Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Nâng cao thông tin trên BCKT của các Cty niêm yết hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Giải pháp nâng cao chất lượng thông tin trên BCKT của các công ty niêm yết ở Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
LỜI MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Báo cáo tài chính (BCTC) là phương pháp tổng hợp số liệu từ các sổ kế toán theo các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh có hệ thống tình hình tài sản, nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp, tình hình và kết quả hoạt động sản suất kinh doanh, tình hình lưu chuyển các dòng tiền và tình hình vận động sử dụng vốn của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Do đó, BCTC vừa là phương pháp kế toán, vừa là hình thức thể hiện và chuyển tải thông tin kế toán tài chính đến những người sử dụng để ra các quyết định kinh tế. Hệ thống BCTC của các doanh nghiệp được lập với mục đích sau:
- Tổng hợp và trình bày một cách tổng quát, toàn diện tình hình tài sản, nguồn vốn, công nợ, tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong một kỳ kế toán.
- Cung cấp các thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu cho việc đánh giá tình hình và kết quả hoạt động của doanh nghiệp, đánh giá thực trạng tài chính của doanh nghiệp trong kỳ hoạt động đã qua và những dự đoán trong tương lai.
BCTC có ý nghĩa quan trọng trong lĩnh vực quản lý kinh tế, thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng ở bên trong cũng như bên ngoài doanh nghiệp. Mỗi đối tượng quan tâm đến BCTC trên một giác độ khác nhau, song nhìn chung đều nhằm có được những thông tin cần thiết cho việc ra các quyết định phù hợp với mục tiêu của mình.
Với nhà quản lý doanh nghiệp, BCTC cung cấp thông tin tổng hợp về tình hình tài sản, nguồn hình thành tài sản cũng như tình hình và kết quả kinh doanh sau một kỳ hoạt động, trên cơ sở đó các nhà quản lý sẽ phân tích đánh giá và đề ra được các giải pháp, quyết định quản lý kịp thời, phù hợp cho sự phát triển của doanh nghiệp trong tương lai.
Với các cơ quan hữu quan của nhà nước như tài chính, ngân hàng kiểm toán, thuế BCTC là tài liệu quan trọng trong việc kiểm tra giám sát, hướng dẫn, tư vấn cho doanh nghiệp thực hiện các chính sách, chế độ kinh tế tài chính của doanh nghiệp.
Với các nhà đầu tư, các nhà cho vay BCTC giúp họ nhận biết khả năng về tài chính, tình hình sử dụng các loại tài sản, nguồn vốn, khả năng sinh lời, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, mức độ rủi ro để họ cân nhắc, lựa chọn và đưa ra quyết định phù hợp.
Với nhà cung cấp, BCTC giúp họ nhận biết khả năng thanh toán, phương thức thanh toán, để từ đó họ quyết định bán hàng cho doanh nghiệp nữa hay thôi, hoặc cần áp dụng phương thức thanh toán như thế nào cho hợp lý.
Với khách hàng, BCTC giúp cho họ có những thông tin về khả năng, năng lực sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, mức độ uy tín của doanh nghiệp, chính sách đãi ngộ khách hàng để họ có quyết định đúng đắn trong việc mua hàng của doanh nghiệp.
Với cổ đông, công nhân viên, họ quan tâm đến thông tin về khả năng cũng như chính sách chi trả cổ tức, tiền lương, bảo hiểm xã hội, và các vấn đề khác liên quan đến lợi ích của họ thể hiện trên BCTC.
Do đó tác giả đã chọn đề tài “Giải pháp nâng cao chất lượng thông tin trên BCKT của các công ty niêm yết ở Việt Nam” nhằm nghiên cứu thực trạng thông tin kế toán được cung cấp trên BCKT. Và nghiên cứu các ảnh hưởng tới chất lượng thông tin, ý kiến của kiểm toán viên về BCTC, đồng thời xem xét các nhân tố tác động tới tính trung thực của BCTC. Từ đó đưa ra giải pháp và các kiến nghị để gia tăng những thông tin hữu ích trên BCKT của các công ty niêm yết phục vụ cho người sử dụng thông tin.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU Luận văn: Nâng cao thông tin trên BCKT của các Cty niêm yết
Luận văn nghiên cứu nhằm hướng tới 3 mục tiêu cơ bản sau:
- Khái quát và hệ thống các nghiên cứu trên thế giới và trong nước về chất lượng thông tin trên BCKT nhằm xác định được lỗ hỏng trong các nghiên cứu trước làm nền tảng cho nghiên cứu của tác giả.
- Tóm tắt các cơ sở lý luận chính liên quan tới việc trình bày và công bố thông tin đang được áp dụng tại Việt Nam từ trước tới nay để làm nền tảng lý luận nhằm so sánh với thực tế áp dụng tại Việt Nam.
Xác định và phân tích chất lượng thông tin trên BCKT về BCTC tại các công ty niêm yết Việt Nam. Từ đây, đưa ra các đề xuất để nâng cao chất lượng thông tin trên BCKT để hoàn thiện việc trình bày và công bố thông tin.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Việc lựa chọn phương pháp nghiên cứu sẽ phụ thuộc vào mức độ chuyên sâu và đặc điểm của đề tài nghiên cứu. Tác giả sẽ sử dụng phương pháp nghiên cứu hỗn hợp kết hợp giữa nghiên cứu định lượng và định tính trong xuyên suốt đề tài.
Phương pháp mà tác giả sử dụng sẽ tập trung vào việc thu thập, phân tích thông tin trên cơ sở các số liệu thu được từ bảng câu hỏi khảo sát cho các đối tượng thường xuyên sử dụng thông tin trên thị trường chứng khoán. Mục đích của việc nghiên cứu là đưa ra các kết luận về nghiên cứu thị trường thông qua việc sử dụng các phương pháp thống kê để xử lý dữ liệu và số liệu. Nội dung của phân tích là thu thập số liệu từ thị trường, xử lý các số liệu này thông qua các phương pháp thống kế thông thường, mô phỏng hoặc chạy các phần mềm xử lý dữ liệu để đưa ra các kết luận chính xác.
Chiến lược nghiên cứu được xác định theo trình tự sau:
- Loại nghiên cứu: nghiên cứu hỗn hợp kết hợp giữa định tính và định lượng
- Mục đích nghiên cứu: đưa ra các giải pháp để nâng cao chất lượng thông tin trên BCKT của các công ty niêm yết ở Việt Nam
- Thời gian nghiên cứu: giai đoạn từ năm 2012 cho tới nay của hoạt động dịch vụ kiểm toán độc lập
- Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu này sẽ giới hạn phạm vi đánh giá thực trạng thông tin trên BCKT về BCTC tại các doanh nghiệp niêm yết ở Việt Nam.
4. TỔNG QUAN NHỮNG NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
Để thực hiện nghiên cứu, tác giả xin đề cập tới các nghiên cứu trước đây đã nói về vấn đề thực trạng thông tin trên BCKT của các công ty niêm yết. Tác giả xin trình bày tóm tắt nội dung một số nghiên cứu, quan điểm của các nghiên cứu này và đưa ra nhận xét cá nhân của tác giả.
Các bài báo, những nghiên cứu có liên quan được tham khảo được tác giả tóm tắt nội dung theo trình bày dưới đây:
- “Hoàn thiện việc trình bày và công bố thông tin BCTC các công ty niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh” – luận văn thạc sĩ kinh tế năm 2008, tác giả Nguyễn Thị Hồng Oanh – Trường Đại học Kinh tế TP.HCM: luận văn này đề cập tới thực trang trình bày và công bố thông tin BCTC các công ty niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh đến 31/12/2007 và từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện việc trình bày và công bố thông tin như kiến nghị hoàn thiện mẫu biểu báo cáo, hoàn thiện nội dung liên quan tới báo cáo.
- “Hệ thống kiểm soát sự minh bạch thông tin tài chính công bố của các công ty niêm yết tại Việt Nam” – luận án tiến sĩ năm 2010, tác giả Nguyễn Đình Hùng – Trường Đại học Kinh tế TP.HCM: nghiên cứu xác định các thành phần ảnh hưởng đến sự minh bạch thông tin tài chính của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán để làm cơ sở đề xuất một hệ thống kiểm soát sự minh bạch thông tin tài chính công bố phù hợp với các thông lệ thế giới và môi trường kinh doanh, pháp lý ở Việt Nam.
- “Tăng cường thông tin hữu ích trên BCKT về BCTC tại các công ty niêm yết ở Việt Nam” luận văn thạc sĩ năm 2013, tác giả Trịnh Thanh Thanh – Trường Đại học Kinh tế TP.HCM: nghiên cứu này giúp hệ thống các đặc tính chất lượng của thông tin và các yếu tố ảnh hưởng đến thông tin trên BCKT về Báo cáo tài tính của các công ty niêm yết. Đánh giá thực trạng thông tin trên BCKT về BCTC tại các công ty niêm yết và các yếu tố tác động. Đề xuất các kiến nghị và giải pháp để tăng cường thông tin hữu ích trên BCKT tại các công ty niêm yết.
Nhận xét:
Các nghiên cứu trên đã đưa ra các lý luận căn bản về chất lượng thông tin trên BCKT về BCTC. Những nghiên cứu trên đã hỗ trợ và làm nền tảng cho nghiên cứu tiếp theo của tác giả. Các nghiên cứu trước đây chủ yếu là nghiên cứu về trình bày và công bố thông tin, tính minh bạch của thông tin qua các giai đoạn phát triển. Riêng với công trình nghiên cứu của tác giả, người viết muốn nêu lên thực trạng về thông tin và các ảnh hưởng tới thông tin trên BCKT tại thời điểm hiện tại. Và các điểm mới trong thông tin trên BCKT của các công ty niêm yết trong thời gian gần đây giúp cho người sử dụng thông tin có thêm các thông tin hữu ích khi sử dụng BCTC.
5. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN Luận văn: Nâng cao thông tin trên BCKT của các Cty niêm yết
Luận văn của tác giả là một công trình nghiên cứu khoa học. Kết quả nghiên cứu của luận văn đã đóng góp khoa học một số điểm cơ bản như sau:
- Một là, hệ thống hóa lại các vấn đề liên quan tới chất lượng thông tin trình bày trên BCKT của các công ty niêm yết tại Việt Nam.
- Hai là, khái quát lịch sử hình thành quá trình phát triển của BCKT có liên quan đến nội dung đề tài góp phần đánh giá được thực trạng về tình hình sử dụng thông tin trên BCKT.
- Qua đó rút được những khía cạnh mà chế độ kế toán hiện nay cần thay đổi trong thời gian tới.
- Ba là, đề xuất các giải pháp khả thi để gia tăng những thông tin hữu ích trên BCKT của các công ty niêm yết tại Việt Nam.
6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Luận văn được thực hiện bao phần mở đầu, danh mục các từ viết tắt, danh mục các bảng, biểu đồ, kết luận và được kết cấu bởi 5 chương chính:
Chương 1: Tổng quan về các vấn đề nghiên cứu về chất lượng thông tin trên BCKT về BCTC
Chương 2: Cơ sở lý thuyết về thông tin trên BCKT ở việt nam
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu và khung nghiên cứu chung của luận văn
Chương 4: Thực trạng về chất lượng thông tin trên BCKT về BCTC
Chương 5: Giải pháp nâng cao chất lượng thông tin trình bày trên BCKT cho các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VỀ CHẤT LƯỢNG THÔNG TIN TRÊN BÁO CÁO KIỂM TOÁN VỀ BÁO CÁO TÀI CHÍNH
Nội dung chính của chương này tác giả cung cấp một bức tranh tổng quan về quá trình nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến nội dung của luận văn. Tác giả tóm tắt những thành công của các nghiên cứu trong và ngoài nước đã tìm hiểu về một số mảng nội dung khác nhau có liên quan đến hướng nghiên cứu của tác giả, qua đó xác định lỗ hỏng còn thiếu sót của vấn đề nghiên cứu và nhằm minh chứng cho tính cấp thiết của luận văn này.
1.1 Các vấn đề liên quan tới thực trạng thị trường kiểm toán ở Việt Nam Luận văn: Nâng cao thông tin trên BCKT của các Cty niêm yết
Theo bài báo phỏng vấn PGS. TS Đặng Văn Thanh – Chủ tịch hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam khi nói với thực trạng thị trường kiểm toán ở Việt Nam như sau:
Hoạt động kiểm toán mới chỉ xuất hiện tại Việt Nam trên 20 năm nhưng hệ thống kiểm toán của chúng ta đã khá đầy đủ, từ KTĐL đến KTNN và kiểm toán nội bộ. Riêng KTĐL hiện có hơn 300 doanh nghiệp kiểm toán được Nhà nước công nhận với gần 2.000 KTV được cấp chứng chỉ hành nghề; đã có Luật KTĐL và xây dựng, ban hành được 37 chuẩn mực kiểm toán mới hiệu lực năm 2014. Tuy nhiên, bên cạnh đó lĩnh vực KTĐL ở nước ta vẫn tồn tại những hạn chế rất đáng quan tâm.
Thứ nhất, quy mô, số lượng các tổ chức hành nghề dịch vụ kiểm toán còn quá nhỏ bé, thậm chí siêu nhỏ. Lực lượng KTĐL cũng chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường. Tính sơ bộ Việt Nam có khoảng 600.000 doanh nghiệp và chỉ cần 25% trong số đó thuộc đối tượng bắt buộc kiểm toán BCTC thì lực lượng KTĐL hiện nay đã không đáp ứng được. Vậy nên nhiều công ty thuộc diện bắt buộc kiểm toán nhưng cũng chưa được kiểm toán toàn diện, đầy đủ.
Thứ hai, chất lượng dịch vụ hiện cũng chưa đạt được như mong muốn, dẫn tới 2 hệ lụy: các nhà đầu tư chưa tuyệt đối tin tưởng vào BCTC đã được kiểm toán; bản thân các BCTC của doanh nghiệp không bảo đảm được tính chính xác và không ít trường hợp chỉ để đạt mục đích nào đó chứ không vì mục đích khách quan tin cậy về thông tin kinh tế tài chính. Trên thực tế đã có doanh nghiệp vì để được trợ giá, vì tránh nộp thuế thu nhập thì báo cáo kết quả kinh doanh thua lỗ, khi để cổ phần hóa, để bán được cổ phiếu thì báo cáo lãi và cố chứng minh doanh nghiệp đang hoạt động có hiệu quả.
Mặc dù, chất lượng kiểm toán BCTC trong doanh nghiệp được tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau tùy thuộc vào góc nhìn của các đối tượng quan tâm, nhưng đều có chung mục tiêu là KTV đưa ra ý kiến đúng đắn về tính trung thực của thông tin trên BCTC kiểm toán tại DN. Hơn nữa, BCTC có tuân thủ các chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành, phản ánh đúng bản chất hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hay không? Theo đó, chất lượng của kiểm toán bảo đảm trung thực, minh bạch, công khai sẽ giúp ích đáng kể cho nhà quản lý, nhà đầu tư và cho chính doanh nghiệp khi sử dụng kết quả kiểm toán. Từ đây, tác giả xin tóm tắt các công trình sau được các nhà nghiên cứu đã tìm hiểu, mỗi một tác phẩm đều hướng đến các giải pháp về chất lượng thông tin, tính minh bạch của BCTC được trình bày theo các nhóm:
1.1.1 Bài báo và nghiên cứu khoa học nước ngoài Luận văn: Nâng cao thông tin trên BCKT của các Cty niêm yết
Đối với các bài báo nghiên cứu được công bố trên các tạp chí quốc tế, bên cạnh khá nhiều các nghiên cứu, tác giả tiến hành lựa chọn một số bài báo của các tác giả nghiên cứu ảnh hưởng của thông tin tới BCTC. Một số bài báo tiêu biểu như:
Premystaw Kabalski (2009), ‘Comments on the Objective of Financial Reporting in the Proposed New Conceptual Framework’, Eurasian Journal of Business and Economics 2009, 2 (4), page 95 – 111.
Mục đích chính của bài báo này là trình bày đề nghị đầu tiên của IASB và FASB về những khái niệm mới trong việc hướng dẫn lập và trình bày BCTC. Tác giả trình bày và giải thích những giải pháp của đề nghị này. Ông đã xây dựng tóm tắt bảng nội dung, phân tích những điểm quan trọng và cho ra những ý kiến cá nhân về những thay đổi này. Bài báo này tìm kiếm sự đóng góp để thảo luận về những hướng dẫn các khái niệm trong việc lập và trình bày BCTC.
Mục đích của nghiên cứu này thu thập những ý kiến của những người sử dụng BCTC trong tương lai đó là những sinh viên đã tốt nghiệp và chưa tốt nghiệp thuộc chuyên ngành Tài chính – Kế toán. Hai tác giả đã nhận thấy những sinh viên có sự đồng tình mạnh về những đề xuất mới của FASB – IASB. Và họ nhận thấy rằng giới học giả đang quan tâm tới thời gian áp dụng, những vấn đề và khó khăn khi truyền tải tới học viên những khái niệm mới về tài sản và nợ phải trả, phân loại hoạt động, bản chất của các giao dịch, mục tiêu chính của những thay đổi này.
Norlia Mat Norwani (2011), ‘Corporate governance failure and its impact on Financial Reporting within selected companies’, International Journal of Business and Social Science, Vol. 2 No.21
Bài báo này nghiên cứu về vấn đề liên quan giữa Doanh nghiệp nhà nước và BCTC. Bài viết này chủ yếu thảo luận về sự thất bại của các Doanh nghiệp nhà nước liên quan với thất bại trên BCTC. Vài trường hợp được nghiên cứu trong bài báo này đã minh chứng cho những ảnh hưởng của Doanh nghiệp nhà nước đến BCTC như Perwaja Steel, Technology Resources Industries (TRI), Transmile, Megan, Malaysian Airlines System (MAS), Port Klang Free Zone (PKFZ), Enron và WorldCom (WC). Ngoài ra bài báo này còn nêu bật lên những thử thách và các kiến nghị cần được cải thiện. Sự tuận thủ và giám sát chặt chẽ trở thành điều kiện tiên quyết để thành lập được một Doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả. Tính minh bạch trong BCTC sẽ liên kết các cổ đông thiểu số nhằm tạo ra sự hỗ trợ liên quan tới chủ đề này. Trách nhiệm của KTV được đề cập để cho ra những ý kiến trung thực về vấn đề trên BCTC của Doanh nghiệp nhà nước.
Cuộc khủng hoảng tài chính đã dẫn tới những tranh luận về Kế toán giá trị hợp lý. Nhiều nhà phê bình đã cho những ý kiến trái chiều về kế toán giá trị hợp lý, cái mà trước đây gọi là kế toán theo giá thị trường, đây là nhân tố gây ảnh hưởng quan trọng tới cuộc khủng hoảng tài chính. Trong bài báo này, hai tác giả đã kết nối các lý luận và xem xét vai trò của kế toán giá trị hợp lý trong cuộc khủng hoảng tài chính bằng cách sử dụng dữ liệu để mô tả và các bằng chứng nhận được từ quan sát và thử nghiệm. Dưa vào thủ thuật phân tích để xác định nguyên nhân nào mà kế toán giá trị hợp lý gây ảnh hưởng tới cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008.
Nhóm tác đã thực hiện cuộc điều tra nhằm xác định lại giả thuyết về BCTC đã được kiểm toán và việc trình bày các thông tin riêng của nhà quản lý. Với phí kiểm toán cao hơn (sự đo lường chất lượng trong việc kiểm tra BCTC) thì liên quan tới các dự báo của nhà quản lý như thông tin sẽ được cập nhật thường xuyên hơn, chuyên sâu hơn, chính xác và kịp thời để cho nhà đầu tư sử dụng. Do đó, việc thuyết minh thông tin riêng và BCTC được kiểm toán bổ trợ cho nhau, vai trò kinh tế của chúng không thể tách rời riêng được. Bằng chứng mà nhóm tác giả này một lần nữa cảnh báo những ảnh hưởng của thông tin gây ra các phản ứng của thị trường, vì thế BCTC được kiểm toán ảnh hưởng gián tiếp tới thông tin tại các điểm thời gian khác nhau và các lĩnh vực kinh tế khác của xã hội.
Tóm lại:
Các bài báo khoa học của các cá nhân, tập thể đã nghiên cứu cho thấy tầm quan trọng của việc trình bày thông tin trên BCTC nó ảnh hưởng tới những quyết định của người sử dụng thông tin. Và các nghiên cứu qua từng giai đoạn thời gian cho thấy việc thay đổi, bổ sung cách trình bày thông tin trên BCTC là hết sức quan trọng có thể kể tới những ý tưởng mới như kế toán giá trị hợp lý, công cụ tài chính…Do đó, người viết đề tài nghiên cứu này quyết định chọn đề tài này để thực hiện cuộc khảo sát thực tế thông tin trình bày trên BCKT của các công ty niêm yết tại Việt Nam để từ đó đánh giá thực trạng hiện tại và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thông tin trên BCKT.
1.1.2 Bài báo và nghiên cứu khoa học trong nước Luận văn: Nâng cao thông tin trên BCKT của các Cty niêm yết
Tác giả muốn đề cập tới các công trình nghiên cứu trong nước có mối liên hệ đến nội dung đề tài. Qua sự sàn lọc tác giả ghi nhận được một số công trình phù hợp. Xét một cách tổng thể, việc nghiên cứu thông tin tài chính rất đa dạng nhưng đề tài của tác giả chủ yếu tập trung về thông tin tài chính trên BCTC đã được kiểm toán. Do đó, các nghiên cứu có liên quan sẽ xoay quanh về phương pháp kiểm toán, trách nhiệm của KTV, bản chất của sự đảm bảo được cung cấp, ý kiến của KTV. Nhìn chung, các đề tài này chỉ tập trung vào một trong các khía cạnh có liên quan đến kiểm toán BCTC, hoặc chỉ mới đi vào một góc nhỏ của VAS, IFRS và VSA trong việc vận dụng vào Việt Nam. Hơn nữa, nếu xét về thông tin đầu ra cung cấp cho người sử dụng thì vẫn chưa được cung cấp và xử lý đầy đủ trong các đề tài được các tác giả khác thực hiện trước đây. Đi vào cụ thể, khi tìm hiểu về các nghiên cứu trong nước có liên quan tới đề tài này thì tác giả nghiên cứu đã tập hợp, đọc, phân tích và tổng hợp được một số luận văn thạc sĩ, giáo trình và bài báo tiêu biểu có tính chất, nội dung về cơ bản liên quan như sau:
Phan Thanh Hải (2014), “Quan điểm về chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính trong các doanh nghiệp niêm yết”, Báo cáo của Khoa Kế toán Đại học Duy Tân
Bài viết này trình bày về các quan điểm khác nhau liên quan đến vấn đề về chất lượng kiểm toán BCTC trong doanh nghiệp niêm yết. Theo bài báo này, có hai quan điểm chính về chất lượng kiểm toán độc lập đối với BCTC. Một là, chất lượng kiểm toán theo quan điểm thỏa mãn đối tượng sử dụng dịch vụ kiểm toán. Hai là, chất lượng kiểm toán theo quan điểm phát hiện và báo cáo sai sót trọng yếu trong BCTC. Tóm lại, kiểm toán là một loại hình cung cấp dịch vụ đặc biệt. Mặc dù chất lượng kiểm toán được nhìn nhận dưới các quan điểm khác nhau, cũng như tồn tại khoảng cách về mức độ thỏa mãn của các đối tượng quan tâm tới chất lượng kiểm toán, thì mục tiêu kiểm toán vẫn phải được đảm bảo, đó là KTV phải đưa ra ý kiến đúng về độ tin cậy của các BCTC, nghĩa là, nếu các BCTC có những sai sót làm ảnh hưởng đến các quyết định kinh tế của những người sử dụng, thì chúng đều đã được KTV phát hiện và báo cáo.
Vũ Thị Duyên (2014), “Chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính trong doanh nghiệp”, Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số 5
Bài báo này nói về thực trạng kiểm toán của các tổ chức kiểm toán độc lập hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề chưa được giải quyết, trong đó tiêu biểu là các tiêu chí và nguyên tắc kiểm soát chưa được xây dựng và ban hành thống nhất. Đồng thời, chất lượng nguồn nhân lực kiểm toán chưa đáp ứng kịp với đòi hỏi ngày càng cao của thực tiễn cuộc sống. Qua đó, bài báo này muốn đề cập tới thực trạng kiểm toán BCTC hiện nay ở Việt Nam còn nhiều mặt hạn chế sẽ làm ảnh hưởng tới kết quả kiểm toán và chất lượng dịch vụ của kiểm toán.
Trần Khánh Lâm (2011), “Xây dựng cơ chế kiểm soát chất lượng cho hoạt động kiểm toán độc lập tại Việt Nam”, Luận án tiến sĩ – Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
Nghiên cứu này tập trung đánh giá những hạn chế cơ bản của KSCL của hoạt động KTĐL Việt Nam dựa trên hai phương diện bên trong và bên ngoài. Theo nhận định của tác giả, các công ty KTĐL ở Việt Nam có quy mô và nguồn lực tài chính càng lớn sẽ cung cấp dịch vụ kiểm toán với chất lượng càng cao, điều này đã được tác giả định lượng thực hiện bằng cách khảo sát 35 công ty KTĐL khác nhau trong năm 2009. Đối với các công ty kiểm toán nhỏ do thiếu nguồn lực đã không xây dựng được chính sách và thủ tục KSCL phù hợp, do đó phần lớn các công ty KTĐL ở Việt Nam chưa thật sự kiểm soát hiệu quả chất lượng kiểm toán từ bên trong. Từ đó, nghiên cứu này của tác giả đã đút kết lại những thiếu sót đồng thời đưa ra các quan điểm và giải pháp để xây dựng cơ chế KSCL của hoạt động KTĐL để nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán ở Việt Nam như điều chỉnh quy mô công ty, giá phí kiểm toán, trình độ KTV, cơ chế KSCL bên trong và bên ngoài. Đây là một trong các nghiên cứu mang tính toàn diện, khái quát các khía cạnh vấn đề khác nhau ảnh hưởng tới chất lượng KTĐL tại Việt Nam từ trước cho tới nay
Phan Thanh Hải (2014), “Xác lập mô hình tổ chức cho hoạt động kiểm toán độc lập ở Việt Nam để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động trong xu thế hội nhập”, Luận án tiến sĩ – Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
Công trình nghiên cứu của tác giả đã đưa ra các khái niệm về mô hình tổ chức hoạt động của KTĐL, xác định mô hình tổ chức hoạt động của KTĐL, các mối quan hệ giữa các yếu tố của mô hình và chỉ rõ các điều kiện cần phải có khi áp dụng mô hình tổ chức KTĐL khác nhau tại các quốc gia. Từ đó, tác giả đã đưa ra các giải pháp để chỉnh sửa các vấn đề liên đến cấu trúc và cơ chế vận hành KTĐL ở Việt Nam như KSCL, chiến lược, giá phí kiểm toán, cơ sở pháp lý và các vấn đề khác có liên quan. Nghiên cứu này của tác giả đã khái quát được thực trạng và cho một số giải pháp xác lập mô hình tổ chức cho hoạt động KTĐL ở Việt Nam để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động trong xu thế hội nhập.
Vũ Hữu Đức (2002), “Xây dựng hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam”, Luận án tiến sĩ – Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
Đây là một trong những công trình nghiên cứu đầu tiên về việc xây dựng những lý thuyết nền tảng cho ngành KTĐL ở Việt Nam. Tác giả đã hệ thống và đánh giá các vấn đề có liên quan về ban hành các chuẩn mực và giám sát hoạt động của các công ty KTĐL. Bên cạnh đó, tác giả đã đề suất những phương hướng và kiến nghị hữu ích cho việc xây dựng và vận dụng chuẩn mực kiểm toán trong giai đoạn hội nhập quốc tế thời kỳ đó.
Trần Hồng Vân (2014), “Sự hòa hợp giữa kế toán Việt Nam và quốc tế trong việc lập và trình bày báo cáo tài chính hợp nhất từ chuẩn mực đến thực tiễn”, Luận án tiến sĩ – Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
Công trình nghiên cứu này của tác giả đề nói lên sự lạc hậu về các CMKT Việt Nam so với CMKT quốc tế trong việc lập, trình bày BCTC nói chung và BCTC hợp nhất nói riêng. Tác giả đã nói lên được nhu cấp cầu thiết của việc điều hành và quản lý nền kinh tế thị trường theo yêu cầu hội nhập kinh tế. Tính tới thời điểm hiện tại, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn trình bày BCTC theo CMKT chưa sửa đổi điều này chưa phù hợp với nền kinh tế thị trường chưa phù hợp với những đổi mới theo thông lệ quốc tế. Xét về việc trình bày BCTC hợp nhất nói riêng tại Việt Nam còn nhiều bất cập cần phải khắc phục. Do đó, đề tài này của tác giả giúp định hướng rõ hơn về trình bày BCTC hợp nhất để có thể cung cấp thông tin cho người sử dụng phù hợp với nhu cầu hội nhập quốc tế ngày nay ở Việt Nam.
1.2 Các vấn đề còn tồn đọng trong các nghiên cứu trước đó Luận văn: Nâng cao thông tin trên BCKT của các Cty niêm yết
1.2.1 Khái quát những yếu kém và bất cập trong thực tiễn
Dịch vụ KTĐL đã được hoạt động hơn 20 năm kể từ khi có Chính phủ cho Bộ Tài Chính thành lập 2 công ty KTĐL đầu tiên ở Việt Nam vào năm 1991. Theo thời gian, KTĐL được xem như một công cụ quan trọng gắn liền với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Các công ty KTĐL giúp cho các khách hàng của mình thấy được những yếu kém trong công tác quản lý tài chính, trong việc áp dụng những quy định về kế toán và những quy định pháp lý có liên quan của nhà nước. Công ty KTĐL giúp cho đơn vị được kiểm toán khắc phục những sai sót, phòng ngừa gian lận và tư vấn phương pháp kiểm soát để giúp cho đơn vị được kiểm toán.
Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển và hội nhập kinh tế mạnh mẽ làm cho số lượng công ty cần sử dụng dịch vụ kiểm toán ngày càng tăng lên một cách nhanh chóng. Đây là cơ hội cho các công ty KTĐL cũng như gắn liền với những thách thức cho dịch vụ kiểm toán như nguồn nhân lực kiểm toán, quy mô hoạt động, kiểm soát chất lượng dịch vụ… Như vậy vấn đề đặt ra ở đây là các công ty KTĐL với quy mô vừa và nhỏ có thể cung cấp được chất lượng dịch vụ kiểm toán tốt hay không? Do đó, để có thể tiếp tục tồn tại và phát triển các công ty KTĐL phải có những định hướng nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ đồng thời phải khắc phục các yếu kém, khuyết điểm mà hiện tại chưa đáp ứng được phù hợp với chiến lược kinh tế xã hội của đất nước.
1.2.2 Các vấn đề còn tồn đọng trong nghiên cứu Luận văn: Nâng cao thông tin trên BCKT của các Cty niêm yết
Qua công việc tìm hiểu các công trình nghiên cứu có liên quan và xem xét các bất cập của thực tiễn. Tác giả xin tóm tắt lại lỗ hỏng cũng như thiếu sót để làm tiền đề cho đề tài nghiên cứu của tác giả như sau:
Đối với công trình nghiên cứu nước ngoài
Các công trình nghiên cứu mà tác giải chọn lọc chủ yếu nêu lên những bất cập ở một khía cạnh của vấn đề. Các nghiên cứu này đi sâu vào việc giải thích một số trường hợp cụ thể. Do đó, nó chưa mang tính chất khái quát toàn diện về mọi mặt mà hoạt động KTĐL đang đối mặt trong thị trường kinh tế mở như hiện nay. Vậy, các công trình nghiên cứu nước ngoài tác giả đề cập ở trên chỉ dừng lại ở góc độ chi tiết chưa mang tính tổng quát của vấn đề nghiên cứu do đó những lỗ hỏng trong nghiên cứu nước ngoài như sau:
Một là, các nghiên cứu chỉ chú trọng việc phân tích thông tin và cách trình bày BCTC mà chưa có sự quan tâm thích đáng về thông tin trình bày trên BCKT.
Hai là, những tìm hiểu này bị giới hạn ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển do đó ở tại Việt Nam việc nghiên cứu vấn đề này được xem xét và cần thiết
Ba là, phần lớn các nghiên cứu này tập trung vào khía cạnh của một vấn đề cụ thể như việc lập và trình bày BCTC, chất lượng dịch vụ KTĐL nhưng chưa có sự khái quát về thông tin trình bày trên BCKT cho người sử dụng.
Do đó, sẽ có những khác biệt về môi trường pháp lý, điều kiện kinh tế, yếu tố con người. Theo các nghiên cứu chọn lọc ở trên phần lớn nó được nghiên cứu ở các nước phát triển như châu Âu, châu Mỹ. Vì vậy, đối với quốc gia đang trong giai đoạn hội nhập như Việt Nam thì những nghiên cứu này chỉ làm nền tảng tham khảo cho nghiên cứu của tác giả giúp định hướng rõ ràng hơn cho các kiến nghị phát triển ở thị trường Việt Nam.
- Đối với công trình nghiên cứu trong nước
- Một là, có thể thấy các bài báo khoa học và công trình nghiên cứu mà tác giả tham khảo chủ yếu liên quan tới chất lượng dịch vụ kiểm toán, cơ chế kiểm tra chất lượng dịch vụ kiểm toán, xây dựng mô hình tổ chức cho hoạt động KTĐL…nhưng ít có bài nghiên cứu nào đề cập tới chất lượng thông tin trình bày trên BCKT.
- Hai là, phần lớn nội dung mà các nghiên cứu trước chỉ mang tính chất định hướng áp xây dựng những vấn đề liên quan tới hoạt động KTĐL nhưng chưa có sự tìm hiểu sâu sắc nào về thông tin trình bày trên BCKT
- Ba là, về những quy định của chuẩn mực kiểm toán về việc trình bày thông tin trên BCKT chỉ mang tính chất hướng dẫn tham khảo, chưa đưa ra được các vấn đề liên quan mang tính chất cựu thể.
Tóm lại, đề tài nghiên cứu của tác giả muốn trình bày lại một cách tổng thể các nghiên cứu trong và ngoài nước nhằm mục đích tìm ra những thiếu sót, lỗi thời của các nghiên cứu trước đó. Để từ đây làm tiền đề xây dựng cho nghiên cứu của tác giả trên xu thế mở cửa hội nhập của Việt Nam bây giờ. Luận văn: Nâng cao thông tin trên BCKT của các Cty niêm yết
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY