Luận văn: Biện pháp nâng cao chất lượng BCKT tại Cty niêm yết

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Biện pháp nâng cao chất lượng BCKT tại Cty niêm yết hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Giải pháp nâng cao chất lượng thông tin trên BCKT của các công ty niêm yết ở Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

4.1 Thực trạng về hoạt động kiểm toán độc lập trong thời gian qua tại Việt Nam

Qua hơn 20 năm hình thành và phát triển ngành KTĐL, dưới sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, sự nỗ lực của Bộ Tài chính và các Bộ, ngành, địa phương, tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán, các công ty kiểm toán. Ngành KTĐL nước ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trong việc phát triển cả về quy mô và chất lượng dịch vụ; thực hiện mục tiêu góp phần công khai, minh bạch BCTC của các DN, tổ chức góp phần làm lành mạnh môi trường đầu tư; chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí tài sản; phát hiện và ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật.

Có thể thấy kế toán – kiểm toán là công cụ quản lý quan trọng có chức năng tạo lập hệ thống thông tin về kinh tế – tài chính – ngân sách phục vụ cho việc điều hành và quyết định kinh tế của Nhà nước cũng như của mỗi đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp. Vì vậy, cần nâng cao chất lượng thông tin; đồng thời tạo lập đầy đủ hệ thống thông tin kế toán – kiểm toán. Điểm lại những thành tựu và kết quả mà hoạt động KTĐL đã mang lại trong thời gian qua như sau:

4.1.1 Tình hình về số lượng, cơ cấu và loại hình của các Công ty KTĐL Luận văn: Biện pháp nâng cao chất lượng BCKT tại Cty niêm yết

  • Số lượng Công ty kiểm toán tới thời điểm 28/02/2013 như sau:
  • 05 Công ty 100% vốn nước ngoài (E&Y, PwC, KPMG, Deloitte, Grant Thornton)
  • 05 Công ty có vốn đầu tư nước ngoài (E Jung, Mazars, HSK, Immanuel, S&S)
  • 145 Công ty TNHH
  • 01 Công ty hợp danh (CPA VN)

Từ năm 2009 đến hết năm 2012 có 66 công ty kiểm toán ngừng hoạt động, sáp nhập hoặc ngừng cung cấp dịch vụ kiểm toán, đã báo cáo với Bộ Tài chính và VACPA, trong đó năm 2012: Có 01 công ty ngừng hoạt động Công ty Biên Hòa, 02 công ty sáp nhập thành 01 công ty.

Cơ cấu loại hình Công ty

Trong năm 2012 có một số thay đổi lớn ở một số công ty kiểm toán, cụ thể như sau:

  • Các Công ty sáp nhập, gồm: Công ty TNHH Kiểm toán QG VN (MEKONG NAG) nhận sáp nhập Công ty TNHH Kiểm toán Quốc tế Việt Nam (VIA) và đổi tên thành Công ty TNHH Kiểm toán Quốc gia (VIA AUDIT).

Các công ty thay đổi tên, gồm:

  • Công ty TNHH Dịch vụ Tài chính Kế toán và Kiểm toán 3T đổi tên thành Công ty TNHH Kiểm toán Đại Dương;
  • Công ty TNHH Kiểm toán Vũ Hồng đổi tên thành Công ty TNHH Kiểm toán I.T.O;
  • Công ty TNHH Kiểm toán và Tư vấn đổi tên thành Công ty TNHH Kiểm toán và Tư vấn A&C.
  • Trong năm 2012, cả nước đã có 05 công ty kiểm toán mới thành lập theo hình thức công ty TNHH có từ 2 thành viên trở lên, gồm: Công ty TNHH Ecovis STT Việt Nam, Công ty TNHH Kiểm toán và Tư vấn Tài chính Châu Á, Công ty TNHH Kế toán và Kiểm toán Phương Nam, Công ty TNHH Kiểm toán CPA, Công ty TNHH Kiểm toán và Tư vấn TNP.
  • Năm 2012 có 43 công ty kiểm toán được Ủy Ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận đủ điều kiện kiểm toán công ty niêm yết. Năm 2013, tính đến ngày 18/3/2013, có 42 công ty kiểm toán được chấp thuận đủ điều kiện kiểm toán công ty niêm yết năm 2013.

Loại hình công ty

Tính đến 31/12/2012, tổng số văn phòng và chi nhánh các công ty kiểm toán trên cả nước là 220 văn phòng, chi nhánh, ngoài ra còn có 5 văn phòng đại diện. Các văn phòng, chi nhánh tập trung chủ yếu tại Hà Nội (97 văn phòng) và TP.HCM (97 văn phòng). Số còn lại rải rác tại các tỉnh, thành phố lớn trong cả nước: Đà Nẵng (7), Hải Phòng (6), Cần Thơ (3), Quảng Ninh (3), Thanh Hóa (3), Nha Trang (3), Đồng Nai (1), Quảng Nam (1), Lạng Sơn (1).

Đến 10/3/2013, ngoài 4 công ty kiểm toán có 100% vốn đầu tư nước ngoài là thành viên hãng PwC, KPMG, E&Y, Grant Thornton, cả nước đã có 12 Công ty kiểm toán là thành viên của các hãng kiểm toán quốc tế, 11công ty là thành viên Hiệp hội và 01 công ty là

Hãng đại diện liên lạc.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế

4.1.2 Đội ngũ kiểm toán viên và nhân viên kiểm toán

Theo số liệu báo cáo của 147 Công ty, tính đến 31/12/2012 có 10.070 người làm việc trong các công ty kiểm toán, trong đó có 8.836 nhân viên chuyên nghiệp và 1.385 nhân viên khác; 1.582 người có chứng chỉ kiểm toán viên, trong đó có 192 người vừa có chứng chỉ KTV Việt Nam vừa có chứng chỉ KTV nước ngoài; 129 người có chứng chỉ KTV nước ngoài. Đến hết năm 2012 đã có 2.445 người được cấp chứng chỉ KTV cấp nhà nước, trong đó, tính đến 20/3/2012 có 1.206 KTV đăng ký hành nghề kiểm toán năm 2012, bằng 94 % so với năm 2011 là (1.277) người. Đến 28/02/2013có 1.370 KTV đăng ký hành nghề kiểm toán năm 2013 (Kỳ thi CPA năm 2012, số lượng đạt chứng chỉ CPA Việt Nam là 271 người). Ngoài ra, có khoảng trên 1.000 người có chứng chỉ KTV Việt Nam không đăng ký hành nghề kiểm toán. Nhìn chung, trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp của đội ngũ KTV đã được nâng cao. Nhiều kiểm toán viên có kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn tốt, có ý thức tuân thủ các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp, chuẩn mực kiểm toán; có kỹ năng và phong cách làm việc chuyên nghiệp. Tuy nhiên số lượng KTV vẫn còn thiếu so với nhu cầu hiện nay.

4.1.3 Cơ cấu khách hàng và doanh thu cung cấp dịch vụ Luận văn: Biện pháp nâng cao chất lượng BCKT tại Cty niêm yết

Theo báo cáo của 147 Công ty, số lượng khách hàng năm 2012 của toàn ngành là 32.702 khách hàng, tỷ lệ tăng thấp khoản 4.9% so với năm 2011 (năm 2011 là 31.184 khách hàng). Trong đó, khách hàng là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 1.110 khách hàng (10.8%) so với năm 2011 (năm 2011 là 10.270 khách hàng); khách hàng là Công ty TNHH, CP, DNTN, HTX tăng 104 khách hàng (0.8%) so với năm 2011.

Tuy số lượng khách hàng tăng không đáng kể (4,9%), nhưng doanh thu năm 2012 của ngành kiểm toán tăng 24.7%. Doanh thu năm 2011 là 3.047 tỷ đồng, doanh thu năm 2012 là 3.799 tỷ đồng; trong đó doanh thu dịch vụ kiểm toán có tỷ trọng cao nhất 2.147 tỷ đồng (chiếm 57%). Số nộp ngân sách nhà nước trong năm 2012 là 587 tỷ đồng (tăng 6.9% so với năm 2011). Tỷsuất lợi nhuận trên doanh thu đạt 0.87% và trên vốn đạt 4.15%.

Trong 4 công ty kiểm toán lớn nhất (big4) thì 3 công ty E&Y, PwC và Deloitte đều có lãi, chỉ có công ty KPMG bị lỗ do doanh thu cung cấp dịch vụ giảm sút nhẹ, trong khi các khoản chi phí hoạt động như chi phí nhân viên, dự phòng nợ khó đòi và chi phí tài chính tăng.

Như vậy qua những phân tích kể trên kết hợp với các số liệu thống kê của VACPA thì có thể dễ dàng nhận thấy thị trƣờng KTĐL Việt Nam hiện nay được chia làm 3 nhóm rất rõ rệt (theo số liệu thống kê tính đến ngày 28/02/2013 của VACPA) đó là :

Nhóm 1 (các công ty kiểm toán có quy mô lớn, Big Four) : Bao gồm các công ty Deloitte, KPMG, E&Y, PwC với mức doanh thu trên 100 tỷ đồng trở lên (bình quân hàng năm đều vượt trên mức 500 tỷ đồng) với số lượng khách hàng bình quân hàng năm trên 1.100 khách hàng, số lượng nhân viên bình quân dao động từ 500-750 người trong đó có khoảng từ 60-100 KTV.

Nhóm 2 (các công ty kiểm toán có quy mô vừa) : bao gồm những DNKT như A&C, DTL, AASC, AISC, AFC…với mức doanh thu bình quân khoảng từ xấp xỉ 40-100 tỷ đồng/năm, số lượng khách hàng dao động trong khoảng từ 400-1000 đơn vị/năm, số lượng nhân viên bình quân từ 100-300 nhân viên trong đó có khoảng từ 20 – 50 KTV.

Nhóm 3 (các công ty kiểm toán quy mô nhỏ còn lại) : ngoại trừ một số ít 91 các công ty kiểm toán có doanh thu bình quân từ 25 tỷ đồng/năm trở lên và số lượng nhân viên từ 60-70 người trong đó có khoảng dưới 15 KTV thì đa số còn lại các công ty thuộc nhóm này đều có doanh thu dưới mức 5 tỷ đồng, cá biệt có những đơn vị chỉ đạt được vài trăm triệu đồng như SCCT, S.A, Đại Dương, HSAC.

4.2 Thực trạng về phân tích thông tin tài chính ở thị trường Việt Nam Luận văn: Biện pháp nâng cao chất lượng BCKT tại Cty niêm yết

Phân tích cơ bản là một kỹ thuật dùng để xác định giá trị thực của một chứng khoán bằng cách tập trung vào các yếu tố cơ bản có ảnh huởng đến hoạt động kinh doanh hiện tại và triển vọng phát triển trong tuơng lai của công ty. Trên một phương diện rộng hơn, chúng ta có thể tiến hành phân tích cơ bản để phân tích tổng quan về ngành kinh doanh hoặc nền kinh tế nói chung. Một cách đơn giản, phân tích cơ bản thiên về phân tích tính lành mạnh về mặt kinh tế của một thực thể tài chính hơn là phân tích sự dao động về giá của chứng khoán.

Trong phân tích cơ bản, các yếu tố cơ bản có thể bao gồm tất cả các yếu tố liên quan đến tình hình tài chính của một công ty và các yếu tố khác từ thị phần của công ty đến chất lượng của ban quản trị. Nhìn chung, có thể chia các yếu tố cơ bản thành 2 nhóm: nhóm các yếu tố định luợng và nhóm các yếu tố định tính.

Phân tích các yếu tố định lượng

Nội dung lớn nhất của phân tích cơ bản là đi sâu phân tích các BCTC. Còn được hiểu là phân tích định luợng, việc phân tích này liên quan đến việc xem xét doanh thu, chi phí, tài sản, nợ và tất cả các khía cạnh tài chính khác của một công ty. Các nhà phân tích cơ bản xem xét các thông tin này để đạt được sự hiểu biết thấu đáo về tình hình hoạt động hiện tại và trong tương lai của công ty. Báo cáo kết quả kinh doanh, Bảng cân đối kế toán và Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là các thành phần chính của báo cáo tài chính.

Phân tích báo cáo kết quả kinh doanh

Báo cáo kết quả kinh doanh là báo cáo tài chính cơ bản được lập định kỳ. Báo cáo này bao gồm hầu hết các vấn đề thường được thảo luận về kết quả hoạt động kinh doanh của một công ty như doanh thu, thu nhập, thu nhập trên một cổ phần. Về cơ bản, báo cáo kết quả kinh doanh cho biết số tiền mà công ty kiếm được, chi phí đã bỏ ra và sự khác nhau giữa số lợi nhuận thu được qua hai thời kỳ xác định.

Nhà đầu tư có thể đạt được sự hiểu biết thấu đáo về công ty bằng việc xem xét; đánh giá báo cáo kết quả kinh doanh. Cụ thể hơn, tăng trưởng về doanh thu là dấu hiệu đầu tiên cho thấy các yếu tố cơ bản vững mạnh, lợi nhuận thuần tăng cho thấy hiệu quả hoạt động và khả năng sinh lợi tăng. Bên cạnh đó, nhà đầu tư cần xem xét xem công ty có đang hoạt động theo xu hướng chung của nghành và các đối thủ cạnh tranh hay không.

Phân tích bảng cân đối kế toán

Bảng cân đối kế toán, còn được hiểu là báo cáo về tình hình tài chính, cho nhà đầu tư biết công ty đang sở hữu bao nhiêu tài sản, công ty đang nợ bao nhiêu và nguồn vốn của công ty (chênh lệch giữa tài sản và nợ)

Bảng cân đối kế toán cung cấp cho các nhà đầu tư rất nhiều thông tin cơ bản về công ty: công ty nợ bao nhiêu, phải thu khách hàng bao nhiêu (bao lâu thì thu xong), tiền và các khoản tương đương tiền công ty đang sở hữu và các quỹ đã được lập trong quá trình hoạt động.

Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ

Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cho biết số tiền thực mà công ty kiếm được, nó cũng cho thấy khả năng chi trả của công ty cho hoạt động kinh doanh hiện tại và tăng trưởng trong tương lai.

Quả thực, một trong những chức năng quan trọng nhà đầu tư nên xem xét khi đầu tư vào một công ty là khả năng tạo ra tiền của công ty đó. Điều đó đơn giản là vì một công ty cho thấy lợi nhuận trên báo cáo kết quả kinh doanh không có nghĩa là công ty đó sẽ không có những khó khăn sau đó do sự thiếu hụt về dòng tiền. Xem xét một cách kỹ lưỡng báo cáo lưu chuyển tiền tệ có thể cung cấp cho nhà đầu tư một sự đánh giá tốt hơn về hoạt động kinh doanh của công ty.

Vấn đề quan trọng là cần phải xem xét xu hướng của các tỷ số này để thấy được tính thanh khoản của công ty đang được cải thiện hay đang giảm sút.

Phân tích các yếu tố định tính

Phân tích các yếu tố định tính của công ty

Ngoài việc phân tích báo cáo tài chính như được đề cập ở trên, có một số những nhân tố định tính đặc trưng về công ty mà chúng ta cần phải quan tâm.

Mô hình kinh doanh

Trước khi đi vào xem xét các báo cáo tài chính của một công ty, một trong những câu hỏi quan trọng nhà đầu tư nên được đặt ra là: công ty đó đang kinh doanh gì? Câu hỏi đó đề cập tới mô hình kinh doanh của một công ty – công ty tạo ra tiền như thế nào. Nhà đầu tư nên tìm hiểu mô kinh doanh của một công ty trước khi có quyết định đầu tư và không nên đầu tư vào những nghành nghề mà nhà đầu tư không am hiểu.

Lợi thế cạnh tranh

Một vấn đề khác mà các nhà đầu tư quan tâm là lợi thế cạnh tranh của công ty. Một công ty muốn thành công lâu dài thì đều phải có khả năng duy trì ưu thế cạnh tranh của mình. Sức mạnh của ưu thế cạnh tranh sẽ tạo ra một hàng rào bảo vệ doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp kiềm giữ các đối thủ của mình để có được sự phát triển và thu lợi nhuận.

Ban quản lý

Mỗi công ty đều phải dựa vào ban quản trị để đạt được thành công. Một số người cho rằng chất lượng của ban quản trị là một trong những khía cạnh quan trọng nhất cần xét khi đầu tư vào một công ty. Điều này là hợp lý vì thậm chí khi mô hình kinh doanh tốt nhất cũng sẽ không cho kết quả như mong đợi nếu ban quản trị gặp thất bại trong khi thực hiện các kế hoạch kinh doanh.

Quản trị công ty

Khái niệm quản trị công ty mô tả các chính sách được thực thi tại một tổ chức qua đó biểu hiện mối quan hệ và trách nhiệm giữa ban quản lý và các cổ đông. Mục đích của các chính sách quản trị công ty là để đảm bảo rằng việc kiểm tra phù hợp được thực thi nhằm ngăn cản các cá nhân tiến hành những hoạt động không chung thực và phi pháp.

Phân tích các yếu tố định tính của ngành

Mỗi ngành có các sự khác biệt về mặt khách hàng, về thị phần giữa các công ty, về sự phát triển của nghành, sự cạnh tranh, về các quy định và chu kỳ kinh doanh. Nghiên cứu về các hoạt động của ngành sẽ cung cấp cho nhà đầu tư sự hiểu biết sâu hơn về tình hình tài chính của công ty.

Khách hàng

Một số công ty chỉ phục vụ một nhóm khách hàng, trong khi các công ty khác thì lại phục vụ cho hàng triệu khách hàng. Nhìn chung, nếu một công ty chỉ kinh doanh dựa trên một số lượng khách hàng nhỏ thì đây là một dấu hiệu đáng báo động vì nếu mất đi một lượng khách hàng nhỏ cũng có thể ảnh hưởng đáng kể đến doanh số của công ty.

Thị phần

Hiếu biết về thị phần hiện tại của công ty phần nào giúp nhà đầu biết được tình hình kinh doanh của công ty đó. Thực tế là khi một công ty sở hữu 85% thị phần, thì ta có thể nói đó là công ty lớn nhất trong thị trường. Hơn nữa, điều đó cũng nói lên rằng công ty đã sở hữu một hàng rào kinh tế, nói cách khác, một rào cản để bảo vệ thu nhập hiện tại và tương lai cùng với thị phần của công ty. Khi một công ty chiếm thị phần lớn hơn các công ty khác thì nó sẽ có vị thế tốt hơn trong việc phân bổ chi phí cố định của ngành công nghiệp cần đầu tư nhiều vốn.

Tăng trưởng ngành

Để đánh giá tiềm năng tăng trưởng của một công ty thì trước tiên cần phải nghiên cứu xem có sự tăng trưởng về số lượng khách hàng trong thị trường chung hay không. Điều này rất quan trọng, vì nếu một công ty không có khách hàng mới thì công ty đó phải biết cách giành lấy thị phần để phát triển.

Sự cạnh tranh

Việc quan sát một số đối thủ cạnh tranh trong nghành của một công ty phần nào sẽ giúp nhà đầu tư biết được khả năng cạnh tranh của công ty của công ty đó. Các ngành có ít rào cản và nhiều đối thủ cạnh tranh sẽ tạo môi trường kinh doanh khó khăn cho các công ty.

Quy định

Một số ngành bị quy định chặt chẽ vì tính quan trọng của sản phẩm hay dịch vụ của nghành. Cũng như tầm quan trọng của một số quy định đối với công chúng, các quy định này có thể gây ảnh hưởng mạnh đến việc thu hút vốn đầu tư của công ty.

Nhà đầu tư nên luôn xem xét kỹ các quy định có thể ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động kinh doanh của một công ty. Nhà đầu tư cũng nên tính đến những chi phí tiềm tàng do việc thay đổi quy định gây ra khi ước tính chi phí và thành quả của việc đầu tư.

4.3 Khảo sát thực tế về chất lượng thông tin trình bày trên BCKT về BCTC Luận văn: Biện pháp nâng cao chất lượng BCKT tại Cty niêm yết

Để có cái nhìn tổng quát về nghiên cứu này, tác giả đã sử dụng kết hợp cả phương pháp định lượng và phương pháp định tính để thu thập các thông tin, tài liệu trong đó chủ yếu là sử dụng phương pháp định tính. Tác giả đã tiến hành việc thu thập các tài liệu thông tin tài chính trình bày trên BCKT về BCTC, tiến hành công tác tổng hợp và phân tích sâu đối với các tài liệu này nhằm mục đích đưa ra những giải pháp cũng như các khuyến nghị trong chương sau với mục tiêu là sẽ hướng đến việc những kiến nghị đó mang tính thuyết phục cao, có tính khả thi và xác đáng với các tiêu chí phân loại trên cơ sở các mối quan hệ chủ yếu của các chủ thể tham gia trong hoạt động KTĐL tại thị trường nước ta. Cụ thể, quá trình khảo sát cũng như kết quả của cuộc khảo sát được thực hiện và diễn ra theo quá trình chi tiết như sau:

4.3.1 Đối tượng và phạm vi khảo sát

Đối tượng của cuộc khảo sát là những nhà đầu tư, chuyên viên mô giới chứng khoán, chuyên viên tín dụng ngân hàng, chuyên viên kiểm tra thuế và chuyên viên kiểm toán có liên quan đến quá trình tiếp nhận thông tin từ BCKT về BCTC đem lại.

Đi vào chi tiết, đối tượng của cuộc khảo sát trong luận án này được thực hiện thông qua nguồn cụ thể sau như sau:

  • Về lĩnh vực hoạt động: đề tài đã tiến hành khảo sát tiến hành khảo sát tại nhiều loại hình khác doanh nghiệp khác nhau mà các đối tượng này thường xuyên sử dụng thông tin trên BCKT về BCTC, bao gồm: bộ phận thẩm tín định tín dụng của ngân hàng, bộ phận mô giới chứng khoán của các công ty chứng khoán, các .DNKT đang kinh doanh dịch vụ KTĐL
  • Về vị trí của các đối tượng trong đơn vị được khảo sát: đề tài đã khảo sát được thực hiện nhiều nhóm vị trí khác nhau bao gồm một số vị trí như: chuyên viên kiểm toán, chuyên viên mô giới chứng khoán, chuyên viên thẩm định tính dụng, chuyên viên phân tích đầu tư…

Liên quan đến phạm vi của cuộc khảo sát, đề tài có một số giới hạn về phạm vi như sau:

  • Về địa bàn khảo sát: đề tài đã thực hiện chủ yếu trong phạm vi khu vực TP. Hồ Chí Minh, vì thế đề tài không khảo sát được các tỉnh thành trong cả nước.
  • Về nội dung khảo sát: đề tài tập trung các nội dung, nhân tố liên quan hệ thống thông tin tài chính mà BCKT về BCTC đem lại cho nhà đầu tư, hướng đến việc tìm hiểu và xác định các vấn đề cần phải hoàn thiện để nâng cao chất lượng thông tin tài chính mà đơn vị cần sử dụng, không tìm hiểu chi tiết về hành vi ứng xử của nhà đầu tư khi tiếp nhận thông tin trên thị trường.

4.3.2 Nguồn dữ liệu thu thập và phân tích thực trạng Luận văn: Biện pháp nâng cao chất lượng BCKT tại Cty niêm yết

Dữ liệu sơ cấp:

Thực hiện thông qua việc thiết kế các câu hỏi định tính và định lượng kết hợp để phỏng vấn trực tiếp các chuyên gia trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán, tài chính theo phương thức gửi bảng câu hỏi trực tiếp từ đó thu thập ý kiến đánh giá của các đối tượng nghiên cứu trong phạm vi nghiên cứu, cụ thể là nhóm các đối tượng nhà đầu tư chứng khoán đang niêm yết trên sàn, nhà quản trị doanh nghiệp niêm yết và các nhân viên tín dụng ngân hàng – đại diện cho các chủ nợ thông qua bảng câu hỏi khảo sát nhằm mục đích đánh giá thông tin trên BCKT về BCTC thông qua tìm hiểu nhận thức của người sử dụng đối với các thông tin chính trên BCKT về BCTC

Dữ liệu thứ cấp:

Thu thập từ các báo cáo tổng hợp tình hình hoạt động, báo cáo kiểm tra các DNKT do VACPA; các bài viết liên quan đến đánh giá thông tin trên BCKT về BCTC của các doanh nghiệp niêm yết thông qua các báo, tạp chí, thông tin từ internet đây là các nguồn dữ liệu góp phần đáng kể cho bài nghiên cứu.

4.3.3 Nội dung của khảo sát 

4.3.3.1 Giới thiệu chung về bảng câu hỏi Luận văn: Biện pháp nâng cao chất lượng BCKT tại Cty niêm yết

Bảng câu hỏi khảo sát được tiến hành thực hiện bắt đầu bằng việc thiết kế bảng câu hỏi khảo sát và được gửi đến các đối tượng đang công tác trong kế toán, kiểm toán, tài chính và thuế. Các đối tượng này có liên quan đến quá trình phân tích thông tin trên BCTC mang lại để phục vụ cho mục đích sử dụng trong công việc hay cá nhân của bản thân họ. Bố cục của bảng câu hỏi được thiết kế thành hai phần rõ rệt như sau:

  • Phần I: Thông tin chung: dùng để điều tra vai trò công việc, số năm kinh nghiệm, hiện đang công tác ở Công ty nào
  • Phần II chủ yếu xoay quanh việc thu nhận định của người khảo sát về các vấn đề liên quan tới nội dung của đề tài

4.3.3.2 Nội dung chi tiết của cuộc khảo sát

Bảng câu hỏi được khảo sát tới nhiều đối tượng khác nhau trong lĩnh vực Tài Chính – Kế toán có liên quan thông tin trình bày trên BCKT về BCTC việc khảo sát đã tiến hành điều tra các nội dung có liên quan đến mảng thông tin tài chính tại các công ty niêm yết hiện nay. Bên cạnh đó,việc khảo sát cũng tìm hiểu một số hạn chế, các nguyên nhân tạo ra những hạn chế đó và cũng thu thập thêm quan điểm của những người khảo sát về các mảng khác để có sự liên kết chặt chẽ với nội dung chính của đề tài, chẳng hạn như vấn đề về trình bày các thông tin tài chính trên BCTC đã được kiểm toán có cung cấp đầy đủ thông tin mà người sử dụng cần hay chưa từ đó có thể tập hợp thêm các ý kiến, các kinh nghiệm và để đề xuất từ người trả lời nhằm hoàn thiện hơn tình hình cung cấp thông tin mà BCKT đem lại.

4.3.4 Phương pháp khảo sát Luận văn: Biện pháp nâng cao chất lượng BCKT tại Cty niêm yết

4.3.4.1 Phương pháp khảo sát

Để thuận tiên cho việc khảo sát trong thời đại công nghệ thông tin phát triển như hiện nay. Bảng câu hỏi được xây dựng nội dung kỹ lưỡng và thông qua công cụ Google form để thiết kế các dạng câu hỏi và gửi tới đối tượng khảo sát. Tuy nhiên, do hạn chế trong việc tiếp cận đối tượng nhà quản trị cấp cao trong doanh nghiệp và thời gian nghiên cứu ngắn nên nghiên cứu sẽ tập trung gửi khảo sát đến nhân viên tín dụng ngân hàng, chuyên viên phân tích tại các công ty chứng khoán, các nhà đầu tư cá nhân nhận thấy có hiểu biết về kinh tế tài chính để nâng cao tính khả thi trong việc phúc đáp bảng câu hỏi trong thời gian ngắn.

4.3.4.2 Công cụ xử lý kết quả

Để xử lý kết quả đã thu thập được thông qua việc khảo sát, đề tài đã sử dụng 2 phần mềm thông dụng sau đây để có được kết quả và trình bày thông tin về nội dung của đề tài:

  • Phần mềm SPSS được sử dụng để nhập liệu toàn bộ phương án trả lời của tất cả các bảng câu hỏi vào hệ thống. Và thực hiện các kỹ thuật phân tích của SPSS để cho ra những kết quả đáng tin cậy. Phần lớn các kỹ thuật mà đề tài sử dụng sẽ là
  • Phân tích thống kê mô tả.
  • Phân tích một số loại kiểm định chuyên dùng cho loại dữ liệu thu thập định tính.
  • Phần mềm Excel để tiến hành xử lý việc vẽ biểu đồ, đồ thị dựa vào kết quả khảo sát đã thu thập được.

4.4 Kết quả khảo sát Luận văn: Biện pháp nâng cao chất lượng BCKT tại Cty niêm yết

Để thu thập số liệu và thông tin phục vụ cho việc đánh giá một cách rõ nét hơn thực trạng chất lượng thông tin trên BCKT về BCTC ở Việt Nam trong những năm vừa qua và phân tích ảnh hưởng của các yếu tố khách quan và chủ quan tới thông tin trình bày trên BCKT về BCTC, đề tài đã điều tra phỏng vấn trực tiếp bằng cách gửi bảng khảo sát điện đến 110 đối tượng hoạt động trong lĩnh vực tài chính kế toán. Tuy nhiên vì nhiều lý do khác nhau nên chỉ có 70 bảng kết quả được trả lời nhận về (chiếm khoản 65% số lượng người khảo sát).

Bảng câu hỏi này gồm 25 câu vừa kết hợp các câu hỏi định tính và các câu hỏi định lượng. Trong đó, câu hỏi định lượng được tác giả sử dụng theo thang đo Likert 5 bậc với các mức độ cụ thể đó là mức 1 – hoàn toàn không đồng ý, mức 2 – không đồng ý, mức 3 – không kiến, mức 4 – đồng ý, mức 5 – hoàn toàn đồng ý tới chất lượng thông tin trình bày trên BCKT về BCTC (xem phụ lục số 1 – Bảng câu hỏi khảo sát).

Sau đây, đề tài xin được trình bày các kết quả từ bảng câu hỏi khảo sát mang lại sau khi sử dụng công cụ xử lý dữ liệu SPSS để cho ra các kết quả sau:

Khảo sát vấn đề liên quan tới BCTC

Bảng câu hỏi được tiến hành nhập liệu xử lý bằng công cụ SPSS, phần mềm đã thống kê được đối tượng người trả lời theo kết quả như sau:

Bảng 4.1: Thống kê đối tượng khảo sát

Đối tượng khảo sát

Như vậy theo kết quả do SPSS 20 thống kê được số lượng người trả lời bảng câu hỏi khảo sát là 70 người trong đó chuyên viên tín dụng ngân hàng là 17 người khoản 24.3%, chuyên viên phân tích tài chính là 3 người khoản 4,3%, chuyên viên đầu tư chứng khoán là 7 người khoản 10%, chuyên viên kiểm toán là 13 người khoản 18.6% và các đối tượng khác là 30 người khoản 42.9% (phần lớn các đối tượng khác là nhà đầu tư cá nhân có kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính – kế toán).

Bảng 4.2: Số năm kinh nghiệm công tác của các đối tượng khảo sát

Số năm kinh nghiệm

Từ bảng kết quả do SPSS tổng hợp có thể thấy chiếm tỉ lệ chủ yếu trong cuộc khảo sát này là những người có số năm kinh nghiệm công tác chủ yếu từ 1 năm tới 10 năm chiếm 91.4% trong bảng khảo sát của đề tài. Như vậy, với giá trị của biến ở trong khoản như trên cho thấy phần lớn các đối tượng khảo sát là những người có kinh nghiệm làm việc nhất định trong lĩnh vực Tài chính – Kế toán. Do đó, các đối tượng khảo sát sẽ cho những câu trả lời mang tính chuyên môn đáng tin cậy.

Bảng 4.3: Khảo sát mức độ tin cậy về BCKT theo số năm kinh nghiệm

Số năm kinh nghiệm * Mức độ tin cậy về BCKT Crosstabulation

Theo phân tích thống kê bằng Crosstabulation, với số lượng mẫu khảo sát là 70 người thì trong đó 31 người trả lời về độ tin cậy mà BCKT đem lại chỉ ở mức độ trung bình (chiếm 44%), 19 người không cho ý kiến về độ tin cậy của BCKT (chiếm 27%) và số người cho rằng BCKT có mức độ tin cậy cao và thấp là như nhau 10 người cho mỗi mức độ (chiếm 14% cho mỗi mức).

Từ bảng thống kê có thể thấy, có 10 người cho ý kiến về mức độ tin cậy cao nhưng chủ yếu tập trung ở những người có số năm kinh nghiệm làm việc ít (dưới 3 năm lên tới 6 người). Nhận định chung đa số của những người có kinh nghiệm lâu năm đều cho kết quả về mức độ tin cậy của họ tới BCKT ở mức trung bình nhiều nhất. Như vậy có thể thấy, xu hướng mà mẫu thể hiện xoay quanh mức độ tin cậy trung bình là chủ yếu.

Bảng 4.4: Phân tích thống kê mô tả về thông tin trên BCKT về BCTC Descriptive Statistics

Phía trên là bảng kết quả được kết xuất ra từ việc xử lý dữ liệu của 70 đối tượng được khảo sát về thông tin trên BCKT về BCTC. Bằng việc sử dụng phương pháp phân tích thống kê mô tả theo thang đo Likert với các câu hỏi từ cấp độ 1 tới cấp độ 5 (xem phụ lục 1 – Bảng câu hỏi khảo sát) cho ra các kết quả sau:

  • Đối với câu hỏi A7 khi hỏi về sự đầy đủ của thông tin mà người sử dụng BCTC được kiểm toán thì kết quả xử lý dữ liệu cho thấy giá trị trung bình (mean) là 3.31 cho thấy hầu hết người sử dụng trả lời tập trung ở cấp độ 3 – không có ý kiến về nhận định này. Bên cạnh đó với độ lệch chuẩn (deviation) khá lớn là 1.136 cho thấy các câu trả lời mang tính khác biệt lớn giữa các đối tượng khảo sát. Tuy nhiên, do giá trị trung bình (mean) là 3.31 ta có thể cho ra kết luận rằng đa số người dùng khá đồng ý về những thông tin hiện tại mà BCTC được kiểm toán đem lại là đầy đủ.
  • Đối với câu hỏi A8 dùng để đo lường thái độ của người sử dụng thông tin khi đọc ý kiến của KTV về tình hình tài chính của Công ty. Câu hỏi này đề cập tới ý kiến chấp nhận toàn phần của KTV trình bày trên BCKT về BCTC cho thấy BCTC của đơn vị được kiểm toán được trình bày trung thực và hợp lý. Theo kết quả được tập hợp từ bảng câu hỏi trả lời, các đối tượng khảo sát trải dài từ cấp độ (1) tới cấp độ (5) cho ra kết quả của giá trị trung bình (mean) là 3.74 và độ lệch chuẩn (deviation) là 1.003. Như vậy, có thể rút ra một kết luận nhỏ về kết quả của câu hỏi này là hầu hết các đối tượng khảo sát cho rằng khi BCTC được cho ý kiến kiểm toán là chấp nhận toàn phần thì người dùng đa số sẽ tin tưởng rằng BCTC được trình bày trung thực và hợp lý.
  • Đối với câu hỏi A9 được đề cập tới người dùng về vấn đề về hoạt động liên tục đây là một trong 7 nguyên tắc kế toán cơ bản được quy định trong chuẩn mực kế toán Việt Nam – VAS 01 và còn là một trong 6 nguyên tắc cơ bản trong việc lập và trình bày BCTC được quy định trong chuẩn mực kế toán Việt Nam – VAS 21. Câu hỏi này muốn đo lường nhận thức của người dùng về sự hiểu biết khả năng hoạt động liên tục của đơn vị được kiểm toán trong tương lai. Theo kết quả xử lý cho thấy rằng, các đối tượng khảo sát trả lời từ cấp độ (2) tới cấp độ (5) cho ra giá trị trung bình (mean) 3.96 và độ lệch chuẩn (deviation) là 0.77 như vậy có thể thấy hầu hết các đối tượng khảo sát rất quan tâm tới khả năng hoạt động liên tục của đơn vị khi đọc ý kiến của KTV từ BCKT về BCTC.
  • Đối với câu hỏi A10, đề tài đưa ra với mục đích khảo sát về việc trình bày khả năng hoạt động liên tục có được trình bày đầy đủ trên BCTC hay không khi có dấu hiệu vi phạm về khả năng hoạt động liên tục của đơn vị. Kết quả khảo sát được trình bày theo phương pháp thống kê mô tả cho thấy giá trị trung bình (mean) là 3.71 và độ lệch chuẩn (deviation) là 0.935. Vậy hầu hết người sử dụng BCTC cho thấy họ đồng ý về vấn đề hoạt động liên tục đã được trình bày đầy đủ trên BCKT về BCTC.
  • Đối với câu hỏi A11, đề tài muốn biết được về việc BCTC đã được kiểm toán có mang lại sự đảm bảo thông tin cho người sử dụng hay không. Kết quả khảo sát cho thấy rằng người dùng tin tưởng BCTC được kiểm toán sẽ cho sự đảm bảo hơn với giá trị trung bình (mean) là 3.61 và độ lệch chuẩn (deviation) là 0.997.

Đối với câu hỏi A12 dùng để khảo năng lực của KTV khi họ sử dụng kinh nghiệm của mình để trình bày thông tin trên BCTC được kiểm toán. Có thể thấy kết quả cho giá trị trung bình khá thấp 2.43 điều này chứng tỏ đa số mọi người tin rằng năng lực của kiểm toán viên không gây ảnh hưởng quá nhiều về việc trình bày thông tin trên BCTC mà chịu sự chi phối ảnh hưởng của các quy định pháp luật có liên quan.

Tóm lại:

Đây là những điểm chính trong các nội dung có liên quan trực tiếp thông tin trình bày trên BCKT về BCTC. Các vấn đề được đề cập đến bao gồm đối tượng sử dụng BCTC, mục đích sử dụng, xem xét tính đầy đủ trong việc trình bày thông tin tài chính trên BCTC được kiểm toán. Những nội dung được thống kê trên sẽ làm cơ sở cho chính sách hoàn thiện chất lượng thông tin tài chính trên BCKT về BCTC hiện hành để tăng cường sự minh bạch trong thông tin, đồng thời đáp ứng theo nhu cầu đưa ra các quyết định của nhà đầu tư trong và ngoài nước trong quá trình hội nhập kinh tế hiện nay. Nhằm nâng cao độ tin cậy và tăng tính thuyết phục có tính khoa học cao cho nội dung mà đề tài nghiên cứu này.

Khảo sát về chất lượng thông tin trên BCKT về BCTC

Phần này đề tài sẽ thiết kế những câu hỏi có liên quan trực tiếp tới những lợi ích mà người sử dụng BCTC quan tâm để từ đó có những định hướng và xây dựng các giải pháp giúp nâng cao chất lượng thông tin trên BCKT. Cụ thể các câu hỏi cho ra kết quả như sau:

Bảng 4.5: Thực trạng của doanh nghiệp được phản ánh đầy đủ trên BCKT Descriptive Statistics

Có thể thấy kết quả của phân tích thống kê mô tả cho thấy đa số người dùng khi sử dụng BCTC được kiểm toán sẽ phản ánh đúng thực trạng của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo. Tuy nhiên, người sử dụng thông tin luôn mong muốn nhiều thông tin hơn ở thời điểm hiện tại và tương lai để ra quyết định đầu tư đúng đắn.Việc sử dụng BCTC giúp người sử dụng đánh giá được quá trình hoạt động của Công ty ở quá khứ và giúp họ kỳ vọng sự phát triển của Công ty trong tương lai. Vì vậy, đa số người dùng tin tưởng vào BCTC được kiểm toán và tin tưởng vào ý kiến của KTV trên BCKT.

Bảng 4.6: Ra quyết định đầu tư dựa vào BCTC được kiểm toán

Ra quyết định đầu tư

Nhà đầu tư sử dụng rất nhiều nguồn thông tin, dữ liệu của tương lai, hiện tại và quá khứ để đánh giá tình hình hoạt động của một doanh nghiệp khi ra quyết định đầu tư. Câu hỏi này được thiết kế với mục đích khảo sát xem người dùng có sử dụng BCTC khi họ đầu tư vào một doanh nghiệp nào đó niêm yết trên sàn chứng khoán không. Kết quả khảo sát cho thấy 48.6% người trả lời đồng ý với ý kiến này, 25.7% người trả lời là không có ý kiến. Vậy có thể thấy mặc dù BCTC chỉ là dữ liệu quá khứ của doanh nghiệp nhưng nó cũng phản ánh được quá trình hoạt động của doanh nghiệp trong một năm tài chính đều này cũng giúp cho người đầu tư kỳ vọng vào việc phát triển của doanh nghiệp trong lai.

Bảng 4.7: Hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư

Hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư

Có thể thấy đa số người dùng trả lời ở mức độ không đồng ý là 45.7% và ở mức độ không kiến là 30%. Vậy đa số người trả lời cho rằng BCTC được kiểm toán bởi Công ty KTĐL không giúp hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư vì BCKT về BCTC chỉ là ý kiến của KTV về số liệu kế toán không còn sai sót trọng yếu và được đo lường bằng mức độ xét đoán và kinh nghiệm nghề nghiệp của KTV.

Bảng 4.8: Dự đoán khả năng sinh lợi 

Dự đoán khả năng sinh lợi

Khảo sát người dùng khi họ sử dụng BCTC để dự đoán khả năng sinh lợi của doanh nghiệp trong tương lai thì hầu hết mọi người đều không cho ý kiến về nhận định này chiếm 58.6% tổng số người trả lời khảo sát. Như vậy, về việc dự đoán khả năng sinh lợi của doanh nghiệp trong tương lai nhà đầu tư căn cứ trên nhiều nguồn thông tin khác nhau việc phụ thuộc vào BCTC chỉ là một phần trong đó. Do đó, đa số người dùng cho nhận định là không ý kiến.

4.5 Đánh giá chung và nguyên nhân tồn tại về vấn đề trên thông tin trình bày trên BCKT

4.5.1 Đánh giá chung

Qua việc khảo sát các đối tượng làm việc trong lĩnh vực Tài Chính – Kế toán thì hầu hết kết quả cho việc họ có sự hiểu biết cơ bản về ý nghĩa của BCKT. Tuy nhiên, nội dung hiện tại của BCKT chưa thật sự đem lại sự thỏa mãn cho người sử dụng vì thật sự hầu hết người trả lời cho thấy họ chưa nắm rõ được phương pháp kiểm toán được thực hiện như thế nào, trách nhiệm của KTV về BCKT ra sao, cũng như bản chất đảm bảo mà dịch vụ kiểm toán đem lại là gì, ý kiến của KTV mang lại được thông tin gì cho người sử dụng.

4.5.2 Nguyên nhân tồn tại Luận văn: Biện pháp nâng cao chất lượng BCKT tại Cty niêm yết

Mặc dù hoạt động KTĐL trong những năm qua đang từng bước phát triển, nhưng vẫn có thể nhận thấy thông tin trên BCKT chưa thỏa mãn được nhu cầu của người dùng và nó cũng không giúp hạn chế được rủi ro cho nhà đầu tư vào các công ty niêm yết. Thật vậy, có thể kể tới các công ty niêm yết như Bông Bạch Tuyết, Vinashin, Vinaconex…dù đã được kiểm toán BCTC nhưng vẫn tiềm ẩn rủi ro cho nhà đầu tư và họ dường như bị mất lòng tin vào kết quả kiểm toán được trình bày trên BCKT. Có thể thấy thông tin trên BCKT mang ý nghĩa rất chung chung, nó chưa phản ánh được thực trạng thật sự của doanh nghiệp mà chỉ dừng lại ở mức độ đưa ra ý kiến của KTV về BCTC dựa trên kết quả cuộc kiểm toán. Các BCKT cho ý kiến chấp nhận toàn phần với nội dung trong ý kiến của KTV luôn ghi “BCTC đính kèm đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của Công ty ABC”, như vậy vấn đề đặt ra ở đây là BCKT chỉ có ý kiến BCTC được phản ánh trung thực và hợp lý nhưng lại chưa diễn giải về các khía cạnh trong thông tin tài chính của doanh nghiệp. Thông tin trình bày như vậy quá sơ xài nó chưa phải ánh được toàn bộ thực trạng của doanh nghiệp.

Trong phần nội dung trách nhiệm của KTV có đề cập tới “các thủ tục kiểm toán được lựa chọn dựa trên xét đoán của KTV, bao gồm đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu trong báo cáo tài chính”. Phần lớn các ý kiến kiểm toán đều dựa trên tính “xét đoán” của KTV và kinh nghiệm của họ nhưng điều này gây khó hiểu cho người sử dụng khi đọc BCKT. Vì người sử dụng không biết được KTV đã sử dụng xét đoán như thế nào trong việc thu thập thông tin và trình bày ý kiến như thế nào. Vậy, BCKT chưa trả lời được những câu hỏi sau của người sử dụng báo cáo:

  • Những vấn đề gì cần được lưu ý qua cuộc kiểm toán này và vì sao?
  • Cách thức kiểm toán để xác định vấn đề này như thế nào?
  • Việc xác định mức trọng yếu được dựa trên cơ sở nào?

Đa số người sử dụng BCKT chưa hiểu rõ được cách thức vận dụng tính xét đoán chuyên môn mà KTV thực hiện khi thực hiện các thủ tục kiểm toán và việc xác định những lỗi có sai sót trọng yếu theo đánh giá của KTV cũng là câu hỏi mà người sử muốn biết được. Việc xác định rõ những thông tin này giúp lưu ý cho người sử dụng khi đọc BCKT biết được mức độ ảnh ảnh nếu có khi chúng xảy ra.

Như vậy, theo hướng nghiên cứu mà tác giả đang thực hiện về chất lượng thông tin, ta sẽ dựa trên những đặc tính khi đánh giá thông tin là chất lượng như đã nêu ở mục 2.3 để đưa những tồn tại trong vấn đề này như sau:

Thứ nhất, tính thích hợp: tùy vào mục đích sử dụng việc cung cấp thông tin thích hợp sẽ thỏa mãn nhu cầu của người sử dụng. Ở đặc tính này, ta nhận thấy thông tin mà BCKT đem lại chưa giúp ích được cho người sử dụng khi đánh giá kết quả của các sự kiện trong quá khứ, nhận định kết quả ở hiện tại và dư báo được xu hướng sẽ xảy ra trong tương lai. Có thể thấy trong một số trường hợp thực tế của một số doanh nghiệp Việt Nam đã phân tích trong phần thực trạng, BCKT vẫn cho ý kiến về tính trung thực và hợp lý của BCTC mà chưa hề lưu ý cho người đọc những rủi ro tài chính mà doanh nghiệp mắc phải, một số BCTC của doanh nghiệp niêm yết có những khoản ngoại trừ giá trị tỷ đồng có ảnh hưởng trọng yếu tới hoạt động của doanh nghiệp nhưng không được cảnh báo gì từ Công ty KTĐL.

Thứ hai, tính tin cậy trong thông tin: khi đưa ra các quyết định đầu tư, nhà đầu tư luôn mong muốn thông tin mình nhận được thật sự đáng tin cậy. Vì họ đặt niềm tin vào đó để thực hiện quyết định của mình. Nhưng thực tế cho thấy rằng độ tin cậy của thông tin chưa mang tính đảm bảo khi còn có những vụ xảy ra ở các công ty niêm yết trong thời gian qua gây thiệt hại đáng kể cho giới đầu tư.

Thứ ba, tính đầy đủ của thông tin: như đã nêu ở lý luận bên trên, thông tin cung cấp không những cần đảm bảo chất lượng mà còn phải đầy đủ về số lượng. Cụ thể đối với thông tin trình bày trên BCKT chịu sự chi phối bởi sự xét đoán và đánh giá của KTV đối với rủi ro có sai sót trọng yếu. Như vậy khi trình bày thông tin trên BCKT không đầy đủ sẽ gây thiếu sót đối với người tiếp nhận thông tin. Theo tác giả, hiện tại BCKT chỉ cho ra ý kiến của KTV về BCTC nhưng chưa có thông tin đánh giá về tình trạng hoạt động liên tục của doanh nghiệp, những yếu kém trong hệ thống kiểm soát nội bộ, hoặc những rủi ro chưa được nêu trên BCKT mà doanh nghiệp có thể kiểm soát được…

Thứ tư, tính khó có thể hiểu trong thông tin: khi nói tới việc tiếp nhận được thông tin thì việc quan trọng nhất là sự dễ hiểu mà thông tin đem lại. BCKT đang sử dụng những từ ngữ chuyên môn như “trọng yếu”, “trình bày hợp lý” và “xét đoán” gây khó hiểu cho người đọc khi họ không phải người chuyên môn trong ngành. Việc sử dụng thuật ngữ chuyên môn sẽ gây khó khăn cho người đọc khi tiép nhận thông tin từ BCKT, họ chưa nắm rõ được ý nghĩa thật sự của từ ngữ này khi KTV trình bày ý kiến của mình nên có thể dẫn tới những sự hiểu biết chưa thấu đáo về vấn đề trình bày.

Tóm lại, trong chương này tập trung trình bày thực trạng về thông tin trình bày trên BCKT tại Việt Nam hiện nay và quá trình khảo sát trên thực tế về nội dung đang nghiên cứu. Đi từ lịch sử của vấn đề thông qua hệ thống văn bản pháp luật từ quá khứ đến hiện hành đối với lĩnh vực KTĐL, nội dung trong phần đầu trong chương này đã trình bày được thực trạng của công việc về thông tin trình bày trên BCKT tại Việt Nam, từ đó gắn kết với những quy định về kế toán kiểm toán hiện hành.

Thêm vào đó, để giúp minh chứng cho thực trạng được rõ nét, phần cuối của chương là nội dung khảo sát trên thực tế. Kết quả thu được đã chứng minh được rõ ràng, có tính thuyết phục cao về thực trạng thông tin trình bày trên BCKT, cũng như qua đó, giúp nhận định và rút ra được những điểm hạn chế, khác biệt cũng như những điểm còn tồn tại trong dịch vụ kiểm toán tại Việt Nam, đây là cơ sở để có thể vận dụng các điểm trong chuẩn mực kế toán quốc tế. Đây chính là một phần cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp trong chương sau của luận văn.

CHƯƠNG 5: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THÔNG TIN TRÌNH BÀY TRÊN BCKT CHO CÁC DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT TẠI VIỆT NAM

5.1 Quan điểm hoàn thiện và mục tiêu hoàn thiện Luận văn: Biện pháp nâng cao chất lượng BCKT tại Cty niêm yết

5.1.1 Quan điểm hoàn thiện

Việc nâng cao chất lượng thông tin hiện nay được xem là việc cấp thiết cho thời đại kinh tế phát triển và hội nhập như hiện nay. Như vậy những góp ý đề xuất phải dựa trên các quan điểm sau:

Quan điểm phù hợp với môi trường pháp lý và kinh doanh của Việt Nam

Với nhu cầu của xã hội BCKT được tạo lập và đính kèm với BCTC nhằm công bố thông tin trên TTCK dựa trên các quy định pháp luật có liên quan về kế toán, kiểm toán, hoạt động của TTCK, được quy định trong luật kế toán, luật kiểm toán, hệ thống CMKT, hệ thống CMKiT, luật chứng khoán và các quy định pháp lý liên quan khác.

Bên cạnh đó, môi trường kinh doanh hiện tại ở Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vì vậy các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng BCKT cũng nên chú ý đến vấn đề này để đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động kiểm toán.

Quan điểm xu thế hội nhập

Theo xu thế hội nhập kinh tế, những quy định pháp quy liên quan đến kế toán, kiểm toán, tài chính, niêm yết cần phải theo thông lệ quốc tế. Điều này giúp thúc đẩy việc thu hút đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động thì việc áp dụng ISA là một điều tất yếu.

Quan điểm công nghệ thông tin

Với tốc độ số hóa như ngày nay thì việc tăng cường áp dụng công nghệ tin học góp phần tăng cường tốc độ quá trình xử lý dữ liệu, sự nhanh chóng và thuận tiện trong truyền đạt thông tin.

5.1.2 Mục tiêu hoàn thiện

Tạo lập một hệ thống kế toán, kiểm toán hoàn chỉnh, phù hợp với cơ chế quản lý của Nhà nước Việt Nam và phát triển nghề nghiệp kế toán, kiểm toán khu vực và thế giới nhằm thỏa mãn yêu cầu thông tin cho quản lý, điều hành và kiểm kê, kiểm soát các nguồn lực của nền kinh tế, các hoạt động kinh tế – tài chính của đất nước.

Xây dựng và phát triển một hệ thống khuôn khổ pháp lý về kế toán, kiểm toán trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu về cơ bản các thông lệ quốc tế vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, tạo môi trường pháp lý đầy đủ, chặt chẽ, phù hợp để thúc đẩy hoạt động kế toán, kiểm toán phát triển, đồng thời để quản lý chặt chẽ, nâng cao chất lượng, đạo đức nghề nghiệp.

Nâng cao vai trò và năng lực quản lý nhà nước về kế toán, kiểm toán, đẩy mạnh quản lý, giám sát hoạt động kế toán, kiểm toán; kiểm tra, giám sát thực thi pháp luật về kế toán, kiểm toán cũng như hoạt động hành nghề kế toán, kiểm toán; đồng thời với việc đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức nghề nghiệp về kế toán, kiểm toán nhằm thúc đẩy quản lý nghề nghiệp, hỗ trợ phát triển thị trường dịch vụ kế toán, kiểm toán.

Phát triển mạnh nguồn nhân lực trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán ngang tầm với các nước phát triển trong khu vực cả về số lượng và chất lượng;

Tăng cường quan hệ, hợp tác với các tổ chức quốc tế về kế toán – kiểm toán, tạo lập mối liên hệ chặt chẽ, thừa nhận lẫn nhau giữa Việt Nam và các nước trong khu vực, trên thế giới.

5.2 Giải pháp nâng cao chất lượng thông tin trên BCKT về BCTC của các công ty niêm yết tại Việt Nam Luận văn: Biện pháp nâng cao chất lượng BCKT tại Cty niêm yết

5.2.1 Đối với Bộ Tài Chính

Trong vừa thời gian qua, BTC luôn quan tâm đến việc hướng dẫn thực hiện các vấn đề phát sinh trong lĩnh vực kế toán kiểm toán mà có thể thấy rõ nhất là việc ban hành 37 chuẩn mực kiểm toán mới áp dụng kể từ năm 2014. Điều này cho thấy sự tích cực trong việc đổi mới các quy định để phù hợp thông lệ quốc tế, bên cạnh đó BTC cần tiến hành xem xét sự nhất quán trong quá trình hướng dẫn thực hiện phải phù hợp với các doanh nghiệp kiểm toán vừa và nhỏ ở Việt Nam. Hơn thế nữa, việc hướng đến sự hội tụ với quốc tế là một vấn đề không thể không thực hiện, đặc biệt là hệ thống ISA là một bộ chuẩn mực được đánh giá là chất lượng cao nhất hiện nay. Do đó, BTC cần tiến hành:

  • Thường xuyên các thay đổi trên thế giới, đánh giá và cân nhắc có thể tiếp thu ở Việt Nam để tăng cường chất lượng thông tin trên BCKT về BCTC. Bên cạnh đó xem xét các thay đổi của ISA, tham khảo CMKiT các nước, xem xét tính phù hợp với điều kiện ở Việt Nam . Sau đó chọn lọc những cái hay trong sự thay đổi để cân nhắc có thể tiếp thu hay không, không nên cứng nhắc hội tụ hoặc ngại thay đổi. Trước khi hội tụ cần tham khảo những nghiên cứu thực nghiệm có liên quan để có thể dự báo, phán đoán được những thay đổi xảy ra khi áp dụng các quy định mới.
  • Xem xét lại các quy định pháp lý hiện tại có liên quan tới hoạt động kiểm toán độc lập để phát hiện ra những hạn chế, thiếu sót so với chuẩn mực kiểm toán quốc tế. Để có thể đánh giá được những sự khác biệt giữa Việt Nam và quốc tế cần có sự giúp đỡ của các chuyên gia trong lĩnh vực kế toán kiểm toán giúp cho có những nhận định đúng khi lựa chọn các điểm mới hội nhập vào Việt Nam.
  • Tiếp theo ta xem xét nội dung “ý kiến kiểm toán” trên BCKT truyền đạt thông tin về mức độ đảm bảo mà cuộc kiểm toán cung cấp. Đa số người sử dụng cũng hiểu rõ là kiểm toán chỉ mục đích cung cấp sự đảm bảo hợp lý chứ không phải tuyệt đối về BCTC của đơn vị được kiểm toán. Ý kiến mà KTV cho ra chỉ đảm bảo BCTC không còn sai sót trọng yếu chứ không đảm bảo sự chính xác hoàn toàn của BCTC. Tuy nhiên, ít có ai hiểu rõ được rằng khái niệm trọng yếu trong kiểm toán được đo lường và dựa trên cơ sở nào để xác định. Vậy từ sai sót trọng yếu được hiểu như thế nào, sai sót được xem xét ở từng khoản mục riêng lẻ của BCTC hay phải tổng hợp tất cả sai sót lại để so sánh với mức trọng yếu mà KTV dựa vào đó. Có thể thấy trong suốt cuộc kiểm toán, KTV áp dụng mức trọng yếu từ lúc lập kế hoạch kiểm toán cho tới khi thực hiện cuộc kiểm toán và đánh giá sai sót phát hiện được trong quá trình kiểm toán dựa vào mức trọng yếu. Như vậy, việc hình thành ý kiến của KTV trên BCKT cũng căn cứ dựa trên các sai sót trọng yếu để đưa ra ý kiến của họ. Khi xem xét BCKT của các doanh nghiệp công bố, không ít nhà đầu tư cảm thấy băn khoăn khi thấy nội dung khá sơ lược, chung chung, nhất là cụm từ “BCTC không chứa đựng các sai sót trọng yếu”. Sai sót như thế nào thì được xem là trọng yếu. Thế nào là trọng yếu thì không có tiêu chí xác định cụ thể. Để giải quyết bất cập này tác giả nhận thấy cần giải thích về mức trọng yếu thực tế mà KTV đã dựa vào trên BCKT để người đọc có cơ sở định lượng được các rủi ro có thể phát sinh mà KTV cho là không trọng yếu và xem xét có ảnh hưởng đến quyết định của mình hay không. Cụ thể là mức trọng yếu đối với tổng thể BCTC là bao nhiêu, tiêu chí xác định là gì.
  • BCKT được trình bày theo hướng dẫn của Chuẩn mực kiểm toán, có thể nói BCKT được trình bày khá đơn giản và ít thông tin. Các nhà đầu tư nhận được ít thông tin từ các KTV để có thể đánh giá, phân biệt giữa các công ty với nhau. Các chủ đề chính của BCKT thì đang sử dụng những từ tiêu chuẩn như “đảm bảo hợp lý”, “sai lệch trọng yếu” và “trình bày hợp lý”. Thực tế những người sử dụng BCKT có thể không hiểu được hết hàm ý của những từ này. Tác giả nhận thấy cần xem xét đến yêu cầu giải thích ngắn gọn về nội dung của quy trình kiểm toán và các hạn chế liên quan đến quy trình này như tính trọng yếu, kỹ thuật chọn mẫu và thực hiện thử nghiệm.
  • Về những giới hạn trách nhiệm của KTV được nêu trên BCKT có thể thấy trách nhiệm của KTV quá rộng, vượt qua khỏi những gì thuộc về trách nhiệm của KTV đối với đơn vị được kiểm toán. Trách nhiệm của KTV có thể nêu trên BCKT về công việc kiểm toán BCTC nhưng sẽ không cho ý kiến về khả năng quản lý của Ban giám đốc, hay ý kiến về đầu tư vào đơn vị có tốt hay không hoặc là có đạt được các mục tiêu chiến lược hay không. Đối với các khu vực ước tính trọng yếu trên BCTC mang tính xét đoán của KTV cũng nên thể hiện rõ trên BCKT. Đối với các từ ngữ mang tính tiêu chuẩn chuyên môn trên BCKT như “đảm bảo hợp lý” cũng cần giải thích thêm để người đọc nhận thức được tốt hơn thông tin được trình bày.
  • Đối với cụm từ “trung thực và hợp lý”, W. Smieliauskas, R. Craig, và J. Amernic (2008) đề nghị BCKT cần được sửa đổi để thay thế các từ “trung thực và hợp lý” bằng “rủi ro sai sót trọng yếu có thể chấp nhận được”. Tác giả cũng đánh giá cao quan điểm này và đề xuất thay thế. Với việc thay thế cụm từ sẽ thể hiện rõ hơn mục tiêu truyền đạt của KTV là kiểm toán dựa trên rủi ro và trọng yếu. Nó cũng thống nhất với thuật ngữ KTV dùng trong các kết luận khi KTV thực hiện thủ tục kiểm toán của mình.
  • Phối hợp với Hội nghề nghiệp kiểm toán tăng cường hoạt động kiểm soát chất lượng KTĐL: Số lượng các công ty kiểm toán ở Việt Nam ngày một tăng nhanh, việc tăng cường hoạt động kiểm tra, KSCL từ bên ngoài là hết sức cần thiết và quan trọng để đảm bảo là tất cả các KTV phải đạt được tiêu chuẩn nghề nghiệp và duy trì năng lực ở mức cao khi cung cấp dịch vụ kiểm toán. Việc tăng cường hoạt động KSCL sẽ giúp đảm bảo việc tuân thủ các chuẩn mực nghể nghiệp của các KTV trong công ty kiểm toán, gia tăng độ tin cậy về nghề nghiệp, thúc đẩy hoạt động đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn của các công ty kiểm toán, góp phần tổ chức tốt các công ty kiểm toán và hoàn thiện tốt các phương pháp làm việc. Từ đó sẽ góp phần đảm bảo tính khách quan của KTV trong việc đưa ra ý kiến kiểm toán và đảm bảo năng lực của KTV trong việc nhận diện rủi ro, đánh giá mức độ ảnh hưởng của rủi ro để diễn giải thông tin trên BCKT làm tăng thông tin hữu ích cho người sử dụng BCKT.

5.2.2 Đối với công ty niêm yết Luận văn: Biện pháp nâng cao chất lượng BCKT tại Cty niêm yết

Nâng cao tính chính trực của Ban giám đốc nhằm gia tăng trách nhiệm và đạo đức của

Ban giám đốc trong việc điều hành và quản lý Công ty. Từ đó, tạo nên văn hóa lành mạnh cho toàn thể nhân viên giúp cho số liệu mà kế toán cung cấp phản ánh thật sự tình hình kinh tế của Công ty.

Xây dựng Ban kiểm soát hiệu quả: ngoài việc tiếp nhận kiểm tra từ bên ngoài thì Công ty cần thiết xây dựng một đội ngũ kiểm tra từ bên trong. Việc lựa chọn các thành viên trong Ban kiểm soát cần chọn lọc những đối tượng có chuyên môn nghiệp vụ tốt, có đạo đức và hoàn toàn độc lập với các chủ thể khác trong công ty. Bên cạnh đó, thường xuyên thực hiện đánh giá đối với Ban kiểm soát để tránh tình trạng lập Ban kiểm soát chỉ là hình thức. Cũng trên cơ sở đó để thực hiện các chế độ về thù lao cho Ban kiểm soát hàng năm.

Xây dựng hệ thống KSNB đối với BCTC phù hợp với đặc điểm doanh nghiệp, đảm bảo phù hợp giữa chi phí và lợi ích. Hệ thống KSNB của doanh nghiệp hữu hiệu và hiệu quả giúp ngăn chặn, phát hiện và loại bỏ các sai sót, gian lận trong quá trình xử lý dữ liệu kế toán để thông tin đầu ra đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng và sự minh bạch. Các rủi ro phát sinh gian lận, sai sót trên BCTC giảm xuống đáng kể. Đây là giải pháp trung gian gián tiếp giúp gia tăng chất lượng thông tin trên BCKT về BCTC.

5.2.3 Đối với Công ty kiểm toán

Có thể thấy sự đỗ vỡ của một số doanh nghiệp như đã nêu ở trên đã làm cho nhà đầu tư nghi ngờ tính khách quan trong BCKT của một số doanh nghiệp trên TTCK. Việc nghi ngờ hẳn là có nguyên nhân, có thể là nguyên nhân chủ quan hay khách quan. Những vụ bê bối này, làm cho giới đầu tư suy nghĩ về mối quan hệ của công ty kiểm toán và doanh nghiệp được kiểm toán thỏa hiệp với nhau để đưa ra một kết quả kiểm toán đẹp.

Vấn đề quản trị chất lượng của các doanh nghiệp kiểm toán vẫn chưa được coi trọng đúng mức tạo điều kiện cho sự thỏa hiệp diễn ra giữa KTV và công ty được kiểm toán. Vậy chất lượng BCKT có thực sự góp phần tạo ra giá trị gia tăng và góp phần tạo sự khác biệt với cùng một BCKT do một công ty kiểm toán khác cung cấp. Vấn đề nằm ở cấp lãnh đạo các công ty kiểm toán và nằm trong đạo đức, kiến thức và kinh nghiệm của mỗi KTV. Ở Việt Nam các KTV chú trọng nhiều hơn đến tính chuẩn tắc trong công việc. Trong khi, công việc kiểm toán chỉ có thể mang lại giá trị gia tăng khi KTV phải là độc lập hoàn toàn.

Các đề xuất cụ thể như sau để góp phần đảm bảo chất lượng dịch vụ kiểm toán, từ đó tăng cường thông tin hữu ích trên BCKT về BCTC:

  • Đối với KTV: bản thân KTV phải ý thức được trách nhiệm của mình đối với công việc. KTV phải tuân thủ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp luôn giữ vững và duy trì. Tự giác học hỏi, rèn luyện chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng. Đây là yếu tố quan trọng để đảm bảo chất lượng của hoạt động kiểm toán.
  • Đối với các trợ lý kiểm toán: trợ lý kiểm toán là các nguồn lực trong tương lai của các công ty kiểm toán do đó cần có kế hoạch tuyển dụng cũng như đào tạo cho trợ lý mới phù hợp với nhu cầu về nhân lực phục vụ cho công việc. Thực hiện bồi dưỡng nghiệp vụ cho nhân viên theo từng cấp bậc để đáp ứng yêu cầu công việc tương ứng. Thường xuyên cập nhật kiến thức liên quan đến hoạt động nghề nghiệp. Các công ty kiểm toán Việt Nam nên tham khảo nội dung, cách thức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm toán của các nước có hoạt động kiểm toán phát triển. Bằng cách gia nhập vào các hãng thành viên quốc tế để nhận được sự hỗ trợ chuyên môn từ các đối tác này nhằm nâng cao hơn nữa năng lực và trình độ cho nhân viên của mình trong thời kỳ hội nhập như ngày nay. Thời gian gần đây, một số công ty kiểm toán Việt Nam đã dần gia nhập thành viên Tập đoàn các công ty kiểm toán lớn trên thế giới đều có chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho nhân viên. Đây cũng là một phương thức để phát triển nguồn nhân lực, quốc tế hóa đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán, nâng cao uy tín nghề nghiệp kiểm toán.

Đối với chính sách về tiền lương cho nhân viên: cần xây dựng chính sách tiền lương hợp lý, đây cũng là yếu tố quan trọng để thu hút và duy trì nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn tốt cho công việc. Vì ngành dịch vụ này đòi hỏi chất xám và áp lực như hoạt động kiểm toán nên đảm bảo thu nhập hợp lý cho nhân viên có tác dụng kích thích khả năng làm việc của nhân viên đồng thời giúp nâng cao chất lượng dịch vụ.

Đối với hoạt động KSCL cho các công ty KTĐL: công ty nên tự xây dựng việc giám sát và đánh giá hoạt động kiểm toán trong nội bộ công ty kiểm toán, hoạt động quản lý kiểm toán cần thường xuyên cải tiến và duy trì để nâng cao chất lượng hoạt động nghề nghiệp của công ty và mang lại hiệu quả cho hoạt động. Đây là yêu cầu đối với đội ngũ lãnh đạo, quản lý của công ty kiểm toán. Công ty kiểm toán cần rà soát, chấn chỉnh quy trình soạn thảo và phát hành BCKT nhằm đảm bảo chất lượng của BCKT. Bên cạnh đó phải giám sát, tổ chức kiểm tra công việc thực hiện theo quy trình.

Đối với đối thủ cạnh tranh trong cùng ngành: các công ty kiểm toán nên giảm thiểu sự cạnh tranh không lành mạnh trong ngành với nhau như hạ thấp giá phí kiểm toán và sự thõa hiệp với đơn vị được kiểm toán : Năng lực cạnh tranh của các công ty kiểm toán được đánh giá bởi các yếu tố nội tại bên trong công ty và các yếu tố tác động bên ngoài công ty đó. Có thể thấy rằng năng lực cạnh tranh của các công ty kiểm toán Việt Nam còn hết sức khiêm tốn so với các hãng kiểm toán quốc tế đã có bề dày lịch sử như Big4. Trong thời gian gần đây nhiều công ty kiểm toán đã hạ thấp giá phí và thõa hiệp với đơn vị được kiểm toán để có được khách hàng. Để có lợi nhuận thì một số thủ tục và quy trình kiểm toán đã bị cắt giảm. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng dịch vụ kiểm toán. Từ đó làm giảm niềm tin của người sử dụng BCKT, uy tín các công ty kiểm toán nói chung bị sụt giảm. Vấn đề này cần được các công ty kiểm toán xem xét lại để lấy lại lòng tin của người sử dụng BCKT và để đảm bảo sự phát triển bền vững của công ty. Bản thân các công ty kiểm toán cũng cần minh bạch các chi phí kiểm toán bằng việc lưu giữ và trình bày số liệu về thời gian thực hiện mỗi cuộc kiểm toán và mức phí áp dụng cho khách hàng. Ngoài ra cũng cần cân nhắc các yếu tố ảnh hưởng đến chi phí kiểm toán như danh tiếng của các hãng kiểm toán, hiệu suất và kinh nghiệm thực hiện kiểm toán.

Một đề xuất khác là để giúp tiết kiệm thời gian, công sức, các công ty kiểm toán nếu có điều kiện nên thiết lập các phần mềm kiểm toán. Trong điều kiện khoa học, công nghệ thông tin phát triển như hiện nay điều này sẽ không khó khăn lắm để thực hiện. Trên thế giới đã có nhiều công ty kiểm toán thiết lập và sử dụng các chương trình phần mềm kiểm toán. Ở Việt Nam các công ty kiểm toán Big4 và một số công ty kiểm toán cũng đã áp dụng. Đây cũng là một chỗ dựa để các công ty kiểm toán Việt Nam tham khảo và cân nhắc để thiết kế cho công ty mình.

Chuẩn hóa các kiểm toán viên theo từng nhóm lĩnh vực để có sự chuyên biệt và điều này sẽ làm cho quá trình kiểm toán thực tế dễ dàng hơn. Do đó, cần nâng cao hơn nữa công tác đào tạo kiểm toán viên theo hướng chú trọng đến kỹ năng tác nghiệp và kiểm tra, đánh giá và xác nhận tính đúng đắn, hợp lý của báo cáo tài chính; tính hiệu lực, hiệu quả và tính kinh tế trong việc sử dụng ngân sách. Bên cạnh đó, cần chú ý đến việc cải thiện chế độ đãi ngộ cho các kiểm toán viên để tạo sự bền vững trong đội ngũ nhân sự này.

5.2.4 Đối với hội nghề nghiệp kiểm toán Luận văn: Biện pháp nâng cao chất lượng BCKT tại Cty niêm yết

Trong giai đoạn phát triển theo xu hướng hội nhập hiện nay, đặc biệt khi Việt Nam đã tham gia WTO vào năm 2007 thì việc xây dựng chiến lược phát triển dịch vụ kiểm toán độc lập đang đặt ra cấp bách, có tính thời đại, xuất phát từ những lý do sau đây:

  • Một là, xuất phát từ vị trí, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của dịch vụ kiểm toán trong quản lý kinh tế vi mô nói chung và trong quản lý tài sản, tài chính của các doanh nghiệp kiểm toán nói riêng;
  • Hai là, hội nghề nghiệp kiểm toán xuất phát từ thực trạng kinh tế xã hội của Việt Nam và yêu cầu tất yếu của hội nghề kiểm toán trong quản lý các doanh nghiệp kiểm toán độc lập;
  • Ba là, xuất phát từ nguyên nhân hội nhập kinh tế quốc tế việc nâng cao hơn nữa thông tin cung cấp cho người sử dụng là hoàn toàn cấp thiết;
  • Bốn là, do những hạn chế hoặc một số khó khăn nhất định của hội nghề nghiệp kiểm toán tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Để phát triển hơn nữa hoạt động kiểm toán độc lập ở Việt Nam, cần đề xuất một số vấn đề cơ bản liên quan tới hội nghề nghiệp như sau:

  • Nâng cao trình độ KTV: Chất lượng hoạt động kiểm toán trước hết phụ thuộc vào nguồn nhân lực, trình độ của người có chứng chỉ KTV. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, nghể KTĐL ở Việt Nam sẽ có nhiều lợi ích lớn nếu chứng chỉ hành nghể kiểm toán của Việt Nam được cộng đồng quốc tế công nhận. Việt Nam cần nghiên cứu, xem xét thông lệ, tiêu chuẩn quốc tế để đào tạo cấp chứng chỉ KTV. Các nội dung cần hoàn thiện liên quan đến thi và cấp chứng chỉ KTV bao gồm:
  • Bộ tài chính cần chuyển giao công việc tổ chức thi và cấp chứng chỉ hành nghề kế toán, kiểm toán cho Hội nghề nghiệp kiểm toán. Theo thông lệ quốc tế thì các hội nghề nghiệp sẽ thực hiện tổ chức thi và cấp chứng chỉ hành nghề.
  • Thay đổi chương trình, nội dung học và thi KTV: Nội dung, chương trình học, ôn thi phải đảm bảo chất lượng, tiêu chuẩn quốc tế, mang tính thực tiễn và sát với thực tế nghề nghiệp.
  • Hoàn thiện tổ chức thi chứng chỉ KTV cấp Nhà nước: Hiện tại, nhu cầu KTV của các công ty kiểm toán rất lớn. Trong khi đó, hàng năm chỉ tổ chức thi 1 đợt. Mỗi đợt thi các thí sinh phải học đến 7 môn trong một thời gian ngắn và thi ròng rã trong 4 ngày. Do đó, cần hoàn thiện tổ chức thi mà cụ thể là: Xem xét việc phân chia kỳ thi KTV thành hai đợt thi trong năm nhằm giảm bớt áp lực kỳ thi. Kế hoạch thi KTV trong năm cần được công bố ngay từ đầu năm để người học chủ động sắp xếp thời gian, công việc.
  • Kết hợp với Bộ tài chính, UBCKNN giám sát hoạt động của các công ty kiểm toán, hạn chế sự cạnh tranh bằng cách giảm giá phí, thỏa hiệp với khách hàng. Hội nghề nghiệp cần xử lý nghiêm các trường hợp KTV, công ty kiểm toán phát hành BCKT sai phạm.
  • Tham gia cùng với Bộ tài chính hiệu đính và ban hành thêm các chuẩn mực liên quan đến BCKT BCTC.

Kết hợp với Bộ tài chính để tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện luật KTĐL, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và các CMKiT của các công ty kiểm toán.

5.2.5 Đối với UBCKNN Luận văn: Biện pháp nâng cao chất lượng BCKT tại Cty niêm yết

Để cho hoạt động trên thị trường chứng khoán được minh bạch, theo tác giả UBCKNN cần xây dựng chỉ số minh bạch thông tin đối với công ty niêm yết. Việt Nam cần xúc tiến thực hiện để tăng tính minh bạch của thông tin tài chính cũng như góp phần tăng cường thông tin hữu ích trên BCKT về BCTC.

UBCKNN cần quan tâm hơn nữa đối với chất lượng niêm yết và cơ chế điều hành thị trường chứng khoán: UBCKNN phải rà soát chặt chẽ các doanh nghiệp khi thực hiện IPO cũng như các doanh nghiệp đã được niêm yết trên sàn. Gia tăng mối quan hệ hợp tác quốc tế nhằm có được sự tư vấn và hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế cho vấn đề quản trị công ty, giúp thị trường chứng khoán hoạt động minh bạch và hiệu quả hơn nữa, nâng cao chất lượng thông tin trên thị trường.

Hiện nay, ngoại trừ việc cung cấp BCKT cho các công ty niêm yết thì các công ty KTĐL còn phát hành thư quản lý nói về những điểm yếu kém của hệ thống KSNB nếu có hoặc những rủi ro có thể phát sinh theo đánh giá của KTV mà đơn vị có thể kiểm soát và chú ý chỉ được thể hiện trên thư quản lý gửi cho Ban quản trị, Ban giám đốc đơn vị được kiểm toán. Do đó nhà đầu tư không biết được các thông tin này để có thể đánh giá sâu sắc hơn về tình hình tài chính của doanh nghiệp khi có ý định đầu tư lâu dài. Thực tế hiện nay, trong thư quản lý KTV thường nêu ra các vấn đề còn yếu kém trên tất cả các khía cạnh liên quan đến việc lập và trình bày BCTC có thể bị sai lệch.

Thư quản lý không bắt buộc phải đính kèm BCTC đã được kiểm toán nên chỉ được gửi cho HĐQT, ban giám đốc doanh nghiệp được kiểm toán. Vì thế, nhà đầu tư thường không biết đến thư quản lý mà KTV gửi cho doanh nghiệp niêm yết. Thiết nghĩ đây cũng là yếu tố thông tin quan trọng cho nhà đầu tư để đánh giá trước khi ra quyết định đầu tư. Vậy việc công bố công khai nếu có cùng với BCKT đính kèm sẽ góp phần mang đến thông tin hữu ích cho nhà đầu tư.

Thống nhất nội dung các văn bản pháp luật chi phối đến tổ chức và hoạt động của Ban kiểm soát: Bộ tài chính hoặc Ủy ban chứng khoán xây dựng điều lệ mẫu cho Ban kiểm soát giống như đã ban hành điều lệ mẫu cho các công ty niêm yết nhằm mục đích thống nhất trong hoạt động của tổ chức và Ban kiểm soát và tăng cường tính hiệu quả. Để xây dựng điều lệ phù hợp có thể tham khảo những điều lệ mẫu của các nước trên thế giới sửa đổi phù hợp với điều kiện môi trường ở Việt Nam, đặc thù công ty.

5.2.6 Đối với người sử dụng BCKT

Có thể thấy một trong các nguyên nhân gây giảm chất lượng của thông tin trên BCKT là do những người sử dụng BCTC tại Việt Nam thiếu những kiến thức cần thiết về kiểm toán nên có nhiều hạn chế trong cách nhìn nhận thông tin trên BCKT. KTV nên tăng cường công tác tuyên truyền về vai trò và trách nhiệm của KTV đến các thành phần như các cổ đông, các hội doanh nghiệp. Hoặc một cách thay thế khác là tìm kiếm cơ hội để giáo dục cho các nhà báo có sức ảnh hưởng đến công chúng về chức năng và công việc của KTV. Từ đó các nhà báo có thể báo cáo các sự kiện ảnh hưởng xấu đến KTV theo cách có am hiểu hơn và ít làm náo động dư luận hơn. Thông qua các cuộc hội thảo chuyên đề, các buổi tập huấn, trao đổi thông tin của các công ty kiểm toán, giải thích các nội dung về các thông tin chính trên BCKT như những hạn chế tiểm tàng của cuộc kiểm toán, trách nhiệm của KTV, trách nhiệm của nhà quản lý doanh nghiệp được kiểm toán, trách nhiệm của KTV liên quan đến gian lận, quá trình kiểm toán và công việc mà KTV đã thực hiện để đảm bảo đầy đủ trách nhiệm của mình, việc xét đoán trong việc thu thập thông tin và hình thành ý kiến. Như vậy sẽ giúp nâng cao kiến thức, kỹ năng cho nhà đầu tư, nhằm hạn chế những nhận thức sai lệch về các thông tin trên.

5.3 Những hạn chế của đề tài Luận văn: Biện pháp nâng cao chất lượng BCKT tại Cty niêm yết

Bất kỳ một nghiên cứu nào cũng có những giới hạn, phạm vi nghiên cứu. Đây được xem là nền tảng cho các đề tài nghiên cứu tiếp theo thực hiện. Trong nghiên cứu này, mục tiêu chính của đề tài mà tác giả thực hiện chính tập trung vào tìm hiểu thực trạng về việc cung cấp thông tin trên BCKT về BCTC thông qua những phần khung lý luận, để từ đó áp dụng vào các giải pháp cũng như các hệ thống liên quan trực tiếp, gián tiếp khác như lĩnh vực tài chính kế toán… Do vậy, giới hạn cơ bản của đề tài là chưa đi vào từng chuẩn mực cụ thể trong bộ chuẩn mực quốc tế cũng như không đi vào chi tiết trong việc trình bày kế toán.

Hạn chế khách quan

Khối lượng tư liệu liên quan đến đề tài rất lớn, người viết chỉ có thể nghiên cứu được một số chuẩn mực, tài liệu hướng dẫn và nghiên cứu liên quan đến đề tài. Do đó nội dung phần cơ sở lý luận có thể có những thiếu xót, chưa rõ ràng.

Hạn chế chủ quan

Hạn chế chính của nghiên cứu là trong việc thu thập dữ liệu sơ cấp. Do thời gian nghiên cứu ngắn, số lượng bảng câu hỏi gửi đi cũng như nhận về rất ít (chỉ 60 bảng).Đối tượng khảo sát cũng giới hạn, không tiếp cận được nhiều với nhà lãnh đạo, người quản lý chủ chốt, cổ đông lớn của các doanh nghiệp niêm yết.

Tóm lại,

Dựa trên lý luận và thực tiễn trong các chương trước, trong chương này tác giả đã trên quan điểm phù hợp, hội nhập và hiện đại để đưa ra các kiến nghị và giải pháp nhằm mục đích tăng cường thông tin hữu ích trên BCKT về BCTC của các công ty niêm yết ở Việt Nam. Có nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến thông tin trên BCKT về BCTC của các công ty niêm yết ở Việt Nam. Đó là những hạn chế từ chuẩn mực hướng dẫn, từ phía người sử dụng thông tin, bản thân doanh nghiệp niêm yết với vai trò cung cấp BCTC, công ty kiểm toán với vai trò đánh giá BCTC cung cấp thông tin kiểm toán, các cơ quan quản lý nhà nước với vai trò quản lý công bố thông tin, giám sát việc tuân thủ các quy định pháp lý liên quan. Trên cơ sở phân tích các tồn tại và các nguyên nhân dẫn đến tồn tại, đồng thời kết hợp tham khảo các đề xuất và giải pháp được nêu từ các nghiên cứu liên quan, tác giả đưa ra một số giải pháp, kiến nghị trên đây với hy vọng tăng cường thông tin hữu ích trên BCKT về BCTC đến người sử dụng Luận văn: Biện pháp nâng cao chất lượng BCKT tại Cty niêm yết

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY    

===>>> Luận văn: Nâng cao thông tin trên BCKT của các Cty niêm yết

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x