Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất thải y tế tại Hà Nội

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất thải y tế tại Hà Nội hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất thải y tế, Thực tiễn áp dụng trên địa bàn Hà Nội dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này. 

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Có thể nói rằng vấn đề môi trường hiện nay là một trong những vấn đề được đặt ra hàng đầu thu hút sự quan tâm của các quốc gia và cộng đồng trên thế giới và phần lớn các vấn đề về môi trường đều bắt nguồn từ phát triển. Nhưng giống như Trái Đất cần phải chuyển động không ngừng thì con người cũng như tất cả mọi sinh vật khác không thể đình chỉ tiến hoá và ngừng sự phát triển của mình. Vì thế tất cả chúng ta cần hiểu con đường để giải quyết mâu thuẫn giữa môi trường và phát triển là phải chấp nhận phát triển nhưng cần giữ sao cho phát triển không tác động một cách tiêu cực tới môi trường.

Trong thế giới phẳng hiện nay, với vị trí là nước nằm ở khu vực Châu Á – một trong những khu vực trung tâm của thế giới, Việt Nam đã được chứng kiến sự phát triển nhanh chóng của các nước láng giềng và trong khu vực suốt thời gian qua; đồng thời cũng nhìn thấy được những bài học to lớn về môi trường của những nước đi trước. Những năm gần đây, cùng với sự hội nhập chung thế giới, tốc độ đô thị hóa, công nghiệp hóa ở Việt Nam tại các thành phố, các khu đô thị đã gia tăng mạnh mẽ và đang có xu hướng tiếp tục gia tăng trong những năm tới kéo theo vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên trầm trọng.

Tính đến nay, có rất nhiều loại chất thải khác nhau phát sinh từ các hoạt động của con người mà xu hướng ngày càng tăng lên về số lượng cũng như mức độ nguy hại, bao gồm: chất thải sinh hoạt, chất thải công nghiệp, chất thải xây dựng,… và một trong những loại chất thải nguy hiểm hơn cả là chất thải y tế. Tại Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 15 tháng 11 năm 2004 về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nêu lên các nhiệm vụ chung cần phải làm trong giai đoạn phát triển kinh tế quan trọng đưa đất nước đổi mới. Một trong những nhiệm vụ cấp thiết chính là “phòng ngừa và hạn chế các tác động xấu tới môi trường” và phải “…Tăng cường kiểm soát ô nhiễm tại nguồn; chú trọng quản lý chất thải, nhất là chất thải nguy hại trong sản xuất công nghiệp, dịch vụ y tế, nghiên cứu khoa học…”.

Với tính chất phức tạp, khả năng lây nhiễm cao và gây ảnh hưởng lớn tới sức khỏe cộng đồng nên việc tiếp xúc với chất thải y tế có thể gây nên bệnh tật hoặc tổn thương trực tiếp. Các chất thải y tế có thể chứa đựng các yếu tố truyền nhiễm, là chất độc hại trong chất thải y tế, các loại hóa chất, chất phóng xạ,… vì vậy các nhân viên tiếp xúc với chất thải y tế nguy hại là những người có nguy cơ nhiễm bệnh tiềm tàng cao nhất. Những người làm việc trong cơ sở y tế cho đến cộng đồng cũng có thể lây nhiễm mầm bệnh từ chất thải y tế do sự sai sót trong khâu quản lý.

Hà Nội là nơi có mạng lưới hệ thống y tế tập trung gồm nhiều bệnh viện trung ương lớn cũng như rất nhiều cơ sở khám chữa bệnh tư nhân. Bởi thế, đi cùng với quy mô, số lượng bệnh nhân, chất lượng khám chữa bệnh cũng là khối lượng chất thải y tế lớn được thải ra thường xuyên, là nguồn chất thải vô cùng nguy hiểm đối với con người và môi trường. Do đó việc phát sinh và thải bỏ chất thải y tế nếu không được kiểm soát chặt chẽ sẽ gây nguy hại đến môi trường xung quanh và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người dân. Về mặt pháp luật, các quy định về trách nhiệm quản lý của các bộ ngành, các cơ quan chức năng còn lỏng lẻo, trong nhiều năm hệ thống pháp luật vẫn chưa đủ mức răn đe, biện pháp áp dụng của pháp luật chưa triệt để, nghiêm minh. Hà Nội là trung tâm chính trị văn hóa xã hội của cả nước, được coi là tấm gương đi đầu của cả nước trên các “mặt trận” thế nhưng việc áp dụng hệ thống pháp luật, quản lý bằng pháp luật đối với vấn đề ô nhiễm chất thải y tế còn nhiều bất cập khi thực hiện. Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất thải y tế tại Hà Nội.

Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật về quản lý chất thải y tế và thực tiễn áp dụng trên địa bàn Hà Nội” có ý nghĩa thiết thực cả về mặt lý luận và thực tiễn.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Ở Việt Nam hiện nay, các công trình nghiên cứu liên quan đế hệ thống pháp luật quản lý chất thải nói chung, pháp luật quản lý chất thải y tế nói riêng, là lĩnh vực tương đối mới so với các lĩnh vực pháp luật khác.

Đã có nhiều công trình nghiên cứu của các cá nhân về đề tài chất thải y tế dưới lĩnh vực khoa học môi trường và bảo vệ môi trường được xem xét trên các khía cạnh khác nhau như ảnh hưởng của chất thải y tế tới môi trường và cộng đồng, quản lý chất thải rắn nguy hại tại các bệnh viện,…  Về cấp Bộ, có đề tài “Nghiên cứu thực trạng, tình hình quản lý và ảnh hưởng của chất thải y tế của 6 bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh lên môi trường và sức khỏe cộng đồng, đề xuất các giải pháp can thiệp” của PGS.TS Đinh Hữu Dung được thực hiện  từ năm 20012003, cơ quan chủ trì đề tài là Trường Đại học Y Hà Nội, cấp quản lý đề tài là Bộ Y tế đã nghiên cứu các chỉ điểm đánh giá tình trạng vệ sinh môi trường, sự nguy hại của chất thải y tế đến tình hình sức khỏe, bệnh tật và tử vong; các công nghệ xử lý chất thải y tế. Dựa trên các kết quả điều tra thực tế, tác giả đã bàn luận đến các thực trạng ô nhiễm của chất thải y tế lên môi trường và quản lý chất thải y tế hiện nay, tình hình tiếp xúc chất thải bệnh viện đối với dân cư của vùng tiếp giáp, tình hình sức khỏe của người dân tiếp giáp bệnh viện, từ đó đề xuất các giải pháp về quản lý chất thải y tế. Một số công trình nghiên cứu khác dưới dạng Luận văn thạc sỹ hay các bài nghiên cứu trên tạp chí cũng đã nghiên cứu về quản lý chất thải y tế như:

Tác giả Nguyễn Ngọc Quý, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội với đề tài: “Quản lý chất thải rắn y tế nguy hại tư nhân tại Hà Nội” năm 2012 đã tổng quan về chất thải y tế và ảnh hưởng của chất thải rắn y tế nguy hại đến môi trường và cộng đồng tại Việt Nam. Tác giả cũng nghiên cứu hiện trạng quản lý chất thải rắn y tế nguy hại tư nhân tại tại quận Hai Bà Trưng và quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý chất thải rắn y tế tại quận Hai Bà Trưng và quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.

Tiếp đó tác giả Đinh Viết Cường, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội với: “Nghiên cứu, xây dựng kế hoạch quản lý chất thải rắn y tế cho các bệnh viện tuyến trung ương và tuyến tỉnh” năm 2014 đã phân tích, nghiên cứu và đánh giá tình hình phát sinh (khối lượng và thành phần), thu gom, xử lý và thực trạng công tác quản lý chất thải rắn y tế tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Ninh Bình và Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức – Hà Nội. Trên cơ sở đó tác giả đề xuất xây dựng và quản lý chất thải rắn y tế cho bệnh viện tuyến trung ương và tuyến tỉnh.

Dưới góc độ pháp lý, các công trình nghiên cứu phần lớn tập trung nghiên cứu về các vấn đề pháp luật liên quan đến quản lý chất thải nguy hại như: Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất thải y tế tại Hà Nội.

Tác giả Lưu Việt Hùng, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội với đề tài: “Pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường tại Việt Nam” năm 2009 đã nghiên cứu nhu cầu điều chỉnh pháp luật, các khái niệm, yếu tố tác động đối với hoạt động quản lý chất thải; phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về việc quản lý chất thải rắn từ đó tìm ra những sai sót, vướng mắc, các vấn đề phát sinh, các vi phạm pháp luật, dẫn đến nhu cầu điều chỉnh pháp luật. Đề xuất phương hướng và các giải pháp hoàn thiện, cơ chế thực hiện pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường nhằm mục tiêu phát triển bền vững.

Hay năm 2011 tác giả Bùi Đức Nhật, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội đã nghiên cứu đề tài: “Pháp luật về phí môi trường đối với chất thải rắn ở Việt Nam” nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về phí và pháp luật về bảo vệ môi trường nói chung và phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn nói riêng; nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống của pháp luật Việt Nam về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn. Từ đó đưa ra các yêu cầu hoàn thiện quy định của pháp luật bảo vệ môi trường về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn và các giải pháp để hoàn thiện các quy định này.

Tác giả Lê Phương Linh, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội với đề tài: “Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại và thực tiễn áp dụng trên địa bàn Hà Nội” năm 2012 phân tích, nghiên cứu, đánh giá những quan điểm lý luận chung về chất thải nguy hại trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung; từ đó xem xét, đánh giá một số quy định pháp luật hiện hành về quản lý chất thải nguy hại cũng như thực tiễn áp dụng trên địa bàn Hà Nội, tìm ra những tồn tại, hạn chế của pháp luật trong lĩnh vực này; đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật quản lý chất thải nguy hại tại Hà Nội và trên cả nước hiện nay và trong thời gian sắp tới.

Ngoài ra còn rất nhiều bài báo, bài phân tích, bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành về quản lý chất thải y tế như bài viết “Quản lý chất thải từ các bệnh viện ở Việt Nam: Thực trạng và định hướng trong tương lai” của tác giả Nguyễn Thị Kim Thái đăng trên trang thông tin của Tổng cục môi trường; bài phỏng vấn đối với Phó Cục trưởng Cục Quản lý môi trường y tế Trần Đắc Phu về “Thực trạng và một số giải pháp quản lý chất thải của ngành y tế” đăng trên trang web của Tổng cục môi trường,…

Các công trình nghiên cứu trên dù đứng dưới nhiều góc độ nhiều khía cạnh khác nhau để phân tích và nghiên cứu nhưng đối với các quy định của pháp luật về quản lý chất thải y tế vẫn cần tiếp tục phải nghiên cứu và hoàn thiện theo hướng rõ ràng, cụ thể thống nhất và trong phạm vi khóa luận này sẽ nghiên cứu cụ thể trên địa bàn Hà Nội.

3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài. Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất thải y tế tại Hà Nội.

Mục đích của khóa luận làm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về chất thải y tế, nghiên cứu các quy định của pháp luật quản lý chất thải y tế và đánh giá thực trạng pháp luật quản lý chất thải y tế nguy hại trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay. Trên cơ sở đó khóa luận đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật quản lý chất thải y tế trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Để đạt được những mục đích trên, khóa luận có những nhiệm vụ sau:

  • Nghiên cứu thực trạng, đánh giá những quan điểm lý luận chung về chất thải y tế và pháp luật quản lý chất thải y tế trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung.
  • Nghiên cứu, đánh giá một số quy định pháp luật hiện hành về quản lý chất thải y tế và phân tích số liệu, nghiên cứu thực tiễn áp dụng trên địa bàn Hà Nội để tìm ra những tồn tại, hạn chế của pháp luật trong lĩnh vực này.
  • Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật quản lý chất thải y tế tại Hà Nội và trong cả nước hiện nay và trong thời gian sắp tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

Đối tượng nghiên cứu của khóa luận bao gồm:

  • Các quy định pháp luật của Việt Nam về quản lý chất thải y tế
  • Thực tiễn thi hành pháp luật quản lý chất thải y tế trên địa bàn Hà Nội

Về phạm vi nghiên cứu, Pháp luật Quản lý chất thải y tế được nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên để phù hợp với tên gọi của đề tài và chuyên ngành nghiên cứu thì khóa luận chỉ tập trung nghiên cứu pháp luật về quản lý chất thải y tế nguy hại ở các khía cạnh sau:

Khóa luận tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về quản lý chất thải y tế và pháp luật quản lý chất thải y tế; thực trạng và giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật quản lý chất thải y tế tại Hà Nội.

5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài

Để thực hiện được các mục đích và nhiệm vụ đã đặt ra, trong khóa luận tác giả đã sử dụng một số các phương pháp nghiên cứu như sau: Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất thải y tế tại Hà Nội.

  • Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh được sử dụng chủ yếu khi phân tích cơ sở lý luận và các quy định nội dung của pháp luật về quản lý chất thải y tế nguy hại.
  • Phương pháp thống kê được sử dụng trong quá trình khảo sát thực tiễn thông qua số liệu báo cáo của các cơ quan nhà nước khác và số liệu từ các báo cáo nghiên cứu khoa học của các tác giả khác nhau.
  • Phương pháp lịch sử được sử dụng nhằm tìm hiểu quy định của pháp luật về quản lý chất thải y tế nguy hại ở Việt Nam hiện nay với hệ thống pháp luật quản lý chất thải y tế nguy hại trong các giai đoạn trước đây.
  • Phương pháp chuyên gia được sử dụng để khái quát hóa các vấn đề lý luận cũng như các nhận định và bình luận về các nội dung của những quy định pháp luật hiện hành về quản lý chất thải y tế nguy hại của Việt Nam hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận

Những kết quả nghiên cứu của khóa luận là:

  • Tổng hợp các kết quả nghiên cứu về quản lý chất thải y tế trên địa bàn Hà Nội.
  • Đề xuất một số phương hướng hoàn thiện nhằm đảm bảo quyền con người được sống trong môi trường trong lành.
  • Kết quả của đề tài dùng làm nguồn tài liệu tham khảo, học tập trong công tác nghiên cứu và giảng dạy khoa học luật môi trường trong các trường chuyên luật và các trường giảng dạy pháp luật môi trường.

7. Kết cấu của khóa luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của khóa luận gồm 3 chương:

  • Chương I: Một số vấn đề lý luận về quản lý chất thải y tế.
  • Chương II: Quy định của pháp luật Việt Nam về quản lý chất thải y tế, thực tiễn áp dụng trên địa bàn Hà Nội hiện nay.
  • Chương III: Phương hướng hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải.

CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI Y TẾ Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất thải y tế tại Hà Nội.

1.1. Một số khái niệm

1.1.1. Chất thải y tế

Trên thế giới cũng như ở tại Việt Nam, việc định nghĩa “Thế nào là chất thải y tế?” hay “Chất thải y tế là gì?” đã được các nhà khoa học, các nhà lập pháp khi nghiên cứu đều nhằm vào mục đích chính là đảm bảo một khái niệm rõ ràng, cụ thể nhất để mọi thành viên trong xã hội có thể hình dung chính xác về các loại chất thải y tế, phân biệt với các loại chất thải khác, nhận biết những đặc tính của chất thải y tế, từ đó ý thức được sự nguy hiểm của chất thải y tế.

Theo WHO, chất thải y tế bao gồm tất cả các chất thải phát sinh từ các cơ sở chăm sóc y tế, cơ sở nghiên cứu và phòng thí nghiệm. Ngoài ra, chất thải y tế còn bao gồm các chất thải có nguồn gốc từ các nguồn phát sinh nhỏ hoặc phân tán ra ngoài, ví dụ như việc thực hiện các quá trình chăm sóc sức khỏe tại nhà (lọc máu, tiêm isulin,…).

Tuy nhiên để phân biệt rõ hơn chất thải y tế với các loại chất thải khác, cụ thể các loại chất thải phát sinh từ các cơ sở nghiên cứu, các phòng thí nghiệm phải hoạt động về y tế thì mới được coi là chất thải y tế nên vào năm 2013 WHO đã chỉnh sửa lại khái niệm: Chất thải y tế bao gồm tất cả các chất thải phát sinh từ các cơ sở chăm sóc y tế, trung tâm nghiên cứu và phòng thí nghiệm liên quan đến các hoạt động y tế. Ngoài ra, chất thải y tế còn bao gồm các chất thải có nguồn gốc từ các nguồn phát sinh nhỏ hoặc phân tán ra ngoài, kể cả các chất thải phát sinh trong quá trình chăm sóc sức khỏe tại nhà (như lọc máu, tự dùng isulin, chăm sóc hồi phục…”).

Ở Việt Nam vấn đề tiếp cận chất thải y tế đã được quan tâm từ khá sớm, năm 1999 trong hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam đã ban hành riêng bộ quy chế áp dụng cho việc quản lý chất thải y tế. Theo đó chất thải y tế là chất thải phát sinh trong các cơ sở y tế, từ hoạt động khám chữa bệnh, chăm sóc, xét nghiệm, phòng bệnh, nghiên cứu, đào tạo. Chất thải y tế có thể ở cả ba dạng là dạng rắn (rác thải y tế), dạng lỏng (nước thải) và dạng khí (khí thải từ các công trình, thiết bị xử lý, tiêu hủy chất thải y tế). Nhìn chung khái niệm trên tương đối đầy đủ, chính xác và tương thích với khái niệm về chất thải y tế của WHO tại thời điểm đó. Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất thải y tế tại Hà Nội.

Cho tới năm 2007, khi ban hành Quy chế quản lý chất thải y tế mới thay thế năm 1999, khái niệm chất thải y tế đã được thay đổi: chất thải y tế là chất thải ở thể rắn, thể lỏng, thể khí và được thải ra từ các cơ sở y tế bao gồm chất thải y tế nguy hại và chất thải thông thường. Cơ sở y tế được quy định bao gồm các cơ sở khám, chữa bệnh, nhà hộ sinh, trạm y tế, cơ sở nghiên cứu y dược, y tế dự phòng; cơ sở đào tạo cán bộ y tế; cơ sở sản xuất, kinh doanh dược phẩm, vắcxin, sinh phẩm y tế. Tuy khái niệm về chất thải y tế đã được chỉ ra tại các văn bản quy chế nhưng đến năm 2009 thì khái niệm về chất thải y tế mới được đưa vào Luật Khám bệnh, chữa bệnh, cụ thể bao gồm chất thải rắn, chất thải lỏng, chất thải khí, chất thải hóa chất, chất thải phóng xạ được thải ra trong quá trình khám bệnh, chẩn đoán, điều trị, chăm sóc người bệnh và sinh hoạt của người bệnh trong cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

Và cho tới thời điểm gần đây nhất, trong lần ban hành Thông tư liên tịch số 58/2015/TTLT-BYT-BTNMT ngày 31/12/2015 của Bộ Y tế và Bộ Tài nguyên môi trường quy định về quản lý chất thải y tế thay thế các quy chế quản lý chất thải y tế trước đó đã một lần nữa thay đổi về khái niệm chất thải y tế trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Chất thải y tế được hiểu là chất thải phát sinh trong quá trình hoạt động của các cơ sở y tế, bao gồm chất thải y tế nguy hại, chất thải y tế thông thường và nước thải y tế [3]. Riêng chất thải y tế phóng xạ đã được tách ra quy định riêng với tên gọi “chất thải sinh học y tế” nằm trong “chất thải phóng xạ sinh học” được định nghĩa là các chất thải sinh học có chứa hoặc nhiễm bẩn các nhân phóng xạ với mức độ lớn hơn mức thanh lý, có khả năng thối rữa hoặc gây bệnh phát sinh từ các hoạt động khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tế, phòng thí nghiệm y học và từ nhà xác. Nhìn chung, tại lần sửa đổi bổ sung khái niệm này, khái niệm chất thải y tế trong pháp luật Việt Nam đã có sự thay đổi khác biệt so với các lần quy định trước, nhấn mạnh sự có mặt của nước thải y tế và quy định chi tiết riêng đối với việc quản lý các chất thải phóng xạ phát sinh từ các hoạt động y tế, nay gọi chung là “chất thải sinh học y tế”.

Mặc dù trong chất thải y tế gồm chất thải y tế nguy hại, chất thải y tế thông thường và nước thải y tế nhưng tỷ lệ chất thải y tế nguy hại chỉ chiếm phần nhỏ trong số chất thải y tế. Theo WHO, trong chất thải y tế thì có khoảng 75 – 90% lượng chất thải là chất thải y thế không nguy hại hoặc chất thải y tế thông thường, được phát sinh chủ yếu từ các khu vực hành chính, nhà bếp, dịch vụ dọn dẹp tại các cơ sở y tế và cũng có thể chất thải phát sinh trong việc bảo trì, tu sửa vật chất của cơ sở y tế. Do đó chỉ có khoảng 10 – 25% lượng chất thải y tế là chất thải y tế nguy hại có khả năng gây ra các tác hại tới sức khỏe và môi trường[5]. Tuy nhiên không thể chủ quan đối với việc chất thải y tế chủ yếu là chất thải y tế không nguy hại được, bởi nếu không được quản lý tốt, các chất thải loại này cũng có thể là chất thải nguy hại do có nguy cơ lây nhiễm từ sự phát thải của các nguồn bệnh hoặc các chất bài tiết của bệnh nhân gây bệnh.

Vì vậy, chất thải y tế là loại chất thải cần phải được quan tâm, quản lý và xử lý một cách triệt để.

1.1.2. Quản lý chất thải y tế và pháp luật về quản lý chất thải y tế Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất thải y tế tại Hà Nội.

Ở phần trên tác giả đã đề cập đến khái niệm về chất thải y tế, và để hiểu rõ hơn về vấn đề pháp luật quản lý chất thải y tế, trong mục này tác giả sẽ đề cập tới khái niệm về “quản lý chất thải y tế”, tổng hợp và đưa ra khái niệm chung “pháp luật về quản lý chất thải y tế”.

Quản lý chất thải y tế đảm bảo môi trường tại các cơ sở y tế và môi trường xung quanh là vấn đề đã được đặt ra tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Tại Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 quy định các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải có trách nhiệm phân loại, thu gom và xử lý chất thải y tế theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường[6]. Tại Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 cũng đưa ra các yêu cầu về việc bảo vệ môi trường tại các bệnh viện, cơ sở y tế bao gồm: đối với nước thải y tế phải thực hiện thu gom, xử lý đúng quy chuẩn môi trường; đối với các chất thải rắn y tế cần phân loại trực tiếp tại nguồn, thu gom, vận chuyển, lưu giữ và xử lý đảm bảo đạt quy chuẩn; các chất thải có mang mầm bệnh lây nhiễm, khí thải phải được xử lý loại bỏ mầm bệnh đạt đúng quy chuẩn kỹ thuật; các cơ sở y tế có sử dụng chất phóng xạ phải đáp ứng các yêu cầu về an toàn bức xạ hạt nhân; chuẩn bị các trang thiết bị phòng ngừa, ứng phó các sự cố môi trường do chất thải y tế [7]. Vì vậy, quản lý chất thải y tế chính là các hoạt động trong quá trình giảm thiểu, phân định, thu gom, vận chuyển, tái chế, xử lý chất thải y tế và giám sát quá trình thực hiện.

Quá trình giảm thiểu, phân định chất thải y tế là các hoạt động như giảm lượng chất thải y tế tại nguồn, sử dụng các sản phẩm có thể tái chế, tái sử dụng; hoạt động quản lý, kiểm soát chặt chẽ các quá trình thực hành và phân loại chính xác chất thải nhằm mục đích hạn chế tốt đa sự phát sinh của chất thải y tế. Thu gom chất thải là quá trình tập hợp chất thải từ nơi phát sinh và vận chuyển các chất thải y tế về khu vực lưu giữ, xử lý ban đầu chất thải y tế (là quá trình khử khuẩn hoặc tiệt khuẩn các chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao) trong khuôn viên cơ sở y tế. Khi đó quá trình vận chuyển chất thải y tế là quá trình chuyên chở từ nơi lưu giữ trong cơ sở y tế cho đến nơi lưu giữ, xử lý tiêu hủy chất thải của cơ sở xử lý chất thải y tế cho cụm cơ sở y tế, cơ sở xử lý chất thải y tế nguy hại tập trung hoặc cơ sở xử lý chất thải nguy hại tập trung có hạng mục xử lý chất thải y tế, sử dụng các công nghệ cao nhằm làm mất khả năng gây nguy hại của chất thải đối với sức khỏe của con người và môi trường.

Quản lý chất thải y tế là hoạt động quan trọng và có ảnh hưởng lớn đến việc bảo vệ sức khỏe con người và môi trường xung quanh. Quản lý có chặt chẽ, nghiêm túc thì mới hạn chế được những tác động xấu của chất thải y tế gây ra. Cũng vì thế mà đối với pháp luật trên thế giới hay pháp luật Việt Nam cũng đều có những văn bản riêng quy định về việc quản lý chất thải y tế. Đến nay chưa có khái niệm cụ thể nào về “pháp luật quản lý chất thải y tế” là gì, nhưng dựa trên việc phân tích và tổng hợp các thông tin trong phạm vi hiểu biết của mình, tác giả xin phép đưa ra định nghĩa như sau: Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất thải y tế tại Hà Nội.

Pháp luật về quản lý chất thải y tế là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật do các chủ thể là các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban hành quy định về các hoạt động quản lý chất thải bao gồm quá trình giảm thiểu, phân định, thu gom, vận chuyển, tái chế, xử lý chất thải y tế và giám sát quá trình thực hiện nhằm hạn chế những tác động xấu của chất thải y tế tới môi trường và sức khỏe con người, đảm bảo cho con người được hưởng quyền sống trong môi trường trong lành”.

1.2. Phân loại chất thải y tế

Chất thải y tế là loại chất thải có nhiều thành phần phức tạp nên được phân chia thành nhiều loại khác nhau. Tuy nhiên cũng có nhiều cách phân loại và cách giải thích về chất thải y tế khác nhau, dưới đây là hai cách phân loại: một cách phân loại theo WHO và một cách theo pháp luật Việt Nam.

1.2.1. Theo WHO

Theo WHO đã phân chia chất thải y tế thành hai loại chính:

Chất thải y tế thông thường (Non-hazardous or general health-care waste) là các chất thải không được tiếp xúc với các tác nhân truyền nhiễm, hóa chất độc hại hoặc các chất phóng xạ và các vật sắc nhọn không gây nguy hiểm. Hơn một nửa trong số tất cả các chất thải không nguy hại từ các bệnh viện là giấy, các tông và nhựa, trong khi phần còn lại bao gồm thực phẩm không sử dụng, kim loại, thủy tinh, vải, nhựa và gỗ; chiếm khoảng 75 – 90% lượng chất thải y tế.

Chất thải y tế nguy hại (Hazardous health-care waste) bao gồm 6 nhóm là chất thải vật sắc nhọn, chất thải lây nhiễm, chất thải bệnh phẩm, chất thải dược phẩm, chất thải hóa học và chất thải phóng xạ, từng loại đặc tính của chất thải nguy hại được ghi nhận như sau: Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất thải y tế tại Hà Nội.

Chất thải vật sắc nhọn (Sharps waste): Đây là loại chất thải có nguy cơ gây thương tổn thương cho da như đứt, thủng (ví dụ: kim tiêm, dao mổ, tuýp thủy tinh vỡ, …). Cho dù chất thải này có bị nhiễm khuẩn hay không thì chúng vẫn được coi như loại chất thải có nguy cơ lây nhiễm và nguy hại cao. Vì vậy chất thải vật sắc nhọn cần phải được quan tâm và chú ý khi phân loại, thu gom, lưu giữ và vận chuyển nhằm đảm bảo an toàn cho nhân viên y tế, nhân viên vệ sinh và môi trường.

Chất thải lây nhiễm (Infectious waste): Là chất thải có chứa các mầm bệnh như: vi khuẩn, vi rút, ký sinh trùng, nấm với số lượng đủ lớn để gây bệnh cho những người dễ bị cảm nhiễm. Nhóm chất thải này bao gồm: Chất thải từ các phòng xét nghiệm; phòng mổ, chất thải từ khám nghiệm tử thi, xác động vật đã bị nhiễm bệnh, có nguy cơ lây nhiễm cao; chất thải từ các bệnh nhân bị nhiễm bệnh trong khu cách ly.

Chất thải bệnh phẩm (Pathological waste): Là chất thải có chứa các mô, bệnh phẩm, bộ phận cơ thể hoặc các dịch cơ thể như máu, dịch cơ thể và các chất thải khác từ phẫu thuật và khám nghiệm tử thi trên bệnh nhân bị bệnh nhiễm trùng, bào thai con người và xác động vật bị nhiễm bệnh. Chất thải bệnh phẩm và chất thải giải phẫu có thể bị nhiễm khuẩn hoặc không bị nhiễm khuẩn nhưng theo khuyến cáo những chất thải này nên được coi là chất thải lây nhiễm.

Chất thải dược phẩm (Pharmaceutical waste): Bao gồm các loại thuốc quá hạn, thuốc không sử dụng, đổ, vỡ, các loại thuốc đặc trị, vắc xin, huyết thanh mà không còn cần thiết. Nhóm chất thải cũng gồm cả các dụng cụ, găng tay, chai lọ chứa đựng chúng.

Chất thải hóa học (Chemical waste): Chất thải này có thể tồn tại dưới dạng rắn, lỏng, khí được sinh ra trong quá trình chuẩn đoán, điều trị, tẩy rửa, khử trùng, thí nghiệm của bệnh viên,… chất thải này có các đặc tính chủ yếu là ăn mòn, gây nổ, gây độc tế bào.

Chất thải phóng xạ (Radioactive waste): Gồm các chất thải phóng xạ rắn, lỏng, khí phát sinh từ các hoạt động chuẩn đoán, điều trị và nghiên cứu. Các tia như tia X, tia gamma, gây ion hóa các chất trong tế bào và gây độc với gen.

1.2.2. Theo pháp luật Việt Nam Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất thải y tế tại Hà Nội.

Trong khái niệm về chất thải y tế được nêu ra tại khoản 1 điều 63 Luật

Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 đã đưa ra cách phân loại chất thải y tế bao gồm: Chất thải rắn, chất thải lỏng, chất thải khí, chất thải hóa chất và chất thải y tế phóng xạ. Tuy nhiên dựa vào các đặc điểm lý học, hóa học, sinh học và tính chất nguy hại, chất thải trong các cơ sở y tế được phân chia thành các nhóm chất thải lây nhiễm, chất thải nguy hại không lây nhiễm, chất thải thông thường và ngoài ra còn có thêm chất thải phóng xạ từ hoạt động y tế, cụ thể như sau:

  • Chất thải lây nhiễm bao gồm:

Chất thải lây nhiễm sắc nhọn là chất thải lây nhiễm có thể gây ra các vết cắt hoặc xuyên thủng bao gồm: kim tiêm; bơm liền kim tiêm; đầu sắc nhọn của dây truyền; kim chọc dò; kim châm cứu; lưỡi dao mổ; đinh, cưa dùng trong phẫu thuật và các vật sắc nhọn khác;

Chất thải lây nhiễm không sắc nhọn bao gồm: Chất thải thấm, dính, chứa máu hoặc dịch sinh học của cơ thể; các chất thải phát sinh từ buồng bệnh cách ly;

Chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao bao gồm: Mẫu bệnh phẩm, dụng cụ đựng, dính mẫu bệnh phẩm, chất thải dính mẫu bệnh phẩm phát sinh từ các phòng xét nghiệm an toàn sinh học, bao gồm các loại vi sinh vật có khả năng gây bệnh nặng cho người, có khả năng lây truyền sang người và có biện pháp phòng, chống lây nhiễm, điều trị hiệu quả trong trường hợp mắc bệnh[12];

Chất thải giải phẫu bao gồm: Mô, bộ phận cơ thể người thải bỏ và xác động vật thí nghiệm.

Chất thải nguy hại không lây nhiễm bao gồm các loại chất thải: Hóa chất thải bỏ bao gồm hoặc có các thành phần nguy hại; dược phẩm thải bỏ thuộc nhóm gây độc tế bào hoặc có cảnh báo nguy hại từ nhà sản xuất; thiết bị y tế bị vỡ, hỏng, đã qua sử dụng thải bỏ có chứa thủy ngân và các kim loại nặng; chất hàn răng amalgam thải bỏ; Các bình chứa áp suất chưa bảo đảm rỗng hoàn toàn; Các thiết bị vỡ, hỏng, đã qua sử dụng có chứa thủy ngân và các kim loại nặng (nhiệt kế, huyết áp kế…).

Chất thải thông thường: Là các chất thải không có yếu tố lây nhiễm, hóa học nguy hại, phóng xạ, dễ cháy, nổ bao gồm:

Chất thải rắn sinh hoạt phát sinh trong sinh hoạt thường ngày của con người và chất thải ngoại cảnh trong cơ sở y tế như chất thải phát sinh từ các buồng bệnh (trừ các buồng cách ly); chất thải phát sinh từ các công việc hành chính gồm giấy, báo, tài liệu, vật liệu đóng gói, thùng các tông, túi nilon, túi đựng phim; chất thải ngoại cảnh như lá cây, rác từ các khu vực ngoại cảnh.

Chất thải rắn thông thường phát sinh từ cơ sở y tế có yếu tố nguy hại dưới ngưỡng chất thải nguy hại như chất thải phát sinh từ các hoạt động chuyên môn y tế như chai thủy tinh, chai huyết thanh, các vật liệu nhựa, các loại bột bó trong gãy xương kín; những chất thải không dính máu, dịch sinh học và các chất hóa học nguy hại.

Và các sản phẩm thải lỏng không nguy hại. Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất thải y tế tại Hà Nội.

  • Chất thải phóng xạ từ hoạt động y tế:

Chất thải phóng xạ từ hoạt động y tế hay chất thải sinh học y tế, là một trong các nhóm thuộc Chất thải phóng xạ sinh học. Chất thải phóng xạ sinh học là chất thải sinh học có chứa hoặc nhiễm bẩn các nhân phóng xạ với mức hoạt độ lớn hơn giá trị nồng độ hoạt độ của các nhân phóng xạ cho phép gây nguy hại bức xạ đối với con người và môi trường xung quanh. Nguồn chất thải phóng xạ này có thể ở các dạng rắn, lỏng, khí và được phát sinh từ các hoạt động chuẩn đoán, điều trị, nghiên cứu và sản xuất. Chất thải sinh học y tế là các chất thải sinh học có chứa hoặc nhiễm bẩn các nhân phóng xạ với mức độ lớn hơn mức thanh lý, có khả năng thối rữa hoặc gây bệnh phát sinh từ các hoạt động khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tế, phòng thí nghiệm y học và từ nhà xác.

Trên đây là hai cách phân loại chất thải y tế trên thế giới và tại Việt Nam. Nhìn chung, việc phân loại nguồn chất thải y tế giữa Việt Nam so với thế giới tuy khác nhau về phân nguồn các nhóm chất thải nhưng sự chênh lệch không đáng kể và đã bao quát được các loại chất thải phát sinh từ các hoạt động cơ sở y tế.

1.3. Nguồn phát sinh chất thải y tế Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất thải y tế tại Hà Nội.

Chất thải y tế là loại chất thải phát sinh chủ yếu trong quá trình tiến hành các hoạt động khám chữa bệnh. Trong chất thải y tế, cho dù tỉ lệ thành phần phần trăm giữa chất thải nguy hại và chất thải không nguy hại (hoặc chất thải thông thường) có sự chệnh lệch lớn nhưng chất thải y tế nói chung nếu không được xử lý triệt để sẽ gây ảnh hưởng xấu đến môi trường và sức khỏe con người. Các nguồn phát chất thải y tế bao gồm:

  • Các bệnh viện: bệnh viện trung ương, bệnh viện huyện, bệnh viện trường đại học
  • Cơ sở y tế khác: Dịch vụ chăm sóc y tế khẩn cấp, trung tâm y tế và trạm xá, phòng khám sản khoa, phòng khám ngoại trú, trung tâm lọc máu, dịch vụ y tế quân sự, bệnh viện hoặc phòng khám tù nhân.
  • Các phòng thí nghiệm liên quan và các trung tâm nghiên cứu: các phòng thí nghiệm y tế và y sinh học, trung tâm nghiên cứu y tế.
  • Trung tâm nghiên cứu và thử nghiệm động vật
  • Ngân hàng máu và dịch vụ thu gom máu
  • Viện dưỡng lão cho người già.
  • Với số lượng lớn các cơ sở y tế đồng nghĩa sẽ có nhiều nguồn phát sinh chất thải một lượng lớn chất thải y tế hàng ngày theo các hoạt động y tế.

Tất cả các hoạt động trong bệnh viện đều có thể tạo ra chất thải và có khả năng tác động đến môi trường và ảnh hưởng sức khỏe con người và cộng đồng. Việc nắm giữ được các nguồn phát sinh của chất thải sẽ giúp các hoạt động quản lý chất thải y tế được hiệu quả hơn. Không có một tài liệu nào trên thế giới có thể thống kê được hết các chất thải phát sinh từ các hoạt động của cơ sở y tế. Mỗi cơ sở y tế khác nhau sẽ có các nguồn phát sinh chất thải y tế khác nhau, tùy thuộc vào từng hoạt động riêng. Đối với các cơ sở y tế có quy mô càng lớn thì lượng chất thải phát sinh nhiều và nguồn phát sinh chất thải càng phức tạp.

1.4. Tác động của chất thải y tế đối với môi trường và sức khỏe cộng đồng

1.4.1. Đối với môi trường

Tác động đến môi trường đất

Các chất thải y tế khi chôn lấp nếu không được xử lý đúng cách, các đường ống xả nước thải từ bệnh viện nếu không được quản lý và xử lý thì các vi sinh vật gây bệnh, hóa chất độc hại nguy hiểm có thể ngấm vào đất làm nhiễm độc đất khiến cho việc tái sử dụng bãi chôn lấp sẽ gặp khó khăn. Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất thải y tế tại Hà Nội.

Tác động đến môi trường không khí

Chất thải y tế từ hoạt động của các cơ sở y tế từ khi phát sinh đến khâu xử lý cuối cùng đều gây ra những tác động xấu đến môi trường không khí. Khi chất thải phát sinh phân loại tại nguồn, trong quá trình vận chuyển các vi khuẩn gây bệnh, hóa chất,… có thể phát tán vào nguồn không khí; khi xử lý chất thải y tế nếu chất thải vứt bừa bãi, tồn đọng sẽ gây ra các mùi khó chịu cho khu vực xung quanh; nước thải cơ sở y tế gây ô nhiễm không khí do quá trình phân tán các chất độc hại, mùi từ các bể chứa nước thải, đường ống dẫn nước thải từ các nơi phát sinh đến các nơi tập trung; các chất thải từ lò đốt trong điều kiện không lý tưởng gồm những chất ô nhiễm như bụi, khí NO2, SO2, các hợp chất hữu cơ bay hơi như dioxin, chì, thủy ngân, các khí thải từ khâu đốt rác gây ra các mùi ảnh hưởng đến không khí xung quanh khu vực xử lý.

Tác động đến môi trường nước

Nguồn nước có thể bị nhiễm bẩn do các chất độc hại có trong chất thải y tế. Chúng có thể chứa các vi sinh vật gây bệnh, các kim loại nặng như thủy ngân từ nhiệt kế, bạc từ quá trình tráng rửa phim X quang. Một số dược phẩm nhất định nếu xả thải không xử lý có thể gây nhiễm độc nguồn nước ngầm. Bên cạnh đó, xả thải bừa bãi chất lây nhiễm vào chất thải thông thường có thể gây nguy cơ ô nhiễm nguồn nước.

1.4.2. Đối với sức khỏe con người Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất thải y tế tại Hà Nội.

Chất thải y tế là chất thải nguy hiểm, có khả năng chứa đựng các loại vi sinh vật gây bệnh, các chất độc hại như hóa chất, chất gây độc tế bào, chất phóng xạ,… Các tác nhân gây bệnh có thể xâm nhập vào cơ thể con người qua các con đường trực tiếp như qua các vết bị trầy xước, qua đường hô hấp, qua đường tiêu hóa hoặc qua các con đường gián tiếp như do ô nhiễm môi trường trong và ngoài cơ sở y tế hoặc tiếp xúc với các tác nhân trung gian như thực phẩm hoặc ruồi, muỗi, chuột,…

Ngoài ra, trong quá trình thu gom, vận chuyển và lưu giữ; chất thải y tế nguy hại có thể bị rò rỉ, giải thoát, đổ tràn ra môi trường xung quanh. Việc rơi vãi các chất thải y tế lây nhiễm, đặc biệt là loại chất thải lây nhiễm có nguy cơ lây nhiễm cao có thể làm lây lan mầm bệnh trong cơ sở y tế và bệnh viện gây nên đợt bùng phát nhiễm trùng bệnh viện đối với cán bộ, nhân viên trong cơ sở y tế; bệnh nhân, người nhà bệnh nhân; kể cả việc gây ô nhiễm môi trường đất và nước tại chỗ.

Việc tiếp xúc với các chất thải y tế có thể gây nên bệnh tật hoặc tổn thương, có thể do một hoặc nhiều đặc trưng như: chất thải y tế có chứa đựng các yếu tố truyền nhiễm, các loại hóa dược có thành phần gây độc tế bào nguy hiểm, các chất chứa đồng vị phóng xạ, các vật sắc nhọn có thể gây tổn thương, các chất thải có yếu tố ảnh hưởng tâm lý xã hội. [17]

Nguy cơ từ chất thải lây nhiễm và các vật sắc nhọn:

Nguy cơ chất thải lây nhiễm gồm vi sinh vật gây bệnh có trong chất thải.

Chúng có thể xâm nhập vào cơ thể con người qua nhiều đường khác nhau như vết thương, vết cắt trên da, niêm mạc; hệ thống hô hấp, hệ thống tiêu hóa… Sự xuất hiện các loại vi khuẩn kháng kháng sinh và kháng hóa chất khử khuẩn có thể do nguyên nhân quản lý, xử lý chất thải y tế không an toàn. Các vật sắc nhọn không chỉ gây ra vết thương trên da mà chúng còn gây nhiễm trùng vết thương nếu chúng bị nhiễm bẩn. Trước đây, một khảo sát của Viện Y học lao động và môi trường ghi nhận 35% số cán bộ, nhân viên y tế bị thương tích do vật sắc nhọn gây nên và 70% trong số đó bị tổn thương do vật sắc nhọn trong sự nghiệp y tế. Sự tổn thương do vật sắc nhọn sử dụng trong y tế có khả năng lây truyền các bệnh nhiễm trùng nguy hiểm như HIV, HBV và HCV. Theo thống kê có khoảng 80% nhiễm trùng HIV, HBV, HCV nghề nghiệp là do thương tích vì vật sắc nhọn và kim tiêm. Ngoài ra, việc tái chế, tái sử dụng hoặc xử lý không an toàn chất thải y tế lây nhiễm bao gồm cả chất nhựa và các vật sắc nhọn có thể có tác động lâu dài đến sức khỏe của cộng đồng người dân. Nguy cơ từ các chất thải gây độc tế bào:

Quá trình tiếp xúc với các chất độc có trong công tác y tế có thể xảy ra đối với các nhân viên y tế khi chuẩn bị hoặc đang trong quá trình điều trị cho bệnh nhân bằng các thuốc đặc biệt hoặc bằng phương pháp hóa trị liệu. Các phương pháp tiếp xúc chính là hít phải hóa chất nhiễm độc ở dạng bụi hoặc hơi qua đường hô hấp, bị hấp thụ qua da do tiếp xúc trực tiếp, qua đường tiêu hóa do ăn phải thực phẩm nhiễm thuốc, hóa chất có tính độc hại. Mối nguy hiểm cũng có thể xảy ra khi tiếp xúc với các loại dịch và các chất tiết ra của bệnh nhân đang được điều trị bằng hóa liệu. Nhiều loại thuốc có tính độc cao gây nên các hậu quả hủy hoại cục bộ sau khi tiếp xúc với da hoặc mắt. Chúng có thể gây ra chóng mặt, buồn nôn, đau đầu hoặc viêm da.

Nguy cơ từ chất thải hóa dược phẩm Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất thải y tế tại Hà Nội.

Nhiều hóa chất và dược phẩm dùng trong các cơ sở y tế là chất thải nguy hại như độc dược, chất gây độc tế bào, chất dễ cháy, chất ăn mòn, chất gây nổ, chất gây phản ứng gây nguy cơ đe dọa sức khỏe con người. Các loại chất này thường chiếm số lượng nhỏ trong chất thải y tế, với số lượng lớn hơn có thể tìm thấy khi chúng quá hạn, dư thừa hoặc hết tác dụng cần vứt bỏ. Các chất này có thể gây tổn thương như bỏng, gây sốc, các bệnh nhiễm độc hoặc gây ảnh hưởng đến di truyền.

Nguy cơ từ chất thải phóng xạ

Loại bệnh và hội chứng gây ra do chất thải phóng xạ được xác định bởi phạm vi tiếp xúc và loại chất thải đối tượng. Nó có thể là hội chứng đau đầu, hoa mắt, chóng mặt,… Chất thải phóng xạ là một loại độc hại với tế bào, gen nên khi tiếp xúc với các nguồn phóng xạ có hoạt tính cao như nguồn phóng xạ của các thiết bị chuẩn đoán y tế có thể gây ra một loạt các tổn thương như phá hủy các mô, có thể gây bỏng cấp tính.

1.5. Sự cần thiết của pháp luật về quản lý chất thải y tế

Chất thải y tế là loại chất thải có nhiều tác nhân gây hại đến cho sức khỏe con người và môi trường sống xung quanh. Dù cho lượng chất thải y tế nguy hại chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng số lượng chất thải hàng ngày hàng giờ đang được phát sinh tại các cơ sở y tế thì chất thải y tế luôn được coi là một trong những chất thải nguy hại nhất cần có những biện pháp quản lý, xử lý cẩn thận và chặt chẽ. Có kiểm soát được nguồn chất thải, lượng chất thải phát sinh thì chúng ta mới có thể bảo vệ được chính cuộc sống của chính mình. Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất thải y tế tại Hà Nội.

Tại Giơ-ne-vơ năm 1954, dự thảo Tuyên ngôn các nguyên tắc về quyền con người và môi trường đã được nhóm các nhà chuyên gia, nghiên cứu về nhân quyền và Luật môi trường quốc tế liệt kê một cách toàn diện các thành phần thiết yếu của quyền con người đối với môi trường gồm 27 điểm, 5 phần trong đó có một số quyền cơ bản như: quyền được sống trong môi trường không bị ô nhiễm, không có suy thoái môi trường, không bị tác động bởi các hoạt động có ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường; quyền được bảo vệ và bảo tồn môi trường không khí, đất trồng, nước biển, thực vật, động vật, các quy trình thiết yếu hay quyền có thực phẩm sạch, nước sạch, vệ sinh, an toàn,….

Từ thế giới tới Việt Nam, từ Giơ-ne-vơ đến Hà Nội, tại Nghị quyết số 41/NQ-TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đầy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng đã nhấn mạnh một trong những nhiệm vụ cần thực hiện là tăng cường kiểm soát ô nhiễm tại nguồn, chú trọng quản lý chất thải, nhất là chất thải nguy hại trong dịch vụ y tế.

Đến Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 cũng đưa ra các yêu cầu cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về tài nguyên và môi trường theo hướng chặt chẽ, bảo vệ và phát triển bền vững các tài nguyên thiên nhiên, bảo đảm các quyền con người về môi trường.

Tóm lại, con người có quyền được sống trong một môi trường trong lành, nhưng việc quyết định môi trường có trong lành hay không cũng phụ thuộc vào chính con người. Chất thải y tế đối là một trong những loại chất thải đứng đầu về mức độ nguy hiểm và tầm ảnh hưởng tới môi trường, con người. Do đó, để bảo vệ tốt cuộc sống của chính mỗi cá nhân, của cộng đồng thì chúng ta cần phải quản lý chất thải y tế tốt. Muốn được như vậy thì cần phải có hệ thống pháp luật quản lý chất thải y tế nghiêm minh, rõ ràng, phù hợp với thực tiễn và áp dụng một cách hiệu quả. Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất thải y tế tại Hà Nội.

Pháp luật chính là chìa khóa để thúc đẩy con người làm việc có trách nhiệm hơn với môi trường mình đang sống hay với chỉnh bản thân mỗi cá nhân. Hệ thống pháp luật Việt Nam quy định về quản lý các chất thải y tế sẽ được làm rõ trong chương II.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Khóa luận: Quy định pháp luật về quản lý chất thải y tế tại Hà Nội

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x