Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Thực trạng pháp luật về phòng chống tham nhũng hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Thực trạng pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
3.1. Phạm vi và nội dung điều chỉnh của pháp luật hiện hành về phòng, chống tham nhũng
3.1.1. Phạm vi điều chỉnh của pháp luật hiện hành về phòng, chống tham nhũng
Sau 10 năm thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 (được sửa đổi năm 2007 và 2012), công tác phòng, chống tham nhũng đã đạt được nhiều kết quả tích cực, quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Tuy nhiên, Luật Phòng, chống tham nhũng 2005 đã bộc lộ những bất cập, dẫn đến tình trạng tham nhũng vẫn diễn ra phức tạp, công tác phát hiện, xử lý tham nhũng chưa đáp ứng yêu cầu.
Ngày 20 tháng 11 năm 2018, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIV đã thông qua Luật Phòng, chống tham nhũng 2018. Luật Phòng chống tham nhũng năm 2018 đã mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật ra khu vực ngoài nhà nước. Cụ thể, Luật Phòng chống tham nhũng 2018 mở rộng phạm vi áp dụng một số biện pháp Phòng chống tham nhũng đối với các doanh nghiệp là công ty đại chúng, tổ chức tín dụng và tổ chức xã hội do Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ hoặc Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định thành lập hoặc phê duyệt điều lệ có huy động sự đóng góp của nhân dân để hoạt động từ thiện (gọi chung là doanh nghiệp, tổ chức xã hội khu vực ngoài nhà nước). Các biện pháp được mở rộng áp dụng với các loại hình doanh nghiệp và tổ chức xã hội đã nêu bao gồm công khai, minh bạch tổ chức và hoạt động, phòng ngừa xung đột lợi ích và trách nhiệm của người đứng đầu.
Quy định này thể hiện tinh thần từng bước mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật đối với khu vực ngoài nhà nước của Đảng ta; đồng bộ Bộ Luật Hình sự đã mở rộng quy định xử lý đối với một số tội phạm về tham nhũng trong mọi tổ chức, doanh nghiệp ngoài nhà nước; phù hợp với yêu cầu của Công ước Liên hợp quốc về Chống tham nhũng mà Việt Nam là thành viên.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
3.1.2. Nội dung của pháp luật hiện hành về phòng, chống tham nhũng
3.1.2.1. Những nội dung chung
Về các hành vi tham nhũng: Xuất phát từ thực tế có sự khác biệt về hành vi và chủ thể tham nhũng trong các khu vực, Luật Phòng chống tham nhũng 2018 đã có những quy định riêng về các hành vi tham nhũng trong khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước. Luật giữ các quy định trước đây (của Luật 2005) về hành vi tham nhũng trong khu vực nhà nước (12 hành vi), song bổ sung quy định về một số hành vi tham nhũng ở khu vực ngoài nhà nước, trong đó bao gồm: tham ô tài sản; nhận hối lộ; đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của doanh nghiệp, tổ chức mình vì vụ lợi. Mức độ mở rộng như vậy chưa nhiều, thể hiện sự thận trọng của các nhà lập pháp với một vấn đề còn mới ở Việt Nam, và trên tinh thần phù hợp với các quy định có liên quan của Bộ luật Hình sự hiện hành. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về phòng chống tham nhũng.
Về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị và doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước trong phòng, chống tham nhũng: Luật giữ các quy định cũ của Luật 2005 về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị, song bổ sung một số quy định đối với doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước để phù hợp với việc mở rộng phạm vi áp dụng. Cụ thể, Khoản 2 Điều 4 Luật PCTN 2018 quy định doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng; kịp thời phát hiện, phản ánh và phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để ngăn chặn, xử lý hành vi tham nhũng xảy ra trong doanh nghiệp, tổ chức mình theo quy định của pháp luật và điều lệ, quy chế hoạt động của doanh nghiệp, tổ chức; kịp thời cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng của cán bộ, công chức, viên chức và phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để ngăn chặn, xử lý hành vi tham nhũng.
Về tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về Phòng chống tham nhũng: Nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục liêm chính việc phòng ngừa tham nhũng, Luật Phòng chống tham nhũng 2018 đã bổ sung quy định: “Cơ sở giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng có trách nhiệm đưa nội dung Phòng chống tham nhũng vào chương trình giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng đối với học sinh trung học phổ thông, sinh viên và cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật” (Khoản 2 Điều 6).
3.1.2.2. Nội dung của pháp luật về phòng ngừa tham nhũng
Vấn đề này được quy định tập trung ở Chương II Luật Phòng chống tham nhũng 2018, trong đó bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
Về công khai, minh bạch về tổ chức và hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị (Mục 1): Để khắc phục tình trạng chồng chéo trong hệ thống pháp luật về vấn đề này, khác với Luật 2005, Luật Phòng chống tham nhũng 2018 không quy định công khai, minh bạch trong các lĩnh vực mà chỉ có quy định mang tính nguyên tắc về nội dung, hình thức, trách nhiệm thực hiện công khai, minh bạch trong tổ chức và hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị đối với một số lĩnh vực quan trọng.
Về xây dựng và thực hiện định mức, tiêu chuẩn, chế độ (Mục 2): Tương tự như Luật 2005, Luật Phòng chống tham nhũng 2018 chỉ quy định mang tính nguyên tắc trong việc ban hành và thực hiện các quy định về định mức, tiêu chuẩn, chế độ, để không dẫn đến sự chồng chéo trong các văn bản pháp luật có liên quan. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về phòng chống tham nhũng.
Về thực hiện quy tắc ứng xử của người có chức vụ, quyền hạn (Mục 3): Luật Phòng chống tham nhũng 2018 kế thừa quy tắc ứng xử của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị và việc tặng quà và nhận quà tặng của Luật 2005 (có với một số chỉnh lý), đồng thời bổ sung quy định về kiểm soát xung đột lợi ích tại Điều 23.
Đối với quy định tặng quà và nhận quà tặng: Luật Phòng chống tham nhũng 2018 quy định cụ thể hơn về việc tặng quà, theo đó, cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có chức vụ, quyền hạn không được sử dụng tài chính công, tài sản công làm quà tặng, trừ trường hợp tặng quà vì mục đích từ thiện, đối ngoại và trong một số trường hợp cần thiết khác. Việc nhận quà tặng có liên quan đến công việc đang giải quyết hoặc thuộc phạm vi quản lý của người có chức vụ, quyền hạn dưới mọi hình thức, kể cả trực tiếp hoặc gián tiếp, bị cấm tuyệt đối.
Đối với quy định về kiểm soát xung đột lợi ích: Khoản 9 Điều 3 Luật Phòng chống tham nhũng 2018 quy định: Xung đột lợi ích là tình huống mà trong đó lợi ích của người có chức vụ, quyền hạn hoặc người thân thích của họ tác động hoặc sẽ tác động không đúng đắn đến việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ. Đây là một quy định mới so với Luật 2005 nhưng thực tế đã được đề cập trong một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Bên cạnh Điều 3, Điều 23 Luật Phòng chống tham nhũng 2018 cũng tiếp tục đề cập đến kiểm soát xung đột lợi ích, bao gồm các yêu cầu báo cáo, thông tin và biện pháp kiểm soát xung đột lợi ích.
Về chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức (Mục 4): Luật Phòng chống tham nhũng 2018 tiếp tục quy định nguyên tắc chuyển đổi vị trí công tác, vị trí công tác và thời hạn phải định kỳ chuyển đổi, kế hoạch chuyển đổi vị trí công tác. Đối với thời hạn định kỳ chuyển đối, Luật Phòng chống tham nhũng 2018 giữ quy định của pháp luật hiện hành là 02 năm đến 05 năm theo đặc thù của từng ngành, lĩnh vực và không quy định thời hạn chuyển đối đối với các trường hợp đặc biệt. Tuy nhiên, để bảo đảm phù hợp với tình hình thực tiễn của từng cơ quan, tổ chức, đơn vị, Luật Phòng chống tham nhũng 2018 quy định cụ thể về việc chuyển đổi vị trí công tác đối với cơ quan, tổ chức, đơn vị chỉ có một vị trí phải định kỳ chuyển đổi công tác thì sẽ do người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị đó đề nghị với cơ quan có thẩm quyền chuyển đổi.
Về cải cách hành chính, ứng dụng khoa học, công nghệ trong quản lý và thanh toán không dùng tiền mặt (Mục 5): Luật Phòng chống tham nhũng 2018 có quy định chi tiết hơn các nội dung về cải cách hành chính, ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý tại Điều 27 và Điều 28 và thanh toán không dùng tiền mặt tại Điều 29.
3.1.2.3. Nội dung của pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn
Đây là những vấn đề mà Luật Phòng chống tham nhũng 2018 có nhiều nội dung mới và được sửa đổi, bổ sung so với Luật 2005, trong đó đặc biệt là các nội dung sau đây: Khóa luận: Thực trạng pháp luật về phòng chống tham nhũng.
Quy định về cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập: Điều 30 Luật Phòng chống tham nhũng 2018 đã quy định cụ thể về cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập theo hướng giao cho Thanh tra Chính phủ, Thanh tra các bộ, ngành, Thanh tra tỉnh kiểm soát tài sản, thu nhập của những người thuộc diện kê khai công tác tại các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương; các cơ quan khác và tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội chịu trách nhiệm kiểm soát tài sản, thu nhập của người kê khai công tác trong cơ quan, tổ chức mình.
Quy định về nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập: Luật Phòng chống tham nhũng 2018 kế thừa quy định trong Luật 2005 về nghĩa vụ kê khai nhưng có điều chỉnh để rõ ràng, cụ thể hơn. Theo đó, người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập phải kê khai tài sản, thu nhập và biến động về tài sản, thu nhập của mình, của vợ hoặc chồng, con chưa thành niên.
Quy định về người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập: Điều 34 Luật Phòng chống tham nhũng 2018 đã mở rộng đối tượng có nghĩa vụ kê khai lần đầu đến tất cả cán bộ, công chức và một số nhóm viên chức giữ chức vụ, chức danh quản lý nhằm quản lý chặt chẽ hơn dữ liệu tài sản, thu nhập, qua đó theo dõi, xác minh phục vụ cho công tác phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, Luật đồng thời thu hẹp diện đối tượng phải kê khai thường xuyên, kê khai hằng năm nhằm bảo đảm tính hiệu quả, khả thi của việc kiểm soát, giám sát việc kê khai tài sản, thu nhập.
Quy định về phương thức và thời điểm kê khai tài sản, thu nhập: Để khắc phục hạn chế của Luật 2005 mà trong đó áp dụng chung một phương thức kê khai tài sản cho mọi đối tượng có nghĩa vụ kê khai, dẫn đến không tập trung được nguồn lực cho việc kiểm soát chặt chẽ người có nghĩa vụ kê khai giữ chức vụ cao hoặc công tác tại các vị trí có nguy cơ xảy ra tham nhũng cao, Điều 36 Luật Phòng chống tham nhũng 2018 quy định các phương thức kê khai áp dụng cho từng đối tượng kê khai khác nhau, gồm kê khai lần đầu, kê khai bổ sung, kê khai hằng năm và kê khai phục vụ công tác cán bộ. Kê khai lần đầu áp dụng với mọi đối tượng có nghĩa vụ kê khai nhằm hình thành đồng bộ cơ sở dữ liệu, thông tin về tài sản, thu nhập của họ kể từ thời điểm Luật có hiệu lực để phục vụ cho việc kiểm soát tài sản, thu nhập. Đồng thời, tất cả cán bộ, công chức, một số viên chức hoặc ở vị trí công tác khác khi được tiếp nhận, tuyển dụng vào làm việc tại cơ quan, tổ chức, đơn vị trong khu vực nhà nước đều phải kê khai lần đầu, tuy nhiên, những năm công tác tiếp theo, họ không phải kê khai tài sản, thu nhập hằng năm nếu không có căn cứ phát sinh. Kê khai hằng năm chỉ áp dụng đối với những người giữ chức vụ từ Giám đốc Sở và tương đương trở lên, người làm công tác tổ chức cán bộ, quản lý tài chính công, tài sản công, đầu tư công hoặc trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân khác. Kê khai bổ sung áp dụng đối với người có biến động tăng về tài sản, thu nhập có giá trị từ 300 triệu đồng trở lên. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về phòng chống tham nhũng.
Quy định về công khai bản kê khai tài sản, thu nhập: Kế thừa Luật 2005, Luật Phòng chống tham nhũng 2018 tiếp tục quy định bản kê khai được công khai tại cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người đó thường xuyên làm việc.
Quy định về xác minh tài sản, thu nhập: Điều 41 Luật Phòng chống tham nhũng 2018 quy định các căn cứ xác minh tài sản, thu nhập, trong đó bổ sung một số căn cứ như khi có dấu hiệu rõ ràng về việc kê khai tài sản, thu nhập không trung thực; xác minh theo kế hoạch xác minh tài sản, thu nhập hằng năm đối với người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập được lựa chọn ngẫu nhiên.
Quy định về xử lý hành vi kê khai tài sản, thu nhập không trung thực, giải trình nguồn gốc tài sản, thu nhập tăng thêm không trung thực: Kế thừa Luật 2005, Luật Phòng chống tham nhũng 2018 tiếp tục quy định xử lý nghiêm khắc hành vi kê khai, giải trình nguồn gốc tài sản, thu nhập tăng thêm không trung thực tại Điều 51. Đồng thời, Luật cũng quy định trường hợp người vi phạm chủ động xin thôi làm nhiệm vụ, từ chức, miễn nhiệm thì có thể được xem xét không kỷ luật.
Quy định về cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát tài sản, thu nhập: Luật Phòng chống tham nhũng 2018 bổ sung quy định về cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát tài sản, thu nhập; trách nhiệm xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát tài sản, thu nhập; bảo vệ, lưu trữ, khai thác, cung cấp thông tin cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát tài sản, thu nhập tại các Điều 52, Điều 53, Điều 54.
3.1.2.4. Nội dung của pháp luật về phát hiện tham nhũng
Kế thừa quy định của Luật 2005, Điều 57 Luật Phòng chống tham nhũng 2018 tiếp tục quy định về công tác kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước; công tác tự kiểm tra của cơ quan, tổ chức, đơn vị, đồng thời bổ sung quy định kiểm tra hoạt động chống tham nhũng trong cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân.
Tuy nhiên, Điều 61 bổ sung quy định thẩm quyền của cơ quan thanh tra, Kiểm toán nhà nước trong thanh tra, kiểm toán vụ việc có dấu hiệu tham nhũng, theo đó phân cấp hoạt động thanh tra vụ việc có dấu hiệu tham nhũng cho Thanh tra Chính phủ, Thanh tra Bộ, Thanh tra tỉnh. Đối với các đơn vị trực thuộc Kiểm toán nhà nước, việc kiểm toán vụ việc có dấu hiệu tham nhũng tại các cơ quan, tổ chức có quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công được thực hiện theo phân công của Tổng Kiểm toán nhà nước. Điều 61 cũng quy định Tổng Thanh tra Chính phủ, Tổng Kiểm toán nhà nước có trách nhiệm phối hợp xử lý trùng lặp trong hoạt động thanh tra, kiểm toán vụ việc có dấu hiệu tham nhũng. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về phòng chống tham nhũng.
3.1.2.5. Nội dung của pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị
Luật Phòng chống tham nhũng 2018 đã dành một chương riêng với nhiều quy định được sửa đổi, bổ sung nhằm cụ thể hóa và đề cao vai trò của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong Phòng chống tham nhũng. Theo đó, nội dung trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong Phòng chống tham nhũng được quy định tại Điều 70; trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc áp dụng biện pháp tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển sang vị trí công tác khác được quy định tại Điều 71; quy định trách nhiệm và xử lý trách nhiệm của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách được quy định ở các Điều 72 và Điều 73.
3.1.2.6. Nội dung của pháp luật về phòng, chống tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước
Đây là vấn đề mới của Luật Phòng chống tham nhũng 2018, được quy định trong một chương riêng (Chương VI). Chương này nhằm mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật ra khu vực ngoài nhà nước, thể hiện chủ trương nhấn mạnh vai trò của các doanh nghiệp và tổ chức ở khu vực ngoài nhà nước trong Phòng chống tham nhũng.
Chương VI Luật Phòng chống tham nhũng 2018 quy định trách nhiệm của tất cả doanh nghiệp, tổ chức kinh tế nói chung trong việc xây dựng quy tắc đạo đức nghề nghiệp, quy tắc đạo đức kinh doanh, quy tắc ứng xử, cơ chế kiểm soát nội bộ nhằm phòng ngừa tham nhũng. Bên cạnh đó, Chương này quy định áp dụng bắt buộc một số chế định của Luật đối với một số loại hình tổ chức xã hội, doanh nghiệp gồm công ty đại chúng, tổ chức tín dụng, tổ chức xã hội do Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập hoặc phê duyệt điều lệ có huy động các khoản đóng góp của nhân dân để hoạt động từ thiện. Đây là các doanh nghiệp, tổ chức có huy động vốn đóng góp của nhiều cổ đông, hoạt động của loại hình doanh nghiệp này (công ty đại chúng) có ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế hoặc có huy động các khoản đóng góp của nhân dân để hoạt động từ thiện nên dễ phát sinh tham nhũng, do đó, cần phải áp dụng một số biện pháp Phòng chống tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước.
3.1.2.7. Nội dung của pháp luật về xử lý tham nhũng và hành vi khác vi phạm pháp luật về Phòng chống tham nhũng
Vấn đề này được quy định tại Chương IX của Luật Phòng chống tham nhũng 2018. Chương này cũng chứa đựng nhiều nội dung mới theo hướng thắt chặt các biện pháp xử lý tham nhũng và các hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng, qua đó tăng cường hiệu quả thực thi Luật Phòng chống tham nhũng. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về phòng chống tham nhũng.
Về xử lý tham nhũng, Luật Phòng chống tham nhũng 2018 quy định quy định người có hành vi tham nhũng dù giữ bất kỳ chức vụ, vị trí công tác nào đều phải bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật, kể cả người đã nghỉ hưu, thôi việc, chuyển công tác và quy định đối với người có hành vi tham nhũng bị xử lý kỷ luật là người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị thì bị xem xét tăng hình thức kỷ luật.
Về xử lý hành vi khác vi phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng, Luật Phòng chống tham nhũng 2018 bổ sung quy định tại mục 2 Chương IX. Theo đó, Điều 94 liệt kê các hành vi vi phạm pháp luật về Phòng chống tham nhũng và quy định mang tính nguyên tắc xử lý đối với các hành vi này. Đối với người có hành vi vi phạm bị xử lý kỷ luật, nếu là người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị thì bị xem xét áp dụng tăng hình thức kỷ luật. Người có hành vi vi phạm bị xử lý kỷ luật nếu là thành viên của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội thì còn bị xử lý theo điều lệ, quy chế, quy định của tổ chức đó. Đồng thời, Luật giao Chính phủ quy định chi tiết việc xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính. Bên cạnh đó, Điều 95 Luật Phòng chống tham nhũng 2018 quy định xử lý hành vi khác vi phạm quy định của pháp luật về Phòng chống tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước.
3.2. Đánh giá tính hoàn thiện của hệ thống pháp luật về phòng, chống tham nhũng hiện nay
Nỗ lực của Chính phủ trong hoàn thiện thể chế về Phòng chống tham nhũng là thành tích đáng ghi nhận trong thời gian qua. Luật Phòng chống tham nhũng năm 2018 được ban hành đã khắc phục, bù đắp được những thiếu sót, hạn chế của Luật Phòng chống tham nhũng năm 2005; đồng thời đã bổ sung những quy định mới phù hợp với tình hình thực tế. Có thể nói pháp luật Phòng chống tham nhũng về cơ bản đã điều chỉnh một cách khá đầy đủ các nội dung trong hoạt động Phòng chống tham nhũng. Đây là yếu tố quan trọng để tránh những “lỗ hổng” pháp lý, tạo tiền đề, cơ sở cho hoạt động Phòng chống tham nhũng.
Đối chiếu với các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật về phòng, chống tham nhũng đã được trình bày tại Chương I, ta có thể rút ra những nhận xét sau:
Thứ nhất, pháp luật về Phòng chống tham nhũng cơ bản đảm bảo được tính minh bạch. Các quy định trong Luật Phòng chống tham nhũng năm 2018 nhìn chung được quy định khá rõ ràng, cụ thể, hạn chế việc gây nhầm lẫn trong quá trình thực hiện, áp dụng các quy định này trong thực tiễn. Đồng thời, Quốc hội đã tiến hành lấy ý kiến đóng góp của người dân, các cơ quan, tổ chức trong quá trình xây dựng dự thảo về cũng như thực hiện công bố công khai các văn bản pháp luật về Phòng chống tham nhũng có hiệu lực thi hành. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về phòng chống tham nhũng.
Thứ hai, pháp luật về Phòng chống tham nhũng chưa thực sự toàn diện. Quy định về hành vi tham nhũng của Luật Phòng chống tham nhũng 2018 vẫn còn bất cập, thiếu sót. Cụ thể, theo
Khoản 1 Điều 3 quy định: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi”. Trong khi đó, việc Luật vẫn chỉ liệt kê 12 nhóm hành vi tham nhũng (Khoản 1 Điều 2) là chưa thực sự dầy đủ và phù hợp với định nghĩa về tham nhũng ở Khoản 1 Điều 3. Trong thực tế, nhiều hành vi như lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của người khác vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để lập quỹ trái phép vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước để vụ lợi… về bản chất là hành vi tham nhũng nhưng không tương ứng với 12 hành vi được nêu tại Khoản 1 Điều 2 của Luật.
Thứ ba, pháp luật về Phòng chống tham nhũng cơ bản đã đảm bảo tính nhất quán, tính hệ thống.Luật Phòng chống tham nhũng 2018 về cơ bản có sự thống nhất với các văn bản khác trong hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về Phòng chống tham nhũng nói riêng, không mâu thuẫn, chồng chéo với các văn bản pháp luật hiện hành.
Thứ tư, pháp luật về Phòng chống tham nhũng chưa thực sự đảm bảo được tính thống nhất, đồng bộ.Luật Phòng chống tham nhũng năm 2018 đã bổ sung những quy định mới về thanh tra, kiểm toán những vụ việc có dấu hiệu thm nhũng để tăng cường hơn nữa hiệu quả phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng. Tuy nhiên, Luật Phòng chống tham nhũng 2018 chưa đề cập cụ thể đến trình tự, thủ tục thực hiện các quy định mới nêu trên, mà chỉ viện dẫn sang các luật có liên quan như Luật Thanh tra, Luật Kiểm toán nhà nước. Vì vậy, các quy định mới này sẽ khó để có thể được thực hiện, áp dụng ngay sau khi Luật Phòng chống tham nhũng 2018 có hiệu lực, vì cần phải sửa đổi các luật có liên quan. Cụ thể, Chính phủ sẽ cần xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Thanh tra, Luật Kiểm toán nhà nước để quy định về trình tự, thủ tục thanh tra, kiểm toán vụ việc có dấu hiệu tham nhũng.
Thứ năm, pháp luật về Phòng chống tham nhũng nhìn chung đã phù hợp với thực tiễn. Các quy định của pháp luật về Phòng chống tham nhũng được xây dựng trên cơ sở thực trạng đấu tranh Phòng chống tham nhũng, thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng về công tác phòng, chống tham nhũng trong điều kiện kinh tế – xã hội giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, các phương pháp, cách thức điều chỉnh của pháp luật về Phòng chống tham nhũng có sự phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, đã tiến hành ứng dụng khoa học – công nghệ vào công cuộc đấu tranh Phòng chống tham nhũng.
Thứ sáu, pháp luật về Phòng chống tham nhũng được xây dựng trên cơ sở trình độ kỹ thuật pháp lý cao. Cụ thể, các quy phạm pháp luật về Phòng chống tham nhũng đã được cấu trúc một cách khá chặt chẽ, logic, khoa học theo các chương, mục, điều, khoản, điểm rõ ràng; các khái niệm, định nghĩa, thuật ngữ được sử dụng đáp ứng được tính chuẩn xác, dễ hiểu và phù hợp với khả năng nhận thức, ý thức pháp luật của xã hội. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về phòng chống tham nhũng.
Thứ bảy, pháp luật về Phòng chống tham nhũng chưa dự liệu điều chỉnh được những quan hệ pháp luật có khả năng xảy ra trên thực tế. Mặc dù Luật Phòng chống tham nhũng 2018 đã mở rộng phạm vi phòng, chống tham nhũng ra khu vực ngoài nhà nước cùng nhiều quy định mới khác. Song, về cơ bản, pháp luật Phòng chống tham nhũng của nước ta hiện nay mới chỉ dừng lại ở việc cơ bản phù hợp với tình hình thực tiễn, điều chỉnh kịp thời các hành vi tham nhũng tham nhũng đang diễn ra trên thực tế hiện nay chứ chưa hề có tính dự liệu trước. Nếu như tham nhũng ngày càng diễn ra trên phạm vi rộng, quy mô lớn, được ẩn mình dưới nhiều hành vi khó nhận diện, hình thức phức tạp thì pháp luật Phòng chống tham nhũng của nước ta hiện nay đang vất vả chạy theo để cố gắng bắt kịp với thực tế này, kịp thời có những giải pháp phù hợp để phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý. Tính dự liệu điều chỉnh những quan hệ pháp luật có khả năng xảy ra của Luật Phòng chống tham nhũng chưa được đáp ứng.
Thứ tám, pháp luật về Phòng chống tham nhũng của Việt Nam chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu, chưa hoàn toàn tương thích với các quy định của UNCAC. Cụ thể, luật Phòng chống tham nhũng năm 2018 chưa có quy định về kiểm toán, chứng nhận các báo cáo kết quả tài chính; quy định về duy trì sổ sách, chứng từ, công khai báo cáo tài chính và tiêu chuẩn kế toán, kiểm toán đối với các doanh nghiệp; chưa quy định là tội phạm tham nhũng đối với hành vi của doanh nghiệp lập tài khoản ngoài sổ sách,tiến hành giao dich ngoài sổ sách hoặc giao dịch không được xác minh thỏa đáng, lập chứng từ khống, đưa vào sổ sách những khoản nợ được xác định sai đối tượng nợ, dùng giấy tờ, chứng từ giả hoặc cố tin hủy tài liệu sổ sách trước thời hạn pháp luật cho phép…
3.3. Những thành quả đạt được trong công tác phòng, chống tham nhũng Khóa luận: Thực trạng pháp luật về phòng chống tham nhũng.
3.3.1. Kết quả đạt được trong việc xử lý những vụ án tham nhũng có tính chất nghiêm trọng
Theo báo cáo số 330/BC-CP ngày 22/9/2016 của Chính phủ tổng kết 10 năm thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng thì trong 10 năm thực hiện Luật phòng chống tham nhũng, công tác điều tra, truy tố, xét xử các hành vi tham nhũng có nhiều tiến bộ. Các vụ án tham nhũng được phát hiện, xử lý với số lượng lớn (đã khởi tố 2.530 vụ án tham nhũng với 5.447 bị can; truy tố 2.959 vụ, 6.935 bị can; xét xử 2.628 vụ, 5.870 bị cáo).
Nhiều vụ án tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng đã được phát hiện, khởi tố điều tra, thu hồi cho Nhà nước tiền và tài sản trị giá hàng ngàn tỷ đồng, được đưa ra xét xử với các hình phạt nghiêm khắc như chung thân, tử hình, được Đảng, Nhà nước tập trung chỉ đạo, theo dõi, quần chúng nhân dân và dư luận quan tâm, đồng tình ủng hộ như: vụ tham ô tài sản xảy ra tại Ban Quản lý Đề án 112 Chính phủ; vụ Vũ Quốc Hảo, Tổng Giám đốc Công ty Cho thuê tài chính Agribank (ALCII) tham ô tài sản, cố ý làm trái… gây thiệt hại trên 1.000 tỷ đồng (tòa tuyên 05 án tử hình); vụ án mua bán ụ nổi xảy ra tại Vinalines (vụ án Dương Chí Dũng – 02 án tử hình); các vụ án xảy ra tại Tập đoàn dầu khí Việt Nam PVN (vụ án Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh…); vụ Trần Quốc Đông và đồng phạm thuộc Ban quản lý dự án đường sắt trên cao phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; vụ án tổ chức đánh bạc và đánh bạc xảy ra tại Phú Thọ và một số địa phương (vụ án Phan Văn Vĩnh, Phan Sào Nam…); vụ án xảy ra tại Công ty Cổ phần phát triển đầu tư Thái Sơn, Bộ QP (vụ án Đinh Ngọc Hệ, tức “Út trọc”); vụ án xảy ra tại Công ty Cổ phần xây dựng Bắc Nam 79 và Công ty Cổ phần Nova Bắc Nam 79 (vụ án Phan Văn Anh Vũ, tức Vũ nhôm ); vụ án của Huỳnh Thị Huyền Như; Phạm Công Danh; Hà Văn Thắm; Đinh La Thăng; Trịnh Xuân Thanh;…[1]
3.3.2. Kết quả đạt được trong công tác phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm tham nhũng
Về công tác phát hiện tội phạm tham nhũng:
Từ 01/6/2006 đến 31/8/2015: Cơ quan điều tra các cấp đã thụ lý 4.548 vụ việc có liên quan đến tham nhũng, trong đó:
- Phát hiện từ các biện pháp nghiệp vụ của ngành Công an: 187 vụ;
- Từ nguồn tố giác, tin báo về tội phạm: 628 vụ;
- Từ nguồn khác (Thanh tra, kiểm toán, các cơ quan nhà nước…): 733 vụ.
Về công tác điều tra, xử lý tội phạm tham nhũng:
Từ 01/6/2006 đến 31/8/2015, Cơ quan điều tra các cấp đã thụ lý, điều tra: 2.896 vụ án/ 7.136 bị can phạm tội về tham nhũng, (trong đó khởi tố mới: 2.667 vụ/ 6.005 bị can). Kết quả giải quyết:
- Đã kết luận điều tra đề nghị truy tố: 487 vụ/ 5.965 bị can;
- Đình chỉ điều tra: 65 vụ/ 98 bị can;
- Tạm đình chỉ điều tra 50 vụ/ 65 bị can;
- Xử lý hành chính: 46 vụ/ 102 đối tượng;
- Chuyển đơn vị khác thụ lý theo thẩm quyền: 27 vụ/ 54 đối tượng;
- Thiệt hại trên 500 tỷ đồng, đã thu hồi trên 6.577 tỷ đồng (đạt 27,98%).[2]
Xét riêng trong 6 tháng đầu năm 2019, các địa phương đã khởi tố 176 vụ án/425 bị can về các tội tham nhũng, chức vụ (tăng 13,5% về vụ và 32,8% về số bị can so với cùng kỳ năm 2018).
3.3.3. Chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) được cải thiện Khóa luận: Thực trạng pháp luật về phòng chống tham nhũng.
Ngày 23/1/2020, Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) công bố Chỉ số Cảm nhận Tham nhũng (CPI) 2019, trong đó xếp hạng 180 quốc gia và vùng lãnh thổ dựa trên cảm nhận của các doanh nhân và chuyên gia về tham nhũng trong khu vực công tại các quốc gia và vùng lãnh thổ đó.
Năm 2019, Việt Nam đạt 37/100 điểm, tăng 4 điểm so với năm 2018, đứng thứ 96/180 trên bảng xếp hạng toàn cầu. Trong khu vực ASEAN, Việt Nam và Ma-lay-xi-a là hai nước duy nhất có cải thiện được xem là đáng kể về điểm số CPI.
Tổ chức Hướng tới Minh bạch (TT) – cơ quan đầu mối quốc gia của TI tại Việt Nam cho rằng, việc tăng 4 điểm là một chỉ dấu cho thấy sự chuyển biến tích cực trong công cuộc phòng, chống tham nhũng tại Việt Nam trong năm vừa qua. Tuy nhiên, xét trên thang điểm từ 0-100 của CPI, trong đó 0 thể hiện cảm nhận mức độ tham nhũng cao nhất và 100 là mức độ tham nhũng thấp nhất, năm 2019 Việt Nam vẫn nằm trong số hai phần ba các quốc gia trên thế giới có điểm dưới 50. Điều này cho thấy tham nhũng trong khu vực công vẫn là vấn đề nghiêm trọng ở Việt Nam.
Sự cải thiện về điểm số CPI của Việt Nam cũng tương đồng với kết quả khảo sát Phong vũ biểu Tham nhũng ở Việt Nam 2019 (VCB-2019) do Hướng tới Minh bạch công bố ngày 7 tháng 1 năm 2019. Theo kết quả VCB-2019, mặc dù những nỗ lực phòng, chống tham nhũng của nhà nước được cho là hiệu quả hơn, nhưng người dân lại ngày càng quan ngại hơn về tham nhũng.
TT cho rằng, tiến bộ trong năm 2019 là kết quả của những nỗ lực của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam trong việc hoàn thiện, thực thi chính sách và pháp luật phòng, chống tham nhũng, đặc biệt là việc tăng cường điều tra, truy tố và xét xử một số vụ án tham nhũng lớn.[3]
3.3.4. Nâng cao lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng Khóa luận: Thực trạng pháp luật về phòng chống tham nhũng.
Ngày 7/1/2020 tại Hà Nội, Tổ chức Hướng tới Minh bạch (TT) đã tổ chức buổi công bố kết quả Phong vũ biểu tham nhũng Việt Nam (VCB-2019), nghiên cứu tìm hiểu quan điểm và trải nghiệm của người dân Việt Nam về tham nhũng trong năm 2019.
Trong tháng 7 và tháng 8 năm 2019, TT phỏng vấn 1.085 người dân tại 19 tỉnh, thành phố trên cả nước. Để hiểu sâu hơn quan điểm và trải nghiệm của người dân, TT cũng thực hiện các cuộc phỏng vấn định tính vào tháng 11 năm 2019.
Theo VCB-2019, người dân Việt Nam ngày càng tin rằng tham nhũng đang thuyên giảm và các nỗ lực phòng, chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước là có hiệu quả hơn. Đáng chú ý, lần đầu tiên trong bốn lần khảo sát, báo cáo này ghi nhận sự giảm xuống rõ rệt về tỷ lệ người dân phải hối lộ khi sử dụng dịch vụ công. Đây là những tín hiệu cho thấy sự chuyển biến tích cực trong cuộc chiến chống tham nhũng tại Việt Nam. Tuy vậy, người dân (73%) vẫn cho rằng tham nhũng là một vấn đề nghiêm trọng, đáng lo ngại thứ 4 ở Việt Nam (sau xóa đói giảm nghèo, an toàn thực phẩm và tội phạm/an ninh).
Mối quan ngại về tham nhũng đã tăng từ vị trí số 7 trong báo cáo VCB-2017 lên vị trí thư 4 trong VCB-2019, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa nỗ lực của các bên nhằm giảm tham nhũng và đảm bảo phát triển bền vững.
3.3.5. Một số kết quả đạt được khác
Công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, xử lý các tổ chức đảng, đảng viên sai phạm được đẩy mạnh, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, củng cố thêm niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Trong 5 năm (năm 2013 – năm 2018), cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật Đảng 77.662 đảng viên vi phạm, trong đó hơn 4.300 cán bộ, đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng. Tính riêng trong 6 tháng đầu năm 2019 đã thi hành kỷ luật đối với 123 tổ chức đảng và 7.923 đảng viên vi phạm; trong đó có 256 đảng viên bị kỷ luật do có hành vi tham nhũng, cố ý làm trái (tăng 21 trường hợp so với cùng kỳ năm 2018).[4]
Các tỉnh, thành phố tiếp tục triển khai thực hiện quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong bộ máy chính quyền địa phương. Qua việc thực hiện Quy tắc ứng xử và Quy tắc đạo đức nghề nghiệp đã xuất hiện nhiều tấm gương tốt như: ngành Công an có 30.000 lượt cán bộ, chiến sỹ không nhận hối lộ. Tuy nhiên còn nhiều người dân và doanh nghiệp vẫn còn phàn nàn về đạo đức của cán bộ, công chức, viên chức trong thi hành công vụ; công tác kiểm tra việc thực hiện còn hạn chế.
3.4. Những bất cập, hạn chế của pháp luật hiện hành về phòng, chống tham nhũng Khóa luận: Thực trạng pháp luật về phòng chống tham nhũng.
3.4.1. Hệ thống các cơ quan chuyên trách về Phòng chống tham nhũng còn phức tạp, thiếu chặt chẽ, chưa có đủ quyền hạn và địa vị pháp lý độc lập
Theo mô hình hiện nay, trách nhiệm phát hiện tham nhũng được giao cho nhiều cơ quan như thanh tra (của Chính phủ), kiểm toán nhà nước (của Quốc hội); trách nhiệm điều tra được giao cho Bộ Công an (trực thuộc Chính phủ) đảm nhận. Viện kiểm sát có quyền truy tố vụ án ra trước tòa.
Thẩm quyền của các cơ quan thanh tra trong lĩnh vực Phòng chống tham nhũng được quy định trong bó buộc trong quyền hạn của một cơ quan tham mưu giúp việc, với thẩm quyền cao nhất chỉ là quyền kiến nghị. Trong khi đấu tranh chống tham nhũng cần những công cụ tổ chức, phương tiện đặc biệt, nó không chỉ phục vụ cho cơ quan quản lý nhà nước, cho Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước nên không thể thực hiện chức năng chống tham nhũng với vị trí, vai trò của cơ quan tham mưu với phương tiện cao nhất chỉ là quyền kiến nghị. Như vậy, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra trong Phòng chống tham nhũng chỉ nên tiếp cận chủ yếu ở việc phòng ngừa và phát hiện dấu hiệu tham nhũng, còn việc chống tham nhũng phải được giao cho cơ quan khác có thẩm quyền.
Thêm vào đó, Thanh tra Chính phủ được giao chức năng chống tham nhũng lại thuộc hệ thống hành pháp. Cán bộ làm công tác thanh tra do lãnh đạo cơ quan hành chính nhà nước bổ nhiệm, biên chế, ngân sách hoạt động của cơ quan này đều phụ thuộc vào Chính phủ. Vị trí thiếu độc lập, thẩm quyền thiếu mạnh mẽ ảnh hưởng đến tích khách quan, vô tư của hoạt động thanh tra ngay từ quá trình xây dựng kế hoạch thanh tra cho đến khi ban hành kết luận thanh tra và hiệu quả Phòng chống tham nhũng của hoạt động thanh tra.
Bộ Công an có thẩm quyền điều tra cũng là một cơ quan thuộc chính phủ nhưng lệ thuộc về tổ chức, biên chế và chịu sự chỉ đạo trong hoạt động từ Chính phủ. Bộ phận có thẩm quyền điều tra tội phạm tham nhũng của Bộ Công an không được quy định bất cứ thẩm quyền, quyền hạn điều tra đặc biệt nào để tránh khỏi sự can thiệp ngầm của Chính phủ. Minh chứng cho điều này là hàng loạt các vụ việc vi phạm pháp luật đến mức độ nghiêm trọng mới được phát hiện và xử lý như: vụ Vinashine, vụ Vinalines, 8 vụ đại án tham nhũng; vụ PVN; sai phạm đất đai tại Thủ Thiêm.
Một số cuộc thanh tra, kiểm toán, nhất là với các doanh nghiệp Nhà nước nhưng lại không phát hiện được tham nhũng, chỉ khi báo chí đưa tin gây sức ép, cơ quan điều tra vào cuộc mới phát hiện ra. Điển hình là hai vụ sai phạm lớn xảy ra tại Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam Vinashin và Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam Vinalines. Qua hàng chục cuộc thanh tra, kiểm toán tại Vinashin nhưng hai cơ quan này chậm phát hiện, kết luận, ngăn chặn kịp thời, để các sai phạm trở nên cực kỳ nghiêm trọng mới chỉ ra được như đầu tư tràn lan không liên quan đến chức năng của tập đoàn, thua lỗ nặng nề; tình hình tài chính đứng trước bờ vực phá sản, gây thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng cho ngân sách nhà nước…[5]
3.4.2. Kê khai tài sản ở Việt Nam còn mang tính hình thức, chưa có hiệu quả
Theo Báo cáo Tổng kết 10 năm (2006 – 2016) thực hiện Luật Phòng chống tham nhũng, “tỷ lệ kê khai tài sản, thu nhập đúng thời hạn đã đạt 99,5%, công khai đạt tỷ lệ 98,3%”.[6] Tuy nhiên, qua 10 năm chỉ phát hiện, xử lý kỷ luật 17 người kê khai tài sản không trung thực trong tổng số 4.859 trường hợp được xác minh. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về phòng chống tham nhũng.
Năm 2018, Báo cáo thẩm tra Báo cáo của Chính phủ về công tác Phòng chống tham nhũng nhận định: “trách nhiệm giải trình của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong nhiều trường hợp chưa được thực hiện đầy đủ, kịp thời, đã gây nghi ngờ trong dư luận, làm ảnh hưởng tới hiệu quả của công tác phòng ngừa tham nhũng. Đặc biệt, năm 2018 số lượng bản kê khai là rất lớn nhưng chỉ phát hiện 06 trường hợp vi phạm, cho thấy biện pháp này chưa phát huy hiệu quả trong Phòng chống tham nhũng”.[7] Năm 2019, trong hơn 1 triệu người kê khai tài sản chỉ xác minh, phát hiện được 10 trường hợp vi phạm.
Gần đây nhất, trong quá trình điều tra vụ BIDV thất thoát hơn 1.500 tỷ, cơ quan chức năng đã kê biên, phong tỏa khối tài sản lớn trong nước và tài sản trị giá hàng trăm tỷ đồng tại Lào của ông Trần Bắc Hà (Chủ tịch HĐQT BIDV, đại diện 40% vốn nhà nước tại BIDV giai đoạn 2008-2016).[8] Câu hỏi đặt ra là số tài sản này đã được ông Hà kê khai trước đây hay chưa? Có từng nằm trong diện phải xác minh nguồn gốc hợp pháp không? Nếu có thì vì sao những sai phạm của ông Hà không được phát hiện sớm hơn?
Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định cụ thể việc xử lý nghiêm khắc nếu người có nghĩa vụ kê khai kê khai không trung thực, giải trình nguồn gốc tài sản, thu nhập tăng thêm không trung thực nhưng Luật 2018 cũng mới dừng lại ở việc xử lý người kê khai không trung thực mà chưa hướng đến xử lý tài sản kê khai không trung thực. Có lẽ sự “quyết liệt nửa vời” này trong luật sẽ là một cản trở cho hiệu quả kiểm soát tài sản, thu nhập, khi không hướng đến xử lý tận gốc tài sản kê khai không trung thực (trong đa số trường hợp đó là tài sản do tham nhũng mà có) – vốn là mục đích, động cơ của hành vi tham nhũng.
3.4.3. Các quy định pháp luật về kiểm soát xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ còn rời rạc, chưa đầy đủ, toàn diện, thiếu tính khả thi
Thứ nhất, pháp luật về kiểm soát xung đột lợi ích (XĐLI) trong hoạt động công vụ còn thiếu tính toàn diện khi chưa dự liệu đầy đủ các tình huống để kiểm soát XĐLI trong hoạt động công vụ. Tính chất thiếu toàn diện này thể hiện ở những khía cạnh sau đây:
Thiếu quy định về công khai hoạt động của cán bộ, công chức, viên chức và trong hoạt động đấu thầu. Mặc dù pháp luật đã có quy định yêu cầu minh bạch trong một số quá trình ra quyết định đấu thầu (ví dụ như thông tin của các nhân/tổ chức vi phạm quy định, thông tin về việc xử lý vi phạm), song các yếu tố khác của quá trình lựa chọn thầu, ví dụ như lý do lựa chọn và từ chối nhà thầu, lại không phải công bố, trong khi đây chính là những vấn đề tiềm ẩn XĐLI trong quá trình đấu thầu các dự án đầu tư công.
Quy định về hạn chế lợi ích cá nhân của cán bộ, công chức, viên chức còn chưa đầy đủ. Pháp luật hiện đã có quy định về những hạn chế lợi ích cá nhân của cán bộ, công chức, viên chức, ví dụ như hạn chế về quà tặng, việc làm thêm, việc làm sau khi nghỉ hưu, tuy nhiên chưa có quy định hạn chế hoặc kiểm soát đối với các thành viên mở rộng của gia đình và những người thân thích khác như bạn bè của cán bộ, công chức, viên chức… Trong khi đó, thực tế cho thấy những hành vi có lợi cho cán bộ, công chức, viên chức thường được thực hiện bởi chính những thành viên trong gia đình cán bộ, công chức, viên chức hoặc bạn bè thân tình của cán bộ, công chức, viên chức thông qua những doanh nghiệp “sân sau” hoặc qua việc biết trước thông tin.
Nói cách khác, sự thiếu hụt này tạo cơ sở tồn tại cho một số dạng XĐLI trong hoạt động công vụ của cán bộ, công chức, viên chức. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về phòng chống tham nhũng.
Một số quy định về phát hiện, xử lý XĐLI còn bất cập. Pháp luật hiện hành chưa nêu rõ trách nhiệm của cá nhân cán bộ, công chức, viên chức trong việc phát hiện và giải quyết các tình huống XĐLI. Trách nhiệm duy nhất được quy định liên quan đến lợi ích cá nhân là hàng năm phải kê khai tài sản và thu nhập để phục vụ cho công tác tuyển dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ, công chức, viên chức. Mặc dù pháp luật đã có một hệ thống quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo những hành vi tham nhũng trong đó bao gồm XĐLI, song tố cáo nặc danh về nguyên tắc sẽ không được xử lý (trừ trường hợp đơn tố cáo nặc danh về hành vi tham nhũng rất “rõ ràng và cung cấp bằng chứng cụ thể và có căn cứ để điều tra”) và việc giải quyết khiếu nại được giao cho chính cơ quan quản lý cán bộ, công chức, viên chức khiến cho tính khách quan khó được đảm bảo.
Thứ hai, một số quy định pháp luật về kiểm soát XĐLI trong hoạt động công vụ chưa đảm bảo tính phù hợp và thiếu tính khả thi, thể hiện ở chỗ: Các quy định về xử lý trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức khi thực thi công vụ, nhiệm vụ chưa rõ ràng, cụ thể. Ví dụ, trách nhiệm giải trình trong việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn được giao được nêu trong Nghị định số 90/2013/NĐ-CP nhưng chưa quy định cụ thể việc xử lý vi phạm khi người giải trình không thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ giải trình hay có vi phạm quy định về thực hiện trách nhiệm giải trình. Hoặc chế tài quy định xử lý đối với trường hợp vi phạm quy định về hạn chế việc làm thêm sau khi nghỉ hưu cũng chưa rõ ràng; chưa có quy định cụ thể về việc sử dụng các thông tin được công bố về kết quả tuyển dụng, đề bạt và đấu thầu để điều tra và phát hiện các trường hợp vi phạm.
3.4.4. Công tác phát hiện, xử lý tham nhũng liên quan đến doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, thách thức
Hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường phản ánh tương đối toàn diện đời sống kinh tế của đất nước, diễn ra ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế, gắn liền với vai trò quản lý nhà nước. Do đó, việc phát hiện và xử lý tham nhũng liên quan đến doanh nghiệp luôn gặp phải những thách thức nhất định, điển hình là:
Thứ nhất, việc thành lập và hoạt động của các doanh nghiệp ở Việt Nam rất sôi động, cùng với đó là mối quan hệ giữa các doanh nghiệp với các cơ quan quản lý nhà nước diễn ra thường xuyên, ở nhiều địa phương và nhiều cấp độ khác nhau. Đứng trước thực tiễn quản lý nhà nước còn nhiều bất cập, việc cải cách thủ tục han chính diễn ra chậm, đạo đức của một bộ phận công chức suy thoái dã làm ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh, tăng nguy cơ phát sinh tham nhũng trong mối quan hệ giữa cơ quan quản lý với doanh nghiệp. Trên thực tế, có rất nhiều doanh nghiệp đã trở thành “đối tác” của tham nhũng. Đây là dạng tham nhũng mà doanh nghiệp chủ động dùng các lợi ích vật chất hoặc tinh thần tác động đến các hành vi của người có chức vụ, quyền hạn trong thực thi nhiệm vụ với mục đích đạt được những lợi ích bất hợp pháp cho doanh nghiệp, ví dụ như để được miễn giảm thuế phải nộp, được lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Nói cách khác, đây là việc doanh nghiệp tự nguyện trả các chi phí không chính thức để “bôi trơn” hoạt động của doanh nghiệp, hoàn toàn không phải do bị cơ quan nhà nước ép buộc hay gây khó dễ. Với cơ chế “đôi bên cùng có lợi” sẽ gây ra rất nhiều khó khăn trong việc nhận diện, phát hiện dạng tham nhũng này.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra những thách thức trong phòng, chống tội phạm kinh tế nói riêng và tội phạm tham nhũng nói chung, nhất là tội phạm tham nhũng liên quan đến doanh nghiệp. Trong hội nhập kinh tế quốc tế, doạnh nghiệp có thể lợi dụng việc đầu tư của Chính phủ ra nước ngoài để thực hiện các hành vi gian dối, lập chứng từ khống,… Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài là chủ trương lớn nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên quy định về đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và thực tiễn quản lý vốn đầu tư còn nhiều bất cập, tội phạm tham nhũng có thể phát sinh trong quá trình thực hiện các dự án đầu tư, ví dụ như điều chỉnh giá, tổ chức đấu thầu hạn chế, chỉ định thầu để nhận hối lộ,… Bên cạnh đó, với điều kiện hội nhập quốc tế và công nghệ thông tin như hiện nay, tội phạm tham nhũng có thể sử dụng công nghệ cao để thực hiện hành vi phạm tội, nhất là trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng gây khó khăn cho việc phát hiện và xử lý.
3.4.5. Một số bất cập, hạn chế khác Khóa luận: Thực trạng pháp luật về phòng chống tham nhũng.
Quy định về kiểm soát quà tặng còn hình thức, thiếu tính khả thi, thiếu quy định cụ thể về trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc tiếp nhận và xử lý kịp thời báo cáo về quà tặng của cán bộ, công chức, chưa có quy định rõ về chế tài xử lý vi phạm.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Để tạo cơ sở pháp lý cho công tác Phòng chống tham nhũng trên thực tế, Nhà nước ta đã ban hành nhiều quy định của pháp luật về phòng ngừa tham nhũng, phát hiện, xử lý tham nhũng; tổ chức, hoạt động của cơ quan Phòng chống tham nhũng; phát huy vai trò, trách nhiệm của công dân, tổ chức trong Phòng chống tham nhũng; hợp tác quốc tế về Phòng chống tham nhũng và các biện pháp bảo đảm nhằm Phòng chống tham nhũng có hiệu quả.
Với quyết tâm từng bước đẩy lùi và tiến tới xóa bỏ nạn tham nhũng, công tác phòng, chống tham nhũng của nước ta đã đạt những thành quả đáng ghi nhận như: Hàng loạt vụ án tham nhũng đã được đưa ra ánh sáng; Công tác phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm tham nhũng ghi nhận nhiều kết quả đáng kể; Chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) được cải thiện; Niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng được nâng cao;…
Bên cạnh đó, trong quá trình áp dụng, pháp luật hiện hành về phòng, chống tham nhũng cũng bộc lộ mọt số bất cập, hạn chế. Ví dụ như:Hệ thống các cơ quan chuyên trách về Phòng chống tham nhũng còn phức tạp, thiếu chặt chẽ, chưa có đủ quyền hạn và địa vị pháp lý độc lập; Việc kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức thực hiện trên phạm vi rộng, kết quả kê khai nhiều nhưng không có hiệu quả; Các quy định pháp luật về kiểm soát xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ còn rời rạc, chưa đầy đủ, toàn diện, thiếu tính khả thi; Quá trình phát hiện, xử lý tham nhũng liên quan đến doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, thách thức… Khóa luận: Thực trạng pháp luật về phòng chống tham nhũng.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Khóa luận: Pháp luật về phòng chống tham những ở Việt Nam