Khóa luận: Tìm hiểu thị trường khách du lịch Nhật Bản tại Hải Phòng

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Tìm hiểu thị trường khách du lịch Nhật Bản tại Hải Phòng hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Tìm hiểu thị trường khách du lịch Nhật Bản tại Hải Phòng dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này. 

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Hiện nay du lịch được coi là một ngành công nghiệp không khói, là ngành kinh tế mũi nhọn của cả nước. Đối với Việt Nam nó đã trở thành một vấn đề hết sức quan trọng có tầm chiến lược trong tiến trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước trong thời kỳ mở cửa, thúc đẩy sự đổi mới và phát triển của các ngành khác, tạo công ăn việc làm cho người lao động, mở rộng giao lưu văn hóa giữa nước ta với các nước khác.

Chính sách mở cửa nền kinh tế của Nhà nước ta từ giữa những năm 80 đã thực sự đem lại cho ngành du lịch một sức sống mới. Nếu trước năm 1985, du lịch Việt Nam mới chỉ được xem như là một bộ phận nhỏ bé trong nền kinh tế với rất ít nhà nghỉ, khách sạn, khu điều dưỡng nhỏ bé chưa được xếp hạng …thì kể từ năm 1986 đến nay mọi sự đã dần thay đổi. Năm 1997, người ta nhìn lại một thập kỷ phát triển với con mắt đầy ngạc nhiên và thán phục.

Hơn 10 năm qua, ngành du lịch Việt Nam đã từng bước phát triển và hoàn thiện để trở thành một nền kinh tế mũi nhọn của nhà nước đúng như vị trí cần phải có. Ngành du lịch Việt Nam đạt được những bước tiến như vậy một phần cũng là do chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh Du lịch, thành lập ban chỉ đạo Nhà nước về Du lịch và tổ chức các sự kiện về du lịch từ năm 2000 với chủ đề “Việt Nam – điểm đến của thiên nhiên kỷ mới”. Phần khác là do Việt Nam vốn là một đất nước có nguồn tài nguyên du lịch nhân văn và tài nguyên du lịch tự nhiên vô cùng phong phú và đa dạng, một điểm đến lý tưởng cho tất cả các du khách quốc tế. Chính vì vậy trong một thời gian ngắn, ngành du lịch đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn và có ý nghĩa cho sự phát triển chung của nền kinh tế-xã hội đất nước.

Trong xu thế phát triển chung đó, thành phố cảng Hải Phòng vốn không chỉ nổi danh bởi cảnh đẹp và những điểm vui chơi giải trí, nơi đây còn có nhiều các di tích lịch sử văn hóa, những tên sông, tên núi, tên làng…gắn liền với những truyền thuyết và in đậm dấu ấn lịch sử phát triển của Hải Phòng qua từng giai đoạn đã và đang hấp dẫn, thu hút du khách trong và ngoài nước thuộc nhiều đối tượng khác nhau đến tham quan, nghỉ ngơi, chiêm ngưỡng, khám phá, tìm hiểu để cảm nhận đúng hơn về cảnh vật, con người, văn hóa vùng đất biển Hải Phòng. Khóa luận: Tìm hiểu thị trường khách du lịch Nhật Bản.

Là một trong những nước có nền kinh tế phát triển cao nằm ở khu vực châu Á, Nhật Bản được coi như là một nước láng giềng, có quan hệ hữu nghị truyền thống, có nhiều nét văn hóa tương đồng với Việt Nam. Trong thời gian qua cùng với sự phát triển mối quan hệ giữa hai nước trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, khoa học kỹ thuật, xã hội…hợp tác du lịch cũng không ngừng được củng cố và phát triển. Do vậy khách du lịch Nhật Bản đến Việt Nam, trong đó có thành phố hoa phượng đỏ ngày càng đông hơn.

Trong những năm gần đây, khách du lịch Nhật Bản là một trong những thị trường khách quan trọng của ngành du lịch Việt Nam nói chung và ngành du lịch Hải Phòng nói riêng. Đây được coi là thị trường khách tốt nhất thế giới, do đó nó không chỉ là thị trường khách trọng điểm của Việt Nam mà còn là thị trường trọng điểm của nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy tỷ trọng khách du lịch Nhật Bản đến Việt Nam và Hải Phòng chưa cao, nhưng lại có ảnh hưởng to lớn bởi đây là một thị trường khách có nhu cầu đi du lịch nhiều và khả năng chi trả cao, đem lại nguồn lợi nhuận dồi dào, góp phần vào sự phát triển chung của ngành du lịch.

Xuất phát từ thực tế nguồn khách tiềm năng này đang có xu hướng suy giảm tại thành phố Cảng, em đã chọn hướng nghiên cứu “Tìm hiểu thị trường khách du lịch Nhật Bản tại Hải Phòng” làm đề tài cho bài khóa luận tốt nghiệp của mình.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Du Lịch

2. Ý nghĩa của đề tài

Là một người con của thành phố Cảng, lại là một sinh viên khoa Văn hóa du lịch, em hi vọng rằng đề tài nghiên cứu của mình sẽ góp một phần nhỏ bé trong việc cung cấp thông tin cho sự định hướng của các công ty kinh doanh du lịch Hải Phòng, xây dựng các chương trình du lịch nhằm thu hút ngày càng nhiều khách du lịch quốc tế, đặc biệt là những vị khách đến từ xứ sở “hoa anh đào” – Nhật Bản.

Đề tài này còn nhằm cung cấp cho các tư liệu cho việc nghiên cứu tìm hiểu, học tập của các sinh viên ngành Du lịch học, đặc biệt là các sinh viên Văn hóa du lịch chuyên ngành tiếng Nhật.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Khóa luận: Tìm hiểu thị trường khách du lịch Nhật Bản.

Nội dung của bài khóa luận tập trung nghiên cứu thị trường khách du lịch Nhật Bản nhằm làm rõ những đặc điểm tâm lý, sở thích, nhu cầu du lịch của khách du lịch Nhật Bản và hiện trạng khai thác thị trường du khách Nhật Bản tại Hải Phòng, từ đó đưa ra một số giải pháp cụ thể nhằm thu hút hơn nữa khách du lịch Nhật đến Hải Phòng

4. Phương pháp nghiên cứu

Trong bài viết có sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như phương pháp thu thập và xử lý thông tin trên cơ sở sưu tầm các nguồn tài liệu có sẵn rồi tập hợp lại và chọn lọc những tư liệu có liên quan nội dung của bài cần nghiên cứu. Các tư liệu nghiên cứu có thể là các thông tin trên website, các công trình nghiên cứu trước đó, các tờ tạp chí và các báo cáo tổng kết của ngành…. Tiếp đó là phương pháp điều tra, đi điều tra thực tế tại một số cơ sở trên địa bàn Hải Phòng có người Nhật công tác và lưu trú. Có cả phương pháp phân tích và so sánh, so sánh các số liệu thống kê hàng năm từ đó phân tích nhằm đưa ra nhận xét và giải pháp cho từng vấn đề.

5. Kết cấu bài khóa luận

Bài khóa luận được chia làm 3 chương:

  • Chương 1: Tổng quan về Nhật Bản và thị trường du lịch Nhật Bản. Với nội dung khái quát về sở thích, nhu cầu, các đặc trưng tâm lý của du khách Nhật Bản và hiện trạng khai thác thị trường này ở Việt Nam.
  • Chương 2: Tìm hiểu thị trường khách du lịch Nhật Bản tại Hải Phòng. Tìm hiểu nhu cầu, thị hiếu của du khách Nhật tại Hải Phòng và hiện trạng khai thác nguồn khách này tại thành phố Cảng.
  • Chương 3: Đề xuất một số giải pháp nhằm thu hút khách du lịch Nhật Bản đến Hải Phòng.

CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ NHẬT BẢN VÀ THỊ TRƯỜNG DU LỊCH NHẬT BẢN

1.1. ĐÔI NÉT VỀ ĐẤT NƯỚC NHẬT BẢN

1.1.1.Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên Khóa luận: Tìm hiểu thị trường khách du lịch Nhật Bản.

Nhật Bản được mọi người biết đến là một siêu cường quốc trên thế giới với tên gọi thật giản dị là “đất nước mặt trời mọc” hay “xứ sở hoa anh đào”. Đó là một đảo quốc ở Đông Bắc Á, được hình thành bởi hơn 3.000 đảo nhỏ và 4 đảo lớn trải dài theo hình vòng cung với tổng diện tích 377.834 km. Các đảo là phần dài của dải núi ngầm trải dài từ Đông Nam Á tới Alaska. Vì là một quốc đảo nên không giáp với quốc gia nào, bao quanh là biển, tạo cho Nhật Bản có nhiều vịnh nhỏ nhưng tốt và đẹp.

Địa hình chủ yếu là đồi núi, chiếm 72% diện tích tự nhiên của cả nước, lại nằm trong vành đai núi lửa Thái Bình Dương nên được mệnh danh là nước có nhiều núi lửa. Có lẽ nhắc tới Nhật Bản chúng ta không thể không nói tới núi Phú Sĩ – một núi cao nhất của Nhật Bản và được coi là biểu tượng của đất nước “mặt trời mọc”. Vì các hoạt động núi lửa diễn ra thường xuyên nên quốc gia này có vô số các suối nước nóng, các suối này đã và đang được hình thành phát triển thành các khu nghỉ dưỡng, là nơi để hàng triệu người Nhật tới nghỉ ngơi và chữa bệnh.

Do địa thế và lãnh thổ trải dài 25 vĩ độ nên khí hậu của Nhật Bản rất phức tạp. Khí hậu Nhật Bản phần lớn là ôn hòa có 4 mùa nhưng thay đổi từ bắc vào nam. Tại miền bắc, ở đảo Hokkaido thì mùa hè ngắn nhất, mùa đông dài với tuyết rơi nhiều, trong khi đó ở đảo Ryukyu có khí hậu bán nhiệt đới. Ở phía nam thì tại đảo Kyusyu và các đảo khác mùa đông ít lạnh hơn. Nơi này là mùa xuân tới trước tiên với hoa anh đào nở – một sự kiện quan trọng đối với người Nhật Bản.Vào tháng 3 hoa anh đào bắt đầu nở và nở dần lên tới phía bắc.

Mùa hè ở Nhật Bản thì nóng ẩm, nhiệt độ khoảng 300C, nhiệt độ nóng nhất đo được ở Nhật Bản là 40,90 C vào tháng 8. Mùa đông nhiệt độ có thể xuống tới âm độ. Mùa mưa ở Nhật Bản thì chính thức bắt đầu từ tháng 5, đặc biệt vào cuối hè đầu thu các cơn bão đại dương thường mang theo mưa lớn tới Nhật Bản.

Có thể nói, do sự tác động của vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên đã làm cho Nhật Bản trở thành một xứ sở có phong cảnh được coi là một trong những nơi đẹp nhất thế giới với bốn mùa thay đổi rõ rệt: mùa xuân với hoa anh đào nở dần từ Nam ra Bắc, mùa hè cây cối xanh mướt, mùa thu lá phong đỏ thắm từ Bắc tới Nam, mùa đông tuyết trắng tinh khôi.

1.1.2. Điều kiện dân cư, xã hội và kinh tế Khóa luận: Tìm hiểu thị trường khách du lịch Nhật Bản.

Dân số Nhật Bản ước tính khoảng 127.4 triệu người(2006), phần lớn đồng nhất về ngôn ngữ và văn hóa. Đây là một trong những nước có tuổi thọ trung bình cao nhất thế giới, trung bình vào khoảng 81.25 tuổi (2006). Tuy nhiên dân số nước này đang có xu thế lão hóa do hậu quả bùng nổ dân số sau Thế chiến thứ hai. Năm 2004, 19.5% dân số có độ tuổi trên 65 tuổi. Dân cư tập trung chủ yếu xung quanh ba thành phố lớn là Tokyo, OsakaNagoya.

Thay đổi dân số đã tạo ra các vấn đề xã hội đặc biệt là sự suy giảm lực lượng lao động đồng thời gia tăng chi phí cho phúc lợi xã hội như là vấn đề về lương hưu. Nhiều người Nhật Bản hiện đang có xu hướng sống độc thân không kết hôn và có gia đình khi trưởng thành.

Khoảng 84% đến 96% dân số nhật theo Thần giáoPhật giáo Đại thừa. Phật giáo, Đạo giáoNho giáo có ảnh hưởng trực tiếp đến niềm tin tín ngưỡng của người Nhật. Một số người dân theo đạo Cơ Đốc.

Trong xã hội Nhật Bản, gia đình giữ vai trò trọng yếu do quốc gia này sống biệt lập với các quốc gia châu Á từ khi thành lập cho tới thời kỳ mở cửa năm 1868. Chính vì thế Nhật Bản đã có những nét riêng biệt về phong tục tập quán, chính trị, kinh tế, văn hóa…

Trước thế chiến thứ Hai, phần lớn người Nhật sống trong gia đình gồm ba thế hệ và người cha được kính trọng và có uy quyền, người phụ nữ khi lấy chồng phải phục tùng theo gia đình nhà chồng. Hiện nay do nhiều chính sách của chính phủ, người phụ nữ đã dần được bảo vệ và được coi trọng trong xã hội. Ngày nay, phụ nữ Nhật Bản có xu hướng sống độc thân hoặc kết hôn muộn.

Chính phủ Nhật Bản luôn quan tâm chăm lo tới đời sống nhân dân. Để bù lại thời gian làm việc vất vả, người dân Nhật Bản được nghỉ phép khá dài trong năm như các ngày lễ tết, các kỳ nghỉ đông, các kỳ nghỉ hè…

Về kinh tế, Nhật Bản thực sự nổi trội và được cả thế giới biết đến sau “Bước nhảy thần kỳ” trong lĩnh vực kinh tế và trở thành siêu cường quốc kinh tế thế giới từ năm 1960 đến năm 1973. Là một nước nghèo nàn về tài nguyên trừ gỗ và hải sản, thiên nhiên khắc nghiệt nhiều thiên tai động đất, dân số lại quá đông, phần lớn các nguyên liệu đều phải nhập khẩu.

Nhưng với chính sách phát triển phù hợp, Nhật Bản đã bắt tay khôi phục và xây dựng nền kinh tế đã bị kiệt quệ trong chiến tranh khiến cho thế giới hết sức kinh ngạc. Từ năm 1974, tốc độ tuy có phát triển chậm lại xong Nhật Bản vẫn tiếp tục là nước có nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới chỉ sau Hoa Kỳ. GDP bình quân trên đầu người liên tục tăng, cán cân thương mại dư thừa, dự trữ ngoại tệ đứng hàng đầu thế giới. Khóa luận: Tìm hiểu thị trường khách du lịch Nhật Bản.

Vì vậy vốn đầu tư ra nước ngoài rất nhiều, là nước cho vay, viện trợ tái thiết và phát triển lớn nhất thế giới. Ngoài ra Nhật Bản còn có nhiều tập đoàn tài chính và ngân hàng đứng đầu thế giới. Đơn vị tiền tệ là đồng yên Nhật. Bước sang năm 2010, nền kinh tế Nhật Bản đang trên đà tăng trưởng mạnh và dần thoát khỏi hậu quả của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu xảy ra những năm vừa qua, phấn đấu giữ vững ngôi vị kinh tế trên thế giới.

Hệ thống giao thông ở Nhật Bản rất phát triển trong đó có ngành hàng không bởi đây là một phương tiện vận chuyển có độ an toàn cao được người Nhật rất tin dùng. Có rất nhiều tuyến bay quốc tế lớn từ nhiều thành phố và đất nước trên thế giới đến và rời Nhật Bản trong đó có Việt Nam.

Như vậy, Nhật Bản là quốc gia dẫn đầu thế giới về khoa học công nghệ và cũng là nền kinh tế lớn thứ hai toàn cầu tính theo GDP, là đất nước đứng thứ năm trên thế giới trong lĩnh vực đầu tư cho quốc phòng, xếp thứ tư trên thế giới về xuất khẩu và thứ sáu trên thế giới về nhập khẩu. Quốc gia này là thành viên của nhiều tổ chức trên thế giới như Tổ chức Liên Hợp Quốc, G8, G4, APEC và tổ chức Asean+3…

1.1.3. Văn hóa Nhật Bản

Văn hóa Nhật Bản là một trong những nền văn hóa đặc sắc nhất trên thế giới. Trong quá trình phát triển, văn hóa Nhật chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ các nền văn hóa châu Á, châu Âu, châu Mỹ.

Văn hóa ẩm thực: Văn hóa ẩm thực của Nhật Bản được biết đến với những món ăn truyền thống và nghệ thuật trang trí ẩm thực độc đáo. Nhật Bản cũng giống các nước châu Á khác, xuất phát từ nền nông nghiệp lúa nước nên cơm được coi là thành phần chính trong bữa ăn của người Nhật.

Ngoài ra cá và hải sản là nguồn cung cấp protein chủ yếu trong bữa ăn của họ. Người Nhật thường chú ý nhiều đến kiểu cách trình bày và rất cầu kì trong khâu chế biến thực phẩm. Chính điều này đã tạo lên hương vị đặc trưng trong các món ăn Nhật như các món ăn sống, hấp, luộc. Khóa luận: Tìm hiểu thị trường khách du lịch Nhật Bản.

  • “Tam ngũ” là quan niệm của người Nhật trong các món ăn, đó là: ngũ vị, ngũ sắc và ngũ pháp.
  • Ngũ vị bao gồm vị ngọt, vị chua, vị mặn, vị đắng, vị cay
  • Ngũ sắc bao gồm màu trắng,màu vàng, màu đỏ, màu xanh, màu đen Ngũ pháp gồm để sống, ninh, nướng, chiên, hấp

Mùi vị các món ăn Nhật đơn giản hơn so với các món ăn của phương Tây, nhưng lại cầu kỳ trong phong cách trình bày. Đối với họ cách trình bày bàn ăn và món ăn trong bữa ăn cũng được coi là nghệ thuật thưởng thức đồ ăn.

Vì vậy các món ăn Nhật Bản nghiêng về sự bắt mắt tinh tế, đó là sự hòa trộn khéo léo và tinh tế của màu sắc, hương vị cũng như tôn giáo truyền thống, đặc biệt là những món ăn nhỏ nhắn xinh xinh, hương vị thanh tao nhẹ nhàng không quá nồng đậm.

Cũng giống như Việt Nam và một số nước châu Á khác thì người Nhật thường dùng đũa để ăn cơm.

Bữa cơm Nhật chủ yếu là cơm, cá và rau, có rất ít thịt trong thành phần thức ăn. Mỗi người bao giờ cũng có một bát cơm đi kèm với rau, củ cải hoặc dưa góp và miso súp nấu với rong biển.

Món khai vị thường là sashimi và kết thúc là một tách trà xanh nóng hổi hoặc ly café.

Trước khi ăn người Nhật thường nói “Itadakimasu”, là một câu nói lịch sự có nghĩa là “xin mời” nhằm nhấn mạnh sự cảm ơn tới người đã cất công chuẩn bị bữa ăn. Khi ăn xong họ lại cảm ơn lại một lần nữa “gochiso sa ma deshita” nghĩa là “cảm ơn vì một bữa ngon”.

Ngày nay bữa ăn của người Nhật đã có sự Âu hóa bởi những ảnh hưởng của nền ẩm thực châu Âu. Trong bữa ăn đã xuất hiện các sản phẩm như sữa, bánh mì và các đồ ăn nhanh.

Đồ uống trong bữa ăn chủ yếu là rượu, ngoài ra còn có bia, café, nước ngọt…Rượu sake là một thức uống không thể thiếu đối với người Nhật. Đây là một thức uống truyền thống của người Nhật từ rất xa xưa với công thức chế biến rất cầu kỳ. Nó giúp bữa ăn thêm không khí ấm cúng vui vẻ, làm cho các món ăn dễ tiêu và tăng thêm hương vị. Rượu sake được làm từ gạo, có nồng độ cồn cao. Khi uống mọi người luôn phải rót rượu cho nhau, không bao giờ tự rót cho mình nhưng khi gần hết thì nên rót vào chén riêng của mình. Rượu sake thường được uống cùng khi ăn các món sashimi, sushi để xóa đi vị tanh nhẹ của đồ sống.

Văn hóa mặc: Nhắc đến trang phục của người Nhật Bản chúng ta nghĩ ngay tới y phục truyền thống của họ đó là chiếc áo Kimono. Cũng giống như chiếc áo dài Việt Nam, Kimono là trang phục truyền thống đã được người Nhật Bản mặc từ xa xưa. Hiện nay, Kimono chỉ được sử dụng trong các dịp lễ Tết, các dịp cưới hỏi và các ngày lễ quan trọng trong cuộc đời của người Nhật Bản. Khóa luận: Tìm hiểu thị trường khách du lịch Nhật Bản.

Yukata là loại áo Kimono mỏng mặc mùa hè, thường được may bằng vải mát như cotton. Khi đến suối nước nóng người Nhật thường mặc Yukata. Kimono là loại trang phục rất đắt tiền, mặc mất nhiều thời gian và hầu như không thể tự mặc được. Vì vậy, những phụ nữ Nhật Bản tỏ ra rất thích thú với trang phục truyền thống áo dài của Việt Nam bởi dễ mặc lại rất đẹp và giá rẻ hơn nhiều so với trang phục truyền thống của họ.

Ngày nay, trang phục của người Nhật đã Âu hóa nhiều và phần lớn họ thích mặc những bộ quần áo may sẵn một phần cũng vì cuộc sống quá bận rộn. Những người trẻ hiện nay thường mặc Âu phục là chủ yếu để thuận tiện cho công việc, chỉ còn lại những người già mặc áo Kimono ở nhà.

Nghệ thuật truyền thống: Nghệ thuật truyền thống Nhật Bản bao gồm các ngành nghề thủ công như: ikebana(nghệ thuật cắm hoa), origami(nghệ thật gấp giấy), làm đồ chơi, gốm sứ, trà đạo, kiến trúc và thư pháp. Đây là các hình thức nghệ thuật có từ xa xưa và gắn liền với đời sống của người dân Nhật Bản. Các loại hình nghệ thuật này có nhiều nét tương đồng với văn hóa Việt Nam. Ở Việt Nam, ngay từ xa xưa cũng đã có những hình thức nghệ thuật này và vẫn còn lưu giữ được đến ngày nay.

Theo các cơ quan hoạt động văn hóa Nhật Bản đã tiến hành cuộc thăm dò vào tháng 11 năm 1993 đã kết luận rằng: có nhiều người Nhật hát karaoke hơn là tham gia vào các hoạt động văn hóa truyền thống như cắm hoa hay trà đạo.

  • Phong tục tập quán:

Về chào hỏi, thì lễ nghi chào hỏi mọi người là động tác cúi chào. Lễ nghi này được thực hiện ở mọi nơi khi giao tiếp. Khi gặp nhau người nhỏ tuổi hoặc cấp dưới phải chào trước. Người Nhật không có thói quen bắt tay, tuy nhiên bắt tay cũng được xem là động tác chào hỏi.

Người Nhật rất tuân thủ sự đúng giờ. Khi đi làm, hội họp, dự tiệc hay đi học, người Nhật lúc nào cũng để tâm tới thời gian, khi muốn thăm ai hoặc muốn tới chơi nhà ai đều phải gọi điện thoại xin phép trước và giữ đúng giờ hẹn. Đến muộn là điều rất khiếm nhã và mất lòng tin ở người khác. Trường hợp đến muộn phải gọi điện thoại báo trước.

Người Nhật Bản coi nhân cách con người thể hiện qua bề ngoài của trang phục. Phải chỉnh tề trong trang phục, trong suy nghĩ, lời nói và hành động. Người để tóc tai rối bù, râu ria xồm xoàm bị coi là thiếu nhân cách.

Người Nhật có ý thức xã hội rất cao. Phải giữ gìn trật tự công cộng và trật tự trong gia đình. Nếu tự tiện lấy vật ở ngoài đường về làm của tư cũng bị xem như là trộm cắp. Cảnh sát sẽ bắt những người tự tiện sử dụng xe đạp ở nhà ga hay siêu thị kể cả biết rằng chúng không có chủ vẫn không được phép sử dụng. Khóa luận: Tìm hiểu thị trường khách du lịch Nhật Bản.

Về nơi ở, thì nhà ở của người Nhật bao giờ cũng có nơi để giầy dép vì thế khi vào nhà phải đổi ngay dép đi trong nhà và xếp gọn gàng dép của mình ngoài cửa theo đúng chiều. Trong nhà của họ bao giờ cũng phải có đôi dép đi bên trong, ít nhất là một đôi.

Về ăn uống, với phong cách sống rất sạch sẽ và gọn gàng thì người Nhật ăn cơm bằng đũa, không dùng tay cầm nắm thức ăn, không vứt đồ thừa hay sương thịt cá ra bàn ăn hay xuống sàn nhà mà phải bỏ vào đĩa riêng.

Thấy rõ được điều này để có cách giao tiếp, phục vụ cho phù hợp không để mất lòng họ từ những cái nhỏ nhất.

1.1.4. Quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản

Quan hệ giữa Việt NamNhật Bản đã có từ rất lâu nhưng thực sự trở nên thân thiết và chính thức phát triển khi Mỹ xóa bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam. Ngay từ thế kỷ 16, Việt Nam đã có quan hệ giao thương với Nhật Bản.

Thời kỳ này, đã có những thương gia Nhật đến Việt Nam sinh sống và buôn bán. Các thương gia Nhật Bản cùng nhân dân bản xứ đã hình thành nên khu đô thị Hội An sầm uất. Hiện nay, ở Hội An vẫn còn lưu giữ nhiều di tích và các công trình kiến trúc của Nhật Bản như công trình kiến trúc Chùa Cầu, các ngôi nhà cổ và các Hội quán.

Đầu thế kỷ 20, phong trào Đông Du đã đưa một số thanh niên Việt Nam sang Nhật Bản học tập đường lối cải cách đất nước nhằm văn minh hóa đất nước, tìm con đường giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức của ngoại bang. Trong chiến tranh thế giới thứ II, Nhật Bản đã từng xâm chiếm Việt Nam, hất cẳng Pháp độc chiếm Đông Dương.

Trong chiến tranh Việt Nam lần thứ hai, Nhật Bản đã có quan hệ ngoại giao chính thức với Việt Nam cộng hòa nhưng đối với Việt Nam dân chủ cộng hòa lại có quan hệ không chính thức. Mãi đến năm 1973, Việt Nam dân chủ cộng hòa sau nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mới có quan hệ ngoại giao chính thức với Nhật Bản. Tuy nhiên mối quan hệ này vẫn còn dè dặt.

Trong một thời gian dài quan hệ hai nước đã trải qua nhiều thăng trầm nhưng đặc biệt phát triển trong 15 năm trở lại đây. Năm 2002, lãnh đạo hai nước thống nhất xây dựng quan hệ Việt Nam – Nhật Bản theo phương trâm “đối tác tin cậy, ổn định lâu dài”. Trong chuyến thăm Việt Nam vào tháng 7/2004 của ngoại trưởng Nhật Bản, hai bên đã kí Tuyên bố chung “vươn tới tầm cao mới của đối tác bền vững”. Và năm 2003, hai nước đã kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao.

Từ đó trở đi quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản phát triển nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực, đã bước sang giai đoạn mới về chất và đi vào chiều sâu. Các mối quan hệ kinh tế chính trị, giao lưu văn hóa không ngừng được mở rộng, đã hình thành khuôn khổ quan hệ ở tầm vĩ mô, sự hiểu biết giữa hai nước không ngừng được tăng lên.

Về kinh tế: Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Nhật Bản cũng là bạn hàng số một của việt Nam với kim ngạch hai chiều đạt gần 5 tỷ USD mỗi năm. Hàng hóa Việt nam xuất sang Nhật Bản chủ yếu là hang dệt may, giày da, hải sản đông lạnh, dầu thô…và nhập khẩu từ Nhật Bản các thiết bị máy móc,công nghệ, hóa chất…

Thị trường Nhật Bản là một thị trường cao cấp, khắt khe về chất lượng, nhưng đây cũng là một thị trường có tiềm năng lớn. Cần phải khai thác triệt để thị trường này vì đây là thị trường có khả năng chi tiêu cao. Hai nước đã dành cho nhau thuế suất tối huệ quốc từ năm 1999. Nhật Bản cũng là nước tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam trên các lĩnh vực cơ sở hạ tầng như giao thông, năng lượng, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, giáo dục và đào tạo, môi trường…nhằm thúc đẩy tăng trưởng, cải thiện đời sống dân cư xã hội. Đó là những đóng góp có ý nghĩa to lớn và rất hiệu quả cho công cuộc đổi mới trong thời gian qua và cho cả tương lai sau này. Khóa luận: Tìm hiểu thị trường khách du lịch Nhật Bản.

Bên cạnh đó, Nhật Bản cũng là một trong các nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam sau Singapo và Đài loan. Hiện nay đã có rất nhiều các dự án lớn nhỏ của Nhật Bản hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Bình Dương, thành phố Hồ Chí Minh…hoạt động trên các lĩnh vực như chế tạo thép, sản xuất các thiết bị tô, lắp ráp ô tô, xe máy, sản xuất các vật liệu xây dựng. Họ đã tạo ra công ăn việc làm cho hàng chục ngàn lao động Việt Nam. Các nhà đầu tư Nhật Bản hầu hết đều thành công trong môi trường kinh doanh tại Việt Nam – nơi được đánh giá có đội ngũ lao động cần cù, chịu khó, vấn đề chủ thợ, pháp luật được thực hiện tốt.

Về du lịch, Nhật Bản cũng là thị trường được chú trọng để phát triển du lịch Việt Nam. Năm 2002, đã có 280.000 du khách Nhật đến thăm Việt Nam. Năm 2003, do ảnh hưởng của đại dịch SARS khách du lịch Nhật Bản vào Việt Nam giảm sút nhiều.

Tuy nhiên cơ hội và tiềm năng thúc đẩy du lịch giữa hai nước còn rất lớn. Từ ngày 1/2004, Việt Nam chính thức đơn phương miễn thị thực nhập cảnh cho người Nhật đi du lịch và kinh doanh vào Việt Nam trong vòng 15 ngày.

Và gần đây nhất, ngày 1/7/2004, Việt Nam đã quyết định miễn thị thực nhập cảnh ngắn hạn cho công dân Nhật. Đây là điều kiện thuận lợi để thúc đẩy du lịch Nhật Bản vào Việt Nam. Từ ngày 1/5/2005, Việt Nam và Nhật Bản song phương miễn thị thực hộ chiếu ngoại giao, hộ chiếu công vụ. Vì vậy lượng khách Nhật Bản đến Việt Nam ngày càng tăng. Từ năm 2008 trở lại đây, do ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu nên du lịch Nhật Bản vào Việt Nam đã suy giảm nhiều. Bước sang năm 2010, ngành du lịch Việt Nam đã dần hồi phục, lượng khách du lịch Nhật Bản vào Việt Nam tăng lên so với cùng kỳ năm 2009.[11]

Các hoạt động giao lưu văn hóa và giao lưu nhân dân giữa hai nước đã được mở rộng. Hợp tác giữa hai nước trong các lĩnh vực khoa học công nghệ, văn hóa giáo dục, du lịch… cũng được tăng cường.

Như vậy giữa Việt Nam và Nhật Bản đã có mối quan hệ ngoại giao và kinh tế gắn bó lâu dài. Trong tương lai mối quan hệ đó sẽ càng phát triển và thắt chặt hơn nữa vì sự phát triển chung của hai nước. Vì vậy chúng ta hoàn toàn có thể hi vọng rằng trong những năm tới khách du lịch Nhật bản sẽ đến Việt Nam nhiều hơn.

1.2. TÌM HIỂU THỊ TRƯỜNG KHÁCH DU LỊCH NHẬT BẢN

1.2.1.Thị trường du lịch Khóa luận: Tìm hiểu thị trường khách du lịch Nhật Bản.

1.2.1.1.Khái niệm

Thị trường du lịch là một bộ phận của thị trường chung, là một phạm trù của sản xuất lưu thông hàng hóa dịch vụ du lịch. Nó phản ánh toàn bộ quan hệ trao đổi giữa người mua và người bán, giữa cung và cầu và toàn bộ các mối quan hệ kinh tế kỹ thuật gắn với các quan hệ đó trong trong lĩnh vực du lịch.[5]

1.2.1.2.Đặc điểm của thị trường du lịch

Trong thị trường du lịch không có sự dịch chuyển của hàng hóa và dịch vụ du lịch từ nơi sản xuất tới nơi tiêu dùng được. Người tiêu dùng phải đến tận nơi để khám phá, tiêu dùng sản phẩm du lịch mà họ mua. Ví dụ như không thể mang động Phong Nha -Kẻ Bàng từ Quảng Bình ra miền bắc để người dân miền bắc khám phá tham quan được.

Trên thị trường du lịch, cung cầu chủ yếu là về dịch vụ, trong đó bao gồm các dịch vụ cơ bản và dịch vụ bổ xung.

Trên thị trường du lịch không có sự hiện hữu của sản phẩm du lịch. Sản phẩm du lịch về cơ bản là không cụ thể, nó thực sự là một kinh nghiệm mà du khách phải trải qua mới biết. Ví dụ, sau tour xuyên Việt, du khách mới biết thực tế chất lượng phục vụ của công ty du lịch qua thái độ phục vụ, trình độ hướng dẫn viên, tài nguyên du lịch mà công ty lựa chọn và các dịch vụ bổ xung khác.

Trên thị trường du lịch, đối tượng được mua sắm cũng rất đa dạng, không chỉ các hàng hóa dịch vụ du lịch mà còn là những giá trị ẩn sau các sản phẩm du lịch. Ví dụ, ngoài các hàng hóa dịch vụ mà du khách đã được hưởng thì du khách còn có thêm những hiểu biết về văn hóa, kinh tế, chính trị, lịch sử… của nơi đến.

Sản phẩm du lịch trên thị trường du lịch là một loại sản phẩm tổng hợp, dễ hỏng. Sản phẩm du lịch bao gồm tài nguyên du lịch và dịch vụ du lịch. Chất lượng sản phẩm du lịch không ổn định phụ thuộc không chỉ vào doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào du khách và phụ thuộc vào các ban ngành có liên quan bởi vì sản phẩm du lịch về cơ bản là không cụ thể, nó thực sự là một kinh nghiệm mà phải trải qua mới biết được và sản phẩm du lịch cũng được tạo ra bởi nhiều ngành khác nhau.

Thị trường du lịch mang tính mùa vụ rõ nét. Ví dụ, du lịch lễ hội vào đầu năm và du lịch biển vào mùa hè.

Thị trường du lịch chịu nhiều ảnh hưởng của các yếu tố khác như các yếu tố thuộc về môi trường vĩ mô, các nạn dịch, tình hình an ninh chính trị, ổn định chính trị…[5] Khóa luận: Tìm hiểu thị trường khách du lịch Nhật Bản.

1.2.1.3.Phân loại

Thị trường du lịch nội địa là thị trường du lịch mà ở đó quan hệ cung cầu đều nằm trong biên giới lãnh thổ của một quốc gia. Địa điểm thực hiện sự gặp nhau giữa cung và cầu trong phạm vi lãnh thổ một quốc gia.

Thị trường du lịch quốc tế là thị trường du lịch mà ở đó cung thuộc về một quốc gia, cầu thuộc về một quốc gia khác. Địa điểm thực hiện sự gặp nhau giữa cung và cầu vượt ra khỏi biên giới một quốc gia. Trong thị trường này có thể chia thành thị trường du lịch quốc tế chủ động và thị trường quốc tế bị động. Thị trường quốc tế chủ động là thị trường du lịch mà ở đó các quốc gia bán sản phẩm du lịch cho khách là công dân nước ngoài còn thị trường du lịch quốc tế bị động là thị trường du lịch mà quốc gia đó đóng vai trò là người mua sản phẩm du lịch của quốc gia khác để đáp ứng nhu cầu của công dân nước mình.[5]

1.2.2. Đặc điểm khách du lịch Nhật Bản

1.2.2.1.Nhu cầu và xu hướng đi du lịch của người Nhật Bản

Nhật Bản là một quốc gia có nền kinh tế phát triển đứng thứ hai trong nền kinh tế toàn cầu và cũng là một trong những nước có GDP theo đầu người thuộc loại cao nhất thế giới.

Do đời sống ngày càng nâng cao nên ngoài các nhu cầu sinh lý đơn thuần trong cuộc sống hàng ngày thì nhu cầu du lịch cũng là một trong những nhu cầu không thể thiếu của người dân Nhật Bản sau những thời gian làm việc đầy áp lực và căng thẳng. Họ chăm chỉ làm việc rồi sau đó tự thưởng cho mình một chuyến du lịch nghỉ ngơi thư giãn để lấy lại thăng bằng cho một thời gian làm việc mới. Du lịch được coi là tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng cuộc sống, để hoàn thiện bản thân và mong muốn làm giàu sự hiểu biết của mình.

Do đó, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế – xã hội phổ biến và thiết yếu của con người ở tất cả các nơi trên thế giới, đặc biệt trong vòng xoáy kinh tế thi trường đang ngày càng phát triển trên toàn thế giới.

Theo thống kê của Hiệp hội các Hãng lữ hành Nhật Bản cho biết, hàng năm có khoảng 18 triệu người Nhật Bản đi du lịch ra nước ngoài. Cuộc sống hàng ngày đầy bận rộn, áp lực công việc cao, người Nhật rất muốn đi du lịch một phần thỏa mãn mong muốn trí tìm tòi không ngừng học hỏi đã ăn sâu trong tâm thức của mỗi con người Nhật, một phần cũng để giải tỏa được những áp lực cuộc sống.[12] Khóa luận: Tìm hiểu thị trường khách du lịch Nhật Bản.

Chính vì vậy mà chính phủ Nhật Bản, luôn tạo điều kiện để cho người dân Nhật Bản có thời gian đi du lịch. Hàng năm họ có một kỳ nghỉ khá dài được phân bổ đều trong năm.

Không chỉ chính phủ Nhật Bản mà cả các công ty lữ hành Nhật cũng cố gắng tạo cơ hội và kêu gọi người Nhật đi du lịch nước ngoài. Theo Hiệp hội các Hãng lữ hành Nhật Bản (JATA), thì hội đã phát động thành một chiến dịch khuyến khích kêu gọi mọi người dân Nhật đi du lịch, 20 triệu lượt khách Nhật đi du lịch nước ngoài mỗi năm cũng là mục tiêu của tổ chức này.

Ông Nomiru Sasada, trợ lý giám đốc của tổ chức JATA nói rằng: điều căn bản của kế hoạch này không chỉ khuyến khích mọi người dân Nhật đến với những sản phẩm du lịch chất lượng cao và nội dung tốt. Vì vậy theo ông, đầu tiên JATA sẽ phối hợp với các quốc gia có tiềm năng du lịch hoặc có sản phẩm hấp dẫn để các định hướng chiến lược nhằm vào đối tượng khách Nhật Bản. Ví dụ như hình thức tổ chức các lễ hội văn hóa mà Festival văn hóa du lịch Việt Nam sẽ là điểm nhấn thu hút và là cơ hội để lôi kéo du khách Nhật đến với Việt Nam.[12]

Với mục tiêu khuyến khích đi du lịch nên ngay từ năm 2004, JATA đã có hệ thống tư vấn du lịch cho người Nhật. Hệ thống này của JATA đã kết nối với nhiều điểm đến ở khắp nơi trên thế giới. Những điểm đến được tổ chức này công nhận trong hệ thống tư vấn cho người dân Nhật Bản là những điểm du lịch hấp dẫn và an toàn. Cùng với đó, các nhà lữ hành Nhật Bản còn tổ chức các đợt thi ảnh lưu niệm dành cho du khách Nhật như một phương thức khuyến khích người Nhật đi du lịch nước ngoài.

Như vậy du lịch không phải chỉ là sở thích của người Nhật mà đó còn là trào lưu sống của người Nhật, đồng thời nó cũng là chủ trương của cả nước Nhật. Vì vậy chính phủ Nhật đã tạo cho người dân nước mình có rất nhiều kỳ nghỉ dài ngày để người dân có điều kiện đi du lịch, ví dụ như: kỳ nghỉ giáng sinh, kỳ nghỉ năm mới, kỳ nghỉ đông, nghỉ hè, tuần lễ vàng,…

Hầu hết người Nhật thường hay đi du lịch nhiều vào một số thời điểm trong năm như từ cuối năm cho tới đầu năm sau( 25/12 – 7/1), cuối tháng ba cho tới đầu tháng tư, cuối tháng tư cho tới đầu tháng năm và cuối tháng bảy cho tới đầu tháng tám. Đặc biệt, người Nhật có xu hướng đi du lịch khi các trường học công lập đóng cửa, mặc dù vào thời kỳ này giá vé máy bay cao hơn nhưng họ vẫn thích đi du lịch đông vì lúc đó có thể đi được cả gia đình.

Khi đi du lịch rất ít khi thấy người Nhật đi du lịch một mình trừ khi chuyến đi có mục đích thương mại hoặc du lịch ba lô. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay khách Nhật đi theo dạng ba lô và theo tour trọn gói là ngang nhau do chính phủ Việt Nam đã miễn thi thực nhập cảnh cho du khách Nhật. Số lượng khách Nhật đi theo dạng ba lô chủ yếu là lớp thanh niên trẻ tuổi Nhật muốn được tự do khám phá và tìm hiểu Việt Nam. Khóa luận: Tìm hiểu thị trường khách du lịch Nhật Bản.

1.2.2.2.Đặc điểm tâm lý của khách du lịch Nhật Bản

Tâm lý khách du lịch là một yếu tố trừu tượng vô hình nhưng lại rất quan trọng khi kinh doanh du lịch. Như vậy nếu hiểu và nắm bắt được rõ các đặc điểm tâm lý của du khách thì việc phục vụ khách sẽ được tốt hơn, sẽ gây được ấn tượng ngay lần đầu tiếp xúc, từ đó việc cư xử phục vụ khách sẽ tốt hơn.

Ngoài việc tìm hiểu tâm lý du khách, chúng ta còn phải chú ý tới các yếu tố có thể ảnh hưởng trực tiếp tới tâm lý du khách.

Thứ nhất, phong tục tập quán cũng ảnh hưởng khá lớn tới tâm lý du khách. Phong tục tập quán là những thói quen, nề nếp có giá trị tốt đẹp và lâu đời được ứng xử lặp đi lặp lại trong một cộng đồng người nhất định, được lan truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Thứ hai, đó là bề dày truyền thống, là những hiện tượng sinh hoạt xã hội được hình thành trong quá trình giao tiếp giữa con người với nhau. Khách du lịch thuộc về cộng đồng người nào thì những nét truyền thống của cộng đồng người ấy sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến họ. Và điều đó cũng có nghĩa là truyền thống cũng chi phối tới tâm lý cũng như hành vi tiêu dùng của họ.

Có thể nói người Nhật có một bề dày truyền thống văn hóa và ứng xử rất lâu đời. Phong tục tập quán tương đối đặc biệt, tuy cùng nằm cùng trong vành đai Hán ngữ nhưng Nhật Bản lại có nét văn hóa truyền thống, ứng xử và phong tục tập quán khác biệt đối với một số nước trong khu vực như Trung Quốc, Hàn Quốc và cả Việt Nam nữa.

Có thể nói ấn tượng ban đầu rất quan trọng, nó là một trong những nhân tố quan trọng làm lên thành công của mỗi chương trình du lịch. Để tạo được ấn tượng với khách hàng thì cần phải hiểu được tâm lý, thị hiếu, nhu cầu của du khách.

Đối với khách du lịch Nhật Bản, thì đây là một thị trường khách được nhật xét là tốt nhất trên thế giới với khả năng chi tiêu cao và nhu cầu đi du lịch lớn. Để tạo được ấn tượng tốt với thị trường khách này thì việc tìm hiểu đặc điểm tâm lý của họ là rất cần thiết bởi vì đây là một thị trường khách rất khó tính và yêu cầu cao về mọi mặt.

Mặt khác chỉ khi hiểu rõ được thị trường khách du lịch cần khai thác thì chúng ta mới có thể đưa ra được những phương pháp chiến lược tiếp thị và kinh doanh đúng đắn.

  • Về tính cách:

Người Nhật là những người thông minh, khôn ngoan, lịch lãm, tế nhị và khá vui nhộn. Họ cũng là những người rất yêu lao động và hòa hợp với thiên nhiên. Người Nhật rất coi trọng chữ tín, dũng khí và đặc biệt đề cao lòng trung thành và nghị lực của con người. Vì vậy họ có tính kỷ luật rất cao trong suy nghĩ và làm việc tập thể, biết tôn trọng địa vị thứ bậc, ưa chuộng cái đẹp, có óc thẩm mỹ và có tính sáng tạo cao qua sự tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại rồi sáng tạo ra nét riêng độc đáo cho nền văn hóa của mình. Khóa luận: Tìm hiểu thị trường khách du lịch Nhật Bản.

Người Nhật cũng là những con người rất cần cù và chịu khó. Chính vì thế họ đã không ngừng phấn đấu để xây dựng đất nước mình trở thành một siêu cường quốc từ một nền kinh tế bị kiệt quệ trong thế chiến Hai. Nguyên nhân thành công đó một phần nằm trong tính cách của họ.

Người Nhật cũng có nguyên tắc sống rất đặc biệt so với các nước khác trong khu vực. Họ sống hòa hợp với thiên nhiên. Một trong những nguyên tắc sống quân trọng nhất của người nhật đó là lấy sự hài hòa làm gốc rễ của đạo đức. Du khách Nhật ít khi biểu lộ sự không hài lòng một cách trực tiếp. Nếu chất lượng tour du lịch có vấn đề gì thì họ thường gửi thư hoặc thông qua đại lý du lịch.

Vì vậy,các doanh nghiệp kinh doanh du lịch Việt Nam nên tìm cách tìm hiểu mức độ hài lòng của du khách Nhật Bản bằng nhiều hình thức khác nhau để tránh những vướng mắc về sau, đơn giản có thể thông qua các phiếu điều tra hoặc bảng hỏi gửi cho khách.

Nguyên tắc sống thứ hai của người Nhật đó là khách hàng là thượng đế. Họ cho rằng người trả tiền luôn có vị thế cao hơn người nhận tiền, vì vậy du khách Nhật thường khó tính, nhiều yêu cầu, thường hay phàn nàn và luôn đòi hỏi chất lượng phục vụ cao nhất. Người Nhật vốn quen với cuộc sống hiện đại, nhiều tiện nghi, quen với việc sử dụng những sản phẩm thuận tiện nên khi đi du lịch nước ngoài họ không thường mấy thích nghi với những điều kiện thiếu thốn tại điểm du lịch.

Nguyên tắc sống thứ ba là tính đúng giờ. Đúng giờ là một nguyên tắc sống rất quan trọng đối của người Nhật. Trong các hoạt động du lịch người Nhật luôn cảm thấy không hài lòng khi phải chờ đợi.

Thứ tư, đó là sức khỏe là vàng. Khi đi du lịch người Nhật rất quan tâm tới việc bảo vệ sức khỏe, tới vấn đề an ninh và an toàn. Chính vì vậy, những yếu tố bất ổn của môi trường du lịch có ảnh hưởng rất lớn tới quyết định đi du lịch của người Nhật. Những vấn đề như khủng bố, dịch bệnh (SARS, cúm gia cầm, sóng thần…) vừa qua đã làm giảm sút nghiêm trọng số lượng du khách Nhật Bản đi du lịch nước ngoài.

Thứ năm, người Nhật rất coi trọng sự sạch sẽ trong cuộc sống thường nhật cũng như trong đi du lịch. Đây là yếu tố chú ý đặc biệt khi phục vụ khách du lịch Nhật Bản. Các chuyên gia người Nhật trong lĩnh vực du lịch đã tổng kết một số vấn đề cần lưu ý khi phục vụ khách du lịch Nhật Bản. Họ đã khái quát thành 5C + 1S, đó là: comfort (tiện nghi), Convenience (sự thuận tiện), Cleanlinness (sự sạch sẽ), Courtesy (sự nhã nhặn), Curiosity (thỏa mãn tính hiếu kỳ), Safety và Security (vấn đề an toàn và an ninh). Vì quá sạch sẽ nên đôi khi khả năng miễn dịch của họ rất yếu khi thay đổi môi trường sống, vì vậy mà du khách Nhật rất cẩn trọng trong vấn đề vệ sinh và ăn uống.[12] Khóa luận: Tìm hiểu thị trường khách du lịch Nhật Bản.

Thứ sáu, đó là yêu cầu về hiểu ngôn ngữ và văn hóa. Số ít người Nhật sử dụng được thuần thục được tiếng Anh, vì thế một trong những yêu cầu quan trọng khi phục vụ khách Nhật đó là sự cần thiết của đội ngũ hướng dẫn viên tiếng Nhật chuyên nghiệp. Người Nhật quan niệm rằng ẩn sau ngôn ngữ là văn hóa và họ yêu cầu hướng dẫn viên không chỉ sử dụng thành thạo được ngôn ngữ của họ mà còn phải hiểu được văn hóa và phong cách sống của họ.

Cuối cùng, người Nhật có cách tắm đặc biệt, đó là tắm bồn. Khách du lịch Nhật Bản thường chọn phòng tắm có bồn và có vòi hoa sen. Cách tắm của người Nhật cũng thật đặc biệt, họ ngâm mình trong bồn tắm khoảng 5 đến 10 phút sau đó ra khỏi bồn kỳ cọ lại rồi lại vào bồn ngâm tiếp.

  • Về giao tiếp:

Để tạo được ấn tượng đầu tiên với du khách khó tính này, phụ thuộc vào sự hiểu biết và khôn khéo của người phục vụ du lịch khi giao tiếp với người Nhật. Khi gặp gỡ lần đầu, trước khi câu chuyện bắt đầu người Nhật thường dùng danh thiếp để giới thiệu và việc nhận danh thiếp phải bằng hai tay.

Đây là một dấu hiệu tỏ lộ sự kính trọng. tấm danh thiếp được in rõ ràng không được viết tay trên đó. Việc dùng danh thiếp có một ý nghĩa quan trọng vì không trình danh thiếp có thể hiểu là buổi gặp gỡ không chính thức cho lắm. Sau khi trao danh thiếp thì cúi người xuống trào tùy theo địa vị hoặc bắt tay nhưng chỉ lắm tay nhẹ nhàng và không được nhìn chằm chằm vào mặt họ vì như thế bị coi là mất lịch sự.

Trong giao thiệp, người Nhật không thích sự trực tiếp và trung gian đóng một vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề khó khăn. Đừng sai hẹn và cũng đừng vòng vo. Đặc biệt người Nhật thích chụp cảnh có hình mình trong đó, vì thế khi đi du lịch một nơi nào đó lúc về họ được tặng một tấm ảnh chụp trong tư thế tự nhiên thì không còn gì bằng. Họ kiêng chụp ảnh ba người.

Người Nhật có tính tự chủ cao, lịch sự, kiên nhẫn, điềm tĩnh ôn hòa. Họ sợ bị mất mặt, mất thể diện vì vậy khi giao tiếp với họ thường tránh những từ “không”. Người Nhật thường trả lời câu hỏi với các từ “vâng”, “đồng ý” hoặc “thế cũng được”.

Đây là tập quán được người Nhật rèn luyện từ đời này sang đời khác nhằm tránh gây mất thể diện hoặc tự ái đối với người giao tiếp. Người Nhật cũng rất tin vào tướng số nên khi giao tiếp chúng ta nên hướng chủ đề câu chuyện vào những nội dung không kiêng kị như thể thao, thời tiết, chứng khoán… không nên nói chuyện về chiến tranh thế giới thứ hai vì nó được coi như là mối ô nhục của dân tộc họ. Người Nhật cũng rất thích tặng quà vào dịp các lễ tết và các dịp có tin vui.

Cần chú trọng đến nghệ thuật gói quà nếu bạn muốn tặng quà cho người Nhật. Không nên tặng quà cho người Nhật có số lượng là 4 hoặc vật nhọn vì đây là con số kiêng kị của họ, họ thích các số lẻ.

Cần chú ý số dây buộc quà là số lẻ và không được bóc quà trước mặt người tặng vì đó là một nguyên tắc. Người Nhật rất yêu thích hoa Anh Đào và hoa Cúc vì họ cho rằng chúng là biểu hiện cho tình cảm tri kỷ, cho tình đoàn kết và sự trường thọ. Họ không thích hoa Sen vì đối với họ hoa Sen biểu trưng cho sự tang tóc.

  • Về khẩu vị và thói quen ăn uống: Khóa luận: Tìm hiểu thị trường khách du lịch Nhật Bản.

Ở Nhật, cơm gạo tượng trưng cho nữ tính, cho lòng mến khách, sự an bình và niềm hi vọng. Thức ăn chủ yếu hàng ngày là gạo, rau đậu và các loại hải sản trong đó cá, rong biển và đậu tương là nguồn đạm chính. Do đó cây lúa được ưu tiên trồng cấy hơn các cây lương thực khác. Nhờ kết hợp hài hòa các món ăn truyền thống Nhật với các món ăn nước ngoài nên cách ăn uống của Nhật ngày càng được đánh giá cao về phương diện dinh dưỡng cũng như khẩu vị.

Người Nhật thích ăn các món ăn chế biến từ hải sản và độc đáo nhất là những món cá đặc biệt là món cá ăn sống, gỏi cá, ngoài ra còn có cả cá nướng, tempura chế biến từ cá. Những món ăn này thường được uống kèm với rượu sake. Trước khi ăn họ thường dùng khăn ấm vào mùa đông và khăn lạnh vào mùa hè để lau mặt. Khi ăn xong họ thường uống trà hoặc cafe.

Người Nhật thường có sự tôn trọng về địa vị xã hội nên nếu trong nhóm khách Nhật đến nhà hàng có một vị khách đáng kính thì vị trí ngồi rất quan trọng. Những người phục vụ nên chú ý điều này.

Trong bữa ăn, người Nhật yêu cầu cao cả về thẩm mỹ và chất lượng bữa ăn. Người Nhật đặc biệt coi trọng cách trang trí của bữa ăn. Trong bữa ăn, thức ăn phải được sắp đặt hết sức cẩn thận và rất cần sự hài hòa giữa hình thức và màu sắc.

  • Về đặc điểm của người Nhật Bản khi đi du lịch nước ngoài:

Theo ông Monoru -giám đốc điều hành Hiệp hội du lịch Nhật Bản (JATA) đã đưa ra 8 yếu tố tâm lý của người Nhật khi đi du lịch nước ngoài đó là người Nhật Bản thích đến những vùng đất có phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ mà Nhật Bản không có, những nơi có vẻ đẹp tự nhiên hoang sơ.

Họ thích những nơi có bề dày lịch sử văn hóa, ưa tìm đến các bảo tàng lịch sử mỹ thuật, đặc biệt là những bảo tàng nổi tiếng là nơi luôn thu hút được sự chú ý của họ. những nước đang phát triển giống với Nhật Bản ở giai đoạn trước cũng rất thu hút khách nhật vì đến những nơi đó họ như được xem lại chính đất nước mình.

Họ rất thích các món ăn ngon nên khi biết ở đâu có món ăn ngon chắc chắn họ sẽ đến. Tour du lịch giá rẻ mà món ăn không ngon thì không làm hài lòng khách Nhật. Về phương diện này thì Việt Nam là nơi lý tưởng với khách Nhật bởi có nhiều món ăn ngon và rẻ, hợp khẩu vị với người Nhật. Với người Nhật các món ăn Thái Lan hay Indonesia cay và không hợp khẩu vị. Về đồ uống thì người Nhật rất sành các loại bia, rượu. Khóa luận: Tìm hiểu thị trường khách du lịch Nhật Bản.

Người Nhật thích đến đất nước mà ở đó người dân bản địa hiếu khách, đằm thắm. Chẳng hạn như ở Mông Cổ không có gì đặc biệt lắm đối với người Nhật và món ăn cũng bình thường nhưng vì người Mông Cổ rất niềm nở hiếu khách nên đã có rất nhiều người Nhật đến đây. Trái lại họ không muốn đến những nơi có sự phân biệt nam nữ, tôn giáo và chủng tộc.

Người Nhật cũng thích đến những nơi có các hoạt động tình nguyện. Từ sau phong trào giúp đỡ những người bất hạnh sau các trận động đất ở đất nước mình, người Nhật có mong muốn được giúp dỡ những người khó khăn ở khắp nơi. Thêm nữa, khi ra nước ngoài tình nguyện họ có cơ hội được tìm hiểu, khám phá, tiếp xúc với những nét đặc sắc của nhiều nước khác nhau. Những lĩnh vực mà họ thường hay quan tâm đó là giáo dục, y tế, nông nghiệp và phục hồi các di sản kiến trúc…

Người Nhật rất thích được thưởng thức các nghệ thuật truyền thống nơi họ đặt chân đến. Ví dụ khi đến Hà Nội họ dành nhiều thời gian xem múa rối nước, nhiều phụ nữ Nhật còn thích đến các đền chùa. Cho thấy du khách Nhật rất thích tìm hiểu văn hóa nơi đến.

Người Nhật đặc biệt là phụ nữ Nhật rất thích đi mua sắm đồ thủ công truyền thống về làm quà cho người thân và bạn bè với ý thông báo rằng mình đã được đến nơi đó. Những loại hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống có mẫu mã phong phú, có những nét đặc trưng riêng, giá cả lại phải chăng, hình dạng ngộ nghĩnh sẽ kích thích người Nhật mua rất nhiều.

Các trang phục dân tộc cũng được họ chú ý, phụ nữ Nhật rất thích Áo dài Việt Nam, họ cho rằng nó rất đẹp, dễ may, dễ mặc, phù hợp với những khi đi dự tiệc, giá cả lại rất rẻ so với chiếc Kimono truyền thống của đất nước họ.

Người Nhật thích đến những nơi có cuộc sống sôi động về đêm như các quán rượu, bia, hay quán karaoke…nhưng đòi hỏi phải có an ninh trật tự tốt. Họ cũng thích đi dạo về đêm ở những nơi có phong cảnh đẹp.

Như vậy, tâm lý đi du lịch của người Nhật rất đa dạng song nhìn chung họ vẫn muốn đi đến nơi có điểm khác biệt với nước Nhật. Chính vì thế, Việt Nam cần có chiến lược xây dựng sản phẩm du lịch cho phù hợp với tâm lý du lịch của họ thì mới lôi kéo được thị trường đầy tiềm năng này.[10,51]

Bên cạnh việc tìm hiểu truyền thống văn hóa và phong tục tập quán của người Nhật, chúng ta cũng phải chú ý đến một số yếu tố khác có ảnh hưởng đến tâm lý đi du lịch của du khách Nhật như dư luận xã hội và bầu không khí tâm lý xã hội vĩ mô. Những yếu tố này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lý tiêu dùng cũng như thị hiếu tiêu dùng của du khách Nhật như dư luận về an ninh không ổn định, chính trị không ổn định hay vấn đề về dịch bệnh…

Như vậy, để nắm bắt kịp thời sự thay đổi trong xu hướng tiêu dùng của họ, chúng ta phải thường xuyên tìm hiểu về thị hiếu tiêu dùng của du khách Nhật, từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp khắc phục, đổi mới theo thị hiếu của khách hàng nhằm thu được thành công trong kinh doanh du lịch. Cần phải tạo ra một thương hiệu vững chắc cho du lịch Việt Nam để không bị lung lay bởi những biến động của tâm lý – xã hội là giải pháp tốt nhất mà ngành du lịch Việt Nam đã và đang phấn đấu trong thời gian qua. Để làm được điều này thì ngoài ngành du lịch cần sự hỗ trợ của các cấp, các ngành Nhà nước và các ngành kinh tế khác như ngành hàng không, công nghiệp nhẹ, giao thông…

Tín ngưỡng tôn giáo cũng ảnh hưởng tới tâm lý du lịch của người Nhật. Đó là những nét đặc trưng tiêu biểu về mặt tâm lý của con người, tin tưởng vào một thế lực siêu nhiên và niềm tin đó chi phối tới đời sống tinh thần, vật chất và hành vi của họ. Tín ngưỡng tôn giáo là một phần của đời sống tinh thần mà quốc gia nào cũng có, đó là những điều thiêng liêng tối kị không được phép xúc phạm tới. Khóa luận: Tìm hiểu thị trường khách du lịch Nhật Bản.

Ngoài các yếu tố trên còn có một số yếu tố khác có thể ảnh hưởng tới tâm trạng đi du lịch của du khách mà người làm du lịch cần biết rõ để có những định hướng phù hợp mà mục tiêu cuối cùng là tạo sự thoải mái trong tâm lý cho du khách. Chỉ như vậy chúng ta mới có thể lôi kéo được du khách quay trở lại.

Đó có thể là các yếu tố chủ quan bao gồm các vấn đề về sức khỏe, tính cách, độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, trình độ, thu nhập, hoàn cảnh gia đình… của khách du lịch. Nhóm này đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành tâm trạng ban đầu của khách du lịch. Trên cơ sở nắm bắt được các thông tin về du khách, từ đó lên chương trình phục vụ phù hợp với từng đối tượng, đảm bảo chất lượng, làm hài lòng ngay cả những du khách khó tính nhất.

Nhóm thứ hai là những yếu tố khách quan. nhóm này có thể làm cho tâm trạng của du khách phát triển theo hướng tích cực hoặc cũng có thể theo hướng tiêu cực. Nhóm này gồm:

Về môi trường tự nhiên: như khí hậu, nhiệt độ, phong cảnh thiên nhiên…các hiện tượng tự nhiên thay đổi là những cái ta phải chấp nhận, ta chỉ có thể cảo tạo hoặc làm phong phú thêm bằng một số dịch vụ và phải bảo vệ và giữ gìn nó.

Về môi trường nhân văn: gồm các di tích lịch sử văn hóa, các phong tục tập quán tín ngưỡng, lễ hội, các trò chơi dân gian… sẽ gây ấn tượng rất tốt với du khách, tạo những cảm giác thú vị và hoài niệm trong tâm trạng của khách du lịch

Về cơ sở vật chất kỹ thuật: các phòng nghỉ, cửa hàng bán đồ lưu niệm, nhà hàng khách sạn, các khu thể thao vui chơi giải trí là yếu tố hàng đầu để duy trì tâm trạng dương tính cho du khách.

Về đội ngũ lao động: là những con người trực tiếp hay gián tiếp tham gia phục vụ khách, có mối quan hệ chặt chẽ với khách du lịch.

Chúng ta có thể hoàn toàn tác động tới nhóm nhân tố này theo chiều hướng tích cực nhằm tạo ra một sản phẩm du lịch hoàn hảo mà vẫn đảm bảo tính bền vững lâu dài cho du lịch.

Một trong những đặc điểm quan trọng của người Nhật khi đi du lịch là họ rất coi trọng môi trường tự nhiên và nhân văn, nhu cầu về chất lượng phục vụ của đội ngũ lao động cũng rất cao. Chính vì thế, để thu hút được thị trường này thì những người làm du lịch phải có một cái nhìn đầy đủ về các yếu tố trên và sự tác động của chúng đối với tâm lý du khách.

1.2.2.3.Đặc điểm tiêu dùng của khách du lịch Nhật Bản

Nhờ sự phát triển kinh tế, Nhật Bản hiện nay là một trong những nước có lượng khách du lịch outbound lớn nhất thế giới và liên tục tăng trưởng hàng năm trong điều kiện kinh tế chính trị thế giới có nhiều bất ổn. Do là một nước có nền kinh tế chủ yếu là dựa vào xuất khẩu, đã từng có thời kỳ Chính phủ Nhật Bản khuyến khích công dân của mình đi du lịch nước ngoài để tạo sự cân bằng trong phát triển kinh tế. Khóa luận: Tìm hiểu thị trường khách du lịch Nhật Bản.

Nguyên nhân khiến cho người dân Nhật Bản đi du lịch nước ngoài nhiều là do thu nhập cao và nếu tính về chi phí cho tổng chuyến đi thì trong nhiều trường hợp đi du lịch nước ngoài còn rẻ hơn nhiều so với chi phí đi du lịch trong nước, nhất là đến các nước ở khu vực châu Á.

Theo thống kê của chính phủ Nhật Bản, những người ở hai độ tuổi khoảng 60-65 tuổi và 35-40 tuổi vào khoảng 25 triệu người, chiếm khoảng 1/5 dân số Nhật Bản. Xét về khả năng đi du lịch và chi tiêu cho du lịch thì những người ở hai nhóm tuổi này cũng là những người có khả năng nhất.

Đối với những những người thuộc nhóm trên 60 tuổi, nhóm tuổi về hưu theo Luật Lao động Nhật Bản thì họ vừa là những người có thời gian rảnh rỗi nhiều vừa có khả năng chi tiêu cao với quỹ lương hưu ổn định. Nhóm thứ hai độ tuổi khoảng 35-40 tuổi là những người ở độ tuổi đã ổn định về nghề nghiệp và thu nhập, nên khả năng đi du lịch và chi tiêu cũng sẽ cao hơn những người ở độ tuổi 20 hoặc học sinh, sinh viên.

Du khách Nhật cũng được đánh giá là những người thích mua sắm. Bên cạnh rượu, thuốc lá, hàng hiệu, khách du lịch Nhật Bản còn thích mua và sưu tập những sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống độc đáo được sản xuất bằng tay, những mặt hàng này ở trong nước họ thường đắt hơn gấp nhiều lần so với các sản phẩm cùng loại khác, trong khi đó ở các nước như Việt Nam lại rất rẻ.

Đây là một thị trường khách tương đối khó tính, họ yêu cầu về chất lượng sản phẩm dịch vụ hàng hóa dịch vụ rất cao và chuẩn theo tiêu chuẩn của họ. Họ cũng rất chú ý đến vấn đề vệ sinh và an toàn trong chuyến đi. Vì thế trước khi đi du lịch nước nào đó, họ thường đến các phòng tư vấn an ninh. Họ thường chọn các hãng hàng không có uy tín, tàu hỏa phải sang trọng, vệ sinh, đầy đủ tiện nghi, ô tô thuộc loại đắt tiền, mới, có điều hòa, chưa qua trung gian, đại tu.

Khách du lịch Nhật Bản thường đi theo tour du lịch để dễ dàng trong thủ tục hải quan. Từ khi Chính phủ Việt Nam miễn thị thực nhập cảnh cho du khách Nhật khách du lịch nhật đi du lịch Việt Nam nhiều hơn, chứng tỏ họ muốn được thủ tục hải quan được nhanh chóng. Trong quá trình đi du lịch, du khách nhật rất quan tâm tới lời bình các tuyến đường, tuyến điểm trên chuyến tham quan, thích được giúp lên xe và xuống xe. Ngoài các chương trình đã ký sẵn trong lịch trình tour thì họ thích mua các chương trình và các dịch vụ bổ xung như thích đi câu cá, đi ngắm phong cảnh, đi mua sắm đồ lưu niệm…thưởng thức đồ ăn dân tộc bên cạnh các món ăn Nhật Bản tại nơi mà họ đến.

Đối với người hướng dẫn viên, họ yêu cầu phải có đồng phục lịch sự, ngoài việc thông thạo ngôn ngữ tiêng Nhật thì người hướng dẫn viên phải hiểu biết về văn hóa của họ. Họ thích được chào theo kiểu Nhật và giao tiếp bằng tiếng Nhật.

Đối với sản phẩm du lịch họ đòi hỏi chất lượng phải chiếm vị trí số một. Du khách Nhật chi tiêu rất nhiều cho việc ăn uống và lưu trú. Họ thường chọn khách sạn từ 3 sao trở lên và thường ở tầng cao, không gian thoáng mát, trang trí phòng trang nhã. Họ yêu cầu phòng ở phải có bồn tắm và có dép đi trong nhà, tiện nghi phải đầy đủ, phục vụ phải đúng giờ.

Thị trường khách du lịch Nhật Bản rất phong phú và đa dạng. Đặc điểm tiêu dùng có những sự khác biệt cho từng đối tượng và nhóm tuổi. Vì vậy, việc phân đoạn thị trường du khách Nhật để hiểu rõ hơn nhu cầu tiêu dùng của họ, từ đó cung cấp các sản phẩm du lịch và dịch vụ phù hợp cũng là một điều rất cần thiết. Giới học sinh, sinh viên thường đi theo đoàn và kinh phí do nhà nước cấp, có nhu cầu tương đối đơn giản, thường coi trọng tính kinh tế của dịch vụ cung cấp, ưa thích đồ ăn châu Âu, đồ ăn nhanh và các món ăn địa phương. Nhóm khách này thường thích tham quan, ngắm cảnh và tìm hiểu về văn hóa, phong tục tập quán của nơi đến. Khóa luận: Tìm hiểu thị trường khách du lịch Nhật Bản.

Giới nữ trẻ có độ tuổi trung bình khoảng từ 20 -30 tuổi: đây là nhóm tuổi chưa lập gia đình, có việc làm và thu nhập ổn định nhưng vẫn có sự trợ giúp rất lớn của gia đình. Đối tượng khách này rất sành điệu trong tiêu dùng nhưng cũng rất quan tâm đến tính kinh tế của sản phẩm dịch vụ. Sở thích của họ là thích mua sắm, thời trang, đồ trang sức, quà lưu niệm của địa phương, các món ăn và chăm sóc sắc đẹp…

Các du khách đi theo từng gia đình, thì họ thường quan tâm tới thực đơn riêng cho trẻ em, ưa thích hoạt động nghỉ ngơi thư giãn, vui chơi giải trí, thể thao…Đối tượng khách là gia đình thường thích ở phòng rộng, thích các khách sạn có bể bơi riêng và có dịch vụ trông trẻ.

Người cao tuổi là đối tượng khách đi du lịch nhờ vào quỹ lương khi về hưu. Họ có nhiều thời gian rỗi và mức tiêu dùng tương đối cao, thích thư giãn nghỉ ngơi, rất hứng thú trong việc tìm hiểu về lịch sử văn hóa và tự nhiên của điểm du lịch, thích tham gia vào các hoạt động xã hội của nơi đến.

Khách thương gia là đối tượng khách luôn có quỹ thời gian eo hẹp và thường đi du lịch kết hợp với công việc, thời gian tham quan ít, thích chơi golf và hứng thú tìm hiểu cuộc sống về đêm tại điểm du lịch.

Khách du lịch ba lô thường có mức tiêu dùng không cao, đi du lịch theo kiểu tổ chức và rất quan tâm tới yếu tố giá cả song lại là nhóm du khách có khả năng phát tán thông tin nhanh chóng và mạnh mẽ về các điểm đến du lịch.

Trong thời gian rỗi, du khách Nhật thường thích đi dạo phố, đi chợ và thưởng thức các loại hình nghệ thuật dân gian ở Việt nam.

1.3. KHÁI QUÁT VỀ THỊ TRƯỜNG KHÁCH DU LỊCH NHẬT BẢN Ở VIỆT NAM

1.3.1. Hoạt động du lịch của khách du lịch Nhật Bản ở Việt Nam

Trong những năm gần đây, Việt Nam là một trong những điểm đến du lịch được yêu thích của khách du lịch Nhật Bản. Theo thống kê của cơ quan du lịch quốc gia Nhật Bản, Việt Nam đứng thứ 17 trong số 20 điểm đến được yêu thích nhất của người Nhật Bản. Nếu xét theo tỷ lệ khách outbound vào Việt Nam theo tiêu chí quốc gia và vùng lãnh thổ trong những năm gần đây thì thị phần khách du lịch Nhật Bản vẫn giữ một tỉ trọng ít và thường xuyên thay đổi. Lượng du khách đến từ Nhật Bản chiếm khoảng 8-10%, chỉ sau Trung Quốc và Mỹ. Khóa luận: Tìm hiểu thị trường khách du lịch Nhật Bản.

Bảng 1: Thị phần khách du lịch Nhật Bản trong thị phần khách du lịch quốc tế đến Việt Nam (2000-2008)

Trong vài năm trở lại đây, ngành du lịch Việt Nam đón nhận một xu thế “bùng nổ” dòng khách Nhật. Nếu như cách đây hơn 10 năm, lượng khách Nhật đến Việt Nam chỉ dừng lại ở con số ít ỏi hơn 1.000 khách thì đến năm 2002 đã tăng lên gần 300.000 nghìn khách.Tuy nhiên từ năm 2002 đến nay lượng khách du lịch Nhật Bản đến Việt Nam có tăng song không được ổn định. Thể hiện ở lượng khách này đến Việt Nam trong các năm không đồng đều, có năm tăng, có năm giảm. Năm 2003, do đại dịch Sars, lượng khách Nhật Bản đến Việt Nam giảm 25% so với năm trước, từ năm 2004-2007 số lượng khách Nhật tăng nhanh,tuy nhiên tỷ lệ tăng trưởng có xu hướng giảm nhẹ, một phần cũng là do chất lượng sản phẩm du lịch dịch vụ chưa được nâng cao. Còn lại từ năm 2007 đến năm 2008, tỷ lệ tăng trưởng mỗi năm lại giảm đi và giảm mạnh từ năm 2007 đến nay.

Đặc biệt, đến năm 2009, lượng khách Nhật Bản đến Việt Nam giảm 9.1% so với năm 2008. Đến năm 2010 đang có dấu hiệu phục hồi dần lượng khách Nhật Bản đến Việt Nam. Theo số liệu của tổng cục thống kê và báo cáo tổng hợp của Tổng cục du lịch, lượng khách quốc tế đến Việt Nam trong tháng 3/ 2010 đạt 473.509 lượt khách tăng 6.1% so với tháng 2/2010 và 56% so với tháng 3/2009.

Như vậy trong 3 tháng đầu năm 2010, lượng khách quốc tế đến Việt Nam ước đạt 1.351.224 lượt khách, tăng 36.2% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó lượng khách đến với mục đích du lịch nghỉ ngơi là 846.964 lượt khách, tăng 41% so với cùng kỳ năm 2009. Khách đến vì công việc là 265.640 lượt người, tăng 63.5% so với cùng kỳ năm 2009. Khách đến thăm thân là 169.989 lượt khách, tăng 3.6 % so với cùng kỳ năm trước. Khách đến vì mục đích khác là 68.631 lượt người, tăng 5.2% so với cùng kỳ năm 2009.

Các thị trường khách đều tăng so với 3 tháng đầu năm 2009 trong đó thị trường khách du lịch Nhật tăng 12%. Sở dĩ như vậy là nền kinh tế Nhật Bản đang hồi phục dần sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới vừa qua. Nền kinh tế đang từng bước đi lên, đời sống được cải thiện, đã tác động đến tâm lý đi du lịch của người dân Nhật mà những năm vừa rồi người Nhật đã thắt chặt chi tiêu đề phòng cuộc khủng hoảng tài chính sẽ kéo dài.

Xét về thời gian lưu trú của khách Nhật Bản tại Việt Nam, khoảng 90% lượng khách đến Việt Nam có thời gian lưu trú dưới 7 ngày, chỉ có 10% số khách có thời gian lưu trú từ 8 ngày trở lên. Cụ thể như sau:

  • Từ 1- 4 ngày chiếm 40%
  • Từ 5- 7 ngày chiếm 50%
  • Từ 8- 14 ngày chiếm khoảng 8%
  • Từ 15 ngày trở lên chỉ chiếm khoảng 2%.[9,43]

Sau đây là bảng tổng hợp lượng khách du lịch Nhật Bản đến Việt Nam từ năm 2000 đến 2009:

Bảng 2: Lượng khách du lịch Nhật Bản đến Việt Nam (2000 – 2009)

Như vậy, từ bảng số liệu trên cho thấy, từ năm 2000 đến năm 2003, lượng khách du kịch Nhật Bản vào Việt Nam có sự tăng trưởng xong không được ổn định. Đó là vì trong giai đoạn đó ngành du lịch vẫn chưa có điều kiện để quảng bá hình ảnh Việt Nam sâu rộng tới người dân Nhật, nếu có thì cũng chỉ có một số chương trình do chính phủ hỗ trợ, vì thế người Nhật chưa thực sự có nhiều thông tin về đất nước Việt Nam tươi đẹp nên khả năng kích cầu đối với họ cũng là rất khó. Mặt khác cũng là do các sản phẩm du lịch của nước ta ít được đổi mới, các loại hình du lịch chưa được đa dạng nên chưa thực sự giữ chân du khách ở lại lâu. Khóa luận: Tìm hiểu thị trường khách du lịch Nhật Bản.

Du khách Nhật sang Việt Nam trong những năm này chủ yếu là khách thương nhân sang tìm hiểu thị trường đầu tư ở Việt Nam, họ thường đi du lịch kết hợp với công việc nên thời gian tham quan là rất ít. Mặt khác, giai đoạn này cơ sở hạ tầng còn chưa đồng bộ, chất lượng chưa đạt tiêu chuẩn, số cơ sở hạ tầng du lịch phù hợp với nhu cầu của du khách Nhật còn ít.

Từ năm 2004 đến năm 2007, lượng khách Nhật Bản vào Việt Nam tăng đột biến từ 267.210 lượt khách đến 410.515 lượt khách. Sở dĩ có sự bùng nổ số khách Nhật trong những năm qua là do các hoạt động quảng bá xúc tiến và các chương trình kích cầu thực hiện trong năm 2003 như kỷ niệm 30 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam – Nhật Bản, hàng loạt các hoạt động văn hóa, thương mại, du lịch đã diễn ra trong năm, cùng với các đợt xúc tiến quảng bá du lịch tại Nhật, tổ chức các tour làm quen, tour cho các nhà báo Nhật đến Việt Nam… Năm 2003, lượng khách có giảm, song lại là năm làm đòn bẩy cho du lịch năm sau, với việc tổ chức hàng loạt các sự kiện văn hóa và quảng bá, xúc tiến du lịch mạnh mẽ.

Theo đó du lịch Việt Nam đã được giới thiệu sâu rộng hơn tới Nhật Bản. Cùng với đó, tháng 9/2003, hãng hàng không Việt Nam mở thêm đường bay từ thành phố Hồ Chí Minh – Fukuoka, tăng tần suất các chuyến bay Việt Nhật từ 18 lên 21 chuyến/ tuần.Tiếp đó năm 2004, Chính phủ Việt Nam đã bãi bỏ thị thực nhập cảnh cho người Nhật vào Việt Nam và cùng nhiều chương trình xúc tiến quảng bá du lịch Việt Nam sang thị trường Nhật làm cho số lượng khách Nhật sang Việt Nam tăng đột biến. Tuy nhiên tỷ lệ tăng trưởng lại giảm từ năm 2006 do đại dịch SASR, cùng với sản phẩm dịch vụ du lịch Việt chưa phong phú nên không giữ được chân khách lâu, không làm cho khách chi tiêu hết mình.[11]

Từ năm 2007 đến nay, số lượng khách du lịch Nhật Bản vào Việt Nam liên tục giảm do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua làm cho người dân Nhật thắt chặt chi tiêu hạn chế đi du lịch, ưu tiên những thị trường gần, ngắn ngày, giá rẻ. Chính ở Việt Nam do giá phòng và gia vé máy bay cao hơn so với các nước khác trong khu vực như Thái Lan, Malaixia… đã khiến cho du khách Nhật không hài lòng và có xu thế chọn các thị trường du lịch khác trong khu vực với giá cả hợp lý hơn. Nhưng đến cuối năm 2009 và đầu năm 2010 thị trường khách du lịch Nhật Bản bắt đầu tăng nhẹ do kinh tế dần ổn định, cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu cũng dần được phục hồi.

Tuy nhiên nguyên nhân chủ yếu của việc tỷ lệ tăng trưởng khách Nhật Bản đến Việt Nam giảm dần , thời gian lưu trú ngắn, lượng khách quay trở lại còn thấp là do chất lượng sản phẩm du lịch còn chưa cao, còn thiếu và chưa hấp dẫn; đội ngũ những người làm công tác du lịch chư đáp ứng được yêu cầu của du khách Nhật Bản; công tác xúc tiến du lịch của Việt Nam tại thị trường Nhật Bản còn nhiều hạn chế cùng với giá cả một số loai dịch vụ cao hơn so với các nước trong khu vực.

Hiện nay, lượng khách Nhật Bản quay trở lại Việt Nam có mức trung bình thấp hơn nhiều so với mức trung bình chung của châu Á, chỉ bằng khoảng 50%. Đây là một điều khiến ngành du lịch Việt Nam cần phải xem xét lại để có những giải pháp kịp thời kéo khách Nhật quay trở lại thị trường Việt Nam. Khóa luận: Tìm hiểu thị trường khách du lịch Nhật Bản.

Về mục đích của khách Nhật đến Việt Nam, có 69% lượng khách đến Việt Nam với mục đích là nghỉ ngơi,17,6% với mục đích là thương mại- đầu tư, so với các nước trong khu vực là 66% và 11,7%. Mua sắm tại Việt Nam được khách Nhật khá thích thú với kết quả là 82% và trên 88% du khách Nhật mê món ăn Việt Nam.

Tổng cục du lịch Việt Nam và Viện nghiên cứu phát triển du lịch Nhật Bản (JNTO) đã tiến hành một cuộc thống kê tương đối toàn diện, kết quả cho thấy:

Điểm văn hóa lịch sử, đô thị có khí hậu mát mẻ, cảnh quan đẹp là những nơi hấp dẫn du khách Nhật Bản, trong đó tham quan các di tích lịch sử văn hóa, di sản thế giới chiếm 65% số khách.Tìm hiểu lối sống bản địa, phong tục tập quán,thăm các bản làng dân tộc có tới 63% du khách. Mua sắm các đồ thủ công mỹ nghệ truyền thống độc đáo có 45% khách. Các hoạt động du lịch mạo hiểm, lặn biển, vui chơi giải trí ít được quan tâm.

Về vấn đề nhu cầu của khách Nhật vào Việt Nam để thỏa mãn được mục đích thì du lịch tham quan tìm hiểu về các di tích lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán bản địa, lễ hội ẩm thực, làng nghề truyền thống, phố cổ chiếm hơn 80% trong các chuyến du lịch của khách du lịch Nhật Bản. Du lịch sinh thái chiếm 15% như đi thăm các cảnh quan thiên nhiên, bãi tắm biển, hang động, trong đó người Nhật đánh giá cao hệ thống hang động Phong Nha- Kẻ Bàng ở Quảng Bình. Cơ hội kinh doanh đầu tư rất thấp chỉ khoảng 5%.

Như vậy, lượng khách du lịch vào Việt Nam vẫn còn rất thấp, chưa cân xứng với tiềm năng du lịch đất nước. Hàng năm, số người Nhật đi du lịch các nước khoảng 18 triệu người nhưng chỉ 1% trong số này đến Việt Nam. Làm sao để thu hút được thị trường khách có khả năng chi tiêu cao này vào Việt Nam thì vẫn còn là một câu hỏi cần toàn ngành trả lời.

1.3.2. Hoạt động phục vụ khách du lịch Nhât Bản tại Việt Nam.

Nhìn chung, các hoạt động phục vụ khách du lịch Nhật Bản tại Việt Nam ngày càng phát triển và chuyên môn hóa hơn, đảm bảo tối đa cho nhu cầu của du khách, giúp cho du khách cảm thấy dễ dàng thoải mái khi đi du lịch.

Cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật, càng ngày càng được nâng cao, không ngừng được đầu tư các trang thiết bị hiện đại tiên tiến nhằm đáp ứng nhu cầu tương đối cao của du khách Nhật.Hiện nay có nhiều khu nghỉ mát, các khách sạn, các khu vui chơi giải trí đạt tiêu chuẩn quốc tế đáp ứng tốt các nhu cầu của du khách Nhật. Các khách sạn 4 sao, 5 sao được đầu tư xây dựng đầy đủ. Khóa luận: Tìm hiểu thị trường khách du lịch Nhật Bản.

Đội ngũ tham gia vào làm du lịch không ngừng được đào tạo, nâng cao về chuyên môn, ngoại ngữ.

Các sản phẩm du lịch cũng ngày càng được đa dạng và phát triển, dần đi vào hoàn thiện về chất lượng. Các đường bay trực tiêp giữa Việt Nam và Nhật Bản đã đi vào hoạt động và tăng tần suất chuyến bay liên tục để đáp ứng nhu cầu đi lại của du khách. Hệ thống giao thông được cải thiện phần nào. Đặc biệt chính phủ Việt Nam đã miễn visa nhập cảnh cho người Nhật tạo điều kiện thuận lợi cho du khách Nhật vào Việt Nam.

Bên cạnh đó hoạt động phục vụ khách du lịch Nhật Bản ở Việt Nam còn bộc lộ nhiều hạn chế. Trước hết, đó là chất lượng các sản phẩm du lịch chưa cao, còn thiếu sáng tạo và chưa hấp dẫn, vẫn chỉ lặp đi lặp lại các tuyến điểm tham quan quen thuộc nên không thu hút được du khách, dễ gây tâm lý nhàm chán, khiến họ một đi không trở lại, sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ chưa độc đáo, phong phú, chưa mang được sắc thái riêng của từng địa phương. Mặc dù Việt Nam đã rất nhiều các làng nghề truyền thống, song chỉ mới khai thác được một số làng nghề tiêu biểu đưa vào phục vụ cho du lịch. Còn các làng nghề khác chưa được chú trọng đầu tư. Chính vì vậy, các sản phẩm nghề thủ công ở Việt Nam chưa được phong phú và đa dạng. Du lịch làng nghề cũng chính vì thế mà phát triển chưa xứng tầm với tiềm năng sẵn có. Ví dụ như ở Hà Nội, nơi có lịch sử phát triển hàng nghìn năm với nhiều làng nghề truyền thống nhưng ngành du lịch Hà Nội mới chỉ đưa được làng nghề gốm Bát Tràng và làng nghề lụa Vạn Phúc vào phục vụ du lịch. Đây cũng là một trong những lý do khiến sản phẩm du lịch Việt Nam chưa được hấp dẫn du khách nhiều.

Bên cạnh đó đội ngũ những người làm công tác du lịch còn chưa đáp ứng được yêu cầu của du khách Nhật, nhất là về hướng dẫn viên du lịch thông thạo tiếng Nhật và hiểu được văn hóa của họ còn rất thiếu. Hiện nay Việt Nam mới chỉ có 5,3% trong tổng số 5000 hướng dẫn viên được cấp thẻ. Vì thiếu nên chất lượng phục vụ khách không đáp ứng được gây tâm lý không thoải mái cho du khách. Công tác xúc tiến còn nhiều hạn chế, có một thực tế khi tiếp xúc và được hỏi, nhiều người Nhật nói rằng họ chỉ biết tới Việt Nam qua hình ảnh của chiến tranh hoặc qua một số sản phẩm ẩm thực và văn hóa, không ít người không biết Hà Nội là thủ đô của Việt Nam.

Tình trạng chèo kéo khách, ăn xin, chặt chém khách vẫn còn tồn tại đã làm xấu đi hình ảnh du lịch Việt Nam trong mắt du khách Nhật.

Đây là một thực tế mà ngành du lịch nước ta đã và đang cố gắng khắc phục để tạo được chất lượng phục vụ khách tốt hơn, nhất là khi Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Cơ hội tăng nguồn khách quốc tế là nhiều nhưng thách thức cũng rất lớn đòi hỏi du lịch Việt Nam phải thật nhạy bén, tận dụng hiệu quả nguồn tài nguyên sẵn có, huy động tất cả nội lực và ngoại lực để làm cho ngành du lịch Việt Nam phát triển hơn nữa, sánh ngang với các nước trong khu vực.

1.4.TIỂU KẾT

Thị trường khách du lịch Nhật Bản được coi là một trong những thị trường lớn nhất trên thế giới với lượng khách đi du lịch nước ngoài trong những năm gần đây lên tới 18 triệu khách/ năm. Thông qua chương 1, em muốn cung cấp thêm một số thông tin về thị trường khách du lịch Nhật Bản để chúng ta, những người làm du lịch có một cái nhìn tổng quan hơn về khách du lịch Nhật Bản, về một đất nước có nhiều nét văn hóa tương đồng với Việt Nam và có nhiều mối quan hệ hợp tác trên mọi lĩnh vực trong đó có du lịch. Thị trường khách du lịch Nhật Bản là một thị trường khách trọng điểm và đầy tiềm năng của ngành du lịch Việt Nam nói chung và du lịch Hải Phòng nói riêng. Trước một thực trạng khai thác với nhiều vấn đề nan giải về thị trường này, ngành du lịch Việt Nam sẽ có những giải pháp kịp thời để khai thác có hiệu quả nguồn khách đày tiềm năng này. Khóa luận: Tìm hiểu thị trường khách du lịch Nhật Bản.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Khóa luận: Thực trạng thị trường khách du lịch Nhật Bản tại Hải Phòng

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x