Khóa luận: Thực trạng nhận thức mới về pháp luật công nghiệp

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Thực trạng nhận thức mới về pháp luật công nghiệp hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Thực trạng nhận thức mới về pháp luật và thực hiện pháp luật trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này. 

2.1. Những rào cản thách thức của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 tới nhận thức và thực tiễn pháp luật ở Việt Nam

CMCN 4.0 không đơn thuần chỉ là về các máy móc, hệ thống thông minh và được kết nối, mà còn có phạm vi rộng lớn hơn nhiều. Đồng thời là các làn sóng của những đột phá xa hơn trong các lĩnh vực khác nhau từ mã hóa chuỗi gen cho tới công nghệ nano, từ các năng lượng tái tạo tới tính toán lượng tử. Nó đang và hứa hẹn sẽ tạo ra các lợi ích hết sức to lớn và tác động mạnh mẽ tới thế giới cũng như tới Việt Nam.

Ðối với Việt Nam, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 mang đến nhiều thuận lợi và hiệu quả để phát huy trí tuệ, sức sáng tạo để biến thách thức thành thời cơ, chuyển hóa ý tưởng thành sản phẩm và gặt hái thành công trong quá trình khởi nghiệp.

Đối với lĩnh vực thương mại, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 này trước hết giúp giảm đáng kể chi phí giao dịch, vận chuyển. Đối với lĩnh vực đầu tư, với bản chất của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghệ là mảng đầu tư trở nên hấp dẫn và đầy tiềm năng nhất của các nhà đầu tư trong thời gian tới, đặc biệt là công nghệ số và Internet. Song, bên cạnh những thuận lợi mà cuộc cách mạng này mang lại thì nó cũng làm nảy sinh vô vàn những khó khăn, thách thức đối với Việt Nam.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Nhận Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

2.1.1. Sự xuất hiện và bùng nổ của tội phạm sử dụng công nghệ cao trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0

Bên cạnh những lợi ích và cơ hội to lớn cho sự phát triển của quốc gia, thì cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng đặt ra những thách thức, khó khăn, đặc biệt là đối với vấn đề an ninh phi truyền thống và tội phạm sử dụng công nghệ cao. Khi thế giới bước vào kỷ nguyên công nghiệp 4.0 thì đây cũng là cơ hội để tội phạm công nghệ cao thực hiện hành vi phạm tội.

  • Khái niệm tội phạm sử dụng công nghệ cao Khóa luận: Thực trạng nhận thức mới về pháp luật công nghiệp.

Pháp luật của nhiều nước trên thế giới hiện nay như Australia, Mỹ, Anh định nghĩa “tội phạm sử dụng công nghệ cao”(high-tech crime) là tội phạm liên quan đến máy tính (computer-related crime); tội phạm mạng (cybercrime)… hay “sự xâm nhập máy tính một cách trái phép; sự sửa đổi trái phép dữ liệu bao gồm việc phá hủy dữ liệu; tấn công từ chối dịch vụ (DS); tấn công từ chối dich cụ phân tán (DdoS) có sử dụng botnets; tạo ra và phân phối phần mềm độc hại”. Tóm lại, tội phạm công nghệ cao hoặc tội phạm ảo hay tội phạm không gian ảo (Cyber criminal) là bất kỳ hành động phi pháp nào liên quan đến một máy tính hoặc một mạng máy tính.

Tại Việt Nam, khoản 1 Điều 3 Nghị định số 25/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 07/4/2014 quy định về phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao quy định: “Tội phạm có sử dụng công nghệ cao là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự có sử dụng công nghệ cao”. Khoản 1 Điều 3 Luật Công nghệ cao năm 2008 quy định: “Công nghệ cao là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; được tích hợp từ thành tự hoa học và công nghệ hiện đại; tạo ra cho sản phẩm có chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường; có vai trò quan trọng đối với việc hình thành ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc hiện đại hóa ngành sản xuất, dịch vụ hiện có”.

  • Nhận thức về tội phạm sử dụng công nghệ cao ở Việt Nam

Tại Việt Nam, vấn đề an ninh phi truyền thống nói chung và tội phạm sử dụng công nghệ cao nói riêng đã sớm được nhận diện và luật hóa. Phần lớn đối tượng phạm tội là học sinh, sinh viên có kiến thức và đam mê công nghệ thông tin, một số ít là cán bộ, công chức. Chúng thường tập hợp, liên kết với nhau thông qua các diễn đàn trên mạng Internet (còn gọi là underground hay thế giới ngầm) để chia sẻ công cụ, cách thức, thủ đoạn phạm tội. Tội phạm công nghệ cao diễn ra trên cả lĩnh vực an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín, hình ảnh của Việt Nam trong một số lĩnh vực quan hệ kinh tế quốc tế và gây thiệt hại lớn cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước.

Năm 2016, Việt Nam đã có khoảng 145.000 cuộc tấn công mạng khác nhau nhằm vào hệ thống thông tin với ba hình thức chính đó là lừa đảo, mã độc và thay đổi giao diện, gây thiệt hại hơn 10.400 tỷ đồng. Hơn 10.000 trang/cổng thông tin điện tử có tên miền “.vn” bị tấn công, chiếm quyền điều khiển, thay đổi giao diện, cài mã độc. Có hơn 70% số máy tính bị lây nhiễm. Theo ghi nhận của Trung tâm ứng cứu khẩn cấp máy tính (VNCERT) thì quý I năm 2017 đã có gần 7.700 sự cố tấn công mạng vào các website tại Việt Nam[1]. Tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, đánh cắp công nghệ, bản quyền trên Internet ngày càng gia tăng nguy cơ gián điệp mạng, tội phạm mạng trở nên phức tạp và nguy hiểm. Khóa luận: Thực trạng nhận thức mới về pháp luật công nghiệp.

Hiện nay, có đến 70% tội phạm công nghệ cao là người trẻ, chủ yếu là từ 18-30 tuổi[2]. Có nhiều người sử dụng các thiết bị Công nghệ thông tin rất thành thạo và chuyên nghiệp, diễn ra trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trên lĩnh vực an ninh quốc gia, các thế lực thù địch đã không ngừng lợi dụng kênh truyền thông qua mạng Internet để xuyên tạc, vu khống chống phá các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, kêu gọi tập hợp lực lượng nhằm mục đích gây rối, nhất là trước và trong các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước như: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, bầu cử đại biểu khóa XIII … Trên lĩnh vực trật tự, an toàn xã hội, năm 2011 được coi là năm “báo động đỏ” của an ninh mạng Việt Nam với rất nhiều vụ tấn công, phá hoại, lây nhiễm virut, phần mềm gián điệp, mã tin học độc hại,… nhằm vào hệ thống mạng của cơ quan, doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế của Nhà nước với mức độ, tính chất ngày càng nghiêm trọng, làm rối loạn hoạt động của hệ thống và để lộ thông tin. Điển hình là vụ hệ thống mạng của Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam bị tin tặc liên tiếp tấn công bằng nhiều phương thức khác nhau, làm ngưng trệ hoạt động và xóa sạch toàn bộ dữ liệu website; Tình hình lừa đảo trong lĩnh vực thương mại điện tử và thanh toán điện tử gia tăng, dẫn đến tình trạng nhiều nước không chấp nhận giao dịch qua mạng Internet có địa chỉ IP xuất phát từ Việt Nam, ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín và hình ảnh của Việt Nam trong lĩnh vực thương mại điện tử nói riêng và lĩnh vực kinh tế quốc tế nói chung.

Pháp luật Việt Nam cũng đã có những quy định về vấn đề này Trong Bộ luật hính sự 2015, các tội danh trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông được quy định tại các điều từ Điều 285 đến Điều 294. Tội phạm công nghệ cao có liên quan mật thiết tới việc bảo mật an ninh thông tin. Các thông tin dữ liệu trong hệ thống sẽ bị người không được quyền truy nhập tìm cách lấy và sử dụng. Nhận thức về vấn đề này vẫn còn nhiều bất cập ở Việt Nam, đồng thời các quy định pháp luật về tội phạm sử dụng công nghệ cao vẫn còn những kẽ hở.

Gần đây nhất, vụ việc bắt và xử lý hình sự đối với ông Nguyễn Thanh Hóa – nguyên cục trưởng Cục Phòng chống tội phạm công nghệ cao (C50) và các đồng phạm đã cho thấy việc đánh bạc thông qua hình thức game online là vô cùng nghiêm trọng, với quy mô cực lớn, sử dụng công nghệ cao, tính chất đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp.

Vụ việc này cũng đã gióng lên hồi chuông cảnh báo đối với các cơ quan chức năng trong phòng, chống tội phạm công nghệ cao.

2.1.2. Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đến nền hành chính Nhà nước Việt Nam Khóa luận: Thực trạng nhận thức mới về pháp luật công nghiệp.

Đối với nền hành chính nhà nước ta, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang có sự tác động mạnh mẽ theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực.

  • Tác động tích cực 

Thứ nhất, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 góp phần làm thay đổi tư duy và nhận thức của nhà quản lý trong nền hành chính Nhà nước.

Trước hết, nó tác động đến nhận thức của nhà quản lý về sự phát triển, biến đổi của các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và những tác động đối với nền hành chính nhà nước. Qua đó, giúp cho các nhà quản lý đưa ra những hướng giải pháp cải cách nền hành chính phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội. Phiên họp Chính phủ thường kỳ ngày 03/4/2017 đã có những đánh giá và xác định các nhiệm vụ quan trọng về cuộc CMCM 4.0 đối với các cơ quan của Chính phủ, “Việt Nam cần chủ động có định hướng, giải pháp thiết thực để nắm bắt cơ hội, giảm thiểu các tác động tiêu cực của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trước hết là có bước đột phá về công nghệ thông tin”. [22]

Thứ hai, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 góp phần thúc đẩy ứng dụng những thành tựu công nghệ hiện đại vào nâng cao hiệu quả quản lý của nền hành chính Nhà nước.

Việc ứng dụng những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 nhằm nâng cao hiệu quả quản lý của các cơ quan hành chính cũng là mục tiêu của xây dựng theo Nghị quyết 36a/NQ-CP ngày 15/10/2015. Việc triển khai thực hiện các mục tiêu thuận lợi với lợi thế hạ tầng Internet tương đối tốt, giá rẻ trong khi thiết bị di động cấu hình cao, giá thấp đang trở nên phổ biến cũng như sự khuyến khích phát triển của Chính phủ điện tử ở nước ta, Việt Nam có tiềm năng phát triển công nghệ SMAC rất lớn. Một yếu tố thuận lợi nữa là Việt Nam có các đối tác quan trọng là các tập đoàn công nghệ lớn và có nhiều kinh nghiệm như Microsoft trong quá trình tư vấn, xây dựng, và phát triển SMAC nói chung và điện toán đám mây tại Việt Nam.

Thứ ba, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 tạo thuận lợi trong việc phát triển một nền hành chính dân chủ, minh bạch.

Những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, đặc biệt là thành tựu trong phát triển Công nghệ thông tin và truyền thông sẽ tạo điều kiện thuận lợi để bảo đảm tính dân chủ, minh bạch trong hầu hết các hoạt động của bộ máy nhà nước. Công nghệ và thiết bị hạ tầng số cho phép việc tương tác hai chiều giữa người dân và Chính phủ. Chẳng hạn, trong việc xây dựng thể chế, chính sách, hầu hết các dự thảo văn bản pháp luật đều cần lấy ý kiến góp ý của người dân. Người dân có thể tham gia đóng góp ý kiến, phản biện các dự thảo thể chế, chính sách bằng nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt thông qua mạng Internet rất thuận lợi. Trong tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật, người dân có thể tham gia giám sát việc thực hiện thông qua cơ chế công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình các hoạt động của cơ quan hành chính Nhà nước. Việc thực hiện cơ chế này rất thuận lợi và hiệu quả nhờ Internet và truyền thông. [22] Khóa luận: Thực trạng nhận thức mới về pháp luật công nghiệp.

  • Tác động tiêu cực

Bên cạnh những thuận lợi, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra nhiều thách thức đối với sự phát triển của nền hành chính, trong đó có một số thách thức chủ yếu như sau:

Thứ nhất, thách thức trong việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách phát triển của nền hành chính Nhà nước.

Một nền hành chính hiện đại trước tiên phải có một hệ thống thể chế chính sách đồng bộ, phù hợp với sự phát triển của xã hội. Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 có tác động trực tiếp làm thay đổi phương thức sản xuất, kinh doanh, gây phá vỡ Thị trường lao động truyền thống; đồng thời làm thay đổi phương thức quản lý của các cơ quan Nhà nước và đặt ra nhiều vấn đề xã hội cần phải giải quyết. Nếu các nhà làm luật và hoạch định chính sách không nhận thức được đúng sự tác động của cuộc cách mạng này và tích cực, chủ động xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách phù hợp, chúng ta sẽ phải đối mặt những thách thức, tác động tiêu cực như: Sự tụt hậu về công nghệ, kinh tế, dư thừa lao động có kỹ năng và trình độ chuyên môn thấp gây phá vỡ Thị trường lao động truyền thống, ảnh hưởng tới tình hình kinh tế – xã hội đất nước; mất an toàn, an ninh thông tin, xâm phạm bản quyền; thiếu hụt nguồn nhân lực trình độ cao. Vì vậy, trong thời gian tới có rất nhiều thể chế, chính sách cần phải xây dựng và hoàn thiện trước tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0, trong đó cơ bản là thể chế, chính sách về phát triển khoa học công nghệ; về đào tạo phát triển nguồn nhân lực; về vệ sinh xã hội, giải quyết việc làm; an ninh mạng…

Thứ hai, thách thức trong việc đẩy mạnh ứng dụng những thành tựu công nghệ mới vào nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính Nhà nước. Khóa luận: Thực trạng nhận thức mới về pháp luật công nghiệp.

Nếu các nhà quản lý không có những định hướng, giải pháp phù hợp trong việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ hiện đại vào hoạt động của cơ quan hành chính Nhà nước thì hoạt động của nền hành chính sẽ trở nên trì trệ và kém hiệu quả. Hiện tại, mức độ cung ứng dịch vụ công trực tuyến của các cơ quan hành chính chủ yếu vẫn ở mức độ thấp (trong tổng số 104.000 dịch vụ công được cung ứng trực tuyến, có đến 96.500 dịch vụ được cung ứng ở cấp độ 1 và 2; chỉ có 6.600 dịch vụ ở cấp độ 3; 900 dịch vụ ở cấp độ 4). Bên cạnh đó, hạ tầng viễn thông và Công nghệ thông tin còn nhiều hạn chế; nguồn nhân lực Công nghệ thông tin trong các cơ quan hành chính còn thiếu về số lượng và yếu kém về chuyên môn; những khó khăn, thách thức khác về bảo mật, đảm bảo an toàn an ninh thông tin, an ninh mạng. Như vậy, còn rất nhiều vấn đề đặt ra, đòi hỏi các bộ, ngành, địa phương cần tổ chức, nghiên cứu, tìm hiểu về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để điều chỉnh, bổ sung kế hoạch, chương trình, đề án, dự án về ứng dụng Công nghệ thông tin, xây dựng Chính phủ điện tử nhằm tận dụng được cơ hội do Cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại.

Thứ ba, thách thức trong việc xây dựng, nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ công chức của nền hành chính.

Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 tạo điều kiện thuận lợi cho việc đẩy mạnh ứng dụng nhiều thành tựu công nghệ hiện đại vào hoạt động quản lý, đặc biệt là Công nghệ thông tin và robot, khi đó nhiều công việc trong các cơ quan hành chính nhà nước có thể được thực hiện bởi máy tính và robot. Để đảm bảo cho nền hành chính hoạt động hiệu quả, đòi hỏi đội ngũ công chức phải có sự am hiểu pháp luật và am hiểu khi áp dụng pháp luật vào môi trường công nghệ hiện đại nhằm giải quyết tốt công việc. Tuy nhiên, thực trạng đội ngũ công chức ở nước ta hiện còn nhiều bất cập, số lượng công chức trong bộ máy hành chính còn rất lớn, cơ cấu thiếu hợp lý, trình độ, năng lực của nhiều công chức chưa đáp ứng yêu cầu công việc, đặc biệt còn thiếu nhiều kỹ năng ứng dụng các công nghệ hiện đại. Do đó, việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn về pháp luật và nâng cao kỹ năng của đội ngũ công nhân viên của nền hành chính phải tiếp tục được đẩy mạnh, đáp ứng được yêu cầu phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 là một trong những vấn đề cần phải được nhận thức lại và đồng thời cũng là thách thức rất lớn hiện nay đối với Việt Nam. [22]

2.1.3. Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0  đến giáo dục đào tạo pháp luật

CMCN lần thứ tư đã tác động mạnh mẽ đến nền giáo dục của nước ta, mà giáo dục pháp luật cũng không ngoại lệ. Đứng trước yêu cầu của thời đại mới, giáo dục pháp luật và đào tạo nhân lực ngành luật cũng cần có những thay đổi để thích ứng trong kỷ nguyên công nghệ số.

Thứ nhất, về cơ sở vật chất Khóa luận: Thực trạng nhận thức mới về pháp luật công nghiệp.

Theo số liệu thống kê vào tháng 7/2016, cả nước có khoảng gần 50 cơ sở đào tạo luật[3], con số này đến nay đã có thể tăng lên khá nhiều. Tuy nhiên, cơ sở vật chất ở các cơ sở là không đồng đều, đặc biệt là việc trang bị cho sinh viên hệ thống máy tính có kết nối Internet, cung cấp wifi hay hệ thống lớp học thông minh. Nhiều lớp học ở một số cơ sở không đáp ứng được điều cầu về không gian giảng dạy…

Thứ hai, về phía giảng viên

Với hình thức truyền thụ kiến thức bằng cách giảng viên nói, sinh viên chép như truyền thống đã ăn sâu vào tiềm thức của nhiều người. Mặc dù có những cơ sở đào tạo được trang bị đầy đủ cơ sở vật chất nhưng giảng viên lại không am hiểu về cách sử dụng hay ứng dụng chúng trong các bài giảng của mình. Rất ít trường, đơn vị đào tạo sử dụng các bài giảng bằng video trực tuyến có sự tương tác thực tế thay cho những bài giảng thông thường trong các lớp học.

Ngoài ra, một số giảng viên còn hạn chế trong việc sử dụng ngoại ngữ, nhất là tiếng anh, do đó sẽ khó khăn trong việc tiếp cận và truyền tải tri thức trong bối cảnh mới. Điều này cũng không nằm ngoài khả năng là số lượng lớn các sinh viên chưa đạt trình độ nghe – hiểu ngoại ngữ (tiếng anh) nên các giảng viên khó mà truyền thụ được các vấn đề và tri thức bằng cách sử dụng ngoại ngữ.

Bên cạnh đó, phương pháp giảng dạy của đa số các giảng viên hiện nay thiếu đi hoạt động và trải nghiệm thực tiễn. Rất nhiều sinh viên luật còn chưa một lần được xem một phiên tòa thực tế diễn ra như thế nào. Việc thiếu đi kiến thức và kỹ năng thực tế khiến cho sinh viên tiếp cận vấn đề một cách thụ động và kém hứng thú hơn đối với các bài giảng trên lớp, đồng thời khiến sinh viên ra trường bị bỡ ngỡ với môi trường làm việc.

Thứ ba, về chương trình đào tạo và tài liệu giảng dạy

Đa số các cơ sở đào tạo nói chung và đào tạo ngành luật nói riêng đã thay đổi hình thức học truyền thống sang đăng ký tín chỉ nhưng mới chỉ mang tính hình thức mà vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu và nội dung của hình thức học này như quy định về không gian lớp học, số lượng sinh viên, cơ sở vật chất hay quy định về nội dung giảng dạy, số giờ lý thuyết, giờ thực hành… Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 này thì chương trình đào tạo cần phải chú trọng đặc biệt đến những kiến thức về kỹ năng mềm, kiến thức về Công nghệ thông tin để sinh viên có cơ hội tiếp cận và bắt kịp với xu thế. Tuy nhiên, các chương trình đào tạo ở Việt Nam vẫn chưa có tính hội nhập, việc tương tác, chia sẻ với nhau ở khu vực trong nước còn nhiều hạn chế chứ chưa nói đến việc tương tác với nước ngoài.

Ngoài chương trình đào tạo thì tài liệu giảng dạy cũng cần phải được nhắc đến. Trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp số thì người học phải chủ động tìm hiểu chứ không chỉ thụ động tiếp nhận những tri thức được truyền đạt từ giảng viên. Vì vậy, cần phải có một lượng tài liệu phong phú và đa dạng để đáp ứng được nhu cầu của sinh viên. Ở Việt Nam, hạn chế về ngoại ngữ là một bất lợi lớn đối với đa số các sinh viên trong việc tiếp cận những nguồn tri thức trong thời đại mới.

Giáo dục đào tạo chịu tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 nhưng cũng được coi là có thể tác động ngược trở lại. Nếu hoạch định được chiến lược, chính sách đúng đắn, đi trước một bước giáo dục và đào tạo sẽ trở thành chìa khóa, động lực to lớn cho sự phát triển.[11]

2.2. Thực trạng nhận thức mới về pháp luật Việt Nam trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 Khóa luận: Thực trạng nhận thức mới về pháp luật công nghiệp.

Pháp luật mang bản chất xã hội sâu sắc, vì vậy, khi xã hội có những biến đổi dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 thì nó cũng có những ảnh hưởng nhất định tới pháp luật.

2.2.1. Thực trạng nhận thức mới về chủ thể pháp luật trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0

  • Chủ thể theo quy định của pháp luât Việt Nam  

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, “chủ thể” là cá nhân, tổ chức đang tồn tại hữu hình ở thế giới vật chất. “Chủ thể pháp luật” là cá nhân, tổ chức có khả năng có quyền và nghĩa vụ pháp lý theo quy định của pháp luật. “Chủ thể quan hệ pháp luật” là cá nhân, tổ chức có năng lực chủ thể, theo những điều kiện do pháp luật quy định, tham gia vào các quan hệ pháp luật nhất định.

Chủ thể pháp luật khác với chủ thể quan hệ pháp luật bởi để trở thành chủ thể pháp luật chỉ cần có năng lực pháp luật, nhưng để trở thành chủ thể của một quan hệ pháp luật cụ thể thì phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi pháp luật, tức là phải có khả năng tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

Điều 1 Bộ luật dân sự 2015 có quy định về “Phạm vi điều chỉnh”: “quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân; quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự).” Như vậy, theo quy định này chủ thể quan hệ pháp luật dân sự bao gồm cá nhân, pháp nhân. Tuy nhiên, không chỉ giới hạn trong những quy định của pháp luật dân sự, chủ thể pháp luật nói chung trong tất cả các lĩnh vực luật chuyên ngành đều đề cập đến hai đối tượng là cá nhân và pháp nhân.

Cùng với sự bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, pháp luật cũng có những sự biến động làm thay đổi cơ bản đến hệ thống chủ thể pháp luật và chủ thể quan hệ pháp luật. Bên cạnh những chủ thể truyền thống là cá nhân và pháp nhân còn xuất hiện một loại chủ thể đặc biệt – robot tự trị và một vấn đề pháp lý đặc biệt quan trọng, đó là có nên coi robot là chủ thế mới của pháp luật hay không. Khóa luận: Thực trạng nhận thức mới về pháp luật công nghiệp.

  • Sự xuất hiện của chủ thể mới và các vấn đề pháp lý có liên quan

CMCN lần thứ tư phát triển trên nền tảng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba nhưng xoay quanh và tập trung vào ba vấn đề chính là trí tuệ nhân tạo, tự động hóa – robot và Internet kết nối vạn vật.

Việc trí tuệ nhân tạo và robot thông minh có khả năng thay thế con người trong việc xử lý các dữ liệu, thậm chí là thay thế con người trong vấn đề quan hệ tình dục làm xuất hiện và nảy sinh một vấn đề về xác định một tư cách chủ thể mới trong xã hội.

Robot là một thuật ngữ có nguồn gốc từ một trò chơi của Công hòa Séc vào những năm 1920, nhằm nói tới con người nhân tạo được sử dụng như lao động nô lệ trong những công xưởng. Có lẽ, thuật ngữ robot ngày nay đã không còn xa lạ với mọi người, robot không chỉ xuất hiện trong nhiều bộ phim khoa học viễn tưởng mà nó đã được hiện thực hóa trong cuộc sống hằng ngày, đặc biệt là ở quốc gia có nền công nghiệp rất phát triển là Nhật Bản như robot giúp việc gia đình, phục vụ ở bệnh viện, tham gia giao thông, phục vụ quốc phòng, phục vụ nghiên cứu khoa học, kho vận, bán hàng, phục vụ nhu cầu cá nhân…

Trong thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0, việc xem xét robot là một chủ thể pháp luật là một nhận thức pháp luật mới dựa trên những gì mà khoa học pháp lý đã quy định về chủ thể pháp luật. Con người là một chủ thể pháp luật bởi họ là chủ thể của các quyền, họ điều chỉnh các mối quan hệ giữa họ đối với nhau và giữa họ đối với thế giới còn lại (đồ vật, động – thực vật,…). Bên cạnh con người – chủ thể tự nhiên của pháp luật còn xuất hiện một chủ thể pháp luật khác là pháp nhân, Nhà nước… đây là những chủ thể được con người cấp cho những đời sống pháp lý để hưởng quyền và gánh vác nghĩa vụ nhất định bằng một kỹ thuật gọi là nhân cách hóa. Vậy, có thể tạm hiểu việc trao cho robot tư cách chủ thể cũng chính là trao cho nó một đời sống pháp lý để có thể thụ hưởng các quyền và gánh vác những nghĩa vụ nhất định. Năm 2017, robot Sophia – robot đầu tiên được trao quyền công dân ở Ả Rập là một vấn đề vô cùng mới mẻ được cả thế giới quan tâm. Loài người vẫn luôn quan ngại về việc máy móc và robot thông minh sẽ xâm chiếm và thống trị thế giới. Isaac Asimov đã đưa ra những nguyên tắc đạo đức được cho robot, những nguyên tắc này được xem như là điều luật cơ bản để robot có thể tồn tại: (1) Robot không thể làm hại con người hoặc bởi không hành động, để con người bị tổn thương; (2) Robot nhất thiết phải tuân theo các mệnh lệnh của loài người trừ khi các mệnh lệnh đó mâu thuẫn với nguyên tắc thứ nhất; (3) Robot nhất thiết phải bảo vệ sự tồn tại của chính nó trong chừng mực sự bảo vệ đó không xung đột với nguyên tắc thứ nhất và nguyên tắc thứ hai;

Thứ nhất, những quy định về quyền và nghĩa vụ của chủ thể mới Khóa luận: Thực trạng nhận thức mới về pháp luật công nghiệp.

Robot thông minh sẽ không chỉ tồn tại trong các phim khoa học viễn tưởng mà khả năng hiện thực đã rất rõ ràng trong việc làm thay đổi con người ở nhiều công đoạn sản xuất, thậm chí cả một hành vi xã hội. Những robot hiện đại có khả năng tự cảm nhận, tự phản ứng, điều chỉnh hành vi tương thích với sự thay đổi của môi trường xung quanh, tương tác, học hỏi và thậm chí có thể tự đưa ra quyết định. Ở mức độ cao, các robot có những hành vi có thể phát sinh hệ quả xã hội độc lập không gắn với chủ thể sáng tạo ra nó. Bởi vậy, về mặt luật pháp chắc chắn cần các quy định điều chỉnh vấn đề này. Việc coi robot là một chủ thể độc lập của pháp luật bên cạnh thể nhân và pháp nhân có thể đang còn tranh luận nhưng trong tương lai gần, điều đó chắc chắn sẽ được hiện thực hóa. Không chỉ ở các quốc gia phát triển công nghiệp mạnh như Anh, Mỹ, Nhật Bản… mà ngày cả ở Việt Nam, pháp luật cũng cần phải thừa nhận sự cần thiết của việc tạo lập thêm những quy định mới điều chỉnh về hành vi liên quan đến robot và các sản phẩm trí tuệ nhân tạo, để tránh các rủi ro kéo theo bởi hiện tượng này. Đó là các quy tắc (trên nền tảng đạo đức) điều chỉnh việc thiết kế, sản xuất và vận hành robot như thế nào để tránh những tác động xấu về xã hội, môi trường và sự phát triển tự nhiên của con người; những quy tắc điều chỉnh về trách nhiệm bồi thường trong trường hợp robot vận hành máy móc tự động, ô tô tự lái…; quy định về trách nhiệm báo cáo mới dành cho các công ty về những đóng góp của khoa học người máy và trí tuệ nhân tạo và kết quả kinh doanh, nhằm phục vụ việc đánh thuế và đóng góp an sinh xã hội; quy định về bảo hiểm bắt buộc đối với các công ty nhằm chi trả cho những thiệt hại do robot của công ty họ gây ra; việc cho phép cơ quan công quyền nắm và truy cập mã nguồn của robot thông minh trong trường hợp gây tai nạn hay vi phạm pháp luật, khủng bố, thậm chí có cả những đè xuất dự liệu về việc thiết kế những công tắc để robot có thể được tắt trong trường hợp khẩn cấp, có thể coi như hành vi “giết” robot trong trường hợp có những xử sự không tiết chế được và không phù hợp với xã hội con người…

Thứ hai, sự thay đổi về cấu trúc, quy mô, tính chất của chủ thể

Quy mô, cơ cấu của các chủ thể pháp lý truyền thống chắc chắn sẽ thay đổi, với sự xuất hiện của nhiều chủ thể vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia. Mặt khác, trong nội bộ quốc gia thì chủ thể quyền lực công cũng sẽ có những chuyển biến, trong môi trường công nghệ mới với sự tham gia của cá nhân, tổ chức vào quy trình ra quyết định sẽ trực tiếp và hiệu  quả, do đó Nhà nước sẽ không là chủ thể duy nhất ra các quyết định quản trị. Theo Massit – Follea, việc điều chỉnh về Internet liên quan đến cả “một hệ thống quản lý mở, một nơi đối đầu về mặt thương mại và pháp lý, nhưng cũng là nơi thử nghiệm chính trị – xã hội về tính quy tắc chuẩn mực hiện đại”. Sự tham gia của các tổ chức xã hội là đáng kể. Nó có tể cần đến một mô hình quản trị mới; toàn cầu; hoặc chỉ là việc áp dụng mới các quy tắc luật pháp đã được chứng minh; hoặc sự ra đời của một hiệp định đa phương mới, hoặc thậm chí mộ hiến pháp quốc tế cho Internet, do

Liên hợp quốc đàm phán và bảo đảm… Ý tưởng có thể nhiều nhưng điểm chung trong điều chỉnh pháp luật là cần các tiêu chuẩn hiện nay để hài hòa hóa các hoạt động kỹ thuật số cả ở cấp quốc gia và trong một hệ thống có sự phụ thuộc lẫn nhau khó tách rời. Khóa luận: Thực trạng nhận thức mới về pháp luật công nghiệp.

Pháp luật Việt Nam vẫn chưa có quy định nào liên quan đến việc thừa nhận hay kiểm soát robot như một chủ thể của pháp luật. Nhu cầu kiểm soát và điều chỉnh robot là một nhu cầu thực tế trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Robot có thể được điều chỉnh vởi các quy tắc của pháp luật tài sản, nghĩa vụ, pháp luật về hình sự hoặc robot có thể được điều chỉnh bởi các quy định về chủ thể. [16]

2.2.2. Thực trạng nhận thức mới các quy định pháp luật liên quan đến thời gian và không gian trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0

Các quy định pháp luật liên quan đến yếu tố thời gian

Thời gian là đại lượng được sử dụng làm tiêu chí cho các hành vi pháp luật trong hầu hết tất cả các lĩnh vực pháp luật như quy định về thời hiệu khởi tố, khiếu nại, khiếu kiện, kháng cáo, kháng nghị, thời gian làm việc, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự,… Tuy nhiên với những biến động của công nghệ thông tin, tự động hóa, trí tuệ nhân tạo hay việc xuất hiện của chủ thể mới là Robot thông minh đã dẫn đến những biến đổi về đại lượng thời gian. Bởi vậy, những khái niệm truyền thống về ngày làm việc, khoảng thời gian làm việc hay nghỉ ngơi có thể được thay đổi. Ví dụ như trong lĩnh vực giao dịch dân sự, với các ứng dụng của trí tuệ nhân tạo, người máy và đặc biệt là công nghệ in 3D thì việc chế tạo các sản phẩm hay dịch vụ được đo đếm, cá thể hóa cho từng cá nhân và thực hiện ngay từ thời điểm các lập nhu cầu. Do đó, thời điển thanh toán hay thanh lý hợp đồng hay bất kỳ một thời điểm nào đó được thỏa thuận có thể sẽ phải được thay đổi cách thức quy định theo yêu cầu của khách hàng chứ không phải theo thời điểm giao nộp sản phẩm đó đến khách hàng. Thời điểm bắt đầu có hiệu lực của một giao kết hợp đồng có thể không phải là từ ngay hai bên ký hợp đồng mà từ lúc tiếp nhận yêu cầu như trong quy định của Bộ luật dân sự 2015: “Hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao kết”(khoản 1 Điều 400); “Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác.”(khoản 1 Điều 401)

Thời gian có liên quan chặt chẽ đến quyền chủ thể, nó tạo ra quyền và ngược lại, thời gian cũng làm mất đi một số quyền. Điều 236 Bộ luật dân sự 2015 quy định:“Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.” Cụ thể trong trường hợp này, một người ban đầu không phải là chủ sở hữu của một bất động sản nhưng họ chiếm giữ ngay tình trong vòng 30 năm họ sẽ được xác lập quyền sở hữu đối với bất động sản đó. Khóa luận: Thực trạng nhận thức mới về pháp luật công nghiệp.

Bên cạnh đó, thời gian cũng làm mất đi một số quyền, việc im lặng không trả lời trong một số trường hợp được coi là đồng ý, việc không phản ứng lại với những quyết định trong một khoảng thời gian nào đó sẽ dẫn đến việc mất đi quyền liên quan. Ví dụ như thời hạn kháng cáo của đương sự quy định tại khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015: “Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.”.

 Thời gian với ý nghĩa là cột mốc của các sự kiện pháp lý, là căn cứ để xác lập quyền năng hay nghĩa vụ, xưa nay được xác định dựa trên cơ chế sinh học của con người và do vậy chỉ có giá trị đối với con người (thực thể tự nhiên và hữu hạn về mặt thời gian). Giữa con người – thực thể tự nhiên và robot có trí tuệ nhân tạo – thực thể nhân tạo thì khó có thể sử dụng chung một đại lượng thời gian. Vì vậy, khi có sự xuất hiện của một chủ thể pháp luật mới nếu như robot được xác định là chủ thể có năng lực pháp luật trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 thì đại lượng thời gian cũng cần phải có sự điều chỉnh để có thế đáp ứng được nhu cầu của thời đại mới.

Các quy định pháp luật liên quan đến yếu tố không gian

Ngoài thời gian, pháp luật cũng có nhiều quy định liên quan đến yếu tố không gian. Thông thường thì giới hạn không gian pháp luật gắn với biên giới quốc gia và phạm vi lãnh thổ hay khu vực. Chính vì vậy mà thế giới đã tạo ra nhiều hệ thống pháp luật khác nhau mang đặc thù lịch sử, văn hóa và kinh tế của từng khu vực.

Bên cạnh đó, yếu tố không gian trong pháp luật còn gắn liền với yếu tố tài sản là bất động sản mà đi kèm với nó là các quyền và nghĩa vụ liên quan như quyền thừa kế, quyền bầu cử… Giới hạn về không gian pháp luật tạo nên những hệ thống pháp luật khác nhau những cũng giúp việc giải quyết tranh chấp được dễ dàng hơn bởi việc xác định cơ quan có thẩm quyền giải quyết và hệ thống pháp luật được áp dụng liên quan đến tranh chấp.

Tuy nhiên, giới hạn của không gian pháp luật cũng cần phải được nhìn nhận lại khi có sự xuất hiện của Internet và sự phát triển không ngừng nghỉ của Công nghệ thông tin là kết quả của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, đặc biệt là sự xuất hiện của một chủ thể là robot thông minh hay trí tuệ nhân tạo. Vô vàn hoạt động không còn bị bó hẹp trong phạm vi quốc gia hay khu vực nhờ có sự trợ giúp của công nghệ thông tin, nhất là các chủ thể mới vượt ra khỏi lãnh thổ địa lý thông thường, ranh giới giữa các hệ thống pháp luật hầu như không còn rõ nét thậm chí có thể vượt qua khỏi không gian trái đất và được thực hiện ở hành tinh khác.

Sự thay đổi về không gian pháp luật dẫn đến việc các công cụ, phương tiện và cơ sở của pháp luật cũng thay đổi. Ở phạm vi quốc gia, một mặt Nhà nước vẫn có nghĩa vụ bảo đảm sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con người, mặt khác sẽ khó khăn hơn trong việc tìm cách xây dựng, định nghĩa và giới hạn chúng bởi sự biến đổi và chồng chéo của các quyền cơ bản trong một không gian đa quốc gia. [16]

2.2.3. Thực trạng nhận thức mới về vai trò của pháp luật trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 Khóa luận: Thực trạng nhận thức mới về pháp luật công nghiệp.

Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng, vừa là công cụ quản lý Nhà nước hữu hiệu, vừa tạo hành lang pháp lý an toàn, tin cậy, thuận lợi cho sự phát triển kinh tế – xã hội và giáo dục, răn đe con người ý thức chấp hành pháp luật. Ở Việt Nam vai trò của pháp luật được ghi nhận tại Điều 8 của Hiến pháp 2013: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ” vì vậy vai trò của pháp luật được biểu hiện ở những điểm cơ bản sau đây:

Thứ nhất, vai trò của pháp luật đối với kinh tế.

Pháp luật đóng một vai trò là phuơng tiện hàng đầu trong việc xác định địa vị pháp lý bình đẳng đối với chủ thể tham gia quan hệ pháp lý, tạo “hành lang” pháp lý để các chủ thể tham gia kinh tế hoạt động mặt khác với tư cách là chủ thể tham gia quản lý thì Nhà nước dựa vào các chuẩn mực pháp lý để điều khiển hoạt động sản xuất kinh doanh, thông qua đó Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi tin cậy và chính thức cho hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả.

Thứ hai, vai trò của pháp luật đối với xã hội.

Pháp luật giúp bảo đảm và bảo vệ ổn định trật tự xã hội. Mặt khác, pháp luật ghi nhận và thể chế hóa quyền của con người, quyền của công dân và bảo đảm về mặt pháp lý cho các quyền đó thực hiện. Ngoài ra pháp luật còn là phương tiện để các thành viên của xã hội có điều kiện bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình. Vì vậy, pháp luật là phương tiện không thể thiếu được cho sự tồn tại và ổn định của xã hội, đồng thời xã hội là cơ sở cho sự tồn tại của pháp luật.

Thứ ba, vai trò của pháp luật đối với hệ thống chính trị

  • Pháp luật là phương tiện thể chế hoá đường lối chủ trương, chính sách của đảng, làm cho đường lối đó có hiệu lực thực thi và bắt buộc chung trên quy mô toàn xã hội.
  • Pháp luật là phương tiện để Đảng kiểm tra đường lối của mình trên thực tế để kịp thời phát hiện ra thiếu sót sai lầm để lãnh đạo các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khắc phục những thiếu sót sai lầm.
  • Pháp luật còn là phương tiện để phân định rõ phương thức lãnh đạo của đảng với chức năng quản lý điều hành của nhà nước. Khóa luận: Thực trạng nhận thức mới về pháp luật công nghiệp.
  • Pháp luật là phương tiện, công cụ để đám bảo các chủ trương, đường lối được thực hiện một cách nghiêm túc, chính xác.

Từ các phân tích trên có thể thấy, pháp luật có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, pháp luật không chỉ có vai trò trong việc bảo đảm sự tồn tại và phát triển của xã hội mà vai trò của pháp luật hiện nay còn cần phải hướng tới xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh. Pháp luật đòi hỏi phải xem xét một cách toàn diện, đầy đủ các mối quan hệ xã hội, không chỉ nhấn mạnh một chiều vai trò chủ đạo của Nhà nước mà còn phải quan tâm đầy đủ đến ý chí và lợi ích của các nhóm lợi ích và tầng lớp xã hội khác nhau. Bên cạnh đó, pháp luật còn phải là bệ phóng để người dân có khả năng tiếp cận và hội nhập với thế giới.

Cụ thể:

Thứ nhất, pháp luật có vai trò tích cực nhằm nâng cao đời sống nhân dân.

Trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với xu hướng của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã làm cho tỉ trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ ở nước ta tăng lên đáng kể. Đến nay, đóng góp vào tăng trưởng của 2 ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 90% tăng trưởng toàn ngành kinh tế. Năm 2016, ngành dịch vụ đóng góp gần 50% vào tăng trưởng theo ngành và cao hơn nhiều so với giai đoạn 2006-2010 với mức đóng góp 40%[4]. Sự chuyển dịch cơ cấu này đã dẫn đến nhiều tác động xấu đối với môi trường sống của người dân. Theo ước tính, trong tổng số 183 khu công nghiệp trong cả nước thì có trên 60% khu công nghiệp chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Tại các đô thị, chỉ có khoảng 60% – 70% chất thải rắn được thu gom, cơ sở hạ tầng thoát nước và xử lý nước thải, chất thải nên chưa thể đáp ứng được các yêu cầu về bảo vệ môi trường[5]. Thực trạng trên đòi hỏi pháp luật cần phát huy vai trò của mình trong việc bảo vệ môi trường, kiểm soát tốc độ gia tăng ô nhiễm thông qua việc đẩy mạnh các hoạt động phòng ngừa, kiểm soát và xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường. Pháp luật đã tạo ra môi trường pháp lý để đa dạng hóa các nguồn đầu tư cho công tác bảo vệ và cải thiện môi trường, đồng thời đưa ra các chính sách phát triển bền vững, trả lại môi trường sống lành mạnh cho người dân.

Thứ hai, pháp luật là bệ phóng để con người, công dân có cơ hội tiếp cận những tiến bộ khoa học kỹ thuật và hội nhập toàn cầu.

Ngày 01/7/2018, Luật Chuyển giao công nghệ (CGCN) số 07/2017/QH14 có hiệu lực, thay thế Luật Chuyển giao công nghệ số 80/2006/QH11 đã góp phần thúc đẩy hoạt động đổi mới và Chuyển giao công nghệ trong nước, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong sản xuất và đời sống, từng bước giúp cải thiện năng lực công nghệ của doanh nghiệp và nền kinh tế, nâng cao tốc độ tăng trưởng của các ngành, lĩnh vực. Luật khuyến khích chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về giống, sản phẩm, quy trình sản xuất, giải pháp kỹ thuật, giải pháp quản lý trong nông nghiệp, bổ sung chính sách ưu tiên Chuyển giao công nghệ để tạo ra các sản phẩm quốc gia, trọng điểm, chủ lực từ kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong nước, Nhà nước khuyến khích phát triển các công nghệ tạo ra và hoàn thiện sản phẩm quốc gia, trọng điểm, chủ lực có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và ngoài nước, đồng thời có chính sách và biện pháp đẩy mạnh việc hoàn thiện thiết kế, chế tạo máy móc, thiết bị do Việt Nam tạo ra đủ sức cạnh tranh trên thị trường[6].

2.2.4. Thực trạng nhận thức mới về chức năng của pháp luật trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0  Khóa luận: Thực trạng nhận thức mới về pháp luật công nghiệp.

Chức năng của pháp luật là những phương diện, mặt tác động chủ yếu của pháp luật phản ánh bản chất giai cấp và giá trị xã hội của pháp luật. Pháp luật có ba chức năng chủ yếu:

Một là, chức năng điều chỉnh

Pháp luật được đặt ra nhằm hướng tới sự điều chỉnh các quan hệ xã hội. Sự điều chỉnh của pháp luật lên các quan hệ xã hội được thực hiện theo hai hướng: một mặt pháp luật ghi nhận các quan hệ xã hội chủ yếu trong xã hội. Mặt khác pháp luật bảo đảm cho sự phát triển của các quan hệ xã hội.

Hai là, chức năng bảo vệ

Chức năng bảo vệ là công cụ bảo vệ các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Khi có các hành vi vi phạm pháp luật xảy ra, xâm phạm đến các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh thì các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế được quy định trong bộ phận chế tài của các quy phạm pháp luật đối với các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật. Chẳng hạn hành vi xâm phạm tính mạng sức khoẻ con người bị xử lý theo Luật hình sự, hành vi gây thiệt hại tài sản buộc phải bồi thường theo Luật dân sự.

Ba là, chức năng giáo dục Khóa luận: Thực trạng nhận thức mới về pháp luật công nghiệp.

Chức năng giáo dục của pháp luật được thực hiện thông qua sự tác động của pháp luật vào ý thức của con người, làm cho con người xử sự phù hợp với cách xử sự được quy định trong các quy phạm pháp luật. Việc giáo dục có thể được thực hiện thông qua tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, có thể thông qua việc xử lý những cá nhân, tổ chức vi phạm (phạt những hành vi vi phạm giao thông, xét xử những người phạm tội hình sự,…). [20]

Dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm công bằng xã hội là rất quan trọng. Ngoài những chức năng kể trên thì cần phải nhận thức thêm về chức năng “bảo đảm sự công bằng” của pháp luật bằng cách tăng cường tư pháp bởi sự phát triển quá nhanh của cuộc Cách mạng công nghiệp khiến cho pháp luật thành văn không thể bắt kịp với sự thay đổi của các quan hệ xã hội. Nghiên cứu về nguồn của pháp luật trong tương lai, nhiều học giả nhận định: “án lệ không theo kịp sự phát triển của công cuộc đổi mới ở những giai đoạn đầu, song, đối với cách mạng công nghiệp 4.0, án lệ có vai trò rất quan trọng để đưa luật thành văn vào thực tế bởi trong cuộc cách mạng này, tương tác giữa người và máy móc làm phát sinh các vấn đề pháp lý khác biệt từ trách nhiệm dân sự cho tới bảo vệ dữ liệu và tội phạm”. Từ đó đòi hỏi phải có những thẩm phán giỏi về luật lệ và phải có bản lĩnh trong việc nắm bắt các quan hệ xã hội phát sinh từ các ứng dụng khoa học, công nghệ. Vì vậy, việc tăng cường chức năng bảo đảm hay tăng cường tư pháp có hai vấn đè mấu chốt cần chú ý đó là: (1) Xác định rõ quyền lực tư pháp thuộc về các thẩm phán; (2) Nâng cao trình độ pháp lý và trình độ tiếp cận khoa học, công nghệ của thẩm phán.

2.2.5. Thực trạng nhận thức mới về pháp luật trong việc thực hiện bảo đảm quyền con người trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0

Quyền cá nhân hay quyền con người được hiểu là những quyền cơ bản thuộc về mỗi cá nhân bất kể học có địa vị pháp lý hay xã hội như thế nào. Các quyền này đã được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế như Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948; Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966…Với những biến đổi do cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại, việc bảo đảm thực thi các quyền này có thể được thúc đẩy nhưng bên cạnh đó cũng đặt ra những vấn đề mới cần phải xem xét và có những đánh giá mới nhằm đảm bảo thực thi hiệu quả các quyền này.

Mặc dù cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 tác động tới nhiều khía cạnh của quyền con người, tuy nhiên, trong tổng thể các quyền con người, một số quyền cụ thể chịu tác động mạnh mẽ hơn các quyền khác. Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948 và Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị đã thừa nhận một số quyền dân sự như: Quyền không bị phân biệt đối xử; Quyền tự do đi lại, cư trú; Quyền được bảo vệ đời tư; Quyền sống, tự do và an ninh cá nhân; Quyền tự do biểu đạt; Quyền tự do lập hội… Dưới ảnh hưởng của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, nhóm quyền riêng tư được pháp luật bảo hộ là sâu rộng và mạnh mẽ hơn cả và đây cũng là vấn đề trọng tâm cần được xem xét khi nghiên cứu bảo vệ quyền con người trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Khóa luận: Thực trạng nhận thức mới về pháp luật công nghiệp.

Riêng tư hay bí mật thông tin bao gồm hình ảnh, thông tin về gia đình, các mối quan hệ, nơi ở, thư từ, điện thoại, điện tín, các hình thức trao đổi thông tin khác… Với những công cụ “kết nối vạn vật” được xấy dựng trên nền tảng các phần mềm ứng dụng trên điện thoại và máy tính khiến cho việc đảm bảo thực hiện nhóm quyền này càng trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Thực tế, tất cả các thông tin người dùng trên mạng như Facebook, Google, Instagram… đều được lưu trữ trong hồ sơ trực tuyến của người dùng do các công ty công nghệ nắm giữ. Rủi ro lợi dụng thông tin trên môi trường Internet đã được cảnh báo và thực tế cũng đã xuất hiện. Điển hình như vụ việc xảy ra năm 2017 ở Việt Nam xuất hiện thông tin hãng máy bay Vietnam Airline làm lộ thông tin hành khách. Nhiều hành khách cho hay sau khi máy bay hạ cánh xuống sân bay Nội

Bài (Hà Nội) đã bất ngờ nhận được tin nhắn mời đi xe từ tổng đài taxi. Có người còn bị gọi điện thoại “chèo kéo” đi xe từ Nội Bài về trung tâm Hà Nội…[7]

Pháp luật Việt Nam cũng đã có những quy định liên quan đến vấn đề bảo đảm thực hiện quyền con người, đặc biệt là nhóm quyền riêng tư. Cụ thể, khoản 1 Điều 21 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn”; khoản 1 Điều 38 Bộ luật dân sự 2015 quy định “ Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ”; Điều 159 Bộ luật hính sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 quy định về tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác:

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm:

  1. Chiếm đoạt thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông dưới bất kỳ hình thức nào;
  2. Cố ý làm hư hỏng, thất lạc hoặc cố ý lấy các thông tin, nội dung của thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông;
  3. Nghe, ghi âm cuộc đàm thoại trái pháp luật;
  4. Khám xét, thu giữ thư tín, điện tín trái pháp luật;
  5. Hành vi khác xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín, telex, fax hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác.”… Khóa luận: Thực trạng nhận thức mới về pháp luật công nghiệp.

Mặc dù đã có nhiều thay đổi, bổ sung trong quá trình hoàn thiện quy định pháp luật về quyền bí mật đời tư cá nhân nhưng hiện nay vẫn chưa có một văn bản pháp quy phạm pháp luật nào quy định hoặc hướng dẫn cụ thể, chi tiết như thế nào là “bí mật đời tư” hay “đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật dữ liệu cá nhân, bí mật gia đình”.

Trong thời đại công nghệ số hóa và môi trường ảo phát triển mạnh mẽ như hiện nay, việc đưa các thông tin cá nhân của mình lên mạng để sử dụng vào những mục đích khác nhau đã dần trở nên quen thuộc. Việc làm này một mặt giúp thuận tiện hơn trong việc sử dụng các dịch vụ xã hội nhưng mặt trái của nó là tồn tại những nguy cơ bị người khác đánh cắp thông tin để thực hiện những hành vi trái pháp luật như giả mạo bạn bè, người thân để lừa đảo, làm giả thẻ ngân hàng… Việc phòng, chống hành vi vi phạm quyền riêng tư của người dân không chỉ chủ yếu dừng lại từ phía chác chủ thể mang trách nhiệm thực thi công vụ, trước hết là cơ quan, người thực thi công việc Nhà nước, mà còn cả các chủ thể thực thi các dịch vụ công, và kể cả những người có khả năng sử dụng các phương tiện truyền thông hiện đại gắn liền vói Công nghệ thông tin.

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, con người vừa là chủ thể nhưng cũng là thực thể hay là đối tượng để thu thập dữ liệu. Vì vậy, việc bảo vệ quyền riêng tư đưa đến những thách thức cho pháp luật Việt Nam như sau:

Thứ nhất, pháp luật cần có những quy định như thế nào để kiểm soát lượng và nguồn thông tin nhằm bảo quyền riêng tư của con người trong môi trường không gian số.

Xuất phát từ những hạn chế nhận thức nên nhiều người không có ý thức trong việc bảo vệ quyền riêng tư của mình cũng như tôn trọng quyền riêng tư của người khác. Trong thời đại công nghệ số, những thiết bị điện tử có chức năng ghi âm, ghi hình, kết nối Internet trở nên rất phổ biến, cho phép người sử dụng nhanh chóng chia sẻ các thông tin mình thu được lên mạng. Điều này khiến cho quyền riêng tư của mỗi cá nhân đều có thể dễ dàng bị xâm phạm chỉ bởi một chiếc điện thoại thông minh. Chỉ để thỏa mãn sự tò mò của số động mà có rất nhiều người sẵn sàng xâm phạm đến quyền riêng tư của người khác mà không hề có sự suy xét rằng: sự kết hợp của những thành tựu công nghệ như điện thoại thông minh với những con người thiếu ý thức pháp luật và đạo đức xã hội đã cà đang khiến cho không gian riêng tư gần như không tồn tại.

Thứ hai, pháp luật Việt Nam cần có những chế tài như thế nào để xử lý các hành vi xâm phạm quyền riêng tư trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Khóa luận: Thực trạng nhận thức mới về pháp luật công nghiệp.

Trong thời đại công nghệ số, thông tin cá nhân đang là một loại hàng hóa có giá trị kinh tế nhằm tạo ra những lợi nhuận. Điều đó khiến cho những dữ liệu riêng tư của cá nhân trở thành mặt hàng có giá trị và được săn lùng phục vụ cho việc quảng cáo hoặc ở mức độ cao hơn với sự trợ giúp của khoa học dữ liệu, thông tin của mỗi cá nhân sẽ được phân tích để chỉ ra xu hướng hành vi mua sắm, tiêu dùng… từ đó ứng dụng vào thương mại. Có thể khẳng định rằng: trong thời đại công nghệ số, những thông tin riêng tư cá nhân đang trở thành một mặt hàng có giá trị kinh tế, do đó đã và đang trở thành động lực rất lớn cho những chủ thể khác trong việc thu thập và mua bán những dữ liệu như vậy. Xuât phát từ nguồn lợi nhuận to lớn này dẫn đến sự xuất hiện ngày càng nhiều những hành vi xâm phạm quyền riêng tư của cá nhân. Không chỉ lợi dụng thông tin cá nhân của người khác cho mục đích thương mại, nhiều chủ thể còn có những hành vi sử dụng những thông tin này cho các hành vi mạo danh, bôi nhọ, gây tổn hại đến uy tín, danh dự, nhân phẩm của người khác. Tại Việt Nam, do đa số người dân chưa có ý thức bảo vệ sự riêng tư của cá nhân mình nên trên tài khoản mạng xã hội của họ công khai hầu hết các thông tin và hình ảnh riêng tư… Điều đó đã tạo điều kiện cho những hành vi xấu như mạo danh tài khoản, trộm cắp hay cướp tài sản. Một dạng hành vi lợi dụng thông tin riêng tư thường găp khác đó là lăng mạ qua mạng hay còn được biết đến với cái tên là “bóc phốt”. Khi một cá nhân có hành vi sai trái thì ngay lập tức, tất cả các thông tin cá nhân của họ từ tên tuổi, địa chỉ nhà ở, cơ quan, nơi làm việc… sẽ được đưa lên mạng xã hội để cho người khác vào bình luận ác ý, thậm chí là lăng mạ dù chưa biết thực hư có đúng hay không (thông tin chưa được xác thực). [14]

2.3. Thực trạng thực hiện pháp luật ở Việt Nam trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 

2.3.1. Thực trạng thực hiện pháp luật đối với một số lĩnh vực luật chuyên ngành trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0

  • Lĩnh vực Luật Doanh nghiệp

Ở Việt Nam hiện nay, các loại hình doanh nghiệp được phân chia thành doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và công ty hợp danh. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, khi mọi thứ đều bị ảnh hưởng và cần có một sự thay đổi để hòa nhập và đáp ứng yêu cầu của thời đại thì việc quy định về hình thức tổ chức của các doanh nghiệp cũng là một vấn đề cần được xem xét. Khóa luận: Thực trạng nhận thức mới về pháp luật công nghiệp.

Một khảo sát được thực hiện với 2.000 doanh nghiệp thuộc Hiệp hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ Hà Nội cho thấy, trong 85% số Doanh nghiệp thể hiện sự quan tâm tới cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.

Trong đó có 55% số Doanh nghiệp đánh giá cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ có tác động rất lớn đến nền kinh tế Việt Nam; 23% đánh giá tác động bình thường; 11% đánh giá không tác động lắm và 10% đánh giá không tác động; 6% không biết. Tuy nhiên, về chiến lược, có đến 79% số Doanh nghiệp trả lời rằng họ… chưa làm gì để đón sóng cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. 55% số Doanh nghiệp cho biết đang tìm hiểu, nghiên cứu, 19% số Doanh nghiệp đã xây dựng kế hoạch, và chỉ có 12% số Doanh nghiệp đang triển khai.[8]

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, Luật Doanh nghiệp 2014 còn nhiều bất cập bởi dường như nó quá chú trọng vào hình thức công ty cổ phần mà chưa chú ý tới các hình thức công ty đối nhân, mà vấn đề cần được tập trung là năng lực sáng tạo, khả năng hợp tác cá nhân và khả năng quản lý bằng công nghệ tiên tiến chứ không phải hình thức kinh doanh chú trọng tới vốn. Bên cạnh đó là sự bất hợp lý bởi việc không coi hộ kinh doanh là doanh nghiệp. Đặc biệt, Luật Doanh nghiệp 2014 còn gộp công ty hợp danh và công ty hợp vốn đơn giản vào thành một hình thức gọi chung là hợp danh. Như vậy sẽ gây cản trở lớn cho việc thành lập doanh nghiệp trong Cách mạng công nghiệp 4.0, chẳng hạn trong trường hợp một kỹ sư công nghệ muốn thành lập công ty với danh nghĩa là thành biên hợp danh (nhận vốn) với một hoặc vài thành viên khác góp vốn. Trường hợp này bị cản trở bởi điểm a khoản 1 Điều 172 Luật Doanh nghiệp 2014: “Phải có ít nhất 02 thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh). Ngoài các thành viên hợp danh, công ty có thể có thêm thành viên góp vốn;”

Với sự phát triển như vũ bão của công nghệ, kinh tế sẽ là lĩnh vực đầu tiên bị ảnh hưởng và kéo theo đó là các doanh nghiệp lớn nhỏ. Các doanh nghiệp cần có những chiến lược và hướng đi thông minh, có tầm nhìn sâu rộng để lựa chọn loại hình tổ chức kinh doanh. Trong thời đại mới này, các doanh nghiệp không chỉ chú trọng đến nguồn vốn đầu tư mà còn cần phải chú trọng đến khả năng sáng tạo, thị trường và khả năng ứng dụng công nghệ vào quản lý và kinh doanh. Đặc biệt là nguồn nhân lực có trình độ học vấn và kỹ năng, nhất là các kỹ năng mềm, ngoại ngữ. Nhiều doanh nghiệp ở Việt Nam cũng đang đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo như FPT, Viettel, Topica,… với mong muốn đưa những ý tưởng phát triển sản phẩm ứng dụng trí tuệ nhân tạo thực sự đi vào đời sống.

  • Lĩnh vực Luật Sở hữu trí tuệ Khóa luận: Thực trạng nhận thức mới về pháp luật công nghiệp.

Trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, trí tuệ nhân tạo hiện diện ở khắp nơi và được ứng dụng khá nhiều trong cuộc sống hằng ngày từ hoạt động kinh tế đến lĩnh vực giao thông, y tế như y tế thông minh, thiết bị phòng chống gian lận… Các hệ thống trí tuệ nhân tạo đang dần được thay thế và góp phần cải thiện hoạt động và chức năng của con người trong việc tạo ra các sản phẩm trí tuệ, chúng có  thể viết báo, viết văn, vẽ tranh, sáng tác nhạc… Tuy nhiên, nó cũng đặt hai vấn đề mà pháp luật sở hữu trí tuệ chưa dự liệu được: (1) Nếu các sản phẩm văn học nghệ thuật, khoa học, phần mềm được tạo ra bởi trí tuệ nhân tạo thì điều kiện bảo hộ được quy định như thế? (2) Vấn đề về trách nhiệm nếu có hành vi vi phạm pháp luật sở hữu trí tuệ sẽ được xử lý như thế? Hai vấn đề này sẽ phần nào được giải quyết khi đưa ra được một quy định chung thống nhất về tư cách chủ thể của Robot thông minh hay trí tuệ nhân tạo.

Đối với vấn đề thứ nhất, bản chất của pháp luật sở hữu trí tuệ là việc Nhà nước trao độc quyền cho các nhà sáng tạo hoặc người sở hữu đối với các thành quả của họ trong một thời gian hạn định, nhằm “trao thưởng” cho công sức và sự sáng tạo của họ. Đối với sáng chế do trí tuệ nhân tạo tạo ra, có thể thấy bản thân trí tuệ nhân tạo không có nhu cầu ghi nhận mình là tác giả, không cần hưởng các quyền về nhân thân cũng như không có nhu cầu hưởng các quyền về tải sản bởi dù có được hưởng các quyền này hay không thì trí tuệ nhân tạo vẫn sáng tạo một cách hoàn toàn tự động. Tuy nhiên, nếu ghi nhận con người (chủ sở hữu của trí tuệ nhân tạo hay Robot thông minh) là tác giả của những sáng chế đó thì cũng không hoàn toàn hợp lý. Do vậy, khó có thể áp dụng luật sáng chế truyền thống để xác định cá nhân hay nhóm người nào đó là chủ sở hữu.

Vì vậy, có thể xuất hiện các trường hợp mới được quy định như sau:

Thứ nhất, trí tuệ nhân tạo sáng tạo hoàn toàn độc lập, không phụ thuộc vào con người thì việc cấp bằng sáng chế không được ghi tên tác giả một cá nhân hay nhóm người cụ thể nào.

Thứ hai, trí tuệ nhân tạo cùng con người sáng tạo thì khi đó có thể ghi con người là đồng sáng tạo với trí tuệ nhân tạo.

Còn về khía cạnh quyền tài sản, pháp luật phải giải quyết hài hòa lợi ích của các chủ thể con người có liên quan  đến hoạt động sáng tạo của trí tuệ nhân tạo, để từ đó thúc đẩy hoạt động đầu tư vào nghiên cứu, phát triển, ứng dụng trí tuệ nhân tạo, khuyến khích việc nộp đơn đăng ký sáng chế, công khai cho xã hội và thương mại hóa sáng chế do trí tuệ nhân tạo tạo ra.

Đối với vấn đề thứ hai liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật sở hữu trí tuệ do trí tuệ nhân tạo thực hiện thì pháp luật hiện hành vẫn chưa đưa ra được những giải pháp hữu hiệu nào. Nếu trí tuệ nhân tạo không được thừa nhận các quyền lợi giống như con người thì liệu nó có phải chịu trách nhiệm gì khi vi phạm hay không? Một số chuyên gia về trí tuệ nhân tạo cho rằng, việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm đôi với hành vi xâm phạm pháp luật sở hữu trí tuệ phụ thuộc vào trình độ phát triển của trí tuệ nhân tạo đó, nó có khả năng đưa ra những quyết định độc lập hay không và có hành động theo những gì được lập trình sẵn không? Khóa luận: Thực trạng nhận thức mới về pháp luật công nghiệp.

Tóm lại, pháp luật sở hữu trí tuệ cần mở rộng phạm vi đối tượng bảo hộ bao gồm cả các giải pháp kỹ thuật do trí tuệ nhân tạo tạo ra một cách độc lập hoặc cùng với con người, đồng thời cần nhận diện được tính chất đa chủ thể trong quá trình sản xuất, vận hành, đào tạo trí tuệ nhân tạo để xác định chủ thể nào có quyền sở hữu đối với sáng chế do trí tuệ nhân tạo tạo ra, chủ thể nào phải chịu trách nhiệm khi trí tuệ nhân tạo xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người khác. Khi pháp luật chưa hoàn thiện, điều này có thể giải quết thông qua hợp đồng tức là giữa các chủ thể liên quan như lập trình viên phần mềm trí tuệ nhân tạo, chủ sở hữu phần cứng chạy phần mềm đó, chủ thể cung cấp dữ liệu cho trí tuệ nhân tạo ký kết thỏa thuận phân chua quyền lợi từ sáng chế do trí tuệ nhân tạo tạo ra hoặc cùng tạo ra với con người.

2.3.2. Thực hiện pháp luật đối với vấn đề quản trị quốc gia trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0

  • Ứng dụng công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 vào hoạt động quản trị Nhà nước 

Hoạt động quản trị Nhà nước đã, đang và sẽ biến đổi sâu sắc dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Việc thay đổi hệ thống pháp luật, phương thức quản lý, thẩm quyền… của các cơ quan nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức để thích ứng với điều kiện mới là tất yếu. Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ mở ra cơ hội lớn để cải thiện năng lực quản lý nhà nước tốt cho các quốc gia, đặc biệt là những nước đang phát triển như Việt Nam.

Mạng lưới kết nối thông tin giữa các cơ quan và trong nội bộ cơ quan đã và được hình thành và ngày càng mở rộng. Phần lớn các cán bộ, công chức trong cơ quan Nhà nước đã được trang bị máy tính có kết nối Internet phục vụ cho công việc. Cụ thể, 100% cơ quan Nhà nước có mạng nội bộ; 84% các sở, ban, ngành, quận, huyện tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được kết nối mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan Đảng, Nhà nước; 100% các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ cà các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã có Trang/Cổng thông tin điện tử.

Bên cạnh đó, hầu hết các cán bộ công chức đã triển khai sử dụng hòm thư điện tử thường xuyên trong công việc. Hệ thống phần mềm quản lý văn bản và hồ sơ công việc cũng được triển khai và sử dụng. Có khoảng 80% số lượng văn bản hành chính được các cơ quan Nhà nước trao đổi dưới dạng điện tử. Đến nay, 100% các dịch vụ công cơ bản được cung cấp trực tuyến trên cổng thông tin điện tử chính thức của cơ quan đó nhằm giải quyết thủ tục hành chính theo hướng công khai, minh bạch và nâng cao hiệu quả giải quyết công việc. Ngoài ra, việc triển khai chữ ký số đã được các cán bộ thực hiện theo quy định tại Nghị định số 170/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 26/2007/NĐ-CP ngày 15/02/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số và Nghị định số 106/2011/NĐ-CP ngày 23/11/2011 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 26/2007/NĐ-CP ngày 15/02/2007.[2] Khóa luận: Thực trạng nhận thức mới về pháp luật công nghiệp.

Sự giám sát của công dân đối với quản trị nhà nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0

Việc ứng dụng Công nghệ thông tin trong việc giải quyết các thủ tục hành chính của người dân, doanh nghiệp được nhanh chóng hơn, tiết kiệm hơn và chính xác hơn. Mặt khác, việc ứng dụng công nghệ thông tin, khoa học – kỹ thuật hiện đại trong quản lý giúp cho hoạt động này được công khai, minh bạch tạo thuận lợi cho sự giám sát của cả Nhà nước và nhân dân.

Với nền tảng của Công nghệ thông tin trong thời đại kỹ thuật số, người dân có thể dễ dàng cập nhật các thông tin và tham gia giám sát các hoạt động của cơ quan công quyền, giám sát hoạt động thực hiện công vụ của cán bộ công chức. Ngoài ra, với tính tương tác cao và mạng lưới kết nối sâu rộng, các mạng xã hội nhất là mạng xã hội Facebook đã thúc đẩy người dân quan tâm nhiều hơn đến tình hình kinh tế – chính trị- xã hội và quan tâm đến việc thực hiện công việc của các cơ quan Nhà nước.

Trước đây, việc giám sát của công dân đối với Nhà nước được thực hiện thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tuy nhiên nó vẫn chỉ mang tính hình thức mà chưa thực sự đem lại hiệu quả rõ rệt. Với thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 thì người dân có thể trực tiếp tham gia giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước thông qua chính phủ điện tử hoặc thậm chí là bằng những hình thức trực tiếp hơn. Cho đến nay đã xuất hiện khá nhiều vụ việc như cán bộ bị kỷ luật do có thái độ hách dịch và ứng xử không đúng chuẩn mực với dân, bị người dân ghi hình lại. Việc sử dụng các thiết bị như điện thoại thông minh (smart phone) để quay lại và đăng tải thông tin lên mạng xã hội (Facebook) để nhiều người đưa ra ý kiến và đánh giá cũng là một cách thức giám sát trực tiếp từ phía người dân. Áp lực dư luận sẽ buộc những nhà chức trách phải có biện pháp xử lý đúng đắn và kịp thời, tránh trường hợp bao che khuyết điểm; phản ánh năng lực, trình độ, tính liêm chính của công chức vào cơ quan công quyền. Cũng dưới những áp lực này mà các cơ quan sẽ có những điều chỉnh để làm việc nghiêm túc và có trách nhiệm hơn. Có thể thấy việc sử dụng thành tựu của khoa học công nghệ vào quá trình giám sát của người dân đối với quản trị Nhà nước có thể là một hướng đi đúng đắn và tất yếu đối với cả người dân và Chính phủ để hoạt động giám sát được phổ biến và đạt hiệu quả cao.

Mặt khác, cơ quan Nhà nước muốn nhận được sự đồng thuận của xã hội thì phải biết lắng nghe tiếng nói của người dân thông qua cầu nối là các tổ chức xã hội và phương thức ưu việt trên nền tảng công nghệ. Quá trình này bao gồm cả việc tiếp thu, phản hồi ý kiến trong quá trình xây dựng và ban hành chính sách, pháp luật, chịu sự giám sát, phản biện của người dân. [23]

Một mô hình quản trị Nhà nước tốt, khai thác được tối đa những lợi ích từ cuộc cách mạng cộng nghiệp 4.0 sẽ phát huy được sức mạnh của đất nước.

2.3.3. Thực hiện pháp luật trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 Khóa luận: Thực trạng nhận thức mới về pháp luật công nghiệp.

  • Về việc gửi đơn khởi kiện

Việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án hay Trọng tài đòi hỏi nguyên đơn phải gửi đơn khởi kiện. Yêu cầu này được thể hiện rõ trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Luật trọng tài thương mại năm 2015 theo đó: “… Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó” (khoản 1 Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự) và “trường hợp giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài, nguyên đơn phải làm đơn khởi kiện gửi đến Trung tâm trọng tài. Trường hợp vụ tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài vụ việc, nguyên đơn phải làm đơn khởi kiện và gửi cho bị đơn.” (khoản 1 Điều 30 luật Trọng tài thương mại). Cách mạng công nghiệp 4.0 xuất hiện và bùng nổ sẽ tạo điều kiện cho người khởi kiện thực hiện thủ tục này một cách dễ dàng hơn. Thực tế cho đến thời điểm hiện nay, nguyên đơn vẫn gửi đơn khởi kiện thông qua đường bưu điện hoặc gửi trực tiếp tới Tòa án hay trọng tài và Tòa án nước ta chỉ nhận được đơn khởi kiện theo hai cách trên. Thực trạng trên sẽ thay đổi với việc vận dụng thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0 bằng cách gửi đơn khởi kiện qua mạng (trực tuyến). Với cách thức mới này, nguyên đơn sẽ tiết kiệm được thời gian và kinh phí di chuyển (từ nhà đến bưu điện hay cơ quan tài phán), vì họ có thể gửi đơn khởi kiện ở bất kỳ địa điểm nào và bất kỳ thời gian nào. Hướng mới này cũng giảm tải sức người và chi phí cho cơ quan tài phán, vì nếu đương sự nộp trực tiếp tới cơ quan tài phán thì cơ quan tài phán còn phải cử người tiếp nhận hồ sơ và không gian để tiếp nhận hồ sơ. Việc gửi đơn khởi kiện theo cách truyền thống nêu trên còn gặp trở ngại lớn là phải theo giờ hành chính và nguyên đơn không được gửi đơn vào những ngày nghỉ (cuối tuần hay ngày lễ).

BLTTDS đã phần nào tiếp cận đến thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0. Bởi lẽ, khoản 1 Điều 190 đã quy định: “Người khởi kiện gửi đơn khởi kiện kèm theo tài liệu, chứng cứ mà mình hiện có đến Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án bằng các phương thức sau đây: a) Nộp trực tiếp tại Tòa án; b) Gửi đến Tòa án theo đường dịch vụ bưu chính; c) Gửi trực tuyến bằng hình thức điện tử qua cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có)”. Còn luật Trọng tài thương mại không quy đĩnh rõ về cách thức gửi đơn khởi kiện (chỉ nêu về “gửi” và “nhận” tại các Điều 30, 31, 32) nên về mặt văn bản, nguyên đơn cũng có thể gửi trực tuyến đơn khởi kiện. Khóa luận: Thực trạng nhận thức mới về pháp luật công nghiệp.

Thực trạng trên có nhiều nguyên nhân, trong đó có các nguyên nhân chính sau đây: Thứ nhất, người dân có thói quen gửi đơn khởi kiện qua bưu điện hay nộp trực tiếp tại cơ quan tài phán và chưa có thói quen gửi đơn khởi kiện qua bưu điện hay nộp trực tiếp tại cơ quan tài phán và chưa có thói quen gửi đơn khởi kiện trực tuyến. Thứ hai, văn bản vẫn chỉ coi gửi trực tuyến đơn khởi kiện có giá trị tương đương như gửi qua bưu điện hay nộp trực tiếp tại cơ quan tài phán (chưa coi gưi trực tuyến là ưu tiên hàng đầu). Thứ ba, chúng ta tuy có hướng dẫn nhưng chưa thực sự cụ thể để nguyên đơn có thể gửi trực tuyến đơn khởi kiện. [4]

  • Về gửi tài liệu tố tụng đến các bên, chủ thể khác.

Thực tế, cơ quan tài phán phải gửi tài liệu tố tụng tới đương sự hay cơ quan tố tụng khác như Viện kiểm sát trong đó phải kể đến giấy triệu tập và quyết định, phán quyết giải quyết tranh chấp.

Hoạt động của Tòa án hiện nay khá vất vả trong việc gửi tài kiệu nêu trên nhất là đối với giấy triệu tập (có khi còn phải đến tận nơi của đương sự, thậm chí phải có sự can thiệp của cơ quan có thẩm quyền để niêm yết giấy triệu tập). Trọng tài cũng đã gặp trường hợp phán quyết trọng tài bị hủy với lý do giấy triệu tập bằng giấy không có từ

“triệu tập” hay gặp phải trường hợp việc gửi phán quyết trọng tài chưa được coi là hợp lệ khi phong bì thư không thể hiện được nội dung bên trong là phán quyết trọng tài.

Với thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, những khó khăn trên có thể được lược bỏ khi cơ quan tài phán được gửi trực tiếp cho các đương sự hay chủ thể khác qua mạng và bộ phận Thư ký của Tòa án sẽ giảm bớt công việc liên quan đến việc chuyển tài liệu tố tụng, nhất là giấy triệu tập đương sự.

Bên cạnh việc gửi truyền thống như nêu trên, Điều 176 Bộ luật tố tụng dân sự quy định “việc cấp, tống đạt, thông báo bằng phương tiện điện tử được thực hiện theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử. Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Điều này.”

Quy định này đã được hướng dẫn tại Nghị quyết số 04/2016/NQ-HĐTP, theo đó, người khởi kiện, người tham gia tố tụng được lựa chọn giao dịch điện tử với Tòa án theo một trong các hình thức sau: Gửi và nhận thông điệp dữ liệu điện tử với Tòa án, chỉ nhận thông điệp dữ liệu điện tử với Tòa án, chỉ nhận thông điệp dữ liệu điện tử do Tòa án cấp, tống đạt, thông báo. Tuy nhiên, việc gửi trực tuyến này phụ thuộc vào ý chí của đương sự nên không phát triển vì khoản 2 Điều 173 Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “Cấp, tống đạt, thông báo bằng phương tiện điện tử theo yêu cầu của đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác phù hợp với quy định của pháp luật về giao dịch điện tử”. Khóa luận: Thực trạng nhận thức mới về pháp luật công nghiệp.

Pháp luật về trọng tài thương mại cũng cho phép Trung tâm trọng tài gửi văn bản tố tụng trực tuyến cho các bên tranh chấp vì khoản 2 Điều 12 Luật Trọng tài thương mại quy định: “Các thông báo, tài liệu có thể được trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài gửi bằng phương thức giao trực tiếp, thư bảo đảm, thư thường, fax, telex, telegram, thư điện tử hoặc bằng phương thức khác có ghi nhận việc gửi này”. Tuy nhiên, đối với giấy triệu tập và phán quyết trọng tài, việc gửi cho các bên hiện nay vẫn theo phương thức truyền thống qua đường bưu điện (phương thức điện tử chỉ mang tính bổ sung, không thay thế phương thức thủ công vừa nêu).

  • Về tham gia phiên xét xử

Tranh chấp hiện nay được giải quyết thông qua phiên xét xử (đối với trọng tài là phiên họp giải quyết tranh chấp). Ở đây, Bộ luật tố tụng dân sự và Luật Trọng tài thương mại lần lượt quy định: “Việc xét xử phải bằng lời nói và được tiến hành tại phòng xử án” (khoản 2 Điều 225 Bộ luật tố tụng dân sự), “các bên có thể trực tiếp hoặc ủy quyền cho người đại diện tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp” (khoản 2 Điều 55 Luật Trọng tài thương mại) và thực tế hiện nay, đương sự cũng như các thành phần khác của họa đôngn tố tụng phải có mặt tại phiên xét xử.

Thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0 có thể làm thay đổi thực trạng trên. Cụ thể, đương sự vẫn tham gia phiên xét xử mà không cần có mặt tại phòng xét xử thông qua audioconference (trình bày tiếng từ xa) hay videoconference (trình bày hình tiếng từ xa). Với hướng trên, khả năng phải hoãn phiên tòa xét xử do một bên không thể có mặt tại phòng xét xử sẽ giảm chi phí cho đương sự cũng sẽ giảm mạnh vì họ vẫn được tham gia phiên xét xử mà không phải mất thời gian di chuyển đến địa điểm xét xử (đôi khi rất xa so với họ). Cơ quan tài phán cũng tiết kiệm được chi phí do không phải tổ chức đón tiếp đương sự tại địa điểm xét xử. Người tiến hành tố tụng như Thẩm phán, Kiểm sát viên, Trọng tài viên cũng cần tham gia vào phiên xét xử.

BLTTDS chưa thấy có quy định về việc tham gia phiên xét xử trực tuyến nêu trên mà theo hướng Tòa án tiếp tục giải quyết nếu đương sự hay Viện kiểm sát vắng mặt (bên cạnh việc hoãn nếu có lý do chính đáng).

Đối với đương sự, pháp luật trọng tài cũng không tiến bộ hơn vì Luật Trọng tài thương mại quy định: “1. Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp mà vắng mặt không có lý do chính đáng hoặc rời phiên hợp giải quyết tranh chấp mà không được Hội đồng trọng tài chấp thuận thì bị coi là đã rút đơn khởi kiện…; 2. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp mà vắng mặt không có lý do chính đáng hoặc lý do không được Hội đồng trọng tài chấp thuận thì Hội đồng trọng tài vẫn tiếp tục giải quyết tranh chấp căn cứ vào tài liệu và chứng cứ đã có” (khoản 1, 2 Điều 56). Luật Trọng tài thương mại còn quy định: “Theo yêu cầu của các bên, Hội đồng trọng tài có thể căn cứ vào hồ sơ đã có để tiến hành giải quyết tranh chấp mà không cần sự có mặt của các bên” (khoản 3 Điều 56). Điều này cho thấy, pháp luật trọng tài theo hướng các bên tham gia trực tiếp hoặc không tham gia nhưng chưa đề cập rõ ràng đến khả năng các bên tham gia phiên xét xử từ xa qua audioconference hay videoconference. Khóa luận: Thực trạng nhận thức mới về pháp luật công nghiệp.

  • Về biên bản phiên xét xử

Pháp luật trọng tài không có quy định về biên bản phiên giải quyết tranh chấp nhưng pháp luật tố tụng có quy định chi tiết về nội dung này. Cụ thể, biên bản phiên tòa phải có “đầy đủ” các nội dung sau: “Mọi diễn biến tại phiên tòa từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc phiên tòa” và “các câu hỏi, câu trả lời và phát biểu tại Tòa” (khoản 1 Điều 236 Bộ luật tố tụng dân sự). Thực tế, đây là một công việc khá nặng cho Tòa án và thường phát sinh căng thẳng với đương sự (cho rằng biên bản không đầy đủ). Với thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0, khó khăn trên có thể được lược bỏ bằng cách ghi âm và ghi hình đầy đủ diễn biến phiên giải quyết tranh chấp. Với sự phát triển của công nghệ số, việc ghi âm và ghi hình cũng như lưu trữ có thể được triển khai để giảm tải áp lực cũng như sức người, chi phí cho phía cơ quan giải quyết tranh chấp. Thực tế, việc ghi âm và ghi hình diễn biến phiên xét xử (nếu chất lượng ghi âm và ghi hình được bảo đảm) sẽ toàn diện và chính xác hơn biên bản giấy hiện nay, vì biên bản giấy do con người viết nên chắc chắn sẽ có những thiếu sót, lược bỏ nội dung và thường không thẻ hiện được tâm trạng của những người tham gia phiên xét xử. Nói cách khác, thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ mang lại kết quả tốt hơn so với cơ chế truyền thống hiện nay là lập biên bản bẳng văn bản.

BLTTDS đã tiếp cận phần nào thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0. Trong khoản 2 Điều 236 nêu trên quy định: “Ngoài việc ghi biên bản phiên tòa, Hội đồng xét xử có thể thực hiện việc ghi âm, ghi hình về diễn biến phiên tòa”. Tuy nhiên, việc tiếp cận thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0 còn rất hạn chế vì ghi âm, ghi hình còn tùy vào ý kiến của Hội đồng xem xét và quan trọng là không thay thế biên bản giấy nên các khó khăn nêu trên chưa được giải tỏa. Khóa luận: Thực trạng nhận thức mới về pháp luật công nghiệp.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Khóa luận: Giải pháp nhận thức mới về pháp luật công nghiệp

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x