứng và công chứng viên là trưởng Phòng Công chứng cũng không bắt buộc phải có điều kiện về thời gian hành nghề công chứng là từ 02 năm trở lên. Tuy nhiên, việc thành lập mới Phòng Công chứng cũng phải tuân theo sự phát triển tổ chức hành nghề của mỗi địa phương.
Trong trường hợp không cần thiết duy trì Phòng công chứng thì Sở Tư pháp lập đề án chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định. Trường hợp không có khả năng chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng thì Sở Tư pháp lập đề án giải thể Phòng công chứng trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định.
Thứ ba, về việc thành lập, hợp nhất, sáp nhập, chuyển nhượng, chấm dứt hoạt động của VPCC.
VPCC được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật Công chứng và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đối với loại hình công ty hợp danh. Pháp luật hiện nay quy định VPCC phải có từ 02 công chứng viên hợp danh trở lên. Và người đại diện theo pháp luật của VPCC là Trưởng Văn phòng phải là công chứng viên hợp danh của VPCC và đã hành nghề công chứng từ 02 năm trở lên. Ngoài ra, việc thành lập VPCC còn phải tuân thủ các các tiêu chí xét duyệt hồ sơ thành lập VPCC do UBND cấp tỉnh của từng địa phương quy định.
Điều 23 Luật Công chứng 2014 quy định việc thành lập đối với VPCC: Các công chứng viên thành lập Văn phòng công chứng phải có hồ sơ đề nghị thành lập Văn phòng công chứng gửi Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định. Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị thành lập Văn phòng công chứng, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định cho phép thành lập Văn phòng công chứng; trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do. Trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được quyết định cho phép thành lập, Văn phòng công chứng phải đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp ở địa phương nơi đã ra quyết định cho phép thành lập. Sau khi được cấp phép thành lập, các VPCC phải tiến hành đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp ở địa phương nơi đã ra quyết định cho phép thành lập. VPCC được hoạt động công chứng kể từ ngày Sở Tư pháp cấp giấy đăng ký hoạt động. VPCC hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính bằng nguồn thu từ phí công chứng, thù lao công chứng và các nguồn thu hợp pháp khác.
Các VPCC có trụ sở trong cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thể hợp nhất thành một VPCC mới bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang VPCC được hợp nhất, đồng thời chấm dứt hoạt động của các VPCC bị hợp nhất.Một hoặc một số VPCC có thể sáp nhập vào một VPCC khác có trụ sở trong cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang VPCC sáp nhập, đồng thời chấm dứt hoạt động của VPCC bị sáp nhập.
VPCC đã hoạt động công chứng được ít nhất là 02 năm có thể được chuyển nhượng cho các công chứng viên khác. Công chứng viên đã chuyển nhượng Văn phòng công chứng không được phép tham gia thành lập Văn phòng công chứng mới trong thời hạn 05 năm kể từ ngày chuyển nhượng. Công chứng viên nhận chuyển nhượng VPCC phải đáp ứng các điều kiện sau đây: Đã hành nghề công chứng từ 02 năm trở lên đối với người dự kiến sẽ tiếp quản vị trí Trưởng Văn phòng công chứng; Cam kết hành nghề tại Văn phòng công chứng mà mình nhận chuyển nhượng; Cam kết kế thừa quyền và nghĩa vụ của Văn phòng công chứng được chuyển nhượng. Việc hợp nhất, sáp nhập, chuyển nhượng VPCC do UBND cấp tỉnh xem xét, quyết định cho phép thực hiện.
Văn phòng công chứng bị thu hồi quyết định cho phép thành lập trong những trường hợp sau đây: Văn phòng công chứng không thực hiện đăng ký hoạt động theo quy định của Luật Công chứng; Hết thời hạn 06 tháng kể từ ngày được cấp giấy đăng ký hoạt động mà Văn phòng công chứng chưa bắt đầu hoạt động; Văn phòng công chứng không hoạt động liên tục từ 03 tháng trở lên, trừ trường hợp toàn bộ các công chứng viên hợp danh bị tạm đình chỉ hành nghề công chứng; Văn phòng công chứng chỉ còn một công chứng viên hợp danh và không bổ sung được thành viên hợp danh mới trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày thiếu công chứng viên hợp danh; Toàn bộ công chứng viên hợp danh của Văn phòng công chứng bị miễn nhiệm chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết; Văn phòng công chứng không bảo đảm duy trì điều kiện hoạt động theo quy định của Luật này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Sở Tư pháp có trách nhiệm kiểm tra, rà soát và lập hồ sơ đề nghị Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định thu hồi quyết định cho phép thành lập Văn phòng công chứng. Luận văn: Tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Đắk Lắk
Văn phòng công chứng chấm dứt hoạt động trong các trường hợp sau đây: Văn phòng công chứng tự chấm dứt hoạt động; Văn phòng công chứng bị thu hồi quyết định cho phép thành lập; Văn phòng công chứng bị hợp nhất, bị sáp nhập. Trước thời điểm chấm dứt hoạt động, Văn phòng công chứng có nghĩa vụ nộp đủ số thuế còn nợ, thanh toán các khoản nợ khác, làm xong thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động đã ký với công chứng viên, nhân viên của tổ chức mình, thực hiện các yêu cầu công chứng đã tiếp nhận. Trường hợp không thể thực hiện xong các yêu cầu công chứng đã tiếp nhận thì phải thỏa thuận với người yêu cầu công chứng về việc thực hiện các yêu cầu đó. Trong trường hợp chấm dứt hoạt động theo hình thức hợp nhất, sáp nhập thì quyền, nghĩa vụ của Văn phòng công chứng do Văn phòng công chứng được hợp nhất hoặc Văn phòng công chứng nhận sáp nhập tiếp tục thực hiện. Sở Tư pháp có trách nhiệm thu hồi giấy đăng ký hoạt động của Văn phòng công chứng, báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thu hồi quyết định cho phép thành lập và thông báo bằng văn bản về việc chấm dứt hoạt động của Văn phòng công chứng cho cơ quan thuế, cơ quan thống kê, cơ quan công an cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi Văn phòng công chứng đặt trụ sở.
Thứ tư, về quyền và nghĩa vụ của tổ chức HNCC.
Các tổ chức HNCC có quyền ký hợp đồng làm việc, hợp đồng lao động với công chứng viên và các nhân viên làm việc cho tổ chức mình; Thu phí công chứng, thù lao công chứng, chi phí khác; Cung cấp dịch vụ công chứng ngoài ngày, giờ làm việc của cơ quan hành chính nhà nước để đáp ứng nhu cầu công chứng của nhân dân; Được khai thác, sử dụng thông tin từ cơ sở dữ liệu công chứng. Đồng thời các tổ chức HNCC có các nghĩa vụ sau:
- Quản lý công chứng viên hành nghề tại tổ chức mình trong việc tuân thủ pháp luật và quy tắc đạo đức hành nghề công chứng. Chấp hành quy định của pháp luật về lao động, thuế, tài chính, thống kê.
- Thực hiện chế độ làm việc theo ngày, giờ làm việc của cơ quan hành chính nhà nước.
- Niêm yết lịch làm việc, thủ tục công chứng, nội quy tiếp người yêu cầu công chứng, phí công chứng, thù lao công chứng và chi phí khác tại trụ sở của tổ chức mình.
- Mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên của tổ chức mình và bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật công chứng.
- Tiếp nhận, tạo điều kiện thuận lợi và quản lý người tập sự hành nghề công chứng trong quá trình tập sự tại tổ chức mình.
- Tạo điều kiện cho công chứng viên của tổ chức mình tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng hằng năm.Thực hiện yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc báo cáo, kiểm tra, thanh tra, cung cấp thông tin về hợp đồng, giao dịch, bản dịch đã công chứng.
- Lập sổ công chứng và lưu trữ hồ sơ công chứng.
- Chia sẻ thông tin về nguồn gốc tài sản, tình trạng giao dịch của tài sản và các thông tin khác về biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với tài sản có liên quan đến hợp đồng, giao dịch do công chứng viên của tổ chức mình thực hiện công chứng để đưa vào cơ sở dữ liệu công chứng.
- Các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
Thứ năm, về việc kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm đối với các tổ chức HNCC.
Mục đích thanh tra là nhằm phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN; bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân [31, tr.2]
Hoạt động thanh tra, kiểm tra các tổ chức HNCC bao gồm thao tác kiểm tra hồ sơ công chứng, sổ công chứng hợp đồng, giao dịch, sổ công chứng bản dịch,… Qua kiểm tra, thanh tra, hoạt động của các tổ chức HNCC các cơ quan QLNN có thể phân tích đánh theo dõi quá trình thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ quản lý đề ra. Đồng thời, giúp các cơ quan nhà nước phát hiện được những hành vi vi phạm trình tự, thủ tục công chứng, hành vi phạm pháp luật của công chứng viên và các tổ chức HNCC để kịp thời xử lý, duy trì hiệu quả của hoạt động cũng như hiệu quả của QLNN đối với các tổ chức này. Hoạt động xử lý vi phạm đối với các hành vi vi phạm pháp luật công chứng của các tổ chức HNCC sẽ gia tăng tính răn đe, giảm thiểu hành vi vi phạm, đảm bảo công bằng xã hội, duy trì hiệu quả thực thi pháp luật công chứng của các tổ chức HNCC đồng thời nâng cao chất lượng QLNN.
1.4. Hình thức quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng Luận văn: Tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Đắk Lắk
Hình thức QLNN là sự biểu hiện ra bên ngoài của nội dung QLNN, thông qua những biểu hiện này chủ thể quản lý tác động đến đối tượng quản lý để đạt được những mục đích đã định trước. Như vậy, hình thức QLNN đối với các tổ chức HNCC là những biểu hiện ra bên ngoài của hoạt động quản lý của cơ quan nhà nước nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền quản lý đối với các tổ chức HNCC.
Nội dung QLNN rất đa dạng vì vậy để xác định được hình thức quản lý phù hợp với từng hoạt động, trong từng điều kiện, hoàn cảnh nhằm đem lại hiệu quả cao trong công tác QLNN là điều quan trọng. Hình thức QLNN không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của chủ thể quản lý mà phụ thuộc vào yếu tố tác động như: Nội dung và tính chất của đối tượng quản lý, điều kiện, hoàn cảnh khách quan, mục đích của quản lý, quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, việc lựa chọn hình thức QLNN phải đảm bảo các yêu cầu: Phải phù hợp với chức năng quản lý; Phải phù hợp với nội dung và tính chất của những vấn đề, nhiệm vụ cần giải quyết; Phải phù hợp với những đặc điểm của đối tượng quản lý cụ thể; Phải phù hợp với điều kiện cụ thể.
Đặc trưng của hình thức quản lý hành chính nhà nước là những hình thức pháp lý liên kết chặt chẽ với nhau trên cơ sở sự thống nhất của chức năng chấp hành và điều hành. Căn cứ vào tính chất pháp lý của hoạt động quản lý, ta phân loại thành hai hình thức chủ yếu sau:
- Hình thức pháp lý: là những hình thức QLNN trực tiếp tác động đến các đối tượng chịu sự quản lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt nghĩa vụ pháp lý;
- Hình thức không mang tính pháp lý: là những hình thức QLNN gián tiếp tác động đến các đối tượng chịu sự quản lý nhưng không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt nghĩa vụ pháp lý;
Thực tiễn QLNN cho thấy hoạt động QLNN còn có thể được tiến hành dưới những hình thức không pháp lý. Tuy nhiên, hình thức không pháp lý cũng yêu cầu chủ thể QLNN phải tiến hành hoạt động quản lý trên cơ sở pháp luật. Sự khác nhau giữa hình thức pháp lý và hình thức không pháp lý thể hiện ở chỗ hình thức pháp lý trực tiếp hoặc gián tiếp làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt những quan hệ pháp luật hành chính. Hình thức không pháp lý có thể được tiến hành trước hoặc sau hình thức pháp lý hoặc đơn giản là tạo điều kiện cần thiết cho việc tiến hành hoạt động mang tính chất pháp lý (chuẩn bị những số liệu, tài liệu cần thiết), việc kết hợp sử dụng cả hình thức pháp lý lẫn hình thức không pháp lý trong hoat động quản động quản lý là một biện pháp tối ưu.
Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của mình đối với các tổ chức HNCC, các cơ quan QLNN thực hiện rất nhiều hoạt động khác nhau và được thể hiện ra bên ngoài dưới những hình thức nhất định.
Ban hành văn bản quy phạm pháp luât: Quy phạm pháp luật là là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định, do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định trong Luật này ban hành và được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật là hình thức QLNN quan trọng nhất của các chủ thể QLNN nhằm thực hiện chức năng chấp hành và điều hành. Bằng hình thức này các cơ quan QLNN cụ thể hóa, chi tiết hóa những quy định của Hiến pháp, luật trong lĩnh vực công chứng, đồng thời thể hiện ý chí của Nhà nước tác động lên các tổ chức HNCC, làm cơ sở để các đối tượng này thực hiện luật một cách đầy đủ và đạt hiệu quả cao. Nhờ việc ban hành những văn bản quy phạm pháp luật này mà chức năng điều hành của cơ quan nhà nước được thể hiện một cách đầy đủ. Văn bản quy phạm pháp luật là công cụ để các chủ thể quản lý xác định địa vị pháp lý của đối tượng tham gia, ấn định những quy tắc xử sự chung đối với các tổ chức HNCC, quy định nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền và trách nhiệm cụ thể đối với các tổ chức HNCC và các bên tham gia vào quan hệ QLNN. Luận văn: Tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Đắk Lắk
Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật đóng vai trò quan trọng trong QLNN cho nên khi ban hành những văn bản này cần: đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục; phù hợp, thống nhất với nội dung và mục đích của các văn bản do cơ quan cấp trên ban hành; đảm bảo tính liên tục, kịp thời.
Hoạt động ban hành văn bản áp dụng quy phạm pháp luật: Văn bản áp dụng quy phạm pháp luật là văn bản thi hành của văn bản QPPL, văn bản này được ban hành trên cơ sở văn bản QPPL nhằm giải quyết các công việc liên quan đến cá nhân, tổ chức. là văn bản pháp lý mang tính cá biệt do cơ quan nhà nước, đặc biệt ở cấp cơ sở hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan này ban hành để giải quyết những vụ việc cụ thể, đối với những đối tượng cụ thể và trong những trường hợp cụ thể. Nội dung của nó là áp dụng một hay nhiều quy phạm pháp luật vào một trường hợp cụ thể, trong những điều kiện cụ thể. Đây là hình thức hoạt động chủ yếu của các cơ quan hành chính nhà nước áp dụng quy phạm pháp luật hiện hành của nhà nước để giải quyết những công việc cụ thể, đưa các quy phạm pháp luật đi vào đời sống thực tiễn. Việc ban hành văn bản áp dụng quy phạm pháp luật làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quan hệ pháp luật cụ thể đối với hoạt động của các tổ chức HNCC. Ví dụ: việc ra quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm công chứng viên là những hoạt động ban hành văn bản áp dụng pháp luật trực tiếp làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật giữa chủ thể QLNN và đối tượng quản lý. Căn cứ vào mục đích áp dụng có thể chia văn bản áp dụng quy phạm pháp luật thành 2 nhóm:
- Văn bản chấp hành pháp luật: do các cơ quan ban hành nhằm hiện thực hóa các quy định của quy phạm pháp luật tương ứng vào thực tiễn, ví dụ như: Quyết định bổ nhiệm công chứng viên, quyết định thành lập Phòng công chứng, VPCC, Giấy phép đăng ký hoạt động của VPCC…
- Văn bản bảo vệ pháp luật: các chủ thể quản lý hiện thực hóa các chế tài của quy phạm pháp luật tương ứng vào thực tiễn, ví dụ như: Quyết định thu hồi quyết định cho phép thành lập VPCC của UBND cấp tỉnh, quyết định xử phạt, xử lý vi phạm đối với tổ chức HNCC…Trên cơ sở những văn bản này, trách nhiệm hành chính của cá nhân, tổ chức có liên quan được phát sinh là cơ sở quan trọng để bảo vệ trật tự quản lý nói chung.
- Những hoạt động mang tính chất pháp lý khác là những hoạt động do các cơ quan nhà nước thực hiện trong điều kiện phát sinh tương ứng được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật nhưng chưa cần thiết hoặc không cần ban hành văn bản áp dụng pháp luật. Hoạt động này phải được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hoạt động này không dẫn đến tác động pháp lý trực tiếp nhưng gián tiếp làm phát sinh hậu quả pháp lý nhất định, ví dụ như: việc lập biên bản vi phạm hành chính là cơ sở cho việc ra quyết định xử phạt đối với cá nhân, tổ chức vi phạm. Như vậy, hoạt động mang tính tính chất pháp lý khác có thể trực tiếp làm phát sinh quan hệ pháp luật hành chính nhưng cũng có thể chỉ mang tính chất bổ trợ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật hành chính.
- Áp dụng các biện pháp tổ chức trực tiếp: Nội dung những hình thức hoạt động này không mang tính pháp lý, không mang tính chất quyền lực nhà nước, không có tính chất bắt buộc cứng rắn như các hình thức ban hành văn bản quản lý, pháp luật chỉ quy định về nguyên tắc, khuôn khổ chung chứ không quy định cụ thể về nội dung, trình tự, thủ tục nhằm tạo điều kiện cho chủ thể có quyền được lựa chọn biện pháp thực hiện để bảo đảm tính chủ động, sáng tạo của các cơ quan quản lý.
Những hoạt động này rất đa dạng và phong phú về hình thức tổ chức, như: hoạt động nghiên cứu, tổng kết và phổ biến những kinh nghiệm, tổ chức hội thảo, hội nghị tổng kết, lấy ý kiến, buổi tập huấn,…. Tuy kết quả của hoạt động này không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật, chúng lại đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng công tác tổ chức quần chúng, phổ biến kinh nghiệm, pháp luật. Thông qua đó, các chủ thể quản lý kiểm tra, hướng dẫn các đối tượng quản lý trong việc thực hiện pháp luật, cung cấp thông tin, tư liệu tuyên truyền, giải thích pháp luật, tổng kết kinh nghiệm công tác thực hiện pháp luật.
Những tác động về nghiệp vụ kỹ thuật: Đó là những hoạt động dung kiến thức nghiệp vụ, áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào quá trình quản lý hành chính nhà nước. Những hoạt động này không mang tính chất pháp lý mà tùy thuộc vào điều kiện quản lý, điều kiện khoa học kỹ thuật. Hình thức này rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả QLNN cũng như trong việc cải cách nền hành chính quốc gia. Đặc biệt đối với hoạt động các tổ chức HNCC trong giai đoạn khoa học công nghệ ngày càng phát triển như hiện này thì việc áp dụng công nghệ thông tin, máy móc tự động để lưu trữ, quản lý hồ sơ, chia sẻ hệ thống dữ liệu…ngày càng được áp dụng rộng rãi, đem lại hiệu quả cao cho công tác QLNN Những tác động về nghiệp vụ kỹ thuật không chỉ đóng vai trò quan trọng trong quá trình làm cho bộ máy quản lý ngày càng tinh giản mà còn giúp nâng cao hiệu suất QLNN, đảm bảo cho công tác này diễn ra nhanh chóng, hiệu quả và chính xác.
1.5. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng ở nước ngoài. Luận văn: Tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Đắk Lắk
Vai trò quản lý của Nhà nước là vô cùng quan trọng, góp phần điều tiết, định hướng hoạt động công chứng diễn ra đúng, hiệu quả. QLNN là hoạt động của chủ thể quản lý là các cơ quan nhà nước thực thi quyền lực nhà nước nhằm duy trì và phát triển trật tự xã hội theo mục tiêu và định hướng của Nhà nước, thông qua việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, tổ chức thực hiện và cơ chế đảm bảo việc thực thi pháp luật bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Mặc dù không can thiệp trực tiếp vào hoạt động công chứng nhưng Nhà nước vẫn có những cách thức quản lý thông qua việc tổ chức cơ quan quản lý, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm đối với loại hình hoạt động mang tính đặc thù này; đưa công chứng trở thành một cơ chế bảo đảm an toàn pháp lý đáng tin cậy cho cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp tham gia vào hoạt động công chứng trong điều kiện các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại ngày càng đa dạng, phong phú và phức tạp.
Thứ nhất, về cơ quan quản lý: Bộ Tư pháp là cơ quan QLNN cao nhất về công chứng, dưới đó là nhiều cấp độ cho đến ở địa phương. Các cơ quan này chịu trách nhiệm giám sát và chỉ đạo các tổ chức HNCC và các tổ chức xã hội- nghề nghiệp của công chứng viên hoạt động theo quy định của pháp luật, giám sát việc thi hành công vụ của công chứng viên và công chứng viên tập sự. Ở Đức, mọi công chứng viên phải chịu sự giám sát của Chánh án cấp quận/huyện có thẩm quyền. Cụ thể là, các hồ sơ hành nghề và hoạt động hành nghề của công chứng viên còn phải được kiểm tra bởi cơ quan giám sát có thẩm quyền [39]. Việc bất cẩn và không tuân thủ luật pháp có thể dẫn đến các chế tài kỷ luật và các trách nhiệm pháp lý khác đối với công chứng viên.
Tây Ban Nha, Tổng cục Quản lý Đăng ký và Công chứng là cơ quan trực thuộc Bộ Tư pháp, có chức năng quản lý đăng ký và quản lý công chứng. Theo đó, cơ quan này có nhiệm vụ dự thảo các quy chế cần thiết để tuân thủ Luật Công chứng và các quy chế hoặc lệnh để thực thi; giải quyết các nội dung tham vấn và nghi ngờ của Hội đồng Quản trị các Đoàn Công chứng hoặc công chứng viên; ra các quyết định phù hợp trong các vấn đề thuộc thẩm quyền; giải quyết các khiếu nại đối với các quyết định của Hội đồng Quản trị không thừa nhận các nội dung công chứng; thực hiện hoạt động đăng ký, thanh tra và giám sát của các VPCC.
Thứ hai, về công tác thanh tra, kiểm tra: Thời hạn thanh kiểm tra, nội dung, đối tượng, phạm vi thanh kiểm tra… hầu hết được quy định rõ ràng trong pháp luật công chứng của từng nước. Công tác kiểm tra, thanh tra được tiến hành theo định kỳ, thường xuyên hoặc có thể đột xuất hoặc khi có khiếu nại, tố cáo do công dân phản ánh để kịp thời có những quyết định điều chỉnh, xử lý những thiếu sót và hành vi vi phạm. Hoạt động kiểm tra, thanh tra này thường có sự phối hợp giữa cơ quan tự quản với cơ quan QLNN. Ví dụ như ở Ba Lan, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể đích thân hoặc thông qua Chánh án Tòa Thượng thẩm, Chánh án các Tòa cơ sở hoặc chỉ định người thực hiện kiểm tra hoạt động của công chứng viên và các cơ quan đại diện [39]. Luận văn: Tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Đắk Lắk
Thứ ba, về việc xử lý vi phạm: Pháp luật các nước đều quy định liệt kê cụ thể các hành vi vi phạm trong luật. Một số hành vi bị nhiều pháp luật nhiều nước cùng coi là vi phạm pháp luật công chứng, ví dụ như hành vi làm việc tại hơn hai cơ quan công chứng cùng một lúc; thực hiện công chứng cho những đối tượng không được phép; cạnh tranh không lành mạnh với các công chứng viên hoặc tổ chức HNCC khác, thu phí công chứng sai quy định…Tùy tính chất, mức độ vi phạm mà công chứng viên phải chịu trách nhiệm tương ứng. Ở Pháp, cùng với một hành vi vi phạm công chứng viên có thể bị áp dụng hình phạt nặng hơn so với công dân bình thường, lý do xuất phát từ vị trí pháp lý của công chứng viên là ủy viên công quyền, là người hiểu biết pháp luật và là người đảm bảo cho các yêu cầu an toàn cho các giao dịch pháp lý. Công chứng viên, công chứng viên tập sự phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do mình gây ra trong quá trình hành nghề, bất kể lỗi cố ý hay vô ý.
Pháp luật ở mỗi quốc gia đều có quy định khác nhau nhằm thực hiện hoạt động QLNN đối với các tổ chức HNCC, tuy nhiên nhìn chung, những quy định này đều nhằm hướng đến các mục tiêu sau:
- Điều chỉnh hoạt động của các tổ chức HNCC ổn định, phát triển tuântheo định hướng của Nhà nước.
- Đảm bảo tính hợp pháp, tính xác thực của văn bản công chứng, tạo hành lang pháp lý an toàn, phòng ngừa giảm thiểu rủi ro tranh chấp.
- Đảm bảo cho các tổ chức này hoạt động đúng pháp luật, cung cấp dịch vụ công chứng hiệu quả, chất lượng cao.
Tiểu kết Chương 1
Công chứng là một trong những hoạt động bổ trợ tư pháp, giúp đảm bảo tính an toàn pháp lý đối với các giao dịch dân sự, thương mại, đặc biệt là các giao dịch chuyển quyền liên quan đến các tài sản có giá trị lớn…Hoạt động của công chứng vừa mang tính công quyền vừa mang tính chất dịch vụ công. Công chứng viên hoạt động độc lập và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Hoạt động công chứng nói riêng và các tổ chức HNCC nói chung đóng một vai trò quan trọng, không thể thiếu trong đời sống kinh tế – xã hội của Việt Nam hiện nay. Nhà nước phải thực hiện chức năng quản lý của mình đối với hoạt động này nhằm duy trì hoạt động công chứng diễn ra đúng pháp luật, an toàn và hiệu quả. Thông qua việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến hoạt động công chứng, cơ quan nhà nước ở trung ương đóng vai trò vừa xây dựng thể chế, chính sách pháp luật, vừa có những biện pháp nhằm đảm bảo hoạt động của các tổ chức HNCC và các cá nhân tổ chức có liên quan tuân thủ thi hành. Chính phủ, Bộ Tư pháp, UBND cấp tỉnh và Sở Tư pháp chịu trách nhiệm trong việc thực hiện QLNN về công chứng, từ việc: xây dựng, ban hành quy định pháp luật, chính sách phát triển về công chứng; tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật và tổ chức thực thi pháp luật; hoàn thiện nâng cao tiêu chuẩn công chứng viên và tiêu chuẩn thành lập VPCC; thực hiện thanh tra, kiểm tra hoạt động của các tổ chức HNCC để kịp thời phát hiện, xử lý vi phạm; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ của đội ngũ công chứng viên, cán bộ tư pháp và chuyên viên pháp lý của các cơ quan nhà nước nhằm nâng cao khả năng giải quyết, xử lý hồ sơ công chứng… Qua đó, từng bước hiện đại hóa hoạt động công chứng hoàn thành mục tiêu xã hội hóa hoạt động công chứng, từng bước thực hiện thành công chủ trương cải cách hành chính, cải cách tư pháp tạo điều kiện phát triển kinh tế-xã hội tiệm cận với sự phát triển của thế giới. Luận văn: Tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Đắk Lắk
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: