Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Biện pháp khắc phục tín dụng tại các Cty chứng khoán hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Cầm cố tài sản trong hoạt động của tổ chức tín dụng công ty chứng khoán tại Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
3.1. Hoạt động của tổ chức tín dụng
3.1.1. Cầm cố thẻ tiết kiệm
3.1.1.1. Rủi ro cầm cố thẻ tiết kiệm của ngân hàng khác
Trường hợp cầm cố bằng thẻ tiết kiệm do chính mình phát hành thì gần như chắc chắn ngân hàng có thể xử lý được toàn bộ số tiền gửi để khấu trừ nợ vay. Luận văn: Biện pháp khắc phục tín dụng tại các Cty chứng khoán
Nhưng trong trường hợp cầm cố thẻ tiết kiệm do ngân hàng khác phát hành thì việc xử lý tài sản cầm cố của ngân hàng nhận cầm cố có thể gặp rủi ro.
Vấn đề pháp lý nằm ở nghĩa vụ của ngân hàng phát hành thẻ (ngân hàng nhận tiền gửi) đối với giao dịch cầm cố thẻ tiết của khách hàng gửi tiền tại ngân hàng mình. Do ngân hàng phát hành thẻ tiết kiệm không có bất kỳ thoả thuận, cam kết nào trước đó với chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm hay ngân hàng nhận cầm cố, nên thông thường khi nhận được thông báo về việc nhận cầm cố thẻ tiết kiệm của ngân hàng nhận cầm cố, ngân hàng phát hành thẻ thường chỉ xác nhận về:
- Tính trung thực, đúng sự thật của thẻ tiết kiệm (chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm, giá trị tiền gửi tiết kiệm,…);
- Hỗ trợ trong việc xử lý tài sản cầm cố theo yêu cầu của ngân hàng nhận cầm cố.
Điều này thực sự có thể ảnh hưởng rất lớn đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức tín dụng nhận cầm cố.
Xin dẫn ra tình huống thực tế sau đây để thấy rủi ro của ngân hàng nhận cầm cố trong tình huống này.
Tháng 3-2011, Sở Giao dịch Ngân hàng TMCP Đông Phong tiếp nhận và giải quyết nhu cầu vay vốn của Công ty Vina Tàu Thủy với số vốn là 500 tỷ đồng, để chứng minh năng lực tài chính tham gia một dự án đóng tàu 100.000 tấn, thời hạn vay là 2 tuần, tài sản cầm cố là Thẻ tiết kiệm (ông Hà Đình Bảng –
Tổng Giám đốc Công ty Vina Tàu thuỷ là chủ sở hữu tiền gửi) trị giá 550 tỷ đồng tại Ngân hàng TMCP Công Đoàn Việt Nam – Hội sở chính.
Sau khi nhận được công văn đề nghị xác nhận thông tin và hỗ trợ xử lý tài sản cầm cố của Ngân hàng TMCP Đông Phong.
Ngân hàng TMCP Công Đoàn Việt Nam – Hội sở chính đã xác nhận các nội dung như sau:
- Ông Hà Đình Bảng đang gửi tiết kiệm tại Ngân hàng TMCP Công Đoàn Việt Nam – Hội sở chính số tiền 550 tỷ đồng, kỳ hạn gửi 6 tháng, theo Sổ tiết kiệm có mã số 01268-TK;
- Xác nhận sẽ phong tỏa số tiền gửi này, không xác nhận để Ông Hà Đình Bảng cầm cố, thế chấp cho nghĩa vụ nào khác;
- Xác nhận sẽ ưu tiên và phối hợp với Ngân hàng TMCP Đông Phong để xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp Công ty Vina Tàu thuỷ không trả được nợ cho ngân hàng.
Sau khi có được sự xác nhận của Ngân hàng TMCP Công Đoàn Việt Nam – Hội sở chính, Ngân hàng TMCP Đông Phong đã giải ngân tiền vay vào tài khoản của Công ty Vina Tàu thuỷ tại Ngân hàng TMCP Công Đoàn Việt Nam – Hội sở chính.
Hết thời hạn vay 2 tuần, Công ty Vina Tàu thuỷ không trả được nợ. Ngân hàng TMCP Đông Phong gửi Công văn đề nghị Ngân hàng TMCP Công Đoàn Việt Nam – Hội sở chính phối hợp xử lý tài sản, thì bất ngờ nhận được thông tin là khoản tiền gửi không còn tại Ngân hàng TMCP Công Đoàn Việt Nam – Hội sở chính. Bởi vì, vừa qua ông Hà Đình Bảng không trả được khoản nợ 700 tỷ đồng tại Ngân hàng TMCP Công Đoàn Việt Nam – Hội sở chính nên đã bị khấu trừ để thu hồi nợ.
Trong trường hợp này, có thể thấy hai quan hệ pháp lý đan xen; thứ nhất là giao dịch cầm cố thẻ tiết kiểm giữa ông Hà Đình Bảng và Ngân hàng TMCP Đông Phong để bảo đảm cho khoản vay của Công ty Vina Tàu thuỷ; thứ hai là giao dịch gửi tiền và vay nợ tín dụng giữa ông Hà Đình Bảng với Ngân hàng TMCP Công Đoàn Việt Nam – Hội sở chính.
Về phía Ngân hàng Đông Phong, khi nhận cầm cố từ ông Hà Đình Bảng, việc gửi công văn đề nghị xác nhận và hỗ trợ xử lý tài sản cầm cố tớ Ngân hàng Công Đoàn là cần thiết. Theo nội dung Ngân hàng Đông Phong đề nghị, Ngân hàng Công Đoàn phản hồi xác nhận về 3 nội dung nêu trên cũng là phù hợp.
Thực tế, Ngân hàng Công Đoàn không cam kết về việc sẽ xử lý tài khoản tiền gửi theo yêu cầu của Ngân hàng Đông Phong. Trong trường hợp này, do ông Hà Đình Bảng không trả được nợ vay nên Ngân hàng Công Đoàn đã tự động khấu trừ tiền gửi tiết kiệm của ông Hà Đình Bảng để thu hồi một phần nợ vay.
Khi Ngân hàng Đông Phong có công văn quy kết trách nhiệm của Ngân hàng Công Đoàn, Ngân hàng Công Đoàn đã khẳng định mình xác nhận đầy đủ theo yêu cầu của Ngân hàng Đông Phong; đồng thời, Ngân hàng Công Đoàn không cam kết về nghĩa vụ thanh toán (chuyển) khoản tiền gửi của ông Hà Đình Bảng cho Ngân hàng Đông Phong, mà chỉ cam kết về việc hỗ trợ xử lý.
Nguyên nhân dẫn tới tình huống này có thể xác định gồm:
- Ngân hàng Đông Phong không lường hết được các rủi ro xảy ra đối với phương án nhận cầm cố trước khi cấp tín dụng;
- Thiếu cơ sở pháp lý ràng buộc trách nhiệm của tổ chức phát hành thẻ tiết kiệm.
Với nguyên nhân thứ nhất, rất khó để xác định rủi ro trong tình huống này, nhất là khi Ngân hàng Công Đoàn đã có văn bản xác nhận.
Với nguyên nhân thứ hai, pháp luật chưa có quy định rõ về nghĩa vụ của ngân hàng phát hành thẻ tiết kiệm, điều này dẫn tới mọi cam kết hỗ trợ của ngân hàng phát hành đối với tổ chức tín dụng nhận cầm cố không có giá trị pháp lý ràng buộc, có chăng chỉ ràng buộc nhau dưới phạm trù đạo đức mà thôi.
Khoản 2, Điều 19 về “Quyền của bên nhận cầm cố trong trường hợp nhận cầm cố vận đơn, thẻ tiết kiệm, giấy tờ có giá”, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP chỉ quy định: “2. Trong trường hợp nhận cầm cố thẻ tiết kiệm thì bên nhận cầm cố có quyền yêu cầu tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm phong toả tài khoản tiền gửi tiết kiệm của bên cầm cố.” [13, khoản 2, Điều 19] Luận văn: Biện pháp khắc phục tín dụng tại các Cty chứng khoán
Trong khi đó, khoản 3, Điều 19 về “Quyền của bên nhận cầm cố trong trường hợp nhận cầm cố vận đơn, thẻ tiết kiệm, giấy tờ có giá”, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP lại không đề cập tới thẻ tiết kiệm mà chỉ quy định về giấy tờ có giá như sau:
Trong trường hợp nhận cầm cố giấy tờ có giá thì bên nhận cầm cố có quyền yêu cầu người phát hành giấy tờ có giá hoặc Trung tâm lưu ký chứng khoán đảm bảo quyền giám sát của bên nhận cầm cố đối với giấy tờ có giá đó.
Trong trường hợp người phát hành giấy tờ có giá hoặc Trung tâm lưu ký chứng khoán vi phạm cam kết đảm bảo quyền giám sát của bên nhận cầm cố mà gây thiệt hại cho bên nhận cầm cố thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên nhận cầm cố, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. [13, khoản 3, Điều 19]
Thực tế với quy định tại Nghị định số 163/2006/NĐ-CP, nghĩa vụ của bên phát hành thẻ tiết kiệm chỉ dừng lại ở việc phong toả tiền gửi, mà không quy định về nghĩa vụ bảo đảm khả năng xử lý tài sản cầm cố của tổ chức phát hành thẻ trong trường hợp bên nhận cầm cố xử lý tài sản cầm cố.
Mặt khác, Quy chế về tiền gửi tiết kiệm ban hành kèm Quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN ngày 13-9-2004 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (được sửa đổi, bổ sung Quyết định số 47/2006/QĐ-NHNN ngày 25-9-2006) cũng chỉ quy định sự việc này dưới góc độ quyền của tổ chức tín dụng nhận cầm cố; cụ thể, khoản 2, Điều 21 về “Sử dụng thẻ tiết kiệm làm tài sản bảo đảm tiền vay”, Quy chế về tiền gửi tiết kiệm ban hành kèm Quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN quy định:
Khi sử dụng thẻ tiết kiệm làm tài sản cầm cố, chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm hoặc đồng chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm phải cam kết trường hợp đến hạn trả nợ mà không trả được nợ, thì tổ chức tín dụng cho vay có quyền yêu cầu tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm chuyển số tiền gửi tiết kiệm của bên vay cho tổ chức tín dụng cho vay để thu hồi nợ. [16, khoản 2, Điều 21]
Quy định trên thực tế không có nhiều giá trị áp dụng vì ngay cả trường hợp không có quy định này, đương nhiên để xử lý được số tiền gửi tiết kiệm, tổ chức tín dụng nhận cầm cố buộc phải yêu cầu ngân hàng phát hành thẻ tiết kiệm.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận Văn Thạc Sĩ Luật học
3.1.1.2. Rủi ro tranh chấp về điều kiện xử lý tài sản cầm cố Luận văn: Biện pháp khắc phục tín dụng tại các Cty chứng khoána
Đây là dạng rủi ro chung đối với nghiệp vụ giao dịch bảo đảm của tổ chức tín dụng.
Như đã nêu trên, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP quy định các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm gồm:
- Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
- Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
- Pháp luật quy định tài sản bảo đảm phải được xử lý để bên bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác.
- Các trường hợp khác do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định.
Trừ trường hợp đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm nhưng bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ, hay trường hợp pháp luật có quy định khác, thì trường hợp xử lý tài sản bảo đảm dựa vào căn cứ có sự vi phạm nghĩa vụ được hai Bên thoả thuận có thể gây rủi ro cao cho tổ chức tín dụng.
Thực tế, tranh chấp có thể phát sinh do không đủ cơ sở xác định như thế nào là việc vi phạm nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ để xử lý tài sản cầm cố.
Nhiều trường hợp, tổ chức tín dụng có thể thoả thuận với khách hàng về các trường hợp được xác định là vi phạm nghĩa vụ. Điều này có thể giải quyết được mặt hình thức nhưng không giải quyết được vấn đề bản chất của tranh chấp lúc này là: Căn cứ đâu để xác định bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ, hay đang thuộc trường hợp bị xác định là vi phạm nghĩa vụ.
Thực tế này sẽ khó khăn cho tổ chức tín dụng vì theo nguyên tắc pháp lý, chỉ có cơ quan Toà án mới có đủ thẩm quyền để xác định hành vi của bên nào trong giao dịch là vi phạm thoả thuận.
3.1.1.3. Một số rủi ro khác: Luận văn: Biện pháp khắc phục tín dụng tại các Cty chứng khoán
Ngoài rủi ro đặc thù như đã nêu, với giao dịch cầm cố thẻ tiết kiệm, tổ chức tín dụng nhận cầm cố có thể gặp phải một số loại rủi ro như:
- Tiền gửi tiết kiệm của chủ thể khác nhưng giao, để cho cá nhân đứng tên (ví dụ: Cá nhân cầm cố thẻ tiết kiệm là tiền quỹ công đoàn của công ty, tổ chức);
- Tiền gửi tiết kiệm thuộc sở hữu người này, nhưng lại để người khác đứng tên hộ (ví dụ: Con cái cầm cố thẻ tiết kiệm là tiền do bố mẹ nhờ gửi hộ);
- Tiền gửi tiết kiệm thuộc sở hữu chung (ví dụ sở hữu chung vợ chồng: Chỉ một người vợ hoặc chồng cầm cố thẻ tiết kiệm là tiền lương của mình; ví dụ sở hữu chung nhiều người: Một người cầm cố thẻ tiết kiệm là tiền một nhóm, hội góp vào);
- Tiền gửi tiết kiệm không có thật (ví dụ: Cầm cố thẻ tiết kiệm giả);
- Tiền gửi tiết kiệm bị rút do không hoàn tất thủ tục phong toả theo quy định.
Những rủi ro này thực tế đều có thể đặt ra, nhưng bằng nhiều biện pháp phòng vệ, tổ chức tín dụng nhận cầm cố có thể hạn chế rủi ro, tạo lập căn cứ pháp lý cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong trường hợp rủi ro xảy ra.
3.1.1.4. Giải pháp
Với rủi ro trong trường hợp cầm cố thẻ tiết kiệm do ngân hàng khác phát hành, trước hết, các tổ chức tín dụng cần chủ động, yêu cầu phía ngân hàng phát hành thẻ cung cấp đầy đủ thông tin và xác nhận về phương thức hỗ trợ xử lý tài sản cầm cố.
Nhưng điều cần thiết vẫn là bổ sung quy định về nghĩa vụ thanh toán khoản khoản tiền cấp tín dụng của tổ chức phát hành thẻ tiết kiệm trong trường hợp khách hàng gửi tiền sử dụng thẻ tiết kiệm để làm tài sản bảo đảm bảo đảm cho khoản vay tại tổ chức tín dụng khác và tổ chức tín dụng nhận cầm cố có yêu cầu xử lý tài sản cầm cố. Điều này sẽ tăng cường tính pháp lý đối với cam kết của tổ chức phát hành thẻ tiết kiệm đối với việc xử lý tài sản cầm cố của bên nhận cầm cố.
Đối với dạng rủi ro tranh chấp về điều kiện xử lý tài sản cầm cố, để tăng cường tính chủ động của tổ chức tín dụng, trong hợp đồng bảo đảm, xem xét đưa thêm căn cứ pháp lý là theo xác định của bên nhận cầm cố mà bên có nghĩa vụ phạm nghĩa vụ được bảo đảm thì bên nhận cầm cố có quyền xử lý tài sản cầm cố.
3.1.2. Cầm cố vận đơn
3.1.2.1. Một số trường hợp rủi ro Luận văn: Biện pháp khắc phục tín dụng tại các Cty chứng khoán
Mặc dù quy định của pháp luật về cầm cố vận đơn là khá rõ ràng, nhưng thực tế, không hay gặp trường hợp các tổ chức tín dụng sử dụng giao dịch cầm cố vận đơn để bảo đảm cho khoản vay của khách hàng.
Các tổ chức tín dụng sẽ xem xét, đánh giá để sử dụng biện pháp bảo đảm khác phổ biến hơn, gắn trực tiếp với hàng hoá hơn như cầm cố hàng hoá hay thế chấp hàng hoá (kho hàng, hàng tồn kho luân chuyển,…).
Nếu xác lập giao dịch cầm cố vận đơn, tổ chức tín dụng buộc phải chấp nhận việc chỉ có thể nhận biết được hàng hoá (vốn là đối tượng cốt lõi trong giao dịch cầm cố vận đơn) thông qua thông tin vận đơn và bộ chứng từ đi kèm. Rủi ro đến với tổ chức tín dụng đa phần sẽ xoay quanh tính chất đặc thù này. Có thể liệt kê một số trường hợp rui ro như:
Hàng hoá không đúng tính chất, không phù hợp với giá trị định giá.
Do không thể trực tiếp thẩm tra, thẩm định hàng hoá trước thời điểm xác lập giao dịch, chỉ thu thập, đánh giá thông tin về hàng hoá thông qua vận đơn cùng bộ chứng từ, nên tổ chức tín dụng gặp rủi ro rất lớn nếu thực tế hàng hoá không như kỳ vọng.
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng này, có thể do yếu tố chủ quan lẫn khách quan.
Hàng hoá bị mất mát, thiệt hại.
Rủi ro này ảnh hưởng trực tiếp tới giá trị tài sản trong giao dịch cầm cố. Đây là dạng rủi ro lớn khi tổ chức tín dụng không chủ động, định dạng, quản lý được tài sản. Do nhiều nguyên nhân mà hàng hoá trên vận đơn có thể bị mất mát, thiệt hại. Luận văn: Biện pháp khắc phục tín dụng tại các Cty chứng khoán
Nguyên nhân có thể đến từ những yếu tố khách quan, chủ quan trong quá trình vận chuyển hàng hoá hay quá trình bốc xếp, bảo quản hàng hoá chờ bàn giao,…
Hàng hoá bị cầm giữ, bị xử lý.
Rủi ro này liên quan tới quyền của bên vận chuyển đối với hàng hoá được vận chuyển. Trong một số trường hợp, người vận chuyển có quyền lưu giữ hàng hoá hoặc thậm chí xử lý bán đấu giá hàng hoá.
Khoản 4, Điều 94 về “Xử lý hàng hoá bị lưu giữ”, Bộ luật Hàng hải năm 2005 quy định:
Trong thời hạn sáu mươi ngày, kể từ ngày tàu biển đến cảng trả hàng, nếu không có người nhận số hàng gửi hoặc người nhận hàng không thanh toán hết các khoản nợ hoặc không đưa ra bảo đảm cần thiết thì người vận chuyển có quyền bán đấu giá số hàng đó để trừ nợ; nếu là hàng hoá mau hỏng hoặc việc gửi là quá tốn kém so với giá trị thực tế của hàng hoá thì người vận chuyển có quyền bán đấu giá trước thời hạn đó. [33, khoản 4, Điều 94]
Bên cạnh đó, trong trường hợp bên có quyền nhận hàng hoá trên vận đơn (hay chính là bên cầm cố vận đơn) có thoả thuận về việc thực hiện nghĩa vụ đối với bên vận chuyển tương ứng với quyền nhận hàng hoá của mình, nhưng vì lý do nào đó đã không thực hiện đầy đủ đối với bên vận chuyển tại thời điểm giao hàng, thì bên vận chuyển thực hiện quyền cầm giữ hàng hoá.
Khoản 1, Điều 416 về “Cầm giữ tài sản trong hợp đồng song vụ”, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “1. Cầm giữ tài sản là việc bên có quyền (sau đây gọi là bên cầm giữ) đang chiếm giữ hợp pháp tài sản là đối tượng của hợp đồng song vụ được cầm giữ tài sản khi bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện nghĩa vụ không đúng theo thỏa thuận.” [30, khoản 1, Điều 416]
Trường hợp này, nếu hàng hoá là loại có thời hạn sử dụng hoặc có giá trị sử dụng đặc thù, mà nếu không cung cấp đúng thời điểm thì không có giá trị sử dụng, thì việc bị cầm giữ ít nhiều cũng sẽ ảnh hưởng tới giá trị hàng hoá; qua đó ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức tín dụng nhận cầm cố.
Hàng hoá trên vận đơn được sử dụng làm đối tượng của một giao dịch bảo đảm khác:
Mặc dù về bản chất, tổ chức tín dụng nhận cầm cố vận đơn sẽ hướng tới quyền đối với hàng hoá được ghi nhận trên vận đơn. Nhưng do việc chỉ nhận chuyển giao tờ vận đơn, trong khi hàng hoá chưa thể định hình, quản lý, nên không loại trừ trường hợp, những hàng hoá này lại được sử dụng để bảo đảm cho cho một bên nhận bảo đảm khác, theo một dạng giao dịch bảo đảm khác (ví dụ thế chấp hàng hoá hình thành trong tương lai,…).
3.1.2.2. Giải pháp Luận văn: Biện pháp khắc phục tín dụng tại các Cty chứng khoán
Nhưng rủi ro kể trên đều là những rủi ro mang tính đặc thù của giao dịch cầm cố vận đơn.
Mặc dù hiếm khi được áp dụng, nhưng các tổ chức tín dụng cũng cần có cái nhìn khách quan và tổng quát về giao dịch này.
Để hạn chế rủi ro, tổ chức tín dụng cần đặc biệt lưu ý giai đoạn thu thập thông tin, đánh giá, định giá hàng hoá trên vận đơn. Đồng thời, yêu cầu bên cầm cố (hoặc bên khác) mua bảo hiểm đầy đủ đối với hàng hoá trên vận đơn; trong hợp đồng bảo hiểm, cần xác định rõ bên thụ hưởng là tổ chức tín dụng.
Tổ chức tín dụng cũng cần đặc biệt lưu ý về nghĩa vụ của bên cầm cố đối với bên vận chuyển, các bên khác có liên quan; điều này sẽ giúp tổ chức tín nhận định được đầy đủ hơn về rủi ro đối với hàng hoá trên vận đơn nếu bên cầm cố không thực hiện đúng nghĩa vụ đối với bên vận chuyển, các bên khác có liên quan.
Nhằm hạn chế tối đa trường hợp nhận cầm cố vận đơn nhưng hàng hoá đã được sử dụng để bảo đảm trong một giao dịch bảo đảm khác, tổ chức tín dụng nhận cầm cố vận đơn cần đặc biệt lưu ý quá trình xác minh, làm rõ hiện trạng tín dụng, bảo đảm của bên bảo đảm. Đồng thời ràng buộc cao trách nhiệm của bên bảo đảm, mặt khác cần theo dõi sát hiện trạng hàng hoá để bảo đảm thực hiện được quyền đối với hàng hoá trên vận đơn của mình.
3.1.3. Cầm cố giấy tờ có giá Luận văn: Biện pháp khắc phục tín dụng tại các Cty chứng khoán
3.1.3.1. Rủi ro xác định hiệu lực khi cầm cố giấy tờ có giá
Rủi ro này đến với cả hai bên tham gia giao dịch cầm cố giấy tờ có giá và xuất phát chính từ bất cập trong các quy phạm pháp luật thực định của Việt Nam về biện pháp cầm cố tài sản.
Như đã nêu, thì hiện tại, pháp luật quy định giao dịch cầm cố có hiệu lực từ thời điểm tài sản được chuyển giao từ bên cầm cố sang bên nhận cầm cố (Bộ luật Dân sự năm 2005 và Nghị định số 163/2006/NĐ-CP về Giao dịch bảo đảm). Việc chuyển giao theo khái niệm pháp lý về giao dịch cầm cố đang được hiểu và giải thích theo hướng là sự chuyển giao tài sản một cách vật lý, bên nhận cầm cố sẽ trực tiếp cầm nắm, quản lý, chi phối, kiểm soát tài sản.
Với thực tế câu chữ cũng như định hướng hiểu và giải thích này, nếu tài sản cầm cố là một số loại tài sản đặc thù sẽ rất khó lý giải về việc chuyển giao, từ đó gây khó khăn trong việc xác định thời điểm có hiệu lực của giao dịch.
Ví dụ đối với tài sản cầm cố là cổ phần trong trường hợp tổ chức phát hành quản lý cổ phần đang lưu hành dưới dạng bút toán ghi sổ hoặc bút toán điện tử, chứ không quản lý dưới dạng chứng chỉ (cổ phiếu), thì thực tế các bên cũng có thể sẽ không chuyển giao cho nhau bất kỳ thứ gì, khi đó việc xác định hiệu lực giao dịch cầm cố này sẽ là không dễ dàng. Các bên có thể lựa chọn giải pháp thoả thuận cụ thể về thời điểm có hiệu lực, nhưng xét về mặt pháp lý, thoả thuận này của hai bên cũng không có cơ sở pháp lý vì các quy định của pháp luật về hiệu lực của giao dịch cầm cố không quy định về trường hợp hai bên được thoả thuận.
Trường hợp cầm cố chứng khoán là cổ phiếu đã được đăng ký tại VSD cũng tương tự ví dụ đã nêu khi mà các bên không chuyển giao bất kỳ thứ gì cho nhau; giao dịch cầm cố chỉ được VSD ghi nhận theo quy định của pháp luật.
Việc không xác định được hiệu lực của giao dịch cầm cố ảnh hưởng lớn tới quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia giao dịch.
3.1.3.2. Rủi ro giao dịch vô hiệu đối với giao dịch cầm cố chứng khoán được xác lập trước thời điểm ngày 15-3-2015 khi Thông tư số 05/2015/TT-BTC có hiệu lực
Xuất phát từ quy định tại khoản 4, Điều 31 về “Cầm cố và giải tỏa cầm cố chứng khoán”, Quyết định số 87/2007/QĐ-BTC, giao dịch cầm cố chứng khoán lưu ký chỉ có hiệu lực từ thời điểm VSD thực hiện bút toán ghi sổ chuyển chứng khoán từ tài khoản chứng khoán giao dịch của thành viên bên cầm cố sang tài khoản chứng khoán cầm cố của thành viên bên cầm cố. Cụ thể: Luận văn: Biện pháp khắc phục tín dụng tại các Cty chứng khoán
Việc cầm cố chứng khoán chỉ có hiệu lực sau khi TTLKCK thực hiện bút toán ghi sổ chuyển chứng khoán từ tài khoản chứng khoán giao dịch của thành viên bên cầm cố sang tài khoản chứng khoán cầm cố của thành viên bên cầm cố.” [1, khoản 4, Điều 31]
Xem xét quy định này dưới góc độ pháp lý thì nhận thấy ngay vấn đề bất cập pháp lý. Bộ luật Dân sự năm 2005 và Nghị định số 163/2006/NĐ-CP về Giao dịch bảo đảm đều chỉ quy định thời điểm có hiệu lực của giao dịch cầm cố tài sản là thời điểm chuyển giao tài sản từ bên cầm cố sang bên nhận cầm cố, chứ không thừa nhận bất kỳ trường hợp nào khác theo logic soạn thảo thông thường là:
- Hai bên thoả thuận;
- Pháp luật có quy định khác.
Do đó, việc Điều 31 về “Cầm cố và giải tỏa cầm cố chứng khoán”, Quyết định số 87/2007/QĐ-BTC quy định như đã nêu sẽ cần được lý giải và nhìn nhận dưới 2 hướng:
Quyết định số 87/2007/QĐ-BTC thừa nhận thời điểm chuyển giao tài sản là chứng khoán lưu ký tại VSD là thời điểm VSD thực hiện bút toán ghi sổ chuyển chứng khoán từ tài khoản chứng khoán giao dịch của thành viên bên cầm cố sang tài khoản chứng khoán cầm cố của thành viên bên cầm cố.
Nếu theo cách lý giải này thì thực sự chỉ phù hợp về mặt lý thuyết pháp lý chứ không thể phù hợp về mặt quy phạm thực định vì: Thứ nhất, tài sản không được chuyển giao từ bên cầm cố sang bên nhận cầm cố mà chỉ từ tài khoản giao dịch của bên cầm cố sang tài khoản cầm cố của bên cầm cố (cùng được mở tại công ty chứng khoán là thành viên lưu ký của VSD). Thứ hai, Quyết định số 87/2007/QĐ-BTC cũng không chính thức quy định xác định thời điểm VSD thực hiện bút toán này là thời điểm chuyển giao tài sản.
Quyết định số 87/2007/QĐ-BTC quy định như vậy là xung đột đối với Bộ luật Dân sự năm 2005 và Nghị định số 163/2006/NĐ-CP về Giao dịch bảo đảm về hiệu lực của giao dịch cầm cố tài sản.
Thực tế, đến Thông tư số 05/2015/TT-BTC, quy định này đã bị loại bỏ. Về giao dịch cầm cố, Thông tư số 05/2015/TT-BTC chỉ quy định về thủ tục phong toả, giải toả chứng khoán cầm cố để xử lý tài sản bảo đảm.
Mặc dù vậy, với thực tế quy định tại Quyết định số 87/2007/QĐ-BTC như đã nêu, đối với các giao dịch cầm cố chứng khoán lưu ký được xác lập từ thời điểm ngày 18-11-2007 tới ngày 15-3-2015, rủi ro giao dịch bị xác định vô hiệu vẫn có thể đặt ra nếu giao dịch cầm cố này không được VSD thực hiện bút toán theo quy định vì bất kỳ lý do gì.
3.1.3.3. Rủi ro tranh chấp về điều kiện xử lý tài sản cầm cố Luận văn: Biện pháp khắc phục tín dụng tại các Cty chứng khoán
3.1.3.4. Rủi ro tranh chấp về giá bán tài sản cầm cố
Thông thường, trong hợp đồng bảo đảm, các bên sẽ thoả thuận về các phương thức xử lý tài sản bảo đảm. Với tài sản cầm cố là giấy tờ có giá nói chung, tổ chức tín dụng nhận cầm cố thường lựa chọn phương thức bán tài sản để khấu trừ nợ vay của khách hàng. Trong trường hợp tài sản cầm cố là cổ phiếu lưu ký, để thực hiện phương thức xử lý bán tài sản cầm cố, tổ chức tín dụng thông qua quan hệ uỷ quyền cho công ty chứng khoán nơi quản lý tài khoản chứng khoán của bên cầm cố để đặt lệnh bán chứng khoán cầm cố.
Trong một số trường hợp, mặc dù bên cầm cố khi giao kết hợp đồng cầm cố, đã xác nhận quyền yêu cầu công ty chứng khoán đặt lệnh bán chứng khoán cầm cố theo yêu cầu của tổ chức tín dụng nhận cầm cố; nhưng khi công ty chứng khoán chuẩn bị thực hiện bán chứng khoán cầm cố thì bên cầm cố lâp tức có văn bản yêu cầu không thực hiện lệnh bán; lý do bên cầm cố đưa ra là do các bên chưa thoả thuận về giá bán chứng khoán cầm cố nên nếu công ty chứng khoán thực hiện lệnh bán chứng khoán theo yêu cầu của tổ chức tín dụng nhận cầm cố vào thời điểm đó sẽ ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của bên cầm cố.
Đây là rủi ro đã xảy ra trên thực tế đối với tổ chức tín dụng nhận bảo đảm. Liên quan đến cơ chế xác định giá bán tài sản bảo đảm trong trường hợp bán tài sản bảo đảm không qua đấu giá, Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT-
BTP-BTNMT-NHNN ngày 06-6-2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp – Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường – Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về hướng dẫn xử lý tài sản bảo đảm cũng đã có quy định tại Điều 10 về “Bán tài sản bảo đảm không qua đấu giá”.
Quy định này đưa ra cơ chế xác định giá bán tài sản theo từng mốc giá. Hai bên đều có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định giá bán tài sản. Trong trường hợp tài sản bảo đảm không bán được theo định giá của cơ quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá thì bên nhận bảo đảm được quyền hạ giá bán tài sản trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày không bán được tài sản. Việc hạ giá bán tài sản thực hiện liên tục 03 lần nhưng mỗi lần hạ giá bán tài sản không được quá 10% giá đã định và phải cách nhau ít nhất là 30 ngày đối với bất động sản và 15 ngày đối với động sản.
Nhưng sau khi mức giá được hạ 03 lần liên tục mà không bán được tài sản thì Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN lại quy định bên nhận cầm cố được quyền nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ, chứ không quy định về việc bên nhận bảo đảm có được tiếp tục bán tài sản bảo đảm theo mức giá khác hay không. Hơn nữa, thực tế việc nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ cũng thiếu cơ chế pháp lý
Phải thừa nhận đây là một bất cập của Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN, rủi ro về việc xác định giá bán tài sản bảo đảm chưa thể được hạn chế bằng quy phạm pháp luật thực định.
3.1.3.5. Giải pháp Luận văn: Biện pháp khắc phục tín dụng tại các Cty chứng khoán
Với rủi ro xác định hiệu lực của giao dịch cầm cố giấy tờ có giá:
Để khắc phục rủi ro này, cần phải điều chỉnh các quy phạm pháp luật về cầm cố tài sản theo hướng thống nhất cách hiểu bản chất của việc chuyển giao tài sản trong giao dịch cầm cố và căn cứ xác định hiệu lực của giao dịch cầm cố tài sản.
Xem xét quy định thêm nội hàm của khái niệm cầm cố tài sản gồm cả việc không chuyển giao tài sản một cách vật lý mà có thể chỉ là việc bên nhận cầm cố quản lý, kiểm soát, chi phối,… đối với tài sản. Điều này là cần thiết và phù hợp với thực tế cầm cố, nhận cầm cố các tài sản là động sản vô hình như giấy tờ có giá nói chung, cổ phần, cổ phiếu nói riêng.
Thực tế, tại Dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi đang trình Quốc hội (Dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi) cho ý kiến, khoản 1, Điều 321 về “Cầm cố tài sản” đang ghi nhận:
Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) chuyển giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) chiếm giữ hoặc tài sản không được chuyển giao, nhưng bên nhận cầm cố có quyền kiểm soát, chi phối tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của chính mình. [40, khoản 1, Điều 321]
Đồng thời, căn cứ xác định hiệu lực của giao dịch cầm cố tài sản cũng cần phải được quy định phù hợp với nội hàm của khái niệm cầm cố tài sản. Hiện tại, Điều 322 về “Xác lập quyền cầm cố”, Dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi đang trình Quốc hội cho ý kiến quy định về thời điểm xác lập quyền cầm cố như sau:
Quyền cầm cố được xác lập và có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm bên cầm cố chuyển giao tài sản cho bên nhận cầm cố, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.
Việc cầm cố bất động sản, cầm cố quyền đòi nợ và các quyền tài sản khác có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký.
Việc cầm cố chứng khoán, thẻ tiết kiệm có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm tổ chức phát hành loại giấy tờ đó nhận được thông báo về việc bên nhận cầm cố có quyền kiểm soát, chi phối tài sản cầm cố. [40, Điều 322] Luận văn: Biện pháp khắc phục tín dụng tại các Cty chứng khoán
Cách quy định tại khoản 1, Điều 322 về “Xác lập quyền cầm cố”, Dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi đang trình Quốc hội cho ý kiến chưa thực sự phù hợp với định hướng quy định nội hàm khái niệm cầm cố tài sản tại khoản 1, Điều 321 về “Cầm cố tài sản”, Dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi, do chỉ mới quy định xác định thời điểm xác lập quyền cầm cố căn cứ vào thời điểm chuyển giao tài sản.
Với rủi ro giao dịch vô hiệu đối với giao dịch cầm cố chứng khoán lưu ký được xác lập trước thời điểm ngày 15-3-2015 khi Thông tư số 05/2015/TT- BTC có hiệu lực:
Thực tế có nhiều trường hợp, vì nhiều lý do mà giao dịch cầm cố chứng khoán lưu ký không được tiến hành thủ tục phong toả, chuyển khoản chứng khoán cầm cố tại VSD theo quy định tại Quy chế đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số 87/2007/QĐ-BTC; do vậy mà giao dịch cầm cố chưa có hiệu lực theo quy định.
Thực tế quy định tại Quy chế đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số 87/2007/QĐ-BTC là thiếu căn cứ pháp lý như đã nêu, gây nhiều trở lực đối với tổ chức tín dụng nhận cầm cố; nhưng tới Thông tư số 05/2015/TT-BTC, quy định về hiệu lực này đã bị bãi bỏ.
Với những giao dịch đã được xác lập trước ngày 15-3-2015, cũng do quy định đặc thù về hiệu lực giao dịch cầm cố này mà thực tế sẽ có độ trễ pháp lý nhất định từ thời điểm xác lập giao dịch cầm cố cho tời thời điểm giao dịch có hiệu lực. Nếu tổ chức tín dụng không nắm rõ được quy định này, quản trị tốt thời điểm hiệu lực thì rủi ro làm giao dịch cầm cố chứng khoán vô hiệu là rất lớn.
Bởi vậy, với những giao dịch đã xác lập, tổ chức tín dụng cần rà soát, đánh giá hiện trạng hồ sơ pháp lý. Nếu chưa thực hiện thủ tục tại VSD thì cần ưu tiên khắc phục; khi đó, việc được hưởng quyền ưu tiên xử lý sẽ bị ảnh hưởng do thời điểm đăng ký, phong toả không thể ghi nhận như tại thời điểm xác lập giao dịch.
Với rủi ro tranh chấp về giá bán tài sản cầm cố:
Trước thực tế pháp lý như đã nêu, để hạn chế rủi ro này, trong hợp đồng cầm cố, các bên cần thoả thuận cụ thể về cơ chế xác định giá bán chứng khoán cầm cố. Để bảo đảm cho việc xử lý được thuận tiện, các bên sẽ thoả thuận mức giá bán là mức giá đóng cửa hoặc mở cửa; đây là dạng lệnh ATC hoặc ATO.
Dưới góc độ quy phạm pháp luật, cần xem xét điều chỉnh cơ chế xác định giá bán trong trường hợp không bán đấu giá tài sản như tại Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN. Theo đó, sau khi đã hạ giá 03 lần mà không bán được thì cần cho phép tổ chức tín dụng nhận bảo đảm tự mình bán với một mức giá khả thi nhất; đồng thời cũng đưa ra những giới hạn để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bên bảo đảm.
3.1.4. Cầm cố quyền tài sản Luận văn: Biện pháp khắc phục tín dụng tại các Cty chứng khoán
3.1.4.1. Rủi ro xử lý quyền khai thác khoáng sản
Rủi ro quyền khai thác khoáng sản bị giảm sút giá trị, bị thu hồi:
Như đã nêu, quyền khai thác khoáng sản được ghi nhận tại Giấy phép khai thác khoáng sản. Nếu hiểu theo quan điểm về chuyển giao tài sản cầm cố trong giao dịch cầm cố tài sản, thì quyền khai thác khoáng sản cũng sẽ được chuyển giao. Về nguyên tắc pháp lý, hệ quả pháp lý của việc chuyển giao tài sản cầm cố là việc bên cầm cố không thể tiếp tục khai thác, kiểm soát,… tài sản cầm cố. Ở đây, nếu cầm cố quyền khai thác khoáng sản thì bên cầm cố sẽ không được thực hiện quyền này. Giá trị của quyền khai thác khoáng sản thường được xác định dựa trên giá trị trữ lượng khoáng sản có thể được khai thác, bên cạnh đó có thể căn cứ thêm vào các chi phí khác phải bỏ ra để có được quyền khai thác khoáng sản theo Giấy phép khai thác khoáng sản.
Chính bởi vậy, nếu không tiến hành việc khai thác thực tế thì rất có thể vì nhiều lý do mà giá trị quyền khai thác khoáng sản bị giảm sút, thậm chí bị triệt tiêu nếu bị thu hồi theo quy định của pháp luật.
Khó khăn trong lựa chọn phương thức xử lý quyền khai thác khoáng sản:
Do là tài sản đặc thù, nên không thể áp dụng phương thức xử lý nhận chính tài sản để thay cho việc thực hiện nghĩa vụ. Do tổ chức tín dụng không có chức năng kinh doanh, khai thác khoáng sản nên không thể trực tiếp nhận chuyển quyền khai thác khoáng sản từ bên cầm cố.
Phương thức xử lý tài sản cầm cố khả thi nhất là phương thức bán tài sản; trường hợp này sẽ thực hiện giao dịch chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản. Tuỳ theo thoả thuận thực tế của hai Bên tại hợp đồng cầm cố mà cách thức chuyển nhượng có thể được thực hiện khác nhau. Đối tác nhận chuyển nhượng phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện để được cấp Giấy phép khai thác khoáng sản. Việc chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản phải được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy phép khai thác khoáng sản chấp thuận; trường hợp được chấp thuận, tổ chức, cá nhân nhận chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản được cấp Giấy phép khai thác khoáng sản mới. Luận văn: Biện pháp khắc phục tín dụng tại các Cty chứng khoán
Điều kiện đặt ra để chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản cũng rất khắt khe; khoản 1, Điều 24 về “Chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản”, Nghị định số 15/2012/NĐ-CP ngày 09-3-2012 về Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Khoáng sản quy định:
- Điều kiện chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản:
- Tổ chức, cá nhân nhận chuyển nhượng đủ điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 51 và khoản 2 Điều 53 Luật khoáng sản.
- Tính đến thời điểm chuyển nhượng, tổ chức, cá nhân được phép khai thác khoáng sản đã hoàn thành công việc quy định tại khoản 1 Điều 66 và các nghĩa vụ quy định tại các điểm a, b, c, d, e và g khoản 2 Điều 55 Luật khoáng sản.
- Khu vực được phép khai thác không có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ liên quan đến hoạt động khoáng sản.
- Tổ chức, cá nhân đề nghị chuyển nhượng đã nộp đủ hồ sơ cho cơ quan tiếp nhận hồ sơ khi Giấy phép khi thác khoáng sản còn hiệu lực ít nhất là 90 ngày. [15, khoản 1, Điều 24]
Với điều kiện như vậy, ngay từ thời điểm nhận tài sản cầm cố, tổ chức tín dụng đã phải đặc biệt chú ý tới các vấn đề có liên quan. Với thực tế điều kiện để chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản như đã nêu, việc tìm kiếm đối tác cũng là không hề dễ dàng. Khó khăn xử lý bán tài sản cầm cố đối với tổ chức tín dụng nhận bảo đảm sẽ tăng lên nếu bên cầm cố vì lý do nào đó mà gây khó khăn (có thể là vấn đề xác định giá chuyển nhượng), trong khi hợp đồng cầm cố giữa hai bên không đủ cơ sở để tăng cường pháp lý cho tổ chức tín dụng nhận cầm cố.
3.1.4.2. Rủi ro xử lý quyền đòi nợ
Như đã nêu, khả năng thu hồi nợ vay của tổ chức tín dụng nhận bảo đảm bằng quyền đòi nợ trong trường hợp xử lý tài sản bảo đảm cũng vẫn phụ thuộc vào khả năng trả nợ của bên có nghĩa vụ.
Tức là không giống như trường hợp nhận bảo đảm bằng tài sản khác, khi xử lý tài sản bảo đảm, tổ chức tín dụng nhận bảo đảm đều có thể thu về một giá trị vật chất nhất định (tiền, vật,…). Nhưng riêng với quyền đòi nợ, việc xử lý tài sản sẽ chỉ là việc thay đổi hoặc thêm chủ thể có nghĩa vụ trả nợ cho tổ chức tín dụng mà thôi.
Nhưng sẽ có một ngoại lệ khi tổ chức tín dụng nhận bảo đảm quyết định sử dụng phương thức bán tài sản bảo đảm. Trường hợp này, thông lệ thị trường vẫn sử dụng thuật ngữ “bán nợ”. Thay bằng việc chính mình nhận quyền đòi nợ từ bên bảo đảm thì tổ chức tín dụng tìm một đối tác nhận thay mình, đồng thời tổ chức tín dụng sẽ nhận được từ đối tác này một giá trị vật chất nhất định theo thoả thuận của các bên, giá trị vật chất này có thể bằng nhưng thông thường sẽ thấp hơn giá trị quyền đòi nợ.
Dù dưới hình thức nào, thì rủi ro khi xử lý tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ vẫn sẽ là khả năng thu hồi thực tế nợ vay của tổ chức tín dụng nhận bảo đảm. Tính chất của quyền đòi nợ sẽ quyết định rất nhiều tới khả năng thu hồi nợ thành công của tổ chức tín dụng như: Bên có nghĩa vụ trả nợ theo quyền đòi nợ là ai? Thời hạn của khoản nợ là bao lâu? Nợ có bảo đảm hay không bảo đảm? Tình hình tài chính của bên có nghĩa vụ trả nợ theo quyền đòi nợ như thế nào?…
Tổ chức tín dụng nhận bảo đảm sẽ phải đặc biệt lưu ý khi nhận bảo đảm bằng quyền đòi nợ, vì đôi khi “tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa”.
3.1.4.3. Rủi ro xử lý quyền sở hữu công nghiệp Luận văn: Biện pháp khắc phục tín dụng tại các Cty chứng khoán
Rủi ro tài sản bảo đảm bị sụt giảm giá trị:
Với đặc tính của mình, tương tự như với quyền khai thác khoáng sản, khi tổ chức tín dụng nhận bảo đảm bằng quyền sở hữu công nghiệp thì luôn phải đối mặt với rủi ro về sự sụt giảm giá trị của tài sản bảo đảm.
Cũng theo logic pháp lý thực định của pháp luật Việt Nam về biện pháp cầm cố, bên cầm cố không thể trực tiếp khai thác, sử dụng tài sản sau khi đã chuyển giao cho bên nhận cầm cố. Nhưng do là tài sản vô hình, các bên chỉ có thể chuyển giao cho nhau giấy tờ chứng minh về quyền sở hữu, nên thực tế việc không cho phép bên cầm cố không được sử dụng, khai thác tài sản nhằm tránh việc sụt giảm giá trị là khá khó khăn, đồng thời cũng khó có cơ sở pháp lý để thực hiện. Ở góc độ nào đó, với những tài sản là quyền sở hữu công nghiệp hay quyền khai thác khoáng sản, việc không đưa tài sản vào khai thác lại làm cho tài sản bị ảnh hưởng tới giá trị, làm cho tài sản không có điều kiện gia tăng giá trị vốn có của mình.
Có thể thấy rõ hai mặt của vấn đề này qua phân tích ví dụ sau:
Công ty TNHH Bình Minh là chủ sở hữu nhãn hiệu dầu gội đầu SOAPER tại thị trường Việt Nam. Công ty Bình Minh đã nhận chuyển nhượng nhãn hiệu này từ một doanh nghiệp của Lào. Trước đó, SOAPER đã có chỗ đứng nhất định tại thị trường Lào, nhưng với thị trường Việt Nam, đây vẫn còn là nhãn hiệu mới, chưa có tên tuổi. Để có vốn đầu tư nhà máy sản xuất, đầu tư phát triển thương hiệu SOAPER, Công ty Bình Minh đề nghị và được chấp thuận vay 10 tỷ đồng trong thời hạn 4 năm tại Ngân hàng TMCP Phương Bắc. Tài sản bảo đảm là một số linh kiện, dây chuyền máy móc và chính nhãn hiệu SOAPER; tổng giá trị tài sản bảo đảm được định giá 15 tỷ đồng, trong đó nhãn hiệu SOAPER được định giá 6 tỷ đồng. Dự kiến thị trường của sản phẩm vẫn là thị trường truyền thống tại Lào và thị trường tiềm năng tại Việt Nam.
Trong ví dụ này, nếu nhận cầm cố nhãn hiệu SOAPER và không để Công ty Bình Minh tiếp tục sử dụng nhãn hiệu thì sẽ mâu thuẫn ngay với mục đích sử dụng vốn vay. Trong khi, nếu để Công ty Bình Minh sử dụng nhãn hiệu để kinh doanh sản phẩm thì vừa đáp ứng đúng nhu cầu vốn, vừa có điều kiện để tăng giá trị tài sản bảo đảm. Nhưng cũng sẽ có rủi ro nếu hoạt động xây dựng nhãn hiệu không tốt, không phù hợp thì rất có thể nhãn hiệu sẽ bị sụt giảm giá trị với nguyên nhân gây ra hàng đầu là hàng hoá mang nhãn hiệu không được người tiêu dùng đón nhận.
Khó khăn trong lựa chọn phương thức xử lý quyền sở hữu công nghiệp:
Tương tự như với quyền khai thác khoáng sản, việc một tổ chức tín dụng nhận chính quyền sở hữu công nghiệp để thay cho một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ trả nợ là không dễ dàng. Trước hết vì hạn chế trong ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh; sau đó vì yếu tố kinh nghiệm, kỹ năng quản lý khai thác đối tượng,… Luận văn: Biện pháp khắc phục tín dụng tại các Cty chứng khoán
Phương thức xử lý khả thi nhất trong trường hợp này cũng là tìm kiếm đối tác để chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp. Nhưng do đặc thù nên để tìm được một đối tác phù hợp cũng là điều không hề dễ dàng.
3.1.4.4. Rủi ro khó được ưu tiên xử lý tài sản
Các dạng quyền tài sản đặc thù đã nêu như quyền khai thác khoáng sản, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đòi nợ mang đặc tính cố định, không bị chuyển hoá sang (hoặc có thể hình thành) dạng tài sản khác.
Nhưng một số loại quyền tài sản có tính chất là tiền thân của tài sản hiện hữu hình thành trong tương lai cũng là đối tượng nhận bảo đảm của rất nhiều giao dịch bảo đảm trong hoạt động nghiệp vụ tín dụng của tổ chức tín dụng. Có thể kể ra một số loại quyền tài sản như: Quyền khai thác, sử dụng sân gôn, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán căn hộ chung cư,… Những trường hợp này, khi tài sản hiện hữu hình thành, nếu tài sản hiện hữu này được sử dụng để bảo đảm tại tổ chức tín dụng khác thì khi xử lý tài sản bảo đảm, đương nhiên tổ chức tín dụng này sẽ có cơ sở thực tế để xử lý tài sản bảo đảm hơn tổ chức tín dụng chỉ nhận bảo đảm dưới dạng quyền tài sản.
Đây là dạng rủi ro mà các tổ chức tín dụng nhận bảo đảm bằng một số loại quyền tài sản là tiền thân của tài sản hiện hữu hình thành trong tương lai phải lưu ý.
3.1.4.5. Rủi ro tranh chấp về điều kiện xử lý tài sản cầm cố Luận văn: Biện pháp khắc phục tín dụng tại các Cty chứng khoán
3.1.4.6. Giải pháp
Với những dạng quyền tài sản đặc thù như quyền khai thác khoáng sản, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đòi nợ, để hạn chế rủi ro, trước hết, tổ chức tín dụng nhận bảo đảm cần có phương án nhận, quản lý, xử lý tài sản bảo đảm một cách có hệ thống, bài bản, chủ động và xuyên suốt quá trình quản lý nợ vay.
Bên cạnh đó, việc bổ sung cơ chế xác định giá khi xử lý tài sản cầm cố như đã nêu ở những mục trên là điều hết sức cần thiết. Nhằm tạo chủ động cao nhất cho tổ chức tín dụng nhận bảo đảm khi cần xử lý tài sản, nhất là với những loại tài sản có độ rủi ro cao như quyền tài sản.
Ở góc độ nào đó, pháp luật cũng nên tạo căn cứ pháp lý cho phép các bên thoả thuận về việc bên cầm cố được quyền khai thác, sử dụng tài sản là quyền khai thác khoáng sản, quyền sở hữu công nghiệp dựa trên quyền quản lý của bên nhận cầm cố đối với tài sản cầm cố.
3.1.5. Cầm cố tàu bay
Thực tế, tác giả chưa ghi nhận được trường hợp nào cầm cố tài sản là tàu bay. Xét nguyên nhân của thực tế này thì dễ dàng thấy ngay giao dịch cầm cố tàu bay rất khó để giải thích về mặt lợi ích kinh tế. Các tàu bay dân sự thông thường đều là tài sản có giá trị lớn, tính năng kỹ thuật và vận hành phức tạp, do vậy, nếu chuyển giao hoàn toàn cho bên nhận cầm cố thì gặp nhiều hạn chế. Thứ nhất, đó là hạn chế về mặt khai thác tài sản của bên cầm cố.
Thứ hai, đó là hạn chế về khả năng bảo quản, bảo trì, tránh sụt giảm giá trị từ phía bên nhận cầm cố.
Thứ ba, đó là hạn chế về khả năng xử lý tài sản cầm cố do tính không đa dạng trong chủ thể có khả năng, hoặc nhu cầu khai thác tài sản cầm cố.
Theo logic thông thường, các bên có thể lựa chọn cầm cố tài sản là động cơ hay các bộ phận khác của máy bay.
3.1.6. Cầm cố động sản khác Luận văn: Biện pháp khắc phục tín dụng tại các Cty chứng khoán
Với những động sản thông thường, rủi ro xảy ra khi nhận cầm cố đều có thể là một, một số rủi ro với những loại tài sản đặc thù như đã nêu.
Với riêng loại động sản cầm cố là sim-thẻ điện thoại, thẻ game, dạng rủi ro nằm chủ yếu ở việc sụt giảm giá trị tài sản qua đó ảnh hưởng tới khả năng xử lý tài sản cầm cố. Có thể nêu ra một số rủi ro như sau:
Sim-thẻ điện thoại, thẻ game bị sử dụng trái phép trong quá trình bảo quản.
Dạng rủi ro này rất dễ xảy ra. Do về bản chất, cách thức sử dụng sim-thẻ điện thoại, thẻ game là rất dễ dàng. Chỉ cần cào lớp tráng, thấy được đoạn mã số là có thể sử dụng.
Sim-thẻ điện thoại, thẻ game bị hết thời hạn sử dụng.
Rủi ro này sẽ dễ dàng nhận thấy và dễ xảy ra đối với tổ chức tín dụng nhận cầm cố trong trường hợp bên cầm cố là các đại lý cấp 1, cấp 2 của các nhà mạng (chứ không phải các nhà mạng). Nếu sim-thẻ điện thoại, thẻ game nhận cầm cố bị quá hạn sử dụng, đương nhiên giá trị lợi ích vật chất từ sim, thẻ đó sẽ không thể hình thành, vì ở đây, nhà mạng (hoặc nhà phát hành game) là bên có quyền hạn quyết định việc sim, thẻ nào được sử dụng.
Thẻ game không còn giá trị sử dụng do game bị đình chỉ hoặc chấm dứt khai thác.
Theo quy định của pháp luật về lĩnh vực công nghệ thông tin, các game (trực tuyến) muốn được phát hành cần phải được sự chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong quá trình khai thác, nếu có các sự cố xảy ra, game hoàn toàn có thể bị thu hồi giấy phép và đình chỉ khai thác. Hay như vì nhiều lý do mà nhà phát hành quyết định không khai thác game nữa.
Trong bất kỳ trường hợp nào như kể trên, thẻ game đều có thể trở nên vô giá trị và khi đó sẽ ảnh hưởng cực kỳ nghiêm trọng tới quyền lợi hợp pháp của tổ chức tín dụng nhận cầm cố.
3.2. Hoạt động của công ty chứng khoán
3.2.1. Cầm cố tiền gửi
Về cơ bản, việc cầm cố tiền gửi là khá an toàn đối với công ty chứng khoán.
Đối với tiền trong tài khoản giao dịch chứng khoán, khách hàng chỉ có thể lựa chọn: Rút tiền mặt (hoặc chuyển sang tài khoản khác theo dịch vụ tiện ích chuyển tiền của từng công ty chứng khoán) hoặc sử dụng để mua chứng khoán.
Quy chế Hướng dẫn giao dịch ký quỹ chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số 637/QĐ-UBCK
3.2.2. Cầm cố chứng khoán Luận văn: Biện pháp khắc phục tín dụng tại các Cty chứng khoán
3.2.2.1. Rủi ro xác định sai giao dịch bảo đảm
Hiện tại, theo thực tế quy định tại Nghị định số 163/2006/NĐ-CP về Giao dịch bảo đảm, cũng như Thông tư số 74/2011/TT-BTC về Giao dịch chứng khoán, đối với chứng khoán, biện pháp bảo đảm được áp dụng là cầm cố. Nhưng theo quy định tại Quy chế Hướng dẫn giao dịch ký quỹ chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số 637/QĐ-UBCK, biện pháp bảo đảm áp dụng với chứng khoán ký quỹ được xác định là thế chấp.
Về mặt hiệu lực pháp lý, theo quy định tại Điều 2 về “Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật”, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, quyết định của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước không được xác định là văn bản quy phạm pháp luật (hiện tại, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính theo Nghị định số 66/2004/NĐ-CP ngày 19-02-2004 của Chính phủ về việc chuyển Uỷ ban Chứng khoán vào Bộ Tài chính). Do vậy, đương nhiên Quy chế Hướng dẫn giao dịch ký quỹ chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số 637/QĐ-UBCK có giá trị hiệu lực pháp lý thấp hơn Nghị định số 163/2006/NĐ-CP, cũng như Thông tư số 74/2011/TT-BTC.
Nếu trong hợp đồng mở tài khoản giao dịch ký quỹ mà các bên xác định biện pháp bảo đảm được áp dụng với chứng khoán kỹ quỹ là thế chấp sẽ dẫn tới rủi ro bị quy kết xác định sai bản chất, hình thức giao dịch bảo đảm. Điều này có thể ảnh hưởng tới hiệu lực của giao dịch bảo đảm.
3.2.2.2. Rủi ro không được công nhận một phần chứng khoán làm tài sản bảo đảm Luận văn: Biện pháp khắc phục tín dụng tại các Cty chứng khoán
Điểm c, khoản 3, Điều 8 về “Tài khoản giao dịch ký quỹ”, Quy chế Hướng dẫn giao dịch ký quỹ chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số 637/QĐ-UBCK quy định:
“Khách hàng chỉ được sử dụng tiền mặt, chứng khoán được phép giao dịch ký quỹ và các quyền liên quan đến chứng khoán này để làm tài sản thế chấp cho các khoản vay để thực hiện giao dịch ký quỹ “ [39, khoản 3, Điều 8]
Trong đó, chứng khoán được phép giao dịch kỹ quỹ là những chứng khoán đáp ứng điều kiện theo quy định, được các công ty chứng khoán công bố dựa trên danh sách các mã chứng khoán không được phép giao dịch kỹ quỹ do Sở giao dịch chứng khoán lựa chọn ra.
Khoản 2, Điều 12 về “Hạn chế giao dịch ký quỹ”, Quy chế Hướng dẫn giao dịch ký quỹ chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số 637/QĐ-UBCK quy định việc không sử dụng những chứng khoán không được cho vay ký quỹ làm tài sản bảo đảm như sau:
Trường hợp chứng khoán không còn nằm trong danh sách chứng khoán được phép giao dịch ký quỹ, công ty chứng khoán không được thực hiện cho vay mới đối với các chứng khoán này và không được tính chứng khoán này làm tài sản đảm bảo trên tài khoản giao dịch ký quỹ cho các khoản vay mới. [39, khoản 2, Điều 12]
Thông thường, trong hợp đồng mở tài khoản giao dịch ký quỹ, khách hàng và công ty chứng khoán thoả thuận toàn bộ tài sản trên tài khoản giao dịch chứng khoán (tài khoản giao dịch thông thường, tài khoản giao dịch ký quỹ) đều được sử dụng làm tài sản bảo đảm.
Theo đó, có thể hiểu, công ty chứng khoán và khách hàng đã thoả thuận sử dụng cả những loại chứng khoán khác không phải chứng khoán được phép ký quỹ nhưng vẫn thuộc sở hữu của khách hàng trên tài khoản để làm tài sản bảo đảm. Nhưng nếu thoả thuận như vậy, nếu dẫn ra các quy định tại Quy chế Hướng dẫn giao dịch ký quỹ chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số 637/QĐ-UBCK thì có thể quy kết thoả thuận về loại chứng khoán làm tài sản bảo đảm giữa công ty chứng khoán và khách hàng là trái quy định của pháp luật. Điều này gây ra rủi ro vô hiệu đối với giao dịch bảo đảm với lý do vi phạm điều cấm của pháp luật theo quy định tại Điều 122 về “Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự” và Điều 127 về “Giao dịch dân sự vô hiệu”, Bộ luật Dân sự năm 2005.
3.2.2.3. Rủi ro xác định giá bán chứng khoán khi xử lý tài sản cầm cố Luận văn: Biện pháp khắc phục tín dụng tại các Cty chứng khoán
Như đã nêu ở những phần trên, phương thức xử lý chứng khoán cầm cố để thu hồi nợ vay của công ty chứng khoán trên thực tế hay được áp dung, cũng như được ghi nhận tại Quy chế Hướng dẫn giao dịch ký quỹ chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số 637/QĐ-UBCK là phương thức bán chứng khoán.
Trên cơ sở nhận uỷ quyền của khách hàng, khi đủ điều kiện xử lý tài sản cầm cố, công ty chứng khoán đặt lệnh bán chứng khoán cầm cố, tiền thu được sẽ được khấu trừ nợ vay.
Quy chế Hướng dẫn giao dịch ký quỹ chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số 637/QĐ-UBCK không quy định về giá bán chứng khoán trong trường hợp công ty chứng khoán xử lý tài sản cầm cố. Do đó, để chủ động, công ty chứng khoán và khách hàng sẽ thoả thuận về việc xác định giá bán chứng khoán. Điều này tiềm ẩn rủi ro cho công ty chứng khoán nếu điều khoản thoả thuận không đủ rõ ràng, chặt chẽ, khách hàng có thể có quan điểm cho rằng giá bán chứng khoán của công ty chứng khoán là không phù hợp, ảnh hưởng tới lợi ích hợp pháp của khách hàng.
Trường hợp tiền bán chứng khoán không đủ thanh toán dư nợ ký quỹ, và khách hàng không thực hiện thanh toán toán theo thoả thuận với công ty chứng khoán, Quy chế Hướng dẫn giao dịch ký quỹ chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số 637/QĐ-UBCK quy định cho phép công ty chứng khoán thực hiện việc thu hồi nợ theo phương thức thỏa thuận trong Hợp đồng mở tài khoản giao dịch ký quỹ (khoản 3, Điều 19 về “Xử lý tài sản thế chấp”). Quy định này mặc dù gợi mở quyền chủ động thoả thuận về phương thức thu hồi nợ với khách hàng của côn ty chứng khoán tại hợp đồng mở tài khoản giao dịch ký quỹ; nhưng cũng chưa đủ rõ ràng để công ty chứng khoán có thể áp dụng trên thực tế.
3.2.2.4. Giải pháp
Điều cần làm trước hết là cần sửa đổi, bổ sung, thay thế một số quy định tại Quy chế Hướng dẫn giao dịch ký quỹ chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số 637/QĐ-UBCK theo hướng đồng bộ, thống nhất cách hiểu với các văn bản quy phạm có giá trị hiệu lực cao hơn về giao dịch bảo đảm áp dụng với chứng khoán là cổ phần, cổ phiếu nói chung, cổ phần, cổ phiếu đăng ký lưu ký nói riêng.
Điều này giúp loại trừ rủi ro liên quan đến hiệu lực giao dịch nhận cầm cố chứng khoán của công ty chứng khoán; đồng thời sẽ tạo cơ sở pháp lý tăng cường khả năng thu hồi nợ vay thực tế của công ty chứng khoán. Do khi đó, toàn bộ chứng khoán trên tài khoản của khách hàng đều được sử dụng làm tài sản cầm cố, khả năng thanh khoản sẽ đa dạng hơn, công ty chứng khoán có nhiều cơ hội hơn để thu hồi nợ vay của khách hàng. Luận văn: Biện pháp khắc phục tín dụng tại các Cty chứng khoán
Bên cạnh đó, cũng nên xem xét đưa vào quy định mở rộng dạng tài sản bảo đảm mà công ty chứng khoán được phép nhận bảo đảm để bảo đảm cho khoản vay ký quỹ. Điều này cũng sẽ giúp công ty chứng khoán chủ động hơn rất nhiều trong việc xử lý tài sản bảo đảm thu hồi nợ vay, thay băng việc chỉ được nhận tài sản bảo đảm là tiền và chứng khoán như hiện tại. Đương nhiên, việc quy định này cần phải có lộ trình và hệ thống để bảo đảm các công ty chứng khoán có thời gian chuẩn bị về mặt nhân sự, quy trình nghiệp vụ.
Đối với rủi ro về xác định giá bán tài sản bảo đảm, như đã nêu, Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN quy định trường hợp xử lý bán tài sản bảo đảm không qua đấu giá chưa hoàn toàn tạo được sự chủ động về xác định giá bán tài sản cho bên nhận bảo đảm. Sau lần hạ giá bán cuối cùng, bên nhận bảo đảm lại chỉ được dụng phương thức nhận chính tài sản bảo đảm để thay cho nghĩa vụ trả nợ. Với công ty chứng khoán thực hiện nghiệp vụ giao dịch ký quỹ, việc nhận chính chứng khoán cầm cố là điều khó khăn, thiếu cơ sở pháp lý cũng như thực tế.
KẾT LUẬN
Vai trò của các giao dịch bảo đảm đối với hoạt động nghiệp vụ của các tổ chức tín dụng hay công ty chứng khoán là cực kỳ quan trọng. Nếu có một phép so sánh tương đối, thì hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh giao dịch bảo đảm trong hoạt động của tổ chức tín dụng đa dạng, phong phú hơn rất nhiều so với hoạt động của công ty chứng khoán. Điều này có thể lý giải do phạm vi sử dụng giao dịch bảo đảm của công ty chứng khoán là khá hẹp, khi chỉ được pháp luật thừa nhận sử dụng giao dịch bảo đảm để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ vay trong giao dịch ký quỹ chứng khoán.
Mặc dù giữ vai trò quan trọng, nhưng thực sự, hành lang pháp lý cho giao dịch bảo đảm nói chung và cầm cố tài sản nói riêng vẫn chưa thực sự hoàn thiện. Một số yếu tố cơ bản cần thiết để xác định nội hàm của các khái niệm nhằm phân biệt các giao dịch, biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự (điển hình là cầm cố tài sản – thế chấp tài sản) chưa được quy định một cách thống nhất. Đặc biệt, chế định xử lý tài sản bảo đảm ccòn nhiều bất cập, kém hiệu quả nên chưa thực sự hỗ trợ được bên nhận bảo đảm xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Hệ thống các quy phạm pháp luật hướng dẫn có phần rời rạc, thiếu hệ thống, dẫn tới chưa có sự phối hợp đồng bộ và thống nhất về cách hiểu, cách thực hiện thủ tục giữa các cơ quan có thẩm quyền; điều này làm cho quá trình giải quyết kéo dài, ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của bên bảo đảm. Để mô tả quá trình cấp tín dụng đến khi thu hồi nợ, có chuyên gia trong ngành ngân hàng đã kết luận: Ngân hàng đứng cho vay nhưng quỳ đòi nợ. Trong lĩnh vực chứng khoán, điều đầu tiên có thể nhận thấy là hệ thống quy phạm pháp luật quy định về nghiệp vụ giao dịch ký quỹ của công ty chứng khoán còn nhiều bất cập, hạn chế, gây khó khăn, rủi ro cho công ty chứng khoán trong quá trình thực hiện nghiệp vụ.
Trước thực tế đó, nhu cầu phải có sự thay đổi từ hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh giao dịch bảo đảm trong hoạt động của tổ chức tín dụng, công ty chứng khoán đã trở nên bức thiết. Trong khi chờ hoạt động sửa đổi, bổ sung pháp luật, các tổ chức tín dụng, công ty chứng khoán phải tự mình chủ động nhận diện được rõ ràng các rủi ro (trong đó có rủi ro pháp lý) khi thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh, nhất là các nghiệp vụ rủi ro như cấp tín dụng, cho vay giao dịch ký quỹ.
Trong phạm vi luận văn này, do hiểu biết của tác giả còn nhiều hạn chế, kinh nghiệm thực tế chưa nhiều, nên không ít nhận định, đánh giá còn mang tính võ đoán. Nhưng hy vọng, ở góc độ nào đó, những ý kiến về quy phạm thực định của pháp luật Việt Nam về giao dịch bảo đảm, về cầm cố tài sản, cùng với thông tin về rủi ro pháp lý có thể xảy ra đối với tổ chức tín dụng, công ty chứng khoán sẽ phần nào có giá trị áp dụng thực tế. Từ đó, một mặt đóng góp các ý kiến hoàn thiện pháp luật, mặt khác có thể hỗ trợ ngay tổ chức tín dụng, công ty chứng khoán xử lý một số vấn đề về rủi ro pháp lý trong hoạt động nghiệp vụ cấp tín dụng, cho vay của mình. Luận văn: Biện pháp khắc phục tín dụng tại các Cty chứng khoán
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận văn: Cầm cố tài sản trong tín dụng của Cty chứng khoán