Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Di sản văn hóa hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Pháp luật về Di sản văn hoá ở Việt Nam hiện nay dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về di sản văn hóa Việt Nam
3.1.1. Tạo lập môi trường pháp lý đầy đủ trong bảo tồn, tôn tạo di sản văn hóa Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Di sản văn hóa
Nội dung của Pháp luật về di sản văn hoá được coi là hoàn thiện phải đáp ứng được các tiêu chuẩn cơ bản sau đây:
Có nội dung phù hợp với quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm dân chủ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực văn hoá…thể hiện trong các nghị quyết của Đảng.
Phù hợp với các điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của Việt Nam, tính phù hợp của pháp luật về di sản văn hoá thể hiện sự tương quan với sự phát triển của nền kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội ở mỗi thời kỳ phát triển, phản ánh đúng trình độ phát triển của nền kinh tế xã hội của đất nước. Một trong các giải pháp để nâng cao chất lượng của hoạt động xây dựng pháp luật nói chung và pháp luật về di sản văn hoá nói riêng là phải bảo đảm các quy định của luật phải cụ thể, dễ hiểu để giảm bớt tình trạng có quá nhiều văn bản hướng dẫn thi hành. Vì vậy, việc hoàn thiện các quy định về di sản văn hoá phải đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, cụ thể, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan nhà nước tổ chức thực hiện thẩm quyền của mình trong quản lý di sản văn hoá phi vật thể và nhân dân trong quá trình thụ hưởng các quyền văn hoá được Hiến pháp ghi nhận.
Phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Tiêu chí này đòi hỏi pháp luật về di sản văn hoá phải bảo đảm tương thích với với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia và có nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của các nước có liên quan. Đặc biệt phải phù hợp với Công ước UNESCO về nội dung của di sản văn hoá .
Với những lý do trên, môi trường pháp lý đầy đủ trong bảo tồn, tôn tạo di sản văn hoá thể hiện việc nội dung đảm bảo các nguyên tắc sau đây:Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Di sản văn hóa
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Luật
Một là, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và xu hướng toàn cầu hóa UNESCO khi xây dựng Công ước đã xác định mục đích cơ bản là bảo vệ di sản văn hóa; đảm bảo sự tôn trọng đối với di sản văn hóa của các cộng đồng, các nhóm người và các cá nhân có liên quan; nâng cao nhận thức ở cấp địa phương, quốc gia và quốc tế về tầm quan trọng của di sản văn hóa, để từ đó đảm bảo sự tôn trọng lẫn nhau trong lĩnh vực này; tạo ra sự hợp tác và hỗ trợ quốc tế. Theo đó, việc bảo vệ và phát huy sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa đảm bảo trên nguyên tắc: tôn trọng quyền con người và các quyền tự do cơ bản, nguyên tắc chủ quyền, bình đẳng phẩm giá và tôn trọng tất cả các nền văn hóa; đoàn kết và hợp tác quốc tế; bổ trợ của các khía cạnh kinh tế và văn hóa của phát triển; phát triển bền vững, tiếp cận công bằng; cởi mở và cân bằng. Do đó, hệ thống pháp luật về di sản văn hóa của Việt Nam cần có những quy định tương thích và hướng tới các mục tiêu chung của UNESCO.
Hai là, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo tồn và phát huy di sản văn hoá.
Từ Đề cương văn hóa năm 1943 của Đảng cộng sản Việt Nam, đến Sắc lệnh số 65/SL ngày 23-11-1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tới Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và sau là Nghị quyết sô 33-NQ/TW năm 2014 về xây dựng và phát triển văn hóa , con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đều thể hiện rõ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Chính phủ Việt Nam nhận thức rõ rằng, trong xu thế toàn cầu hoá về kinh tế và quốc tế hoá về văn hoá, các quốc gia đang phát triển có cơ hội tận dụng, các thành tựu khoa học kỹ thuật trong đó có thành tựu công nghệ thông tin và viễn thông do quá trình này mang lại để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá dân tộc. Mặt khác quá trình toàn cầu hoá cũng đang tạo ra những nguy cơ làm biến dạng nền văn hoá dân tộc, hạn chế tính đa dạng, phong phú của di sản văn hoá của các dân tộc trên thế giới.
Với nhận thức đó, Chính phủ Việt Nam coi vấn đề bảo vệ và phát huy di sản văn hoá là một trong những nội dung quan trọng của Luật di sản văn hoá năm 2001.Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Di sản văn hóa
Mỗi quốc gia khi hoạch định chính sách về văn hóa đều đặt ra những mục tiêu cụ thể trên cơ sở điều kiện và bối cảnh thực tế của đất nước. Nhưng các nhà nghiên cứu về chính sách văn hóa và quản lý văn hóa nghệ thuật quốc tế cũng đã thống nhất đưa ra một số mục tiêu cơ bản mà quốc gia nào khi tiến hành xây dựng chính sách văn hóa cũng phải tính đến. Đó là những nội dung cơ bản sau: Giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc; ủng hộ và tạo điều kiện cho sự phát triển khả năng sáng tạo và hình thành các loại hình nghệ thuật mới; Tạo điều kiện cho nhân dân được tham gia vào hoạt động văn hóa, kể cả việc hưởng thụ, sáng tạo, sản xuất phát hành và tiêu thụ các sản phẩm văn hóa; Phát triển văn hóa ở tất cả các khu vực địa lý trên toàn lãnh thổ quốc gia; Phát huy sự đa dạng về văn hóa; Nâng cao chất lượng văn hóa nghệ thuật bảo tồn và phát huy di sản văn hóa; Phát triển ngành công nghiệp văn hóa và chú ý đến khía cạnh kinh tế của văn hóa; Đảm bảo quyền tự do sáng tạo; Bảo vệ bản quyền và sở hữu trí tuệ; Chính sách văn hóa góp phần bảo vệ đạo đức, chính trị và tự do tín ngưỡng; Chính sách văn hóa quốc gia phải là một bộ phận cấu thành trong toàn bộ hệ thống chính sách phát triển quốc gia; Tăng cường giao lưu văn hóa quốc tế.
Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa của đất nước, hệ thống pháp luật về di sản văn hóa phải cụ thể hóa và pháp điển hóa thật chính xác các chủ trương, đường lối của Đảng về văn hóa nói chung và về di sản văn hóa nói riêng.
Ba là, đảm bảo mục tiêu định hướng bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di sản văn hóa phải bảo đảm tính nguyên gốc của di sản, không được làm sai lệch các giá trị và đặc điểm vốn có của nó.
Thứ hai, bảo tồn, tôn tạo phải gắn với phát huy những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của di tích, phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của địa phương, sự phát triển của các ngành hữu quan.
Thứ ba, tạo lập sự hài hòa giữa phát triển kinh tế, quá trình đô thị hóa với việc bảo vệ môi trường thiên nhiên, môi trường kiến trúc bao quanh di tích.Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Di sản văn hóa
Thư tư, bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di sản là trách nhiệm của toàn xã hội, trong đó nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Vì thế chủ trương xã hội hóa các mặt hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di tích phải được triển khai rộng khắp trong toàn xã hội.
Để thực hiện được các quan điểm, định hướng, mục tiêu bảo tồn và phát huy giá trị của di tích theo tinh thần trên, cần thiết phải có một hệ thống chính sách đồng bộ thống nhất và các giải pháp kinh tế – xã hội phù hợp với tình hình phát triển mới của đất nước trong thời kỳ hội nhập nhằm thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước, huy động tối đa các nguồn nhân lực, vật lực, nguồn vốn trong nước và quốc tế cho việc tu bổ, tôn tạo di tích, làm cho di tích thực sự trở thành một trung tâm sinh hoạt văn hóa cộng đồng, là nguồn tài nguyên du lịch, những sản phẩm văn hóa-du lịch thực sự có sức hút đối với du khách. Để công tác quản lý Nhà nước đối với di sản văn hóa đạt hiệu quả cao, phát huy tốt những giá trị của di sản văn hóa góp phần phát triển kinh tế-xã hội của đất nước ta trong thời kỳ đổi mới và hội nhập hiện nay, chúng ta cần phải đổi mới cơ chế, chính sách về quản lý Nhà nước đối với di sản văn hoá. Ở Việt Nam hiện nay, việc quản lý Nhà nước về di sản văn hóa là sự tác động có tổ chức và có định hướng của chủ thể (các cơ quan quản lý nhà nước) đến khách thể (cộng đồng xã hội) trong lĩnh vực bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể: Phát huy giá trị di sản văn hóa vì lợi ích của toàn xã hội; Phát huy truyền thống tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam; Góp phần sáng tạo những giá trị văn hóa mới, làm giàu kho tàng di sản văn hóa Việt Nam và mở rộng giao lưu văn hóa quốc tế (Điều 12, Luật di sản văn hóa 2001, sửa đổi bổ sung năm 2009). Điều đó cũng có nghĩa là bảo tồn di sản văn hóa phải gắn chặt với phát triển, phục vụ thiết thực các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội mà mục tiêu tối cao là “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh”.
Bốn là, đảm bảo tiêu chí về mặt hình thức, bao gồm:Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Di sản văn hóa
Thứ nhất, tính toàn diện: đây là tiêu chuẩn cơ bản thể hiện mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật và là tiêu chí hàng đầu để đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về di sản văn hoá phi vật thể. Tính toàn diện của pháp luật về di sản văn hoá phi vật thể đòi hỏi pháp luật về các biện pháp phải có đầy đủ các chế định pháp luật phù hợp với đặc trưng của các biện pháp và thể hiện thống nhất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tương ứng, đồng thời trong từng chế định pháp luật đó phải có đầy đủ các quy phạm pháp luật cần thiết.
Thứ hai, tính thống nhất: tính thống nhất đòi hỏi giữa các bộ phận của pháp luật về di sản văn hoá phi vật thể không được trùng lặp, chồng chéo hoặc mâu thuẫn với nhau. Tính thống nhất thể hiện ở hai mức độ: Ở cấp độ chung, đó là sự thống nhất giữa các quy định của pháp luật về di sản văn hoá phi vật thể với các quy định khác hệ thống pháp luật hiện hành. Ở cấp độ cụ thể,tính thống nhất thể hiện sự không mâu thuẫn, trùng lặp, chồng chéo trong mỗi quy định pháp luật về di sản văn hoá phi vật thể với nhau.
Thứ ba, tính ổn định: với tư cách là một hiện tượng xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng, pháp luật nói chung và pháp luật về di sản văn hoá phi vật thể nói riêng bao giờ cũng có tính ổn định tương đối và đòi hỏi những điều kiện cho sự ổn định. Đó là sự dự báo chính xác trạng thái, xu hướng vận động, phát triển của các quan hệ xã hội liên quan đến bảo vệ và quản lý di sản văn hoá phi vật thể từ đó xác định mục đích điều chỉnh, mức độ khái quát của các quy định, giới hạn phạm vi tác động của văn bản cho thích hợp.Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Di sản văn hóa
Thứ tư, bảo đảm tương thích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia và định hướng XHCN. Đây là quan điểm chỉ đạo trong Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã nêu tại Nghị quyết số 48-NQ/TW.
Thứ năm, hình thức văn bản: một trong những yêu cầu, giải pháp để nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật là “kịp thời nâng các pháp lệnh, nghị quyết… lên thành luật khi có đủ điều kiện”.
Thứ sáu, kỹ thuật lập pháp: kỹ thuật lập pháp là một vấn đề rộng lớn, phức tạp. Trình độ, kỹ thuật xây dựng pháp luật về pháp luật về di sản văn hoá thể hiện ở: hoạt động xây dựng pháp luật phải mang tính chuyên nghịêp, các chủ thể tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật phải có hiểu biết sâu sắc về hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về di sản văn hoá nói riêng. Ngoài ra, kỹ thuật xây dựng văn bản quy phạm pháp luật còn đuợc thể hiện ở trình độ sử dụng ngôn ngữ và cách hành văn. Ngôn ngữ pháp lý phải đảm bào tính cô động, logic, chính xác và một nghĩa, hành văn phải ngắn gọn, rõ ràng, khách quan và dễ hiểu. Xây dựng hệ thống quy phạm pháp luật có chất lượng tốt, có sức sống lâu bền, có tính phổ thông đại chúng, mọi người dễ tiếp cận và thực hiện trong cuộc sống, ít phải sửa đổi phụ thuộc rất nhiều vào trình độ, kỹ thuật xây dựng pháp luật nói chung…
3.1.2. Bảo đảm ứng xử với di sản văn hóa nghiêm túc, thận trọng Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Di sản văn hóa
Toàn cầu hóa là quá trình tất yếu không thể chối bỏ, mà ngược lại, chúng ta phải chủ động hội nhập để tranh thủ những cơ hội mà nó đưa lại nhằm đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Nhưng, các cơ hội dù là thuận lợi nhất vẫn có khả năng bị bỏ lỡ nếu chúng ta không có nguồn nội lực đủ mạnh, hoặc không đào tạo được nguồn nhân lực có chất lượng cao, cả về mặt thể chất lẫn tinh thần. Cũng có nghĩa là, chúng ta không nên quá ỷ lại vào nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có và nguồn lao động dồi dào nhưng giản đơn với giá công lao động thấp, không phù hợp với yêu cầu của quá trình toàn cầu hóa về kinh tế và hội nhập quốc tế về văn hóa. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các quốc gia chỉ có thể xây dựng nguồn nội lực đủ mạnh trên cơ sở một nền tảng tinh thần thật vững chắc, đó là bản sắc văn hóa dân tộc và tính thống nhất trong đa dạng văn hóa. Điều này càng khẳng định vai trò, vị trí và tầm quan trọng của di sản văn hóa trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Xuất phát từ quan điểm phát triển bền vững, có thể thấy, những yếu tố cần quan tâm là: tốc độ tăng trưởng kinh tế mà theo đó là mức độ cải thiện điều kiện sống, tiếp theo là yếu tố văn hóa mà cốt lõi là bản sắc văn hóa dân tộc và cuối cùng là yếu tố môi trường sinh thái – nhân văn. Phát triển kinh tế, cải thiện điều kiện sống chỉ đáp ứng nhu cầu của con người về mặt sinh học, tạo cho họ thể chất tốt, nhưng con người ta để sống, lao động sáng tạo và cống hiến vẫn rất cần được giáo dục, đào tạo, nâng cao năng lực sáng tạo, sự phong phú, đa dạng trong đời sống tinh thần. Đây chính là những nhân tố quyết định nguồn nhân lực có chất lượng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cũng như tạo ra bản lĩnh cho cả dân tộc bước vào hội nhập quốc tế mà không sợ bị hòa tan.
Trước những thách thức do toàn cầu hóa đặt ra vẫn tồn tại hai xu hướng giải quyết, với hai hệ quả tích cực và tiêu cực kèm theo. Thứ nhất, nếu chúng ta đủ bản lĩnh vững vàng, có chính sách đúng đắn và giải pháp phù hợp để khắc phục thì thử thách hoàn toàn có thể biến thành cơ hội. Thứ hai, một khi không vượt qua được thử thách thì không những không tranh thủ được các cơ hội để phát triển, mà còn hứng chịu nhiều tác động tiêu cực, trong đó, di sản văn hóa sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng do ô nhiễm môi trường, do các dự án phát triển kinh tế thái quá làm cho bị biến dạng, bị xuống cấp…
Để hội nhập quốc tế mà không bị hòa tan, phát triển nhưng vẫn bảo vệ được bản sắc văn hóa dân tộc, cần phải có phương pháp tiếp cận tổng thể và toàn diện để có được nhận thức đúng đắn, toàn diện về vấn đề phát triển – tiền đề cho việc xử lý hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển.Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Di sản văn hóa
Vì vậy, trước những thuận lợi và khó khăn, trước khả năng và hạn chế, di sản văn hóa rất cần được ứng xử nghiêm túc, thận trọng – bảo vệ, phát huy bằng sức mạnh và trách nhiệm của từng người dân, của cộng đồng, của cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đoàn thể, của các cơ quan thực thi pháp luật; bằng các hoạt động quản lý và nghiệp vụ, bằng cơ chế chính sách tương ứng.
Có thể khẳng định, những giá trị bền vững của di sản văn hóa chỉ thực sự hấp dẫn và trở thành những sản phẩm văn hóa độc đáo, có ý nghĩa, trở thành tiềm năng du lịch bền vững, nếu chúng ta biết phát huy những giá trị đích thực, những thế mạnh, mà không bị lôi cuốn vào xu thế thương mại hóa tầm thường. Đồng thời, cũng rất cần có cách tiếp cận mới về công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa nhằm không chỉ bảo đảm sự tồn tại của chính di sản văn hóa trước những ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thị trường, mà còn đưa hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa trực tiếp có những đóng góp vào sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
3.2. Giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện pháp luật về di sản văn hóa
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật di sản văn hóa
Rà soát, hoàn hiện các quy định pháp luật về di sản văn hóa
Hơn 16 năm qua là quãng thời gian mà việc xây dựng hệ thống pháp luật về di sản văn hóa đã tạo được bước chuyển biến rõ rệt; hàng loạt văn bản pháp luật về lĩnh vực này đã được ban hành, tạo lập hành lang pháp lý thuận lợi cho các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, cụ thể:Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Di sản văn hóa
Để thể chế hóa tinh thần của Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), cuối năm 1998, việc soạn thảo Luật di sản văn hóa đã được triển khai. Luật được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2001. Để quy định chi tiết thi hành Luật di sản văn hóa, một hệ thống văn bản dưới Luật đã được ban hành, gồm: 02 Nghị định của Chính phủ; 02 Quyết định và 01 Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; 01 Thông tư, 09 Quyết định (xem chi tiết Phụ lục 2).
Ngày 18 tháng 6 năm 2009, Luật sửa đổi, bổ sung tại một số điều của Luật di sản văn hóa được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII kỳ họp thứ 5 thông qua. Theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa đã được khẩn trương nghiên cứu, xây dựng, đến nay hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa theo gồm 01 Luật (bao gồm cả Luật sửa đổi bổ sung), 5 Nghị định của Chính phủ, 03 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 10 Thông tư (xem chi tiết Phụ lục 3) điều chỉnh trực tiếp hoạt động di sản văn hóa.
Tuy vậy, để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật về di sản văn hóa, trong thời gian tới, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần tập trung giải quyết một số việc sau đây:
- Kiến nghị với Chính phủ và Quốc hội cho sửa đổi Luật Di sản văn hoá để đưa vào Luật một chương hoặc một điều quy định rõ, cụ thể về các loại hình mới về di sản tư liệu; về quản lý di sản thế giới làm căn cứ pháp lý cho công tác quản lý, bảo vệ và phát huy gia trị của di sản văn hóa; Kiện toàn xây dựng đồng bộ với các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ di sản, như quy định của Luật Du lịch, Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật Đa dạng sinh học, Luật Thủy sản, Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi hành các văn bản Luật nói trên;Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Di sản văn hóa
- Tiếp tục đẩy mạnh việc tham mưu xây dựng các Nghị định của Chính phủ, thông tư của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch. Trước mắt, việc tham mưu để Chính phủ ban hành Nghị định số 109/2017/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2017 của Chính phủ quy định về bảo vệ và quản lý Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới ở Việt Nam là kết quả nỗ lực và bước tiến trong việc hoàn thiện pháp luật về di sản văn hóa cần hướng dẫn chi tiết, cụ thể hóa đưa nội dung đi vào thực tiễn;
- Việc xây dựng các nghị định của Chính phủ, thông tư của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hướng dẫn/quy định chi tiết thi hành Luật di sản văn hóa, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa, nhất là văn bản pháp luật điều chỉnh về các lĩnh vực: xét tặng danh hiệu Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú và chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân; quản lý di sản tư liệu, bộ máy tổ chức quản lý di tích và phân cấp quản lý di tích; định mức chi phí cho các hoạt động tu bổ di tích, bảo tàng…
Tiếp tục triển khai Chương trình mục tiêu phát triển văn hóa, trong đó về lĩnh vực di sản văn hóa bổ sung nội dung công tác hoàn thiện pháp luật về di sản văn hóa.
Thu hút sự tham gia của xã hội vào thực hiện pháp luật về di văn hóa sản – Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về di sản văn hóa:
Công tác phổ biến, giáo dục, đưa pháp luật về di sản văn hóa vào thực tiễn đời sống, bên cạnh nhiều thành tích đã đạt được, cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế. Tình trạng các tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu hoặc tham gia hoạt bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, kể cả các tổ chức, cá nhân trong ngành di sản văn hóa, chưa nắm vững, chưa cập nhật pháp luật về di sản văn hóa là khá phổ biến. Điều đó dẫn tới tình trạng nhiều tổ chức, cá nhân thực hiện công tác quản lý và tổ chức triển khai các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa gặp phải nhiều vướng mắc, thậm chí mắc sai lầm, tuy tinh thần trách nhiệm và nhiệt tình bảo vệ di sản rất cao.Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Di sản văn hóa
UNESCO rất chú ý đến các hoạt động tuyên truyền, giới thiệu về Công ước, Hướng dẫn thực hiện Công ước và tổ chức, phát động những cuộc vận động tới các nước thành viên thông qua các hội nghị, hội thảo, tập huấn hoặc cử chuyên gia hỗ trợ cho các nước thành viên. Cách thức tuyên truyền của UNESCO cũng rất đa dạng, mở các trang website, tạo ra các sản phẩm nghe nhìn bằng nhiều chủng loại, nhiều thứ tiếng. Tiêu biểu cho hoạt động này là hàng năm UNESCO tổ chức tuyên truyền cho Ngày Di sản Thế giới và Ngày Quốc tế Bảo tàng để nhắc nhở mọi người trên thế giới cùng chung sức bảo vệ di sản thế giới.
Chủ đề hoạt động trọng tâm của Ngày Di sản Thế giới và Ngày Quốc tế Bảo tàng thay đổi theo từng năm và trở thành trung tâm hoạt động của cộng đồng quốc tế, đồng thời là cơ hội để gặp gỡ công chúng, góp phần nâng cao nhận thức và cảnh báo với họ về những thách thức đang phải đối mặt trên các lĩnh vực hoạt động chuyên ngành này.
- nước ta, ngày 24 tháng 02 năm 2005 Thủ tướng chính phủ đã ký Quyết định lấy ngày 23 tháng 11 hàng năm làm Ngày Di sản văn hóa Việt Nam. Từ đó đến nay, hàng năm chúng ta đều tổ chức các hoạt động đề cao di sản của đất nước. Tuy nhiên, chúng ta chưa có hướng dẫn cụ thể các hoạt động như UNESCO. Vì vậy, việc tổ chức chưa đều khắp, các hoạt động vẫn mang tính tự phát: Ngày Di sản Thế giới, chúng ta chưa có hoạt động gì; Ngày Quốc tế Bảo tàng được tổ chức theo hướng dẫn của ICOM. Có lẽ chúng ta nên suy nghĩ để điều chỉnh các hoạt động tuyên truyền về di sản văn hoá nối chung và pháp luật về di sản văn hóa nói riêng cho thống nhất với các hoạt động của UNESCO.
Trong đời sống hiện nay, các phương tiện truyền thông đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Để giáo dục, tuyên truyền, quảng bá về xã hội hóa hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, cần có sự phối hợp tốt hơn nữa với các cơ quan truyền thông đại chúng để xây dựng và triển khai hiệu quả các chương trình giáo dục về xã hội hóa hoạt động bảo tồn di sản văn hóa.Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Di sản văn hóa
Về nội dung giáo dục, trước hết cần tập trung vào giáo dục pháp luật về di sản văn hóa. Căn cứ vào đối tượng mà lựa chọn nội dung thích hợp. Ví dụ, khi phổ biến, giáo dục về luật di sản văn hóa cho các đối tượng là cán bộ cơ sở thì phải nhấn mạnh vào nội dung thế nào là di sản văn hóa, những quy định thuộc về trách nhiệm của người dân, của cán bộ cơ sở, ai có thẩm quyền giải quyết đề nghị của cơ sở, đầu mối cần liên hệ để được tư vấn, hướng dẫn… Việc giáo dục pháp luật về di sản văn hóa phải làm thường xuyên hàng năm, bằng nhiều hình thức thích hợp. Cùng với việc giáo dục pháp luật di sản văn hóa thì việc giáo dục di sản văn hóa, đặc biệt là cho thế hệ trẻ/tuổi trẻ học đường, đã được xúc tiến ở các trường học. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Bộ Giáo dục, Đào tạo đã có Hướng dẫn 73/HD-BGDĐT-BVHTTDL sử dụng di sản văn hóa trong dạy học ở trường phổ thông, trung tâm giáo dục thường xuyên, với mục đích sử dụng di sản văn hóa trong dạy học ở trường phổ thông, trung tâm giáo dục thường xuyên nhằm hình thành và nâng cao ý thức tôn trọng, giữ gìn, phát huy những giá trị của di sản văn hóa; rèn luyện tính chủ động, tích cực, sáng tạo trong đổi mới phương pháp học tập và rèn luyện; góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, phát hiện, bồi dưỡng năng khiếu, tài năng của học sinh. Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện” đã đạt được hiệu quả cao.
Đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về di sản văn hóa thông qua các hình thức tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, thông qua chương trình giáo dục học đường, tổ chức tập huấn cho các đối tượng trực tiếp tham gia hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, xuất bản sách báo, tài liệu tuyên truyên pháp luật về di sản văn hóa…
Một vấn đề cần lưu ý là các chương trình giáo dục về pháp luật di sản văn hóa cần được nghiên cứu xây dựng với nội dung đa dạng, có chiều sâu, hình thức phù hợp với các đối tượng để phổ biến đến tận người dân ở mọi địa bàn trên toàn quốc, nhất là những vấn đề đã và đang thu hút được sự quan tâm của dự luận xã hội như: tu bổ di tích, chống vi phạm di tích, bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể v.v…
Tích cực phổ biến các mô hình xã hội hóa hoạt động tốt để làm cơ sở học tập, nhân rộng. Tôn vinh và có hình thức khen thưởng xứng đáng đối với các tổ chức, cá nhân điển hình trong các hoạt động xã hội hóa, nhằm thiết thực động viên và tạo một phong trào rộng khắp.Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Di sản văn hóa
Sự tham gia, vai trò của cộng đồng: 71 UNESCO luôn luôn nhấn mạnh vai trò của cộng đồng trong việc bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên, trong Công ước quốc tế về bảo vệ đa dạng văn hóa (năm 2003), UNESCO khẳng định vai trò của cộng đồng trong hoạt động bảo tồn di sản văn hóa và cho rằng : “ không có văn hóa nếu không có người dân và cộng đồng”; đồng thời đánh giá cao sự tham gia tích cực và những hiểu biết sâu sắc về các giá trị di sản văn hóa của cộng đồng.
Điều 15 Công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (Năm 2003) của UNESCO yêu cầu: “ Trong khuôn khổ các hoạt động bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, mỗi quốc gia thành viên cần phải nỗ lực để đảm bảo khả năng tham gia tối đa cảu các cộng đồng, nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân đã sáng tạo, duy trì và chuyển giao loại hình di sản này và cần phải tích cực lôi kéo họ tham gia vào công tác quản lý”.
Trong quá trình phát triển, nhiều di sản đã bị trào lưu công nghiệp hóa, hiện đại hóa phá hủy. Ngay trong khi các nhà nước không quan tâm đến việc bảo tồn di sản văn hóa và thiên nhiên, cộng đồng vẫn âm thầm gìn giữ bảo tồn các di sản đó. Khi có tác động của UNESCO thông qua các Công ước, Chính phủ của các nước thành viên nhận thức đầy đủ hơn về sứ mệnh bảo tồn di sản trên đất nước mình. Dẫu có sự vào cuộc của nhà nước nhưng việc tham gia của cộng đồng vào quá trình gìn giữ bảo tồn các di sản văn hóa và thiên nhiên vẫn là điều kiện tiên quyết để di sản tồn tại cho đến ngày nay. Nếu cộng đồng không chung sức bảo vệ di sản, hoàn toàn ỷ lại vào nhà nước thì đó sẽ là một thảm họa đối với sự tồn tại của di sản văn hóa và thiên nhiên.
Chính vì vậy, UNESCO luôn đề cao vai trò của cộng đồng, trong các cuộc hội thảo, tập huấn của UNESCO và các tổ chức trực thuộc UNESCO, vai trò của cộng đồng trong việc bảo vệ di sản luôn là một chủ đề quan trọng. UNESCO cũng đã tổ chức nhiều cuộc vận động, tuyên truyền để khuyến khích cộng đồng chung tay vào hoạt động bảo vệ di sản văn hóa. Cuộc phát động di sản văn hóa trong tay thế hệ trẻ, hoặc việc xây dựng Bảo tàng Sinh thái Hạ Long tại di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long thời gian qua là một ví dụ. Chúng ta cần áp dụng sâu rộng hơn kinh nghiệm này, lôi kéo cộng đồng chung tay bảo vệ di sản văn hóa thông qua các hình thức xã hội hóa, hoặc Phong trào thi đua …Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Di sản văn hóa
Trước yêu cầu tình hình, nhiệm vụ của đất nước trong thời kỳ mới, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 36/2005/QĐ-TTg về việc lấy ngày 23 tháng 11 là Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam , nhằm phát huy truyền thống và ý thức trách nhiệm của những người làm công tác bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam, dộng viên các tầng lớp xã hội tham gia tích cực vào sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc. Nhà nước ban hành các chính sách, chủ trương nhàm huy động các nguồn lực từ cộng đồng với tinh thần « Nhà nước và nhân dân cùng làm », là chủ trương đúng đắn và phù hợp với hoàn cảnh đất nước hiện nay, nhằm trả lại cho công đồng những giá trị văn hóa mà họ đã tạo nên. Nhờ đó, nhiều hoạt động, dự án liên quan đến phát huy giá trị di sản văn hóa đã và đang được triển khai dưới hình thức xã hội hóa đã huy động được tiềm năng trí tuệ, nguồn nhân lực cũng như vật chất và tài chính của cộng đồng, các tổ chức xã hội trong nước và quốc tế tham gia đóng góp.
Công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa được tuyên truyền khá sâu rộng đến các tầng lớp nhân dân. Người dân ý thức được tầm quan trọng và lượi ích của việc bảo vệ di sản văn hóa để nâng cao mức sống cả về vất chất và tinh thần của chính cộng động mình. Việc tham gia của cộng đồng góp phần bảo tồn di sản văn hóa, đồng thời làm cho di sản văn hóa đó gắn với đời sống văn hóa của Cộng đồng.
Chỉ có dựa vào sức mạnh của cộng đồng trên cơ sở quan điểm : tự nguyện, đồng thuận, tự do, bình đẳng, cùng có lợi, thì công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa mới có thể đạt hiệu quả cao nhất và văn hóa mới trở thành động lực, sức mạnh nội sinh để phát triển đất nước như Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định.
(Thượng tá Phạm Văn Phi, Phó giám đốc Bảo tàng Quân sự Việt Nam: Tham luận Sự Tham gia của cộng đồng trong hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa những kinh nghiệm từ thực tiễn Hội Thảo khoa học Di sản văn hóa với Chiến lược phát triển bền vững 2017).
3.2.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật di sản văn hóa Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Di sản văn hóa
Nâng cao năng lực thực thi pháp luật về di sản văn hóa
Việc quản lý các hoạt động của di sản – nâng cao năng lực thực thi pháp luật về di sản văn hóa đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao, hướng tới tính chuyên nghiệp để đáp ứng yêu cầu quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị của di sản đạt kết quả cao thì yếu tố con người là vô cùng quan trọng, chỉ khi nào chúng ta có đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và những người hoạt động trong lĩnh vực này có một trình độ tương xứng, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ đặt ra thi khi đó công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản thế giới mới đạt kết quả cao. Đội ngũ cán bộ công chức, viên chức và những người hoạt động trong cơ quan quản lý di sản phải được tuyển chọn kỹ lưỡng, trên cơ sở quy hoạch cho từng vị trí làm việc, phải có trình độ chuyên môn phù hợp, được đào tạo bài bản đúng chuyên ngành và có trình độ tương ứng với nhiệm vụ được giao.
Con người là nhân tố quyết định, việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực được xem là một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng của công tác quản lý cũng như bảo tồn và phát huy giá trị của di sản đã đến lúc chúng ta cần tiêu chuẩn hóa cán bộ quản lý di tích, nhất là ở các di sản thế giới nếu không sẽ không đáp ứng được yêu cầu quản lý bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị to lớn của các di sản của Việt Nam trong tương lai.
Nếu không tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ, công nhân chuyên làm nhiệm vụ bảo tồn, tôn tạo và khai thác di sản thì không thể đáp ứng được nhiệm vụ quản lý hệ thống di sản hiện có với số lượng ngày càng nhiều cũng như yêu cầu ngày càng cao về khoa học bảo tồn và phát huy các giá trị của di tích.
Nếu không đổi mới và đa dạng hình thức đào tạo sẽ không tạo ra được nhiều chuyên gia giỏi, kỹ thuật tu bổ di sản truyền thống bị mai một và ngân sách nhà nước phải chi cho đào tạo và đào tạo lại sẽ rất lớn, là gánh nặng cho ngân sách của Nhà nước.
Hiện nay nhu cầu cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ, cán bộ kỹ thuật và cán bộ quản lý di sản còn thiếu về số lượng và những người ở các ban quản lý di tích do cộng đồng bầu ra, chủ sở hữu di tích đang làm nhiệm vụ trực tiếp trông coi di tích, thực hiện nhiệm vụ bảo tồn di tích không được đào tạo cơ bản, kể cả đào tạo ngắn hạn, tập huấn nghiệp vụ. Vì vậy, cần thiết phải có chính sách đào tạo nguồn nhân lực, xin đề xuất một số chính sách như sau:
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Di sản văn hóa
Kiện toàn cơ cấu, tổ chức và chức năng nhiệm vụ của Cục Di sản văn hoá cho phù hợp với sự phát triển đất nước và xã hội, ngoài những phòng ban chuyên môn như hiện nay thì cần có phòng pháp chế hoặc bố trí cán bộ chuyên trách về pháp luật trong các phòng quản lý chuyên môn;
Mở rộng quy mô đào tạo cán bộ chuyên môn bảo tồn bảo tàng, tuyển chọn những sinh viên có chuyên môn, có trình độ đại học về bảo tồn bảo tàng. Chọn lựa những cán bộ chuyên môn có năng lực gửi đi đào tạo ở trong nước và cả nước ngoài nhằm xây dựng được đội ngũ chuyên gia giỏi trong lĩnh vực bảo tồn, tôn tạo và khai thác di sản;
Đối với những người làm công tác quản lý di sản bất kể học các ngành sử học, khảo cổ, Hán nôm, dân tộc học, mỹ thuật, kiến trúc, xây dựng, kinh tế… bên cạnh việc bồi dưỡng các kiến thức cơ bản về chuyên môn, phải nắm vững Luật Di sản văn hóa, Luật Du lịch… các chính sách chế độ của Nhà nước đối với di sản văn hóa;
Xây dựng chính sách phù hợp đối với công nhân kỹ thuật hoạt động trong bảo tồn, tôn tạo di tích cần được huấn luyện các kỹ thuật, xếp hạng bậc thợ ngành bảo tồn và tôn tạo di tích; Đối với các nghệ nhân chuyên tham gia bảo tồn, tôn tạo di tích cần có các hình thức dạy truyền nghề cho lớp trẻ dưới sự bảo trợ của Nhà nước;Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Di sản văn hóa
Mời chuyên gia giỏi hàng năm tập huấn, bồi dưỡng kỹ thuật, kinh nghiệm cho những người làm công tác bảo tồn, tôn tạo và khai thác di tích; Các trưởng ban quản lý di tích cộng đồng và chủ sở hữu cần được tập huấn ngắn hạn về chuyên môn, Luật Di sản văn hóa và những yêu cầu về quản lý, thực hiện hoạt động bảo tồn, tôn tạo và khai thác di tích;
Tăng cường hình thức đào tạo cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ, thuyết minh… Hình thức này giúp cho cán bộ có thực tiễn, tiếp thu và vận dụng nhanh kiến thức học được vào công việc cụ thể của mình. Đồng thời cũng tiết kiệm được kinh phí đào tạo do mở lớp, tiền ăn, nghỉ, tiền đi thực tế và tận dụng được thời gian làm việc của người lao động tại di tích. Đây là hình thức đào tạo có ý nghĩa thiết thực nhất hiện nay. Đối với lĩnh vực du lịch, phải đào tạo cán bộ, nhân viên làm công tác du lịch, vừa có kiến thức, sức khỏe, vừa có văn hóa lịch thiệp, văn minh, lịch sự. Nâng cao trình độ ngoại ngữ, phong cách phục vụ tận tình chu đáo và có tính chuyên nghiệp; Không những thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, kiến thức về lịch sử, văn hóa, địa lý, kinh tế, chính trị xã hội cho đội ngũ hướng dẫn viên du lịch mà cần chú trọng bồi dưỡng phổ biến kiến thức pháp luật trong lĩnh vực dỉ sản văn hóa; Có như vậy, đội ngũ làm công tác bảo tồn và phát huy hiệu quả của di tích mới đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của công tác bảo tồn di sản cũng như phát triển du lịch hiện nay, khi văn hóa và du lịch đang ở trong thời đại hội nhập và phát triển.
Đối với địa phương (các tỉnh, thành phố)
Nghiêm túc thực hiện các quy định và cam kết với UNESCO về quản lý di sản, và các quy định của Luật Di sản văn hóa; Chỉ đạo các sở, ban ngành và các đơn vị liên quan của địa phương xây dựng và phê duyệt quy hoạch tổng thể, kế hoạch quản lý di sản văn hóa để làm căn cứ cho công tác quản lý, bảo về phát huy di sản văn hóa của địa phương lâu dài; Có cơ chế đặc thù và ưu tiên nguồn ngân sách của địa phương hàng năm cho công tác bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa , nghiên cứu, cho phép các đơn vị trực tiếp quản lý di sản được giữ lại toàn bộ hoặc một phần nguồn thu hàng năm để tái đầu tư lại cho di sản cũng như cho công tác quản lý bảo vệ di sản; Tăng cường công tác quảng bá giới thiệu di sản của địa phương ra nước ngoài và trong nước, quan tâm và lấy di sản là nền tảng cho phát triển du lịch bền vững của địa phương nói riêng của Việt Nam nối chung.Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Di sản văn hóa
Đối với các đơn vị trực tiếp quản lý di sản văn hóa
Tham mưu với UBND tỉnh hoặc UBND thành phố phê duyệt Quy hoạch tổng thể và Kế hoạch quản lý bảo vệ và phát huy di sản.
Xây dựng và tham mưu với UBND tỉnh hoặc UBND thành phố sớm phê duyệt, ban hành quy chế quản lý di sản.
Trên cơ sở các Quy hoạch tổng thể, Kế hoạch quản lý, xây dựng các dự án thành phần và kế hoạch thực hiện hằng năm trong tổng thể kế hoạch giai đoạn 2016 – 2020, trình cơ quan thẩm quyền xem xét, phê duyệt.
Kiện toàn mô hình bộ máy tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của các Ban/Trung tâm quản lý Di sản, tránh chồng chéo như Ban quản lý di sản Thành Nhà Hồ, Đô thị Hội An, Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng và Vịnh Hạ Long cần được kiện toàn lại bộ máy quản lý theo hướng tăng cường vai trò của các cơ quan này, đặc biệt là thẩm quyền xử lý những hành vi vi phạm pháp luật trong khu vực bảo vệ của các Di sản văn hóa, làm xâm hại, ảnh hưởng tới giá trị di sản.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ chuyên trách, đào tạo các chuyên gia thực thụ ở tầm quốc tế trong lĩnh vực nghiên cứu bảo tồn và phát huy di sản thế giới. Hoàn thiện theo kế hoạch đặt ra đối với việc lập “Kế hoạch quản lý tổng hợp” cho các di sản.
Triển khai thực hiện nghiêm túc và đầy đủ các cam kết, khuyến nghị của UNESCO về công tác quản lý, bảo vệ các di sản.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá di sản văn hóa ; phối hợp với ngành du lịch, các công ty lữ hành xây dựng các sản phẩm mới nhằm thu hút khách tham quan tới các khu di sản, góp phần nâng cao đời sống, tạo công ăn, việc làm cho người dân địa phương để hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật về di sản văn hóa và tệ nạn (chèo kéo, tăng giá, mất vệ sinh môi trường, ứng xử thiếu văn minh khi tham quan di sản, săn bắt động vật, khai thác lâm sản trái phép…).
Phát huy hiệu quả hoạt động của câu lạc bộ di sản văn hóa và để trao đổi kinh nghiệm quản lý nhà nước bằng pháp luật về di sản văn hóa gắn với đào tạo đội ngũ cán bộ; tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế, tham gia ngày càng sâu rộng các hoạt động quốc tế về di sản.Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Di sản văn hóa
Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật và xử lý vi phạm pháp luật về di sản văn hóa
Trước những tác động của yếu tố thời gian, thiên nhiên , khí hậu, nhiều công trình kiến trúc trong quần thể di sản văn hóa bị xuống cấp, mai một thì một thực tế đáng quan ngại đã tồn tại lâu nay là việc các vi phạm pháp luật về di sản văn hóa, nhất là trong các hoạt động liên quan tới tu bổ, tôn tạo, sử dụng di tích lịch sử – văn hóa và danh lam thắng cảnh (lấn chiếm đất đai di tích, tu bổ di tích sai nguyên tắc, lợi dụng việc phát huy giá trị di tích để trục lợi…chậm được xử lý và khắc phục kịp thời. Điều này dẫn tới việc pháp luật về di sản văn hóa chưa được nhiều tổ chức, cá nhân nghiêm chỉnh chấp hành.
Để khắc phục tình trạng này, đã đến lúc chúng ta cần:
Thực hiện việc phân cấp, phân công rõ ràng quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân đối với việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa để một mặt, các tổ chức, cá nhân nhận thức và thực thi đúng đắn trách nhiệm của mình đối với việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, mặt khác, các cơ quan có thẩm quyền có căn cứ pháp luật rõ ràng trong việc thực hiện thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm.
Cần nâng cao chất lượng và hiệu quả việc phối hợp giữa các cấp, các ngành, đặc biệt là sự phối hợp liên ngành, trong quá trình thực hiện thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về di sản văn hóa, đảm bảo phát hiện và xử lý kịp thời, dứt điểm các vi phạm, không để tồn tại việc xử lý dây dưa, kéo dài, thậm chí “rơi vào im lặng” hoặc trốn tránh trách nhiệm.Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Di sản văn hóa
Công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về di sản văn hóa cần quan tâm thực hiện đồng bộ các nội dung sau:
- Phát hiện và biểu dương, khen thưởng kịp thời các tổ chức, cá nhân nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật về di sản văn hóa.
- Phát hiện và xử lý kịp thời, thích đáng (xử phạt hành chính, truy tố trước pháp luật…) các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về di sản văn hóa.
- Coi trọng việc lựa chọn làm điểm/làm mẫu – với cả trường hợp biểu dương, khen thưởng (đối với các tổ chức, cá nhân nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật về di sản văn hóa) và xử lý vi phạm (đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp.
- Giao lưu, hợp tác quốc tế về bảo tồn di sản văn hóa
Tăng cường giao lưu, mở rộng hợp tác quốc tế về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa để nâng cao vị thế của nước ta, đồng thời đưa nước ta hòa nhập với nhịp đập của thời đại. Tổ chức nghiên cứu đánh giá tác động của việc phê chuẩn các Công ước quốc tế Việt Nam đã ký kết và tham gia và tiếp tục nghiên cứu các công ước quốc tế về bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên để đề xuất Nhà nước phê chuẩn các Công ước quốc tế như: Công ước về Bảo vệ di sản văn hóa dưới nước, Công ước bảo vệ tài sản văn hóa trong trường hợp xung đột vũ trang v.v.. Sắp xếp thứ tự ưu tiên phê chuẩn các Công ước phù hợp với yêu cầu thực tế và nguồn lực của đất nước tham gia Công ước sau khi phê chuẩn. Chủ động đóng góp vào các bản dự thảo Công ước như trước đây chúng ta đã tích cực tổ chức các cuộc trao đổi góp ý cho dự thảo Công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, Công ước về sự đa dạng của biểu đạt văn hóa, Công ước về bảo vệ di sản văn hóa dưới nước…để nội dung của các Công ước sau khi có hiệu lực tương thích hơn với hoàn cảnh nước ta.Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Di sản văn hóa
Trong khi còn chưa đủ điều kiện để phê chuẩn đầy đủ các Công ước quốc tế về di sản văn hóa và thiên nhiên, chưa đảm nhiệm các vị trí chủ chốt trong các cơ quan quốc tế về di sản văn hóa và thiên nhiên, chúng ta cần đẩy mạnh các hoạt động quốc tế. Tham gia đầy đủ các phiên họp Ủy ban liên Chính phủ của các Công ước, các hội nghị, hội thảo quốc tế về di sản văn hóa và thiên nhiên. Cử cán bộ tham gia đầy đủ các lớp tập huấn về di sản. Đăng cai tổ chức các hội nghị, hội thảo tập huấn của các tổ chức quốc tế tại Việt Nam. Thông qua các diễn đàn này chúng ta nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ, chuyên gia trong ngành, đồng thời giới thiệu cho đồng nghiệp quốc tế về bức tranh hoạt động pháp luật về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa và thiên nhiên của nước ta. Muốn thực hiện tốt giải pháp này cần chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ, chuyên gia nắm vững các hoạt động chuyên môn của ngành ở trong nước và đồng nghiệp trên thế giới để có thể giới thiệu được những hoạt động chuyên ngành mà Việt Nam đang làm và tiếp thu được các kiến thức của bạn bè trên thế giới, vận dụng vào thực tiễn Việt Nam.
Tích cực đào tạo đội ngũ cán bộ/chuyên gia đủ năng lực chuyên môn và ngoại ngữ, có kinh nghiệm trong hoạt động quốc tế để thành lập các tổ chức quốc tế của Việt Nam và ứng cử vào các chức danh của các cơ quan quốc tế về di sản văn hóa (có những chức danh như vị trí Tổng giám đốc ICCROM đòi hỏi ít nhất 3 ngoại ngữ: Anh, Pháp, Ý). Tham mưu, kiến nghị Chính phủ dành nhưng khoản ngân sách thích hợp để từng bước tham gia vào các tổ chức quốc tế theo đà tăng trưởng của kinh tế đất nước…
Tiểu kết Chương 3
Đặt di sản văn hóa trong bối cảnh đương đại để có chiến lược quy hoạch bảo tồn cho phù hợp. Vì vậy, việc bảo tồn và phát triển di sản mới tránh được những “xung đột” giữa bảo tồn và phát triển, giữa kinh tế với văn hóa, giữa truyền thống với hiện đại.
Vai trò của cơ quan trực tiếp quản lý nhà nước bằng pháp luật di sản văn hóa trong việc nghiên cứu và bảo tồn các di tích lịch sử và tài sản văn hóa là vô cùng quan trọng.Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Di sản văn hóa
Trong số những vấn đề đang đặt ra cho việc xử lý mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, giữa bảo tồn và phát triển, từ thực tiễn những năm vừa qua có thể thấy rõ tính hai mặt của giải pháp này. Một mặt, nguồn lực xã hội được huy động đem lại hiệu quả lớn về tài chính, nhưng mặt khác, do những nguyên nhân khác nhau như động cơ vụ lợi, mê tín dị đoan, thiếu hiểu biết…, việc huy động nguồn vốn đã có không ít trường hợp gây tổn hại cho di sản. Để giải quyết vấn đề này đang rất cần sự kết hợp chặt chẽ và phối hợp nhịp nhàng giữa các cấp quản lý, các nhà chuyên môn, nhà đầu tư, các tổ chức xã hội – nghề nghiệp, cơ quan truyền thông.
Tâm đắc, thống nhất với ý kiến của GS.TSKH Vũ Minh Giang – Phó Chủ tịch Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia:
Sau cùng, yếu tố quan trọng đảm bảo cho việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản có thể phục vụ hữu hiệu cho sự phát triển bền vững lại chính là những căn cứ pháp lý về vai trò và vị trí của văn hóa, di sản trong các văn kiện quan trọng và hệ thống pháp luật. Có rất nhiều điểm còn khiếm khuyết và hạn chế trong phương diện này. Đã đến lúc cần phải rà soát để có những điểm chỉnh sửa, bổ sung nhằm nâng tầm của Luật di sản và xây dựng một văn kiện quan trọng của Đảng về phát triển nguồn lực văn hóa (trong đó có di sản) trong chiến lược phát triển bên vững.
(Tham luận: Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trong chiến lược phát triển bền vững: những vấn đề đặt ra – Hội thảo khoa học Di sản văn hóa với chiến lược phát triển bền vững, tháng 3 năm 2017)
KẾT LUẬN
Di sản văn hóa là kết tinh thành quả hàng ngàn năm lao động, sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh trên thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Di sản văn hóa thể hiện rõ nét nhất bản sắc văn hóa của dân tộc; góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển, giáo dục, điều chỉnh hành vi con người, là nguồn hấp hẫn về tiềm năng du lịch. Di sản văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc ta.Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Di sản văn hóa
Sự nghiệp đổi mới và hội nhập của đất nước đòi hỏi chúng ta phải phát huy cao độ nguồn lực tinh thần của người Việt Nam về trí tuệ, đạo đức, tâm hồn; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chính sự thay đổi cơ cấu kinh tế, kết cấu xã hội, nhu cầu hưởng thụ văn hóa của tầng lớp dân cư, quá trình dân chủ hóa xã hội…là yếu tố làm thay đổi đời sống văn hóa dân tộc. Hơn nữa, trước thực trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, quần chúng có dấu hiệu suy thoái về đạo đức, lối sống, lập trường tư tưởng ngày càng phổ biến đòi hỏi chúng ta cần phải có những giải pháp nhằm ngăn chặn những biểu hiện nói trên.
Đảng và nhà nước ta luôn coi việc quản lý nhà nước về di sản văn hóa là một vấn đề quan trọng và mang tính chiến lược nên cần xây dựng và từng bước hoàn thiện các văn bản pháp luật về quản lý nhà nước đối với di sản văn hóa trong thời kỳ hội nhập hiện nay và các hoạch định chiến lược về di sản văn hóa cho tương lai. Hoàn thiện pháp luật về nhận diện di sản văn hóa, các quy định về biện pháp bảo vệ, sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật và tương thích với điều ước quốc tế theo hướng phù hợp với lý luận và thực tiễn. Đây là một trong những cách thức hiệu quả tác động đến quá trình bảo tồn và phát huy di sản văn hóa ở Việt Nam hiện nay.
Trong luận văn của mình, tác giả đã cố gắng vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lê Nin; đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển văn hóa nói chung và di sản văn hóa nói riêng và quản lý nhà nước đối với di sản văn hóa để có cách tiếp cận phù hợp với đặc thù của di sản văn hóa. Thông qua khảo sát, phỏng vấn, tổng hợp, phân tích…để đánh giá thực trạng pháp luật về di sản văn hóa. Từ đó trang bị kiến thức cho bản thân, trên cơ sở các quan điểm, nhận thức mới về di sản văn hóa và thực tiễn, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, hoàn thiện pháp luật đối với di sản văn hóa trong thời kỳ hội nhập.
Xuất phát từ nhu cầu khách quan đó, Luận văn “ Pháp luật về di sản văn hóa ở Việt nam hiện nay” đã đưa ra được một số kết quả sau:Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Di sản văn hóa
- Luận văn đã nêu yêu cầu khách quan về quản lý nhà nước đối với di sản văn hóa, làm rõ cơ sở lý luận về pháp luật về di sản văn hóa, công tác quản lý nhà nước đối với di sản văn hóa trong thời gian tới.
- Luận văn đã hệ thống, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về di sản văn hóa ở nước ta hiện nay, tính tương quan với các quy định của UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa.
- Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng và căn cứ vào các chủ trương, chính sách, mục tiêu và yêu cầu cần có các giải pháp hoàn thiện pháp luật về di sản văn hóa ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập.
Chính sách bảo tồn di sản văn hóa vì sự phát triển cần được pháp luật hóa, thể chế hóa trong nghị quyết, quan điểm, đề án, dự án… phát triển kinh tế xã hội của đất nước và của từng địa phương. Sự phát triển cần dựa trên một nền tảng vững chắc thông qua việc bảo tồn tốt nhất di sản của cha ông để lại, trong trường hợp ưu tiên nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội thì cũng cần chủ động đề xuất các biện pháp giảm thiểu tác động hoặc di dời, tư liệu hóa thích hợp.
Pháp luật về di sản văn hóa Việt Nam hiện nay là một nội dung quan trọng và rộng lớn đòi hỏi cần có sự nghiên cứu nghiêm túc, tìm tòi sâu và có thời gian, tuy nhiên do điều kiện thời gian và trình độ có hạn nên kết quả nghiên cứu của luận văn còn có những hạn chế nhất định. Tác giả rất mong nhận được sự chỉ dẫn, góp ý của các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp./.Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Di sản văn hóa
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận văn: Lý luận pháp luật về Di sản văn hóa Việt Nam