Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Giải pháp đảm bảo thực hiện luật công chứng tại HN hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Thực hiện pháp luật công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
3.1. ĐỊNH HƯỚNG BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT CÔNG CHỨNG
3.1.1. Bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật
Tính thống nhất được đặt ra đối với cả hệ thống pháp luật cũng như đối với từng văn bản quy phạm pháp luật và quy phạm pháp luật. Hệ thống pháp luật được cấu tạo nên bởi các thành tố khác nhau, cho nên để bảo đảm được tính thống nhất của hệ thống pháp luật thì giữa các thành tố cấu tạo nên nó không được có sự mâu thuẫn, chống chéo với nhau. Bất cứ một sự mâu thuẫn, chồng chéo nào xảy ra trong hệ thống pháp luật đều phải được phát hiện và loại khỏi hệ thống.
Các quy định của pháp luật về công chứng không chỉ được quy định trong Luật Công chứng, mà còn được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau: Bộ luật Dân sự, Luật đất đai, Luật nhà ở, Luật kinh doanh bất động sản, Luật hôn nhân và gia đình, Luật doanh nghiệp, Luật hộ tịch, Luật kinh doanh bất động sản, Luật cư trú… Do đó, trong quá trình xây dựng pháp luật cần phải bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, tránh quy định chồng chéo, mâu thuẫn giữa các quy phạm pháp luật trong cùng một đạo luật hoặc giữa các đạo luật khác nhau, văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành của cơ quan cấp dưới không được mâu thuẫn với văn bản của cơ quan cấp trên, văn bản ban hành sau phải thống nhất với văn bản ban hành trước đó. Việc sửa đổi, bổ sung Luật Công chứng hoặc các luật liên quan cần được đặt trong mối quan hệ tổng thể, thống nhất hữu cơ với nhau.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận Văn Thạc Sĩ Luật Học
3.1.2. Bảo đảm khả thi của văn bản quy phạm pháp luật Luận văn: Giải pháp đảm bảo thực hiện luật công chứng tại HN
Việc bảo đảm tính khả thi của các văn bản quy phạm pháp luật là một yêu cầu rất quan trọng được đặt ra trong suốt quá trình xây dựng văn bản. Văn bản luật đó phải phản ánh đúng hiện thực khách quan, không thấp hơn và cũng không cao hơn trình độ phát triển kinh tế, xã hội trong từng thời kỳ. Luật phải điều chỉnh và định hướng hành vi của con người phù hợp với quy luật của xã hội, phù hợp với trình độ nhận thức, hiểu biết pháp luật của nhân dân thì mới được xã hội chấp nhận, được nhân dân đồng tình, ủng hộ và tự nguyện thực hiện. Tiếp đó, các quy định của luật phải có bộ máy thực hiện, tổ chức thực hiện hoặc kiểm tra, giám sát việc thực hiện, xử lý hành vi vi phạm và có đủ ngân sách, kinh phí để thực hiện. Đồng thời, cũng cần có những quy định rõ ràng, cụ thể về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan trong thực hiện các quy định của luật. Cuối cùng, một trong những yêu cầu cũng rất quan trọng để bảo đảm tính khả thi của luật là các quy định của luật phải minh bạch, cụ thể, rõ ràng, chi tiết, có khả năng thi hành ngay mà không cần phải chờ quá nhiều văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành; luật phải bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật. Thực hiện pháp luật công chứng phải quán triệt định hướng này nhằm giúp cho các quy định của pháp luật về công chứng đi vào cuộc sống, phát huy được hiệu quả.
3.1.3. Bảo đảm an toàn pháp lý
Thực hiện pháp luật công chứng cần bám sát định hướng này, coi đây là định hướng xuyên suốt trong toàn bộ nội dung của luật. Có như vậy chế định công chứng mới có thể hoàn thành vai trò lịch sử của mình, đó là một “thẩm phán phòng ngừa”, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể pháp luật, hạn chế thấp nhất vi phạm pháp luật, ngăn chặn tranh chấp phát sinh. Công chứng viên được nhà nước giao nhiệm vụ bảo đảm sự an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch bắt buộc phải công chứng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu công chứng. Nếu các hợp đồng, giao dịch này không được công chứng thì rủi ro đối với các bên tham gia giao dịch là điều dễ xảy ra, tranh chấp sẽ phát sinh ngày càng nhiều gây áp lực công việc lên hệ thống cơ quan Tòa án, thi hành án… đồng thời ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội.
3.1.4. Thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp Luận văn: Giải pháp đảm bảo thực hiện luật công chứng tại HN
Các quy định của pháp luật về công chứng cần quán triệt định hướng này trong việc xây dựng thủ tục công chứng, đặc biệt trong thời đại bùng nổ về công nghệ thông tin, cần nhanh chóng nghiên cứu, áp dụng các tiến bộ của thời đại, của khoa học, kỹ thuật để áp dụng trong thực tiễn, rút ngắn thời gian làm thủ tục, đơn giản, thuận tiện về hồ sơ chuẩn bị cũng như tiếp nhận các yêu cầu công chứng. Cải cách hành chính không chỉ áp dụng trong các tổ chức hành nghề công chứng mà còn phải được áp dụng đối với tất cả những cơ quan liên quan đến hoạt động công chứng như công an, thuế, tài nguyên và môi trường…
Ngoài ra, cần quán triệt mạnh mẽ tinh thần cải cách tư pháp, đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa trong hoạt động công chứng, có chính sách thu hút, khuyến khích tư nhân tham gia đầu tư vào lĩnh vực công chứng, tạo sự thuận lợi cho người dân trong việc lựa chọn tổ chức hành nghề công chứng. Đồng thời, có những chính sách, quan điểm cởi mở, tạo điều kiện cho văn phòng công chứng phát triển ổn định, bền vững.
3.2. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT CÔNG CHỨNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Luận văn: Giải pháp đảm bảo thực hiện luật công chứng tại HN
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật liên quan đến công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng, thủ tục công chứng
3.2.1.1. Hoàn thiện quy định về công chứng viên Tiêu chuẩn công chứng viên
Nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ công chứng viên, Luật Công chứng số 53/2014/QH13 quy định chặt chẽ hơn về tiêu chuẩn công chứng viên.
Điều 8. Tiêu chuẩn công chứng viên
Công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt và có đủ các tiêu chuẩn sau đây thì được xem xét, bổ nhiệm công chứng viên:
- Có bằng cử nhân luật;
- Có thời gian công tác pháp luật từ 05 năm trở lên tại các cơ quan, tổ chức sau khi đã có bằng cử nhân luật;
- Tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng quy định tại Điều 9 của Luật này hoặc hoàn thành khóa bồi dưỡng nghề công chứng quy định tại khoản 2 Điều 10 của Luật này;
- Đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng;
- Bảo đảm sức khỏe để hành nghề công chứng [45].
Theo đó, ngoài việc phải có bằng cử nhân luật và bảo đảm sức khỏe, thì công chứng viên phải có thời gian công tác pháp luật là 05 năm trở lên tính từ thời điểm có bằng cử nhân luật, tốt nghiệp đào tạo nghề công chứng và đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng.
Tuy nhiên, Luật Công chứng số 53/2014/QH13 cần có quy định cụ thể về thời gian công tác pháp luật, nhất là đối với những người làm công tác pháp luật tại các cơ quan, đơn vị có quy mô nhỏ, khối lượng công việc không lớn nhằm nâng cao chất lượng công chứng viên.
Đào tạo nghề công chứng
Về đạo tạo nghề công chứng, Điều 9 Luật Công chứng số 53/2014/QH13 quy định về đào tạo nghề công chứng:
Điều 9. Đào tạo nghề công chứng
Người có bằng cử nhân luật được tham dự khóa đào tạo nghề công chứng tại cơ sở đào tạo nghề công chứng.
Thời gian đào tạo nghề công chứng là 12 tháng.
Người hoàn thành chương trình đào tạo nghề công chứng được cơ sở đào tạo nghề công chứng cấp giấy chứng nhận tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết về cơ sở đào tạo nghề công chứng, chương trình khung đào tạo nghề công chứng và việc công nhận tương đương đối với những người được đào tạo nghề công chứng ở nước ngoài [45].
Như vậy, so với Luật Công chứng số 82/2006/QH11, Luật Công chứng số 53/2014/QH13 đã nâng thời gian đào tạo nghề công chứng từ 06 tháng lên 12 tháng. Công chứng là một nghề chuyên sâu, thay mặt Nhà nước thực hiện dịch vụ công, đòi hỏi sự hiểu biết vừa chi tiết, vừa toàn diện về pháp luật dân sự, pháp luật kinh tế, thương mại, đất đai, nhà ở…, đồng thời người hành nghề công chứng phải có những kỹ năng nghề nghiệp nhất định. Công chứng viên không chỉ thực hiện việc công chứng mà còn có trách nhiệm tư vấn cho khách hàng thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình đúng với quy định của pháp luật. Vì vậy, việc kéo dài thời gian đào tạo nghề công chứng như quy định trong Luật là nhằm khắc phục khiếm khuyết trong công tác đào tạo thời gian qua, nâng cao hơn nữa chất lượng của hoạt động công chứng. Quy định thời gian đào tạo nghề công chứng này cũng phù hợp với thời gian đào tạo các chức danh tư pháp khác như thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư mà pháp luật hiện hành quy định. Đồng thời, Luật cũng giao nhiệm vụ cho Bộ Tư pháp trong việc quy định chi tiết về cơ sở đào tạo nghề công chứng, tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành và phát triển các cơ sở đào tạo nghề công chứng.
Tuy nhiên, để quy định này có tính khả thi, Bộ Tư pháp cần sớm ban hành chương trình khung đào tạo nghề công chứng, trình Chính phủ ban hành chính sách phát triển cơ sở đào tạo nghề công chứng nói chung và Học viện Tư pháp nói riêng, khuyến khích, thu hút các công chứng viên có nhiều kinh nghiệm (trên 5 năm) tham gia giảng dạy cơ hữu tại các cơ sở đào tạo nghề, hạn chế tối đa các giảng viên không có kinh nghiệm thực tiễn nghề công chứng tham gia giảng dạy. Một điểm cần lưu ý đó là, hiện nay, rất nhiều công chứng viên hoạt động trên địa bàn thành phố Hà Nội đang được mời tham gia giảng dạy tại Học viện Tư pháp. Đây là những công chứng viên có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, có thời gian hoạt động lâu năm, trên một địa bàn có nhu cầu công chứng rất lớn trong cả nước. Thu hút các công chứng viên này làm giảng viên cơ hữu của Học viện là một biện pháp khả thi và hiệu quả trong giai đoạn hiện nay. Luận văn: Giải pháp đảm bảo thực hiện luật công chứng tại HN
Ngoài ra, việc đào tạo nghề công chứng cần được tính toán, cân nhắc trên cơ sở quy hoạch tổ chức hành công chứng của địa phương đã được phê duyệt. Các công chứng viên được bổ nhiệm sẽ không thể hành nghề nếu không gắn với một tổ chức hành nghề công chứng nhất định. Hà Nội hiện đang có số lượng tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên nhiều nhất cả nước, do đó, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cần phối hợp với Học viện Tư pháp để có kế hoạch tuyển sinh, đào tạo nghề phù hợp, tránh trường hợp người được đào tạo nghề, được bổ nhiệm công chứng viên nhưng lại không được hành nghề, gây lãng phí công sức, tiền bạc của cá nhân, tổ chức.
Luật cần bổ sung quy định về thời gian tối đa người có Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề công chứng phải tham gia tập sự hành nghề công chứng tại tổ chức hành nghề công chứng. Tác giả đề nghị thời gian này tối đa không quá 12 tháng.
Miễn đào tạo nghề công chứng
Về miễn đào tạo nghề, Điều 10 Luật Công chứng số 53/2014/QH13 quy định:
Điều 10. Miễn đào tạo nghề công chứng
Những người sau đây được miễn đào tạo nghề công chứng: a) Người đã có thời gian làm thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên từ 05 năm trở lên;
- Luật sư đã hành nghề từ 05 năm trở lên;
- Giáo sư, phó giáo sư chuyên ngành luật, tiến sĩ luật;
- Người đã là thẩm tra viên cao cấp ngành tòa án, kiểm tra viên cao cấp ngành kiểm sát; chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên cao cấp trong lĩnh vực pháp luật.
- Người được miễn đào tạo nghề công chứng quy định tại khoản 1 Điều này phải tham gia khóa bồi dưỡng kỹ năng hành nghề công chứng và quy tắc đạo đức hành nghề công chứng tại cơ sở đào tạo nghề công chứng trước khi đề nghị bổ nhiệm công chứng viên.
Thời gian bồi dưỡng nghề công chứng là 03 tháng.
Người hoàn thành khóa bồi dưỡng được cấp giấy chứng nhận hoàn thành khóa bồi dưỡng nghề công chứng.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết về khóa bồi dưỡng nghề công chứng quy định tại khoản 2 Điều này [45].
Như vậy, so với Luật Công chứng số 82/2006/QH11, đối tượng được miễn đào tạo nghề vẫn giữ nguyên, không thay đổi. Nhưng Luật Công chứng số 53/2014/QH13 đã nâng tiêu chuẩn của những người người được miễn đào tạo nghề. Đối với thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên phải có thời gian làm việc từ 05 năm trở lên kể từ thời điểm được bổ nhiệm. Đối với luật sư, phải có thời gian hành nghề từ 05 năm trở lên, tăng 02 năm so với Luật Công chứng số 82/2006/QH11. Đồng thời, Luật Công chứng số 53/2014/QH13 cũng quy định, những người được miễn đào tạo nghề công chứng phải tham gia lớp bồi dưỡng nghề công chứng 03 tháng và phải được cấp giấy chứng nhận hoàn thành khóa bồi dưỡng nghề công chứng. Quy định này là cần thiết, nhằm trang bị các kỹ năng của nghề công chứng, hạn chế sai sót trong việc hành nghề sau này.
Tuy nhiên, Luật Công chứng số 53/2014/QH13 cần bổ sung đối tượng được miễn đào tạo nghề công chứng đối với công chứng viên trước đây được nhà nước bổ nhiệm, nhưng trong quá trình công tác được luân chuyển, điều động thực hiện nhiệm vụ khác; các nhân viên thư ký làm việc trên 05 năm tại các tổ chức hành nghề công chứng để thu hút, bổ sung thêm số lượng, chất lượng đội ngũ công chứng viên. Thực tế cho thấy, các nhân viên thư ký đảm nhiệm hầu hết các khâu trong thủ tục công chứng, hỗ trợ công chứng viên rất nhiều trong việc hoàn thành văn bản công chứng (từ tiếp nhận hồ sơ, hướng dẫn thủ tục, tiến hành thủ tục…), thực chất, công việc họ thực hiện hàng ngày chính là sự đào tạo và tập sự hành nghề công chứng tại chỗ, họ không cần phải đi học khóa đào tạo và tập sự hành nghề nữa. Do đó, Luật Công chứng số 53/2014/QH13 cần quy định việc miễn đào tạo nghề và tập sự cho đối tượng này, tạo nguồn nhân sự tại chỗ và kế cận cho lực lượng công chứng viên.
Tập sự hành nghề công chứng
Khác với quy định của Luật Công chứng số 82/2006/QH11, Luật Công chứng số 53/2014/QH13 quy định công chứng viên phải hoàn thành thời gian tập sự và đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng
Điều 11. Tập sự hành nghề công chứng
Người có giấy chứng nhận tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng hoặc giấy chứng nhận bồi dưỡng nghề công chứng phải tập sự hành nghề tại một tổ chức hành nghề công chứng. Người tập sự có thể tự liên hệ với một tổ chức hành nghề công chứng đủ điều kiện nhận tập sự về việc tập sự tại tổ chức đó; trường hợp không tự liên hệ được thì đề nghị Sở Tư pháp ở địa phương nơi người đó muốn tập sự bố trí tập sự tại một tổ chức hành nghề công chứng đủ điều kiện nhận tập sự.
Người tập sự phải đăng ký tập sự tại Sở Tư pháp ở địa phương nơi có tổ chức hành nghề công chứng nhận tập sự.
Thời gian tập sự hành nghề công chứng là 12 tháng đối với người có giấy chứng nhận tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng và 06 tháng đối với người có giấy chứng nhận bồi dưỡng nghề công chứng. Thời gian tập sự hành nghề công chứng được tính từ ngày đăng ký tập sự. Luận văn: Giải pháp đảm bảo thực hiện luật công chứng tại HN
Tổ chức hành nghề công chứng nhận tập sự phải có công chứng viên đáp ứng điều kiện hướng dẫn tập sự theo quy định tại khoản 3 Điều này và có cơ sở vật chất bảo đảm cho việc tập sự.
Tổ chức hành nghề công chứng phân công công chứng viên hướng dẫn người tập sự.
Công chứng viên hướng dẫn tập sự phải có ít nhất 02 năm kinh nghiệm hành nghề công chứng. Công chứng viên bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động hành nghề công chứng thì sau 12 tháng kể từ ngày chấp hành xong quyết định kỷ luật, quyết định xử phạt vi phạm hành chính mới được hướng dẫn tập sự hành nghề công chứng. Tại cùng một thời điểm, một công chứng viên không được hướng dẫn nhiều hơn hai người tập sự.
Công chứng viên hướng dẫn tập sự phải hướng dẫn và chịu trách nhiệm về các công việc do người tập sự thực hiện quy định tại khoản 4 Điều này.
Người tập sự hành nghề công chứng được hướng dẫn các kỹ năng hành nghề và thực hiện các công việc liên quan đến công chứng do công chứng viên hướng dẫn phân công và chịu trách nhiệm trước công chứng viên hướng dẫn về những công việc đó. Người tập sự không được ký văn bản công chứng.
Khi hết thời gian tập sự, người tập sự hành nghề công chứng phải có báo cáo bằng văn bản về kết quả tập sự có nhận xét của công chứng viên hướng dẫn và xác nhận của tổ chức hành nghề công chứng nhận tập sự gửi đến Sở Tư pháp nơi mình đã đăng ký tập sự; được đăng ký tham dự kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng. Người đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng được cấp giấy chứng nhận kết quả kiểm tra tập sự hành nghề công chứng.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết việc tập sự và kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng [45].
Ngoài việc bắt buộc tham gia tập sự hành nghề công chứng, Luật Công chứng số 53/2014/QH13 còn quy định cụ thể, chi tiết về nghĩa vụ của các tổ chức hành nghề công chứng, các công chứng viên trong việc tiếp nhận, hướng dẫn người tập sự hành nghề công chứng. Luật Công chứng số 53/2014/QH13 cũng bổ sung quy định người được miễn đào tạo nghề phải tập sự tại tổ chức hành nghề công chứng với thời gian là 06 tháng.
Tuy nhiên, Luật Công chứng số 53/2014/QH13 cần bổ sung quy định về hậu quả pháp lý của báo cáo tập sự có nhận xét của công chứng viên đối với việc người tập sự được đăng ký tham dự kiểm tra kết quả tập sự. Như vậy mới thể hiện được ý nghĩa của việc hướng dẫn tập sự. Nếu người tập sự đương nhiên được đăng ký tham dự kiểm tra kết quả tập sự, thì nhận xét của công chứng viên đối với người tập sự sẽ không có giá trị, mang tính hình thức, ảnh hưởng tới chất lượng tập sự. Ngoài ra, Luật Công chứng số 53/2014/QH13 cần bổ sung quy định về thời gian tối đa người đạt kết quả tập sự hành nghề công chứng phải nộp hồ sơ đề nghị bổ nhiệm công chứng viên, tác giả đề nghị thời gian tối đa không quá 12 tháng.
Việc quy định thời gian tập sự đối với người được miễn đào tạo nghề công chứng là cần thiết những cũng sẽ tạo ra rào cản, hạn chế sự tham gia của những đối tượng này trong lĩnh vực công chứng. Đây là những người có công việc và thu nhập ổn định, việc họ chuyển sang làm việc tại ngành nghề khác phải có những chính sách khuyến khích, ưu đãi, đồng thời ít rào cản, hạn chế. Nếu không thì việc thực hiện quy định này khó khả thi. Do đó, tác giả đề nghị quy định giảm thời gian tập sự của những người được miễn đào tạo nghề xuống 03 tháng, thay vì 06 tháng như Luật Công chứng số 53/2014/QH13 quy định. Đồng thời, Chính phủ cần có chính sách ưu đãi đối với cá nhân (miễn/giảm thuế thu nhập cá nhân, ưu đãi tín dụng), ưu đãi với tổ chức hành nghề công chứng (miễn/giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, ưu đãi tín dụng, hỗ trợ thuê trụ sở…) để khuyến khích, thu hút người có trình độ, năng lực chuyên môn pháp luật tham gia trong hoạt động công chứng.
3.2.1.2. Hoàn thiện quy định về tổ chức hành nghề công chứng Văn phòng công chứng Luận văn: Giải pháp đảm bảo thực hiện luật công chứng tại HN
Mô hình văn phòng công chứng đã quy định tại khoản 1 Điều 22 Luật Công chứng số 53/2014/QH13:
Điều 22. Văn phòng công chứng
Văn phòng công chứng được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đối với loại hình công ty hợp danh.
Văn phòng công chứng phải có từ hai công chứng viên hợp danh trở lên. Văn phòng công chứng không có thành viên góp vốn [45].
Như vậy, Luật Công chứng số 53/2014/QH13 chỉ quy định mô hình Văn phòng công chứng duy nhất, đó là Văn phòng công chứng có từ hai công chứng viên hợp danh trở lên và không có thành viên góp vốn. Các Văn phòng công chứng do một công chứng viên thành lập từ trước khi Luật được ban hành được xử lý theo quy định tại khoản 1 Điều 79:
Điều 79. Điều khoản chuyển tiếp
Trong thời hạn 24 tháng kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành, Văn phòng công chứng do một công chứng viên thành lập theo quy định của Luật Công chứng số 82/2006/QH11 phải chuyển đổi thành Văn phòng công chứng được tổ chức và hoạt động theo quy định tại Điều 22 của Luật này. Văn phòng công chứng do một công chứng viên thành lập không thực hiện xong việc chuyển đổi trong thời hạn này thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thu hồi quyết định cho phép thành lập, Sở Tư pháp thu hồi giấy đăng ký hoạt động công chứng.
Bộ Tư pháp hướng dẫn thủ tục chuyển đổi Văn phòng công chứng quy định tại khoản này [45].
Theo tác giả, không nên hạn chế Văn phòng công chứng do 01 công chứng viên thành lập do đây là nhu cầu của người thành lập, việc từ 02 người trở lên tham gia cũng sẽ có những bất cập nhất định trong hoạt động, giống như các doanh nghiệp, nếu giữa các công chứng viên có sự bất đồng ý kiến. Nếu Văn phòng công chứng do 01 công chứng viên thành lập khiến người yêu cầu công chứng phải mất nhiều thời gian để thực hiện hợp đồng, giao dịch thì họ sẽ chuyển hồ sơ sang tổ chức hành nghề công chứng khác. Do vậy, các Văn phòng công chứng do 01 công chứng viên sẽ phải tự điều chỉnh, sắp xếp phù hợp để đáp ứng yêu cầu của người yêu cầu công chứng. Mặt khác, công chứng viên hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tổ chức hành nghề công chứng có từ 02 công chứng viên trở lên không có nghĩa là người đứng đầu tổ chức hành nghề công chứng có quyền áp đặt về mặt chuyên môn đối với các công chứng viên khác. Về mặt bản chất, các công chứng viên luôn hoạt động độc lập mà không phụ thuộc vào mô hình tổ chức hành nghề công chứng có 01 hay nhiều công chứng viên. Lập luận về việc Văn phòng công chứng có 02 công chứng viên trở lên sẽ không làm gián đoạn tính pháp lý của các hồ sơ công chứng do công chứng viên này có thể tiếp quản công việc của công chứng viên kia là không chính xác. Ngay trong một tổ chức hành nghề công chứng, vẫn có rất nhiều trường hợp, cùng một yêu cầu công chứng, công chứng viên này thì từ chối tiếp nhận nhưng công chứng viên khác lại tiếp nhận. Do đó, không nên quy định hạn chế quyền của Văn phòng công chứng do 01 công chứng viên thành lập. Điều này cũng tương ứng với quy định về Văn phòng luật sư do một luật sư thành lập. Ngoài ra, Luật Công chứng số 53/2014/QH13 đã bổ sung quy định cho phép tổ chức hành nghề công chứng ký hợp đồng lao động với công chứng viên (khoản 1 Điều 32). Như vậy, các Văn phòng công chứng do 01 công chứng viên thành lập có thể bổ sung số lượng công chứng viên để không làm gián đoạn tính pháp lý của các hồ sơ công chứng trong hoạt động của Văn phòng mình. Luận văn: Giải pháp đảm bảo thực hiện luật công chứng tại HN
Đồng thời, nên cho phép Văn phòng công chứng có thành viên góp vốn. Giống như một doanh nghiệp, nhu cầu vốn để vận hành hoạt động của văn phòng công chứng là không thể tránh khỏi. Để thành lập một văn phòng công chứng, cần nguồn tài chính tương đối lớn để đầu tư cho việc thuê/mua trụ sở, đầu tư trang thiết bị, máy móc, tuyển dụng nhân viên, chi phí hành chính… Nhiều công chứng viên không có đủ điều kiện về tài chính để thành lập văn phòng công chứng. Ngoài ra, việc công chứng viên phải kiêm luôn nhiệm vụ quản lý sẽ khiến công chứng viên không tập trung được vào chuyên môn. Do đó, việc duy trì thành viên góp vốn là cần thiết, một mặt đóng góp tài chính cho hoạt động của văn phòng công chứng, mặt khác sẽ giúp đỡ, hỗ trợ công chứng viên trong việc quản lý, điều hành văn phòng. Tuy nhiên, để tránh trường hợp thành viên góp vốn lạm quyền, gây áp lực với các công chứng viên, Luật cần quy định rõ quyền và nghĩa vụ của thành viên góp vốn nhằm bảo đảm sự độc lập của các công chứng viên trong quyết định chuyên môn.
Quy hoạch tổ chức hành nghề công chứng
Luật Công chứng số 53/2014/QH13 đã bổ sung quy định về trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong việc xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng trong cả nước tại điểm b, khoản 2, Điều 69, tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng quy hoạch: “Xây dựng, trình Chính phủ ban hành chính sách phát triển nghề công chứng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng trong cả nước” [45].
Thành phố Hà Nội hiện có 103 tổ chức hành nghề công chứng, tuy nhiên, theo Quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội thì đến năm 2020 có 121 tổ chức, trong đó đến hết năm 2015 là 95 tổ chức, giai đoạn 2016-2020 là 26 tổ chức. Như vậy, thời điểm hiện tại, Hà Nội đã vượt 8 tổ chức hành nghề công chứng so với quy hoạch và trong 5 năm tới chỉ cần phát triển 18 tổ chức hành nghề công chứng là đủ số lượng tiêu chuẩn theo quy hoạch.
Theo quan điểm của tác giả, không nên quy hoạch các tổ chức hành nghề công chứng, đây là một yếu tố gây cản trở cho quá trình xã hội hóa, thu hút nguồn lực tư nhân đầu tư trong lĩnh vực công chứng. Khi tư nhân tham gia hoạt động công chứng, mong muốn của họ là địa bàn nơi đặt trụ sở phải có nhiều giao dịch, để đạt được doanh thu cao, nếu hạn chế số lượng tổ chức hành nghề công chứng trên một địa bàn sẽ không khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực công chứng, tạo cơ chế xin cho khi thành lập tổ chức hành nghề công chứng. Quy hoạch là mong muốn các tổ chức hành nghề công chứng phục vụ các giao dịch trên địa bàn. Tuy nhiên, công chứng viên trên địa bàn Hà Nội có thể thực hiện việc công chứng trên tất cả các quận, huyện, không phụ thuộc vào vị trí đặt trụ sở tổ chức hành nghề công chứng, nên việc giới hạn số lượng tổ chức hành nghề công chứng tại một đơn vị cấp quận, huyện không có ý nghĩa. Ví dụ: một công chứng viên có đủ điều kiện và khả năng (có nhà riêng tại quận Cầu Giấy) để làm trụ sở, nhưng lại không được thành lập Văn phòng công chứng tại quận Cầu Giấy do quy định về quy hoạch không cho phép thành lập thêm tổ chức hành nghề công chứng tại quận Cầu Giấy. Do đó, không nên quy hoạch các tổ chức hành nghề công chứng mà để thị trường tự điều tiết, tạo sự cạnh tranh để nâng cao chất lượng dịch vụ công chứng. Đồng thời, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các tổ chức hành nghề công chứng thực hiện không đúng quy định của pháp luật, để hạn chế việc cạnh tranh không lành mạnh.
Ngược lại, tại các địa phương tập trung đông dân cư, điều kiện kinh tế – xã hội phát triển, có nhu cầu cao về công chứng thì việc giới hạn số lượng tổ chức hành nghề công chứng là quá cứng nhắc trong khi Luật không quy định cụ thể về điều kiện thành lập các Văn phòng công chứng, dễ tạo điều kiện cho tình trạng tùy tiện, -xin-cho- trong việc quyết định thành lập mới các Văn phòng công chứng, tạo lợi thế độc quyền cho các tổ chức hành nghề công chứng đã được thành lập, ảnh hưởng đến quyền được hành nghề của công chứng viên. Do đó, trong công tác quy hoạch, quản lý các tổ chức hành nghề công chứng, cần đặc biệt lưu ý đến tính chất, đặc điểm cũng như nhu cầu của từng địa phương, tránh cách làm áp đặt, chủ quan, gây khó khăn cho công chứng viên, cho tổ chức, cá nhân có nhu cầu công chứng cũng như ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích của xã hội nói chung.
Quyền của tổ chức hành nghề công chứng
Về quyền của tổ chức hành nghề công chứng, Điều 32 Luật Công chứng số 53/2014/QH13 quy định:
Điều 32. Quyền của tổ chức hành nghề công chứng
- Ký hợp đồng làm việc, hợp đồng lao động với công chứng viên quy định tại điểm a và điểm c khoản 1 Điều 34 của Luật này và các nhân viên làm việc cho tổ chức mình.
- Thu phí công chứng, thù lao công chứng, chi phí khác.
- Cung cấp dịch vụ công chứng ngoài ngày, giờ làm việc của cơ quan hành chính nhà nước để đáp ứng nhu cầu công chứng của nhân dân.
- Được khai thác, sử dụng thông tin từ cơ sở dữ liệu công chứng quy định tại Điều 62 của Luật này.
- Các quyền khác theo quy định của Luật này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan [45].
Như vậy, so với Luật Công chứng số 82/2006/QH11, Luật Công chứng số 53/2014/QH13 có quy định 3 điểm mới: Một là, các tổ chức hành nghề công chứng được quyền ký hợp đồng việc làm, hợp đồng lao động với công chứng để làm việc cho tổ chức của mình. Quy định này vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức hành nghề công chứng phát triển, mở rộng quy mô của mình, đồng thời, tạo thêm môi trường để các công chứng viên hành nghề. Hai là, được quyền cung cấp dịch vụ công chứng ngoài ngày, giờ làm việc hành chính, quy định này tạo sự thuận lợi cho người dân trong thực hiện các giao dịch. Ba là, được khai thác, sử dụng thông tin từ cơ sở dữ liệu công chứng. Quy định này tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc bảo đảm an toàn cho các giao dịch. Nếu các tổ chức hành nghề công chứng chỉ khai thác trên cơ sở dữ liệu của tổ chức mình thì không một tổ chức hành nghề công chứng nào có thể tránh khỏi rủi ro khi thực hiện hành vi công chứng.
Ngoài ra, Luật Công chứng số 53/2014/QH13 cần cho phép các tổ chức hành nghề công chứng được quảng cáo, mở chi nhánh, văn phòng đại diện để giới thiệu thông tin tới người dân, mở rộng quy mô doanh nghiệp. Đây là quyền chính đáng của một doanh nghiệp theo quy định của Luật doanh nghiệp. Nhà nước không có chính sách để hỗ trợ lĩnh vực công chứng thì cũng không nên hạn chế quyền của tổ chức hành nghề công chứng.
Nghĩa vụ của tổ chức hành nghề công chứng
Bồi thường thiệt hại
Về bồi thường thiệt hại do lỗi của công chứng viên gây ra, Điều 38 Luật Công chứng số 53/2014/QH13 quy định:
Điều 38. Bồi thường, bồi hoàn trong hoạt động công chứng
Tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức mình gây ra trong quá trình công chứng.
Công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên gây thiệt hại phải hoàn trả lại một khoản tiền cho tổ chức hành nghề công chứng đã chi trả khoản tiền bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật; trường hợp không hoàn trả thì tổ chức hành nghề công chứng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết [45].
Như vậy, so với Luật Công chứng số 82/2006/QH11, Luật Công chứng số 53/2014/QH13 đã quy định chặt chẽ hơn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Theo đó, tổ chức hành nghề công chứng sẽ bồi thường thiệt hại do lỗi của công chứng viên gây ra không chỉ cho người yêu cầu công chứng mà còn cả cho cá nhân, tổ chức liên quan. Sau đó, công chứng viên có nghĩa vụ phải hoàn trả lại một khoản tiền cho tổ chức hành nghề công chứng đã chi tiền bồi thường.
Tuy nhiên, việc vẫn quy định nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng khiến áp lực tài chính đối với tổ chức hành nghề công chứng rất lớn, trong khi việc bồi hoàn của công chứng viên sẽ mất nhiều thời gian, thậm chí không bù đắp được khoản tiền mà tổ chức hành nghề công chứng đã chi trả. Do đó, điều này có thể gây mâu thuẫn giữa các công chứng viên trong tổ chức hành nghề công chứng vì lỗi của người này nhưng người khác phải chia sẻ hậu quả về mặt tài chính. Luật Công chứng số 53/2014/QH13 cần sửa đổi theo hướng, quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho cá nhân công chứng viên, phù hợp với quy định công chứng viên chịu trách nhiệm cá nhân về hành vi công chứng của mình.
Lưu trữ hồ sơ công chứng
Về chế độ lưu trữ hồ sơ công chứng, khoản 1 và khoản 2 Điều 64 Luật Công chứng số 53/2014/QH13 quy định:
Điều 64. Chế độ lưu trữ hồ sơ công chứng
Tổ chức hành nghề công chứng phải bảo quản chặt chẽ, thực hiện biện pháp an toàn đối với hồ sơ công chứng.
Bản chính văn bản công chứng và các giấy tờ khác trong hồ sơ công chứng phải được lưu trữ ít nhất là 20 năm tại trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng; trường hợp lưu trữ ngoài trụ sở thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của Sở Tư pháp [45]. Luận văn: Giải pháp đảm bảo thực hiện luật công chứng tại HN
Như vậy, Luật Công chứng số 53/2014/QH13 đã quy định thống nhất trong việc lưu trữ bản giấy văn bản công chứng và các giấy tờ khác trong hồ sơ, đều lưu trữ tối thiểu 20 năm, tạo thuận lợi cho tổ chức hành nghề công chứng trong việc lưu trữ hồ sơ. Như đã phân tích ở phần thực trạng, hồ sơ công chứng là “tính mạng” của công chứng viên, hồ sơ công chứng không chỉ là cơ sở khẳng định sự đúng/sai trong hành vi của công chứng viên mà còn là cơ sở để bảo đảm an toàn cho chuỗi các giao dịch liên quan đến tài sản trong hồ sơ. Do đó, việc bố trí diện tích để lưu trữ tại trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng cần đặc biệt lưu ý. Phải bố trí tối thiểu 50 m2 để lưu trữ hồ sơ công chứng, có trang thiết bị cần thiết để bảo quản hồ sơ và phải có nhân sự được đào tạo chuyên môn về lưu trữ. Luật Công chứng số 53/2014/QH13 và các văn bản hướng dẫn thi hành cần phải quy định việc bảo đảm diện tích, con người, thiết bị lưu trữ là điều kiện bắt buộc trong hồ sơ thành lập tổ chức hành nghề công chứng.
Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
Về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, Điều 37 Luật Công chứng số 53/2014/QH13 quy định:
Điều 37. Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên
Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên là loại hình bảo hiểm bắt buộc. Việc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên phải được duy trì trong suốt thời gian hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng.
Tổ chức hành nghề công chứng có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên hành nghề tại tổ chức mình.
Chậm nhất là 10 ngày làm việc kể từ ngày mua bảo hiểm hoặc kể từ ngày thay đổi, gia hạn hợp đồng bảo hiểm, tổ chức hành nghề công chứng có trách nhiệm thông báo và gửi bản sao hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng thay đổi, gia hạn hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên cho Sở Tư pháp.
Chính phủ quy định chi tiết điều kiện bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm tối thiểu đối với bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên [45].
Như vậy, Luật Công chứng số 53/2014/QH13 đã quy định nghĩa vụ mua bảo hiểm của tất cả các tổ chức hành nghề công chứng, không chỉ mỗi Văn phòng công chứng phải mua bảo hiểm như quy định của Luật Công chứng số 82/2006/QH11. Quy định này là cần thiết, bởi sai sót là điều không thể tránh khỏi, dù là công chứng viên ở bất kỳ tổ chức hành nghề công chứng nào, tạo tâm lý yên tâm cho người yêu cầu công chứng.
Tuy nhiên, qua thực tế hoạt động công chứng tại Hà Nội, có những hợp đồng, giao dịch có giá trị lớn, giá trị từ 3 – 5 tỷ không phải là ít, có những giao dịch hàng chục, hàng trăm tỷ đồng (thế chấp nhà, xưởng sản xuất, tàu biển…), do đó, Chính phủ cần hướng dẫn chi tiết việc mua bảo hiểm, trong đó quy định giá trị bảo hiểm tối thiểu cho mỗi hợp đồng/giao dịch được công chứng, và mức bảo hiểm này cần điều chỉnh thay đổi cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế – xã hội từng địa phương. Riêng mức bảo hiểm tại thành phố Hà Nội, cần quy định tối thiểu từ 3 – 5 tỷ đồng, mức bảo hiểm như vậy mới hỗ trợ có hiệu quả việc bồi thường khi thiệt hại xảy ra.
Ngoài ra, hợp đồng bảo hiểm của công chứng viên phải có hiệu lực ngay từ thời điểm tổ chức hành nghề công chứng đi vào hoạt động. Tuy nhiên, Luật Công chứng số 53/2014/QH13 không quy định cụ thể về vấn đề này, dẫn đến lặp lại tình trạng trước đây là nhiều tổ chức hành nghề công chứng hoạt động rất lâu nhưng vẫn không mua bảo hiểm cho công chứng viên. Để bảo đảm khả thi, tác giả đề nghị, trong Đề án xây dựng Phòng công chứng (khoản 1 Điều 20) và hồ sơ đăng ký hoạt động của Văn phòng công chứng (khoản 4 Điều 23) cần bổ sung giấy tờ chứng minh tổ chức hành nghề công chứng đã mua bảo hiểm cho các công chứng viên.
Cơ sở dữ liệu công chứng
Về cơ sở dữ liệu công chứng, Điều 62 Luật Công chứng số 53/2014/QH13 quy định:
Điều 62. Cơ sở dữ liệu công chứng
- Cơ sở dữ liệu công chứng bao gồm các thông tin về nguồn gốc tài sản, tình trạng giao dịch của tài sản và các thông tin về biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với tài sản có liên quan đến hợp đồng, giao dịch đã được công chứng.
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm xây dựng cơ sở dữ liệu công chứng của địa phương và ban hành quy chế khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu công chứng.
- Bộ Tư pháp chủ trì phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Xây dựng và các bộ, ngành có liên quan chỉ đạo, hướng dẫn việc xây dựng và quản lý, khai thác cơ sở dữ liệu công chứng tại các địa phương [45].
Đồng thời, Luật cũng quy định quyền (khoản 4 Điều 32) và nghĩa vụ (khoản 10 Điều 33) của tổ chức hành nghề công chứng trong việc chia sẻ và khai thác cơ sở dữ liệu công chứng. Quy định này là cần thiết, nhằm tăng độ an toàn cho các giao dịch, tránh trường hợp như trước đây: một tài sản có thể giao dịch tại nhiều tổ chức hành nghề công chứng khác nhau. Tuy nhiên, để bảo đảm tính khả thi, hạn chế rủi ro, cần quy định việc nhập dữ liệu ngay sau khi hợp đồng được công chứng. Nếu không nhập dữ liệu ngay thì nguy cơ rủi ro vẫn cao. Thông thường, các trường hợp một nhà bán cho 2 người thường hay thực hiện trong cùng một ngày, buổi sáng bán cho 1 người, buổi chiều bán cho 1 người khác. Do đó, dữ liệu cần được cập nhật ngay lập tức sau khi giao dịch, để làm được việc này cần quy định các công chứng viên sau khi ký hợp đồng cần bàn giao ngay hồ sơ công chứng cho bộ phận cập nhật dữ liệu để cập nhật. Ngoài ra, các tổ chức hành nghề công chứng cần bố trí bộ phận chuyên trách cho việc cập nhật dữ liệu, bảo đảm nhanh chóng, chính xác.
Thành phố Hà Nội là địa phương có nhu cầu công chứng hợp đồng, giao dịch lớn, đồng thời cũng là địa phương xuất hiện nhiều phương thức lừa đảo, vi phạm pháp luật thông qua các hợp đồng, giao dịch nhà đất, do đó, Ủy ban nhân dân Hà Nội, Sở Tư pháp cần chủ động, đẩy mạnh việc cập nhật dữ liệu công chứng và sớm ban hành Quy chế quản lý, sử dụng Chương trình quản lý thông tin ngăn chặn và thông tin về hợp đồng, giao dịch đã công chứng.
3.2.1.3. Hoàn thiện quy định về thủ tục công chứng Thủ tục chung về công chứng Luận văn: Giải pháp đảm bảo thực hiện luật công chứng tại HN
Thủ tục công chứng hợp đồng, giao dịch
Về thủ tục công chứng hợp đồng, giao dịch, Điều 40 Luật Công chứng số 53/2014/QH13 quy định:
Điều 40. Công chứng hợp đồng, giao dịch đã được soạn thảo sẵn
- Hồ sơ yêu cầu công chứng được lập thành một bộ, gồm các giấy tờ sau đây:
- Phiếu yêu cầu công chứng, trong đó có thông tin về họ tên, địa chỉ người yêu cầu công chứng, nội dung cần công chứng, danh mục giấy tờ gửi kèm theo; tên tổ chức hành nghề công chứng, họ tên người tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công chứng, thời điểm tiếp nhận hồ sơ;
- Dự thảo hợp đồng, giao dịch;
- Bản sao giấy tờ tùy thân của người yêu cầu công chứng; d) Bản sao giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc bản sao giấy tờ thay thế được pháp luật quy định đối với tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng trong trường hợp hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản đó; đ) Bản sao giấy tờ khác có liên quan đến hợp đồng, giao dịch mà pháp luật quy định phải có.
- Bản sao quy định tại khoản 1 Điều này là bản chụp, bản in hoặc bản đánh máy có nội dung đầy đủ, chính xác như bản chính và không phải chứng thực.
- Công chứng viên kiểm tra giấy tờ trong hồ sơ yêu cầu công chứng. Trường hợp hồ sơ yêu cầu công chứng đầy đủ, phù hợp với quy định của pháp luật thì thụ lý và ghi vào sổ công chứng.
- Công chứng viên hướng dẫn người yêu cầu công chứng tuân thủ đúng các quy định về thủ tục công chứng và các quy định pháp luật có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng, giao dịch; giải thích cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của họ, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc tham gia hợp đồng, giao dịch.
- Trong trường hợp có căn cứ cho rằng trong hồ sơ yêu cầu công chứng có vấn đề chưa rõ, việc giao kết hợp đồng, giao dịch có dấu hiệu bị đe dọa, cưỡng ép, có sự nghi ngờ về năng lực hành vi dân sự của người yêu cầu công chứng hoặc đối tượng của hợp đồng, giao dịch chưa được mô tả cụ thể thì công chứng viên đề nghị người yêu cầu công chứng làm rõ hoặc theo đề nghị của người yêu cầu công chứng, công chứng viên tiến hành xác minh hoặc yêu cầu giám định; trường hợp không làm rõ được thì có quyền từ chối công chứng.
- Công chứng viên kiểm tra dự thảo hợp đồng, giao dịch; nếu trong dự thảo hợp đồng, giao dịch có điều khoản vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội, đối tượng của hợp đồng, giao dịch không phù hợp với quy định của pháp luật thì công chứng viên phải chỉ rõ cho người yêu cầu công chứng để sửa chữa. Trường hợp người yêu cầu công chứng không sửa chữa thì công chứng viên có quyền từ chối công chứng.
- Người yêu cầu công chứng tự đọc lại dự thảo hợp đồng, giao dịch hoặc công chứng viên đọc cho người yêu cầu công chứng nghe theo đề nghị của người yêu cầu công chứng.
- Người yêu cầu công chứng đồng ý toàn bộ nội dung trong dự thảo hợp đồng, giao dịch thì ký vào từng trang của hợp đồng, giao dịch. Công chứng viên yêu cầu người yêu cầu công chứng xuất trình bản chính của các giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này để đối chiếu trước khi ghi lời chứng, ký vào từng trang của hợp đồng, giao dịch [45].
Như vậy, về cơ bản thủ tục công chứng hợp đồng, giao dịch vẫn được giữ nguyên như quy định của Luật Công chứng số 82/2006/QH11. Bổ sung quy định về nghĩa vụ của công chứng viên khi hướng dẫn thủ tục phải giải thích cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của họ, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc tham gia hợp đồng, giao dịch và quy định người yêu cầu công chứng chỉ phải xuất trình bản chính tại thời điểm ký kết hợp đồng, giao dịch thay vì thời điểm nộp hồ sơ như trước đây.
Tuy nhiên, Luật Công chứng số 53/2014/QH13 vẫn chưa giải quyết được những hạn chế, bất cập sau:
Thứ nhất, Luật không quy định cụ thể và cũng không giao Bộ Tư pháp hướng dẫn chi tiết hồ sơ từng loại hợp đồng, giao dịch nhằm công khai, minh bạch hồ sơ, thủ tục để người yêu cầu công chứng dễ dàng, thuận tiện trong việc chuẩn bị hồ sơ, các công chứng viên không lạm quyền, gây khó khăn cho người yêu cầu công chứng. Như vậy, các công chứng viên sẽ phải áp dụng các quy định của pháp luật liên quan (Bộ luật Dân sự, Luật đất đai, Luật nhà ở, Luật hôn nhân và gia đình…), trong khi những quy định này đang có sự chồng chéo, không rõ ràng… dẫn đến cách áp dụng pháp luật khác nhau khi tiếp nhận hồ sơ, công chứng viên này thì tiếp nhận nhưng công chứng viên khác thì từ chối, dễ phát sinh tiêu cực như trước đây. Nếu Bộ Tư pháp ban hành thông tư để hướng dẫn cụ thể sẽ trái với tinh thần xây dựng pháp luật hiện hành, quy định tại Điều 81 của Luật Công chứng số 53/2014/QH13: “Chính phủ quy định chi tiết các điều, khoản được giao trong Luật” [45].
Thứ hai, theo quy định, người yêu cầu công chứng vẫn phải đi lại nhiều lần để hoàn thiện hồ sơ công chứng như phân tích trong phần thực trạng. Luật Công chứng số 53/2014/QH13 cần quy định cho phép các tổ chức hành nghề công chứng hướng dẫn, tiếp nhận hồ sơ qua mạng để giảm bớt việc đi lại cho người yêu cầu công chứng, người yêu cầu công chứng chỉ phải đến trụ sở tổ chức hành nghề công chứng một lần duy nhất, đó là thời điểm các bên ký kết hợp đồng.
Tuy Luật chưa quy định việc nộp hồ sơ qua mạng, nhưng các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn vẫn có thể áp dụng được. Hiện tại, nhiều tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội đã chú trọng đầu tư, xây dựng website của tổ chức mình, để quảng bá, cung cấp thông tin, tư vấn, hướng dẫn hồ sơ, thủ tục công chứng cho người yêu cầu công chứng. Đây là điều kiện cần thiết để có thể tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công chứng qua mạng. Do đó, các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội cần chủ động đầu tư hạ tầng mạng, tuyển dụng thêm người phụ trách về công nghệ thông tin hoặc cho công chứng viên, nhân viên của tổ chức mình đi đào tạo, bồi dưỡng thêm về công nghệ thông tin.
Thứ ba, Luật Công chứng số 53/2014/QH13 đã quy định nghĩa vụ của công chứng viên trong giải thích về hợp đồng, giao dịch. Tuy nhiên, việc giải thích này lại được đặt tại một khâu trong thủ tục công chứng, cụ thể là tại khoản 4, khi công chứng viên tiếp nhận hồ sơ. Quy định này chưa hợp lý, nghĩa vụ giải thích cần được quy định xuyên suốt trong toàn bộ quá trình thực hiện thủ tục, từ tiếp nhận hồ sơ, hướng dẫn thủ tục đến thời điểm ký kết hợp đồng công chứng. Tại mỗi thời điểm khác nhau, số người yêu cầu công chứng cũng thay đổi khác nhau, cách hiểu về hợp đồng, quyền và nghĩa vụ cũng khác nhau. Thời điểm nộp hồ sơ và hoàn thiện hồ sơ thường do 1 người nộp, khi ký kết hợp đồng sẽ xuất hiện nhiều người, sau khi nghe công chứng viên giải thích, những người yêu cầu công chứng thường bàn bạc, trao đổi kỹ trước khi ký. Thực tế cho thấy, đến thời điểm ký kết hợp đồng, giao dịch, người yêu cầu công chứng vẫn thay đổi quyết định cuối cùng của mình.
Địa điểm công chứng
Địa điểm công chứng được quy định tại Điều 44 Luật Công chứng số 53/2014/QH13 vẫn được giữ nguyên như Luật Công chứng hiện hành. Như vậy, người yêu cầu công chứng vẫn phải đến trụ sở công chứng để ký kết hợp đồng, giao dịch. Quy định như vậy không tạo thuận lợi cho người yêu cầu công chứng, trong khi công chứng là một dịch vụ, dù là dịch vụ công đi chăng nữa thì bản chất vẫn là dịch vụ. Việc người yêu cầu công chứng muốn ký ngoài trụ sở, chấp nhận nộp phí dịch vụ ký ngoài trụ sở và công chứng viên sẵn sàng chấp nhận việc ký tại địa điểm mà người yêu cầu công chứng đề nghị, vậy tại sao nhà nước lại quy định hạn chế? Thực tế, tác giả đã cùng công chứng viên thực hiện công chứng ngoài trụ sở với vô vàn lý do: bên bán đông người, khó tập hợp 1 lúc trong giờ hành chính; nhà xa, đi lại khó khăn khi đến trụ sở tổ chức hành nghề công chứng; người mua muốn tạo thuận lợi cho người bán, không phải đi lại nhiều; con cái không muốn bố mẹ phải đi lại khi ký hợp đồng tặng cho, thừa kế v.v… Dù ở địa điểm nào thì thủ tục công chứng vẫn được tuân thủ chặt chẽ, hồ sơ, giấy tờ đầy đủ. Địa điểm công chứng không làm thay đổi bản chất, nội dung của hợp đồng, giao dịch, không làm thay đổi cách thức xác định nhân thân, tiếp nhận và thẩm tra hồ sơ công chứng theo thủ tục chặt chẽ mà Luật Công chứng đã quy định. Do đó, tác giả đề nghị sửa đổi quy định này, cho phép người yêu cầu công chứng và công chứng viên thỏa thuận về địa điểm công chứng. Tuy nhiên, cần quy định chặt chẽ về trách nhiệm của công chứng viên khi công chứng ngoài trụ sở bảo đảm tính pháp lý, tuân thủ chặt chẽ thủ tục công chứng (công chứng viên phải trực tiếp thực hiện, không được phép mang theo con dấu, việc đóng dấu phải thực hiện tại tổ chức hành nghề công chứng…), nâng mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực công chứng.
Thành phố Hà Nội có diện tích rất rộng, hiện nay có nhiều huyện, nhất là các huyện thuộc tỉnh Hà Tây cũ chưa có tổ chức hành nghề công chứng, nếu không cho phép người yêu cầu công chứng và tổ chức hành nghề công chứng tự do thỏa thuận về địa điểm công chứng thì người yêu cầu công chứng sẽ phải di chuyển rất bất tiện, gây tốn kém về thời gian, công sức, tiền bạc khi thực hiện hợp đồng, giao dịch, đặc biệt là với những giao dịch có sự tham gia của nhiều người như giao dịch liên quan đến thừa kế, hộ gia đình…
Công chứng việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch được quy định tại Điều 51 Luật Công chứng số 53/2014/QH13 cơ bản giữ nguyên như quy định của Luật hiện hành. Như đã phân tích ở phần thực trạng, tác giả đề nghị bỏ quy định thủ tục hủy bỏ hợp đồng ủy quyền và hợp đồng thuê nhà phải có sự đồng ý của các bên tham gia. Điều này đúng với bản chất của giao dịch, khi tài sản vẫn thuộc quyền sử dụng, sở hữu của bên ủy quyền và bên cho thuê nhà, họ có toàn quyền định đoạt tài sản của mình, do đó, việc hủy bỏ 02 loại hợp đồng này đòi hỏi sự đồng ý của các bên tham gia là không hợp lý.
Điều này cũng phù hợp với tinh thần xây dựng luật hiện nay, bảo đảm sự thống nhất của hệ thống pháp luật, tương tự như mối quan hệ giữa Bộ luật lao động và Luật tiền lương tối thiểu, do đó, cần xây dựng Luật Công chứng (với tư cách là luật chuyên ngành) quy định phù hợp và thống nhất với Bộ luật Dân sự (với tư cách là luật gốc). Luận văn: Giải pháp đảm bảo thực hiện luật công chứng tại HN
Sự phối hợp giữa tổ chức hành nghề công chứng và các cơ quan, tổ chức liên quan
Luật Công chứng số 53/2014/QH13 mới chỉ quy định về cơ chế chia sẻ thông tin cơ sở dữ liệu công chứng, giao Bộ Tư pháp chủ trì phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Xây dựng và các các bộ, ngành có liên quan hướng dẫn việc xây dựng, quản lý và khai thác cơ sở dữ liệu. Tuy nhiên, sự phối hợp quan trọng giữa các bộ này trong việc giải quyết các thủ tục hành chính thì không được Luật quy định. Để sang tên nhà đất, người yêu cầu công chứng phải thực hiện nhiều thủ tục hành chính khác nhau, mất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc.
Thành phố Hà Nội có hoạt động giao dịch công chứng rất sôi động, giao dịch về đầu tư rất lớn, việc mua bán, chuyển nhượng, sang tên, đổi chủ diễn ra với thời gian ngắn, dẫn tới xuất hiện rất nhiều hình thức “cò” dịch vụ, gây tốn kém cho xã hội, giảm niềm tin của người dân vào nhà nước và pháp luật. Để đơn giản hóa thủ tục hành chính, đảm bảo chất lượng dịch vụ, cần xây dựng cơ chế thủ tục -một cửa-, lấy các tổ chức hành nghề công chứng (có trình độ, hiểu biết về pháp luật, các thủ tục) làm trung tâm, nhận và trả kết quả tại tổ chức hành nghề công chứng. Cơ chế “một cửa” này tương tự như việc thực hiện “một cửa” trong thành lập doanh nghiệp, người dân chỉ phải nộp hồ sơ tại Phòng đăng ký kinh doanh, sau đó đến nhận chứng nhận đăng ký kinh doanh, đăng ký mã số thuế và con dấu tại Phòng đăng ký kinh doanh mà không phải đi lại nhiều lần. Tương tự như vậy, người dân nộp hồ sơ sang tên tại tổ chức hành nghề công chứng, các tổ chức hành nghề công chứng sẽ thực hiện thủ tục công chứng, các cơ quan địa chính, thuế sẽ phối hợp để thực hiện các thủ tục liên quan, sau khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng, sở hữu nhà đất, tổ chức hành nghề công chứng sẽ trả lại cho người dân.
Thủ tục công chứng một số giao dịch cụ thể
Hợp đồng ủy quyền
So với Luật Công chứng số 82/2006/QH11, việc công chứng hợp đồng ủy quyền đã được Luật Công chứng số 53/2014/QH13 quy định tại Điều 55:
Điều 55. Công chứng hợp đồng ủy quyền
- Khi công chứng các hợp đồng ủy quyền, công chứng viên có trách nhiệm kiểm tra kỹ hồ sơ, giải thích rõ quyền và nghĩa vụ của các bên và hậu quả pháp lý của việc ủy quyền đó cho các bên tham gia.
- Trong trường hợp bên ủy quyền và bên được ủy quyền không thể cùng đến một tổ chức hành nghề công chứng thì bên ủy quyền yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng nơi họ cư trú công chứng hợp đồng ủy quyền; bên được ủy quyền yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng nơi họ cư trú công chứng tiếp vào bản gốc hợp đồng ủy quyền này, hoàn tất thủ tục công chứng hợp đồng ủy quyền [45].
Theo đó, Luật Công chứng số 53/2014/QH13 đã hướng dẫn việc công chứng ủy quyền trong trường hợp bên ủy quyền và bên được ủy quyền không thể cùng đến một tổ chức hành nghề công chứng.
Tuy nhiên, Luật Công chứng số 53/2014/QH13 cần quy định về việc không cho phép hợp đồng ủy quyền có nội dung thế chấp. Các bên trong hợp đồng ủy quyền cần phải thỏa thuận cụ thể về thời hạn của hợp đồng ủy quyền, tránh trường hợp hợp đồng bị vô hiệu, không thực hiện được, dễ phát sinh tranh chấp, kiện cáo.
Công chứng văn bản về di sản thừa kế
Trong thủ tục khai nhận hoặc thỏa thuận phân chia di sản thừa kế, Luật Công chứng số 53/2014/QH13 đã bổ sung quy định niêm yết việc thụ lý công chứng văn bản về di sản thừa kế tại đoạn 2, khoản 3 Điều 57: “Tổ chức hành nghề công chứng có trách nhiệm niêm yết việc thụ lý công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản trước khi thực hiện việc công chứng” [45].
Tuy nhiên, Luật Công chứng số 53/2014/QH13 không quy định cụ thể thời gian, cách thức thực hiện việc niêm yết sẽ dẫn đến cách hiểu khác nhau. Quy định như vậy gây khó khăn cho tổ chức hành nghề công chứng, vì phải đến tận trụ sở Ủy ban nhân dân nơi cần niêm yết để thực hiện việc niêm yết. Tác giả đề nghị cách thức thực hiện như sau: khi tiếp nhận hồ sơ về di sản thừa kế, tổ chức hành nghề công chứng ban hành văn bản về việc thụ lý công chứng văn bản về di sản thừa kế, gửi đến Ủy ban nhân dân xã, phường nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú thực tế của người để lại di sản để thực hiện niêm yết. Trong thời gian 30 ngày, nếu không có cá nhân, tổ chức nào khiếu nại, tranh chấp về di sản thừa kế, Ủy ban nhân dân xã, phường nơi niêm yết xác nhận và gửi về tổ chức hành nghề công chứng. Sau đó, tổ chức hành nghề công chứng tiến hành công chứng văn bản về di sản thừa kế theo quy định.
3.2.2. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật công chứng, nâng cao ý thức pháp luật công chứng. Luận văn: Giải pháp đảm bảo thực hiện luật công chứng tại HN
Trong tình hình kinh tế – xã hội hiện nay, dưới sự tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, sức mạnh của đồng tiền, lợi ích vật chất đã ảnh hưởng không nhỏ tới các quyết định của cán bộ, công chức phụ trách lĩnh vực công chứng của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Sở Tư pháp thành phố Hà Nội, công chứng viên, nhân viên của tổ chức hành nghề công chứng, tổ chức, cá nhân có liên quan, đặc biệt là các công chứng viên, những người được nhà nước tin tưởng, giao trách nhiệm bảo đảm an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch dân sự, kinh tế, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người yêu cầu công chứng. Có những công chứng viên đã tiếp tay cho kẻ xấu, công chứng sai, công chứng ẩu, gây hậu quả nghiêm trọng và lâu dài cho cá nhân, tổ chức, xã hội và nhà nước, ảnh hưởng đến niềm tin của người dân đối với nhà nước và pháp luật. Ý thức pháp luật cán bộ, công chức phụ trách lĩnh vực công chứng của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Sở Tư pháp thành phố Hà Nội cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động công chứng, việc cho phép thành lập (hoặc không thành lập), cho phép hoạt động (hay không hoạt động) các tổ chức hành nghề công chức phụ thuộc rất nhiều vào trình độ chuyên môn, ý thức pháp luật của các cán bộ, công chức này. Ngoài ra, ý thức pháp luật của người dân, việc tuân thủ, chấp hành hay không tuân thủ, chấp hành các quy định về pháp luật công chứng không chỉ tác động đến chính bản thân người dân mà còn tác động đến nhà nước và xã hội. Thực tiễn cho thấy, có một bộ phận dân cư có hiểu biết pháp luật nói chung và pháp luật về công chứng nói riêng rất hạn chế, chưa nắm rõ về quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia giao dịch, để kẻ xấu lợi dụng, lừa đảo, chiếm đoạt tài sản… Do đó, cần thiết phải đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật công chứng và nâng cao ý thức pháp luật cho các cán bộ, công chức, công chứng viên, nhân viên tại các tổ chức hành nghề công chứng, người dân trên địa bàn thành phố Hà Nội. Để làm được điều này, cần tiến hành đồng bộ các biện pháp sau:
- Đẩy mạnh các biện pháp, đa dạng các hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật về công chứng và các quy định liên quan đến các công chứng viên và người dân. Các quy định của pháp luật, đặc biệt là các quy định về Luật Công chứng, các quy định liên quan đến công chứng như Bộ luật Dân sự, Luật hôn nhân và gia đình, Luật đất đai, Luật nhà ở, Luật cư trú, Luật hộ tịch, Luật doanh nghiệp… cần được phổ biến chi tiết đến từng người dân bằng nhiều hình thức, phương tiện khác nhau. Ủy ban nhân dân, Sở Tư pháp thành phố Hà Nội chủ động phối hợp với địa phương, đơn vị tổ chức để các công chứng viên phổ biến, tư vấn về pháp luật công chứng theo từng cụm dân cư, đơn vị để người dân có thể nắm bắt thông tin, hiểu biết và thực hiện các hợp đồng, giao dịch của cá nhân và gia đình mình một cách chủ động, chính xác và đúng quy định của pháp luật, tiết kiệm thời gian, công sức và tiền bạc.
- Đẩy mạnh phổ biến, giáo dục pháp luật có liên quan trực tiếp đến quyền và trách nhiệm công vụ, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của các tổ chức đoàn thể xã hội để các chủ thể pháp luật nắm được đầy đủ các quyền và nghĩa vụ, cơ chế bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó. Đội ngũ cán bộ, công chức phụ trách lĩnh vực công chứng tại Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và Sở Tư pháp thành phố Hà Nội cần được nâng cao kỹ năng truyền thông về pháp luật, trách nhiệm giải thích và hướng dẫn pháp luật trong lĩnh vực mình phụ trách.
- Các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội và bản thân các công chứng viên cần tích cực, chủ động giao lưu, tổ chức, tham gia các Hội nghị, Hội thảo trao đổi về chuyên môn, nghiệp vụ. Ý thức pháp luật nghề nghiệp của các công chứng viên càng cao thì hoạt động thực hiện pháp luật của các công chứng viên càng đúng đắn và chính xác. Với mục đích bảo đảm an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ của không chỉ các công chứng viên, mà còn cả những người giúp việc cho các công chứng viên tại các tổ chức hành nghề công chứng, các nhân viên về lưu trữ và nhập cơ sở dữ liệu công chứng. Sở Tư pháp thành phố Hà Nội với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp đối với các tổ chức hành nghề công chứng cần tích cực, chủ động xây dựng, tổ chức chương trình Hội nghị, Hội thảo, các lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ công chứng cho công chứng viên, nhân viên của các tổ chức hành nghề công chứng.
- Huy động các lực lượng xã hội tham gia cùng với Nhà nước trong việc phổ biến, giải thích pháp luật đến từng người dân, từng cán bộ, công chức nhà nước và các cán bộ của tổ chức đoàn thể xã hội, tạo nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật một cách tự giác của mỗi người dân. Đồng thời, phát huy vai trò tự quản và công tác vận động, thuyết phục nhân dân chấp hành pháp luật của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên, Ban công tác Mặt trận và các tổ chức thành viên ở cộng đồng khu dân cư.
3.2.3. Nâng cao năng lực và trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước Luận văn: Giải pháp đảm bảo thực hiện luật công chứng tại HN
Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Sở Tư pháp thành phố Hà Nội thực hiện quản lý nhà nước về công chứng cần tích cực, chủ động trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, ban hành văn bản chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn nghiệp vụ kịp thời, đúng quy định, nhằm phát hiện và giải quyết những bất cập nảy sinh trong quá trình thực hiện, phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của thành phố trong từng thời kỳ. Nâng cao năng lực, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là trách nhiệm của người đứng đầu trong việc tổ chức thi hành, áp dụng pháp luật công chứng, cán bộ, công chức làm việc trong lĩnh vực công chứng phải nắm bắt và hiểu biết sâu sắc các quy định của pháp luật trong lĩnh vực này. Xác định rõ trách nhiệm của cán bộ, công chức trong quá trình giải quyết công việc của dân, của tổ chức, gắn trách nhiệm với quyền lợi, với công việc chuyên môn của từng cán bộ, công chức trên cơ sở đầu việc được giao. Đồng thời thường xuyên bồi dưỡng, trang bị những kiến thức pháp luật cơ bản liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của tổ chức để người thực thi công vụ phải hiểu pháp luật và giải quyết công việc trên cơ sở pháp luật. Cán bộ, công chức có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, chính xác và kịp thời các thông tin pháp luật đến các tổ chức hành nghề công chứng, cá nhân, tổ chức. Phát huy tính chủ động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc lấy pháp luật làm nền tảng ứng xử trong việc giải quyết các mối quan hệ xã hội. Trong quản lý nhà nước, cần thực hiện các giải pháp cụ thể sau:
- Chỉ đạo tăng cường phối hợp, chia sẻ thông tin giữa Sở Tư pháp, các tổ chức hành nghề công chứng với Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Xây dựng, Phòng Tài nguyên và Môi trường, Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất các quận, huyện, thị xã trên địa bàn thành phố. Ban hành quy chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước và tổ chức hành nghề công chứng liên quan đến hoạt động công chứng. Đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện và điều chỉnh phù hợp với thực tế.
- Để đơn giản hóa thủ tục hành chính, đảm bảo chất lượng dịch vụ, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cần chỉ đạo xây dựng cơ chế thủ tục -một cửa-, lấy các tổ chức hành nghề công chứng (có trình độ, hiểu biết về pháp luật, các thủ tục) làm trung tâm, nhận và trả kết quả tại tổ chức hành nghề công chứng. Cơ chế “một cửa” này tương tự như việc thực hiện “một cửa” trong thành lập doanh nghiệp, người dân chỉ phải nộp hồ sơ tại Phòng đăng ký kinh doanh, sau đó đến nhận chứng nhận đăng ký kinh doanh, đăng ký mã số thuế và con dấu tại Phòng đăng ký kinh doanh mà không phải đi lại nhiều lần. Tương tự như vậy, người dân nộp hồ sơ sang tên tại tổ chức hành nghề công chứng, các tổ chức hành nghề công chứng sẽ thực hiện thủ tục công chứng, các cơ quan địa chính, thuế sẽ phối hợp để thực hiện các thủ tục liên quan, sau khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng, sở hữu nhà đất, tổ chức hành nghề công chứng sẽ trả lại cho người dân.
- Quy định bắt buộc tất cả tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn thành phố kết nối và cập nhật dữ liệu nhanh chóng, chính xác vào Chương trình quản lý thông tin ngăn chặn và thông tin về hợp đồng, giao dịch đã công chứng (UCHI).
- Triển khai thực hiện “Quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020” trên địa bàn thành phố Hà Nội, nghiên cứu, khảo sát tình hình thực tế để điều chỉnh cho phù hợp. Đẩy mạnh xã hội hóa công chứng để huy động một lực lượng đông đảo các công chứng viên tham gia vào hoạt động công chứng, đáp ứng nhu cầu của tổ chức, cá nhân có nhu cầu công chứng, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của Thủ đô.
- Nghiên cứu, xúc tiến thành lập Quỹ bảo hiểm hành nghề công chứng để hỗ trợ các tổ chức hành nghề công chứng trong việc mua bảo hiểm nghề nghiệp và bồi thường khi xảy ra thiệt hại.
- Quan tâm hỗ trợ địa điểm làm việc, đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc, công nghệ thông tin… cho các Phòng Công chứng để hoạt động có hiệu quả.
- Ban hành mức trần thu lao công chứng phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của thành phố theo từng thời kỳ, bảo đảm cân bằng giữa việc tạo động lực tài chính hợp lý cho tổ chức hành nghề công chứng, các công chứng viên hành nghề và thu nhập bình quân của người dân trên địa bàn thành phố Hà Nội.
3.2.4. Tăng cường giám sát, thanh tra, kiểm tra, khen thưởng và xử lý vi phạm Luận văn: Giải pháp đảm bảo thực hiện luật công chứng tại HN
Hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm tra là một trong những hoạt động quản lý, mang tính quyền lực nhà nước đối với các chủ thể có thẩm quyền. Kết quả hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm tra giúp cơ quan quản lý nắm bắt được công việc của đối tượng quản lý, bảo đảm công vụ được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, có tác dụng ngăn ngừa, răn đe đối với các hành vi phạm pháp luật. Hoạt động này góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động công chứng, ngăn chặn và khắc phục tình trạng vi phạm pháp luật của tổ chức hành nghề công chứng, công chứng viên và người yêu cầu công chứng. Không những vậy, công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra còn có vai trò tổng kết thực tiễn, qua đó đánh giá được những điểm được và chưa được, giúp cho các cơ quan nhà nước có cơ sở thực tiễn đưa ra những giải pháp, quy định đúng đắn, từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy hoạt động công chứng phát triển. Để bảo đảm thực hiện pháp luật công chứng, cần thực hiện đồng bộ các nội dung sau:
- Đẩy mạnh hoạt động giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội, Mặt trận Tổ quốc thành phố Hà Nội đối với pháp luật về công chứng. Trên cơ sở Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân, Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, hoạt động giám sát cần đi vào thực chất, tổ chức giám sát chuyên đề, nội dung tập trung vào các vấn đề nổi cộm hiện nay như chất lượng công chứng viên, chất lượng văn bản công chứng, việc thành lập tổ chức hành nghề công chứng…, tăng cường đối thoại, làm việc với cá nhân, tổ chức yêu cầu công chứng để điều chỉnh hoạt động áp dụng pháp luật đạt chất lượng, hiệu quả. Tăng cường phối hợp giám sát giữa ba cơ quan trong lĩnh vực công chứng nhằm tiết kiệm kinh phí, tăng chất lượng, hiệu quả giám sát. Ngoài ra, cần kết hợp giữa hoạt động giám sát và hoạt động thanh tra, kiểm toán.
- Sở Tư pháp thành phố Hà Nội với vai trò là cơ quan tham mưu cho Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội trong việc quản lý nhà nước về công chứng cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm tại các tổ chức hành nghề công chứng, đặc biệt là xử phạt nghiêm các hành vi vi phạm của công chứng viên, bảo đảm việc thực hiện pháp luật công chứng luôn đúng đắn và chính xác. Thanh tra của Sở Tư pháp thành phố Hà Nội cần thực hiện các nội dung thanh tra chuyên đề, tổ chức thanh tra trực tiếp, toàn diện các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội. Để hoạt động này được thực hiện tốt, cần hoàn thiện tổ chức bộ máy cơ quan thành tra, tăng cường số lượng cũng như chất lượng cán bộ, công chức thanh tra, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kinh nghiệm cũng lĩnh vực thanh tra cũng như lĩnh vực công chứng, không chỉ nắm vững quy định của pháp luật mà còn phải có kinh nghiệm thực tiễn trong hoạt động công chứng.
- Tăng cường xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, công chứng viên, người yêu cầu công chứng trong hoạt động công chứng. Bảo đảm mọi hành vi trái pháp luật đều bị xử lý, bất kể người vi phạm có vị trí xã hội, nghề nghiệp, thành phần xuất thân nào. Việc xử lý cần nghiêm minh, kịp thời, không thiên vị, đặc biệt là đối với hành vi trái pháp luật của các công chứng viên vì hành vi trái pháp luật của công chứng viên sẽ xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, ảnh hưởng đến an toàn pháp lý của hợp đồng, giao dịch, gây mất trật tự, an toàn xã hội. Tùy thuộc tính chất, mức độ của hành vi trái pháp luật, người vi phạm có thể bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm, công khai hoá các hành vi vi phạm trong việc tổ chức thực thi pháp luật, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, thiết thực trong việc tuân thủ pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức và cộng đồng dân cư.
- Xây dựng và nhân rộng các gương điển hình tiên tiến trong công tác tổ chức thực hiện pháp luật, nhân rộng các hình thức thu hút đông đảo nhân dân tham gia đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật ngay tại khu dân cư. Thực hiện tốt công tác khen thưởng đối với tập thể, gia đình, cá nhân và khu dân cư thực hiện tốt việc chấp hành pháp luật; khen thưởng đối với tổ chức, cá nhân tích cực trong công tác truyền thông, vận động chấp h ành pháp luật ở cở sở, cộng đồng dân cư.
KẾT LUẬN
Qua thực tiễn thực hiện pháp luật công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội cho thấy, chủ trương xã hội hóa trong lĩnh vực công chứng là đúng đắn, đã tạo điều kiện thuận tiện cho người dân trong việc thực hiện các yêu cầu công chứng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Đặc biệt, hoạt động công chứng đã góp phần quan trọng vào việc phòng ngừa các tranh chấp, khiếu nại trong lĩnh vực đất đai, nhà ở – lĩnh vực vốn phức tạp và tiềm ẩn nhiều nguy cơ tranh chấp. Không thể phủ nhận công chứng là “lá chắn” phòng ngừa hữu hiệu, đảm bảo an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, tiết kiệm thời gian, chi phí cho xã hội, giảm thiểu “gánh nặng” pháp lý cho Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự.
Tuy nhiên, qua 07 năm thi hành, việc thực hiện pháp luật công chứng cho thấy vẫn còn những bất cập, hạn chế nhất định như: Tiêu chuẩn công chứng viên quy định còn đơn giản; thời gian đào tạo nghề ngắn, cơ sở đào tạo nghề chưa đáp ứng được yêu cầu; chưa quy định về quyền, nghĩa vụ của công chứng viên cũng như người tập sự hành nghề công chứng, đối tượng miễn đào tạo nghề, miễn tập sự hành nghề công chứng rộng nên chất lượng công chứng viên được bổ nhiệm thấp, có nhiều sai sót khi công chứng hợp đồng giao dịch. Tiêu chuẩn thành lập văn phòng công chứng chưa chặt chẽ; quy hoạch ban hành chậm và thiếu cơ sở pháp lý; thiếu sự kiểm tra, thanh tra sau khi cho phép thành lập tổ chức hành nghề công chứng; chưa có quy định về việc chuyển đổi mô hình Văn phòng công chứng do một công chứng thành lập sang mô hình Văn phòng công chứng do 02 công chứng viên trở lên thành lập và ngược lại; nghĩa vụ của các tổ chức hành nghề công chứng chưa chặt chẽ, đặc biệt về việc thực hiện lưu trữ hồ sơ công chứng và mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên, chưa quy định việc chia sẻ và khai thác cơ sở dữ liệu công chứng giữa tổ chức hành nghề công chứng và các cơ quan liên quan. Thủ tục công chứng chưa cụ thể, chi tiết, chưa thuận tiện, chưa có sự phối hợp, liên thông với các thủ tục hành chính khác liên quan, khiến người yêu cầu công chứng phải mất nhiều thời gian, công sức; một số thủ tục công chứng chưa hợp lý, còn chồng chéo, mâu thuẫn với các quy định của pháp luật, gây lúng túng, khó khăn cho công chứng viên khi hành nghề…
Để thực hiện pháp luật công chứng đi vào cuộc sống, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tác giả đưa ra một số định hướng và giải pháp cụ thể bảo đảm thực hiện pháp luật công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội trên các phương diện: công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng và thủ tục công chứng. Các giải pháp đưa ra quán triệt định hướng về việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, bảo đảm khả thi, bảo đảm an toàn pháp lý và thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp nhằm mục tiêu bảo đảm an toàn pháp lý cho các giao dịch dân sự, kinh tế, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia giao dịch, đáp ứng yêu cầu công cuộc phát triển kinh tế, cải cách hành chính, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Luận văn: Giải pháp đảm bảo thực hiện luật công chứng tại HN
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Pháp luật công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội