Khóa luận: Thực trạng hoạt động Du lịch tại khu vực Hồ Núi Cốc

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Thực trạng hoạt động Du lịch tại khu vực Hồ Núi Cốc hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Hiện trạng hoạt động Du lịch tại khu vực Hồ Núi Cốc dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này. 

3.1. HOẠT ĐỘNG DU LỊCH

Trong những năm gần đây, đặc biệt từ sau 2003 đến nay, được sự quan tâm của các cấp chính quyền, ngành du lịch Thái Nguyên đã có những bước tiến vững chắc. Số lượng du khách đến Thái Nguyên ngày một đông, doanh thu từ du lịch, cũng như việc thu hút đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng du lịch đều có tốc độ tăng trung bình trên 30%/năm. Du lịch ngày càng có vai trò quan trọng hơn trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Đặc biệt, trong năm 2007, Thái Nguyên được chọn làm địa điểm tổ chức “Năm du lịch quốc gia” với chủ đề “Về Thủ đô gió ngàn chiến khu Việt Bắc”, số lượng khách du lịch đến Thái Nguyên đã tăng vọt. Năm 2006 có 674.430 lượt khách, đến năm 2007 tăng lên tới 1.200.000 lượt khách.Sự phát triển của ngành du lịch Thái Nguyên có thể được khái quát qua bảng số liệu: Khóa luận: Thực trạng hoạt động Du lịch tại khu vực Hồ Núi Cốc.

Bảng 3.1: Một số chỉ số phát triển ngành Du lịch Thái Nguyên giai đoạn 2008-2011.

Trong xu thế phát triển chung đó, Du lịch hồ Núi Cốc nói riêng cũng đạt được kết quả đáng khích lệ. Được xác định là trọng điểm du lịch của cả tỉnh, Hồ Núi Cốc có được lợi thế về chính sách ưu tiên đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng,cùng với những thế mạnh vốn có, nơi đây nhanh chóng trở thành điểm du lịch hấp dẫn, phần lớn du khánh đến Thái nguyên đều tới thăm Hồ Núi Cốc.

3.1.1. Khách du lịch

Qua số liệu thống kê của Ban quản lý khu du lịch Hồ Núi Cốc trong giai đoạn từ năm 2008 đến hết năm 2010 và 6 tháng đầu năm 2011, cho chúng ta một số nhận định về khách du lịch Hồ Núi Cốc.

  • Số lượng khách:

Hiện nay, số lượng du khách đến với khu du lịch Hồ Núi Cốc đang tăng lên nhanh chóng.

  • Bảng 3.2: Lượng khách du lịch Hồ Núi Cốc giai đoạn 2008-2010
  • Hình 3.2: Biểu đồ lượng khách khu du lịch Hồ Núi Cốc

Về cơ cấu nguồn khách, khách du lịch đến với Hồ Núi Cốc chủ yếu là khách nội địa, chiếm khoảng 99,8%. Trong khi đó khách quốc tế chỉ chiếm tỉ lệ rất thấp, khoảng 0,2%. Đối tượng khách nước ngoài đến Hồ Núi Cốc chủ yếu là những nhà khoa học, những doanh nhân kết hợp công việc và nghỉ ngơi, rất ít người đến với mục đích du lịch thuần túy. Điều đó cho thấy, hình ảnh Hồ Núi Cốc chưa được quảng bá mạnh mẽ, chưa tạo nên được sức hút lớn đối với du khách nước ngoài. Còn đối với du khách nội địa, nguồn khách chủ yếu vẫn là từ những đô thị trong tỉnh như: thành phố Thái Nguyên, Sông Công, Phổ Yên và các vùng lân cận…tiếp đó là Hà Nội và các tỉnh Đồng Bằng Bắc Bộ (Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng, Hải Dương…), Đông Bắc (Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Cạn…).

Khách nội địa, chủ yếu là học sinh, sinh vên, viên chức, giao vên, nông dân, những người có mức thu nhập không cao. Hình thức du lịch chủ yếu là du lịch tự do, không có sự liên hệ với các doanh nghiệp lữ hành, các tổ chức kinh doanh du lich. Họ đến Hồ Núi Cốc với mục đích nghỉ cuối tuần, tham quan kết hợp học tập, nghiên cứu. Thời gian lưu trú của du khách ngắn, trên 70% là đi về trong ngày, số còn lại có số ngày trung bình 1- 2 ngày. Nhu cầu nghỉ qua đêm phần lớn thuộc về những du khách đi theo gia đình hoặc nhóm gia đình. Khách du lịch đến với Hồ Núi Cốc mới chỉ tập trung trong khu du lịch phía Bắc, khu du lịch nghỉ dưỡng Nam Phương và các địa điểm khác hầu như chưa được khai thác. Đây là sự lãng phí rất lớn nguồn tài nguyên của địa phương, vấn đề cần đặt ra đối với ngành du lịch của tỉnh là cần có chiến lược đầu tư, khai thác hiệu quả, tổng hợp các thế mạnh của Hồ Núi Cốc và vùng lân cận.Phần lớn các loại hình dịch vụ du lịch trong khu du lịch Hồ Núi Cốc ít chịu ảnh hưởng của sự thay đổi mùa (ngoại trừ công viên nước), nhưng nhìn chung khách du lịch vẫn tập trung đông vào mùa hè. Thể hiện một phần qua bảng: Khóa luận: Thực trạng hoạt động Du lịch tại khu vực Hồ Núi Cốc.

Bảng 3.3: Lượng khách sử dụng dịch vụ tàu, thuyền đi tham quan hồ.

Trong các tháng 4, 5, 6, 7, 8, 9 chiếm khoảng 80% tổng số khách du lịch của cả năm. Và thời gian tập trung khách đông nhất thường là các ngày cuối tuần, các dịp lễ tết (như: 30/4; mùng 1/5; mùng 2/9).

So sánh số lượng khách du lịch của tỉnh Thái Nguyên với khách của Hồ Núi Cốc ta thấy, khoảng 17-28% du khách đến Thái Nguyên là đến Hồ Núi Cốc. Điều này cho thấy công tác xúc tiến quảng bá hình ảnh du lịch Hồ Núi Cốc ra bên ngoài chưa được tốt. Hồ Núi Cốc là một trung tâm du lịch của tỉnh nhưng nó còn xuất hiện quá ít trong các tour của các công ty lữ hành ngoài tỉnh. Đây cũng là điểm yếu kém chung của ngành du lịch Thái Nguyên trong những năm vừa qua.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Du Lịch

3.1.2. Doanh thu từ hoạt động du lịch

Cùng với số lượng du khách tăng lên nhanh chóng thì doanh thu từ hoạt động kinh doanh du lịch trong khu vực cũng tăng đáng kể. Thể hiện qua bảng:

Bảng 3.4: Doanh thu Du lịch Hồ Núi Cốc

Qua bảng số liệu trên ta có biểu đồ:

Hình 3.2: Biểu đồ doanh thu Du lịch Hồ Núi Cốc (2008- 6 tháng đầu 2011)

Ta thấy doanh thu du lịch của Hồ Núi Cốc tăng. Năm 2009 so với 2008 tăng 0,9 tỷ đồng (tăng 6,3%). Năm 2010 so với 2009 tăng 3,9 tỷ đồng (tăng 25,8%).

Đây là kết quả của những dự án đầu tư nhằm mục đích đa dạng hóa các loại hình dịch vụ Du lịch: công viên nước, huyền thoại cung, sân khấu nhạc nước…Tuy vậy, chúng ta cũng cần thấy những yếu kém trong hoạt động kinh doanh du lịch Hồ Núi Cốc. Doanh thu trung bình trên một đầu khách vẫn thấp, khoảng 60.000-80.000/lượt khách. Nguyên nhân của thực trạng này là do đặc điểm của khách du lịch Hồ Núi Cốc, chủ yếu là người có thu nhập thấp (học sinh, sinh viên, nông dân, viên chức, giao viên…). Bên cạnh đó, nguyên nhân không kém phần quan trọng là sự đơn điệu trong hoạt động du lịch, các hình thức dịch vụ chưa có sức hấp dẫn lớn đối với du khách và giá cả còn quá cao so với thu nhập của phần đông du khách.

3.1.3. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch

a). Cơ sở lưu trú Khóa luận: Thực trạng hoạt động Du lịch tại khu vực Hồ Núi Cốc.

Hệ thống các cơ sở lưu trú là thành phần quan trọng của ngành du lịch, của mỗi lãnh thổ du lịch. Hiện nay, tại khu vực Hồ Núi Cốc có một số đơn vị đăng ký chính thức kinh doanh dịch vụ nhà nghỉ, khách sạn, đó là: Công ty Cổ phần khách sạn du lịch công đoàn Hồ Núi Cốc; Đoàn 16- Quân khu I; Khách sạn Mỏ Việt Bắc, với tổng số trên 300 phòng từ 3 sao đến bình dân. Bên cạnh đó còn khá nhiều nhà nghỉ, nhà trọ của người dân địa phương hoạt động mạnh trong những tháng cao điểm của mùa du lịch.

Trong đó, riêng Công ty Cổ phần khách sạn du lịch công đoàn Hồ Núi Cốc có tới 250 phòng (có 52 phòng đạt tiêu chuẩn 3 sao, 32 phòng 2 sao, 86 phòng 1 sao, và 80 phòng nghỉ bình dân); Khu nhà nghỉ Đoàn 16 – Quân khu I rộng 15 ha, có tổng 30 phòng, gồm có: 1 nhà nghỉ 3 tầng (15 phòng), 5 biệt thự mini (5 phòng), và một số nhà nghỉ nhỏ khác (10 phòng). Khách sạn Mỏ Việt Bắc (30 phòng). Khách sạn Hồ Núi Cốc (40 phòng). Khu du lịch Nam Phương rộng 7,5 ha, có 6 biệt thự mini.

Nhìn chung, kiến trúc của phần lớn các khách sạn, nhà nghỉ chưa được thiết kế phù hợp với phong cảnh thiên nhiên xung quanh, chưa đáp ứng được yêu cầu cơ bản trong xây dựng Du lịch sinh thái (ngoại trừ những nhà nghỉ mini, khách sạn Ba cây Thông). Khu vực khách sạn, nhà nghỉ hoàn toàn không có khu vực xử lý chất thải riêng, nước thải xả trực tiếp xuống hồ. Đây là nguy cơ tiềm ẩn những nguy hại nghiêm trọng đối với môi trường sinh thái của Hồ Núi Cốc.

Tuy số lượng du khách đến với Hồ Núi Cốc tương đối lớn, nhưng do nhu cầu nghỉ qua đêm thấp, nên công suất sử dụng phòng mới ở mức độ trung bình, khoảng 65- 68%. Tuy vậy, do số lượng khách tập trung theo mùa khá lớn nên trong mùa du lịch vẫn diễn ra tình trạng quá tải, đặc biệt là với loại phòng từ 1 sao đến bình dân. Theo số liệu thống kê của Công ty Cổ phần khách sạn du lịch Hồ Núi Cốc, trong tháng 7, 8/2010 số lượng phòng trong khu du lịch chỉ đáp ứng được khoảng 85% cầu phòng ở cho du khách (vào những dịp cuối tuần). Số du khách còn lại phải nghỉ trong những nhà nghỉ tạm do người dân địa phương mở ra, đây thực sự là hướng gợi mở cho các nhà quản lý du lịch, hướng quan tâm và cơ hội tìm kiếm lợi ích từ hoạt động du lịch cho cộng đồng địa phương. Nhưng vấn đề đặt ra là các nhà quản lý cần có những chính sách đồng bộ như: Tập huấn, trang bị nghiệp vụ chuyên môn cho các hộ kinh doanh du lịch, đồng thời có kế hoạch đảm bảo an ninh trật tự, an toàn cho du khách…

b). Cơ sở dịch vụ vui chơi giải trí

Trong những năm gần đây, cơ sở vật chất, vui chơi giải trí đã được phát triển khá mạnh, góp phần làm phong phú thêm các loại hình dịch vụ, phục vụ du lịch. Khóa luận: Thực trạng hoạt động Du lịch tại khu vực Hồ Núi Cốc.

Huyền thoại cung: là một công trình du lịch văn hóa, được xây dựng trên diện tích 3000m2, nhìn từ ngoài công trình này giống như một dãy núi, với hệ thống hang động nhân tạo phía trong. Phía bên ngoài là tượng nàng Công – chàng Cốc, trong cung là một dòng suối nhân tạo chảy vòng vèo quanh động, sẽ đưa du khách qua các hình ảnh tái hiện về sự tích nàng Công – chàng Cốc, thông qua các tác phẩm bên bờ suối và trên vách động. Giá vé vào động 15.000 đồng/ lượt/10 phút.

Công viên nước Hồ Núi Cốc: rộng 3,4 ha với thiết kế độc đáo, nhiều công trình dịch vụ hấp dẫn: Vườn cau ao cá, tích Tề Thiên Đại Thánh, bể bơi 350m2 (có khu vực giành cho trẻ em), đường trượt 8 làn, tượng cá chép (bụng chứa được 200 người tắm cùng một lúc), tượng cá heo…Giá vé 30.000 đồng/1 lượt khách.

Sân khấu nhạc nước: Đây là một loại hình nghệ thuật mới, là sự kết hợp giữa âm nhạc, nước và khoa học kỹ thuật hiện đại. Được đánh giá là một trong những sân khấu nhạc nước hiện đại nhất Việt Nam, khánh thành đầu năm 2007, với tổng số vốn đầu tư trên 15 tỷ đồng. Công trình được xây dựng trên diện tích rộng 1ha, gồm hơn 100 loại hình biểu diễn với cột nước cao trên 40m. Phục vụ du khách 3lần/1 ngày, giá vé 20.000 đồng/lượt.

Động thế giới cổ tích – âm phủ: với nhiều hình tượng phỏng theo các câu chuyện cổ tích nổi tiếng (Thạch Sanh, Tấm Cám…), đặc biệt các nhà kiến trúc đã dựng nên khung cảnh địa ngục với tư tưởng chủ đạo là cái ác sẽ bị trừng phạt. Đây là công trình có ý nghĩa giáo dục rất lớn đối với du khách, nhất là đối với du khách nhỏ tuổi về giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, đồng thời hướng du khách đến cuộc sống tốt đẹp hơn. Giá vé 10.000 đồng/lượt khách.

Khu động vật hoang dã: Có diện tích trên 1 ha, với nhiều loại động vật hoang da bản địa và nhập nội (Trăn đất, Trăn mắc võng, cá sấu Cu Ba, hươu sao, Khỉ, Sóc, Đà Điểu…) được nuôi dưỡng bảo vệ nghiêm ngặt. Đây là điểm hấp dẫn đối với du khách “nhí”. Giá vé 10.000 đồng/1 lượt khách.

Đảo văn hóa Núi Cái: là hòn đảo lớn nhất và đẹp nhất trong tổng số 89 hòn đảo trong khu vực Hồ Núi Cốc. Trên đảo là những công trình kiến trúc lớn, được xây dựng bởi những nghệ nhân tài hoa trong cả nước. Từ chân đảo, dẫn lên khu trưng bày cao hơn 80m là 108 bậc đá, dọc hai bên bậc đá là những sản phẩm của các làng nghề truyền thống Việt Nam, với những chân đèn lồng thời nhà Mạc, những bức phù điêu bằng đá nung,…Khu trưng bày gồm trên 2100 hiện vật cổ: hoành phi cổ, các bức thư pháp nổi tiếng, những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc, độc đáo, thể hiện trên nhiều chất liệu như: đồng, đá, gỗ, mây tre đan,…trong ngôi nhà cổ 6 gian, có niên đại hơn 200 năm…Vé đảo là 25/1 lượt khách.

Trung tâm giải trí Núi Cốc vàng, được xây dựng trên diện tích 2500 m2 với vốn đầu tư trên 6 tỷ đồng, khánh thành và đi vào hoạt động tháng 6/2007. Trung tâm giải trí với nhiều trò chơi hấp dẫn: xe đụng, đấm bốc, cưỡi ngựa, đua xe,…đang là một địa điểm nhiều khách nhất trong khu (45% khách). Giá vé là 25.000 đồng/10 phút/1 lượt khách.

Bến tàu phục vụ khách du lịch lòng hồ, với đội tàu gần 20 chiếc, tàu có từ 2 – chỗ, phục vụ 4 tuyến tham quan các đảo khác nhau trong hồ. Giá thuê mỗi tàu khoảng từ 400.000 – 650.000 đồng/ 1 chuyến/1,5 giờ. Tùy theo trọng tải của từng tàu. Tại đây cũng tổ chức bán vé cá nhân cho khách tham quan lòng hồ 20.000 đồng/lượt, nhưng loại này rất bất tiện vì phải chờ gom đủ số khách (khoảng 50- 60 người), do vậy, du khách có thể phải đợi hàng giờ hoặc hơn.

Ngoài ra, trong khu vực còn có nhiều các công trình giải trí, dịch vụ khác: công viên 12 con giáp, sân tennis, tàu điện (chiều dài đường ray 400 m), động chuyện tình Ba Cây Thông, dịch vụ xông hơi, vật lý trị liệu…

c). Cơ sở dịch vụ nhà hàng, điểm bán đồ lưu niệm Khóa luận: Thực trạng hoạt động Du lịch tại khu vực Hồ Núi Cốc.

Về dịch vụ ăn uống: Trong khu vực Hồ Núi Cốc hiện nay có khá nhiều các cơ sở dịch vụ ăn uống từ bình dân đến cao cấp, với quy mô phục vụ từ 10 bàn đến 50 bàn khách như: Nhà sàn Giang Nam, nhà hàng Thọ Nguyệt, nhà hàng Hồng Nhung, nhà hàng Phương Hương, nhà hàng Chính Hằng, nhà hàng Hương Hồ, Nhà hàng Đảo Văn Hóa, nhà hàng Nàng Công…

Hầu hết các nhà hàng đều nằm ven bờ hồ, có khung cảnh tự nhiên thoáng đãng, mát mẻ, đội ngũ nhân viên phục vụ tận tình, có chuyên môn, mức độ đáp ứng nhu cầu của khách khá tốt. Tuy nhiên, khả năng giao tiếp phục vụ khách quốc tế không cao.

Bên cạnh việc phục vụ các món ăn, các nhà hàng đều có dịch vụ cho thuê địa điểm, dụng cụ (chiếu, bạt, nhà sàn, củi, sân bãi…) để các nhóm du khách có thể tự tổ chức ăn uống, cắm trại…

Các điểm bán đồ lưu niệm: Hiện nay, trong khu du lịch Hồ Núi Cốc có khoảng trên chục điểm bán đồ lưu niệm với quy mô khác nhau. Lớn nhất là khu Chợ tình – Quà lưu niệm, nằm ngay trên lối vào khu du lịch, công viên 12 con giáp. Ngoài ra, ở hầu hết các nhà hàng, khách sạn đều có những khu vực phục vụ nhu cầu mua sắm của khách du lịch. Mặc dù các điểm bán hàng khá nhiều nhưng có một nhận định chung là mặt hàng bày bán còn khá đơn điệu (chủ yếu là quần áo, mũ, ô dù…), những mặt hàng có xuất xứ tại địa phương còn ít (sản phẩm mây tre đan, nông sản (măng ớt ngâm…), dược liệu…

Một điểm bất cập khác là các khu vực bán hàng có thiết kế xấu, không phù hợp, hài hòa với phong cảnh tự nhiên của khu vực. Không tạo được sức hấp dẫn đối với du khách, thái độ, trang phục của nhân viên bán hàng chưa chuyên nghiệp, gây ấn tượng không tốt đối với khách hàng.

3.1.4. Đặc điểm nguồn nhân lực phục vụ du lịch

Tại khu du lịch Hồ Núi Cốc hiện nay, số lao động làm việc thường xuyên (có hợp đồng) là 178 người. Bên cạnh đó còn có lực lượng lao động làm việc theo thời vụ (tùy theo số lượng khách), số lượng này có thể lên đến 250 người.

Trình độ chuyên môn của lực lượng lao động không cao. Có 10% trình độ đại học, 35% trình độ cao đẳng và trung cấp, số còn lại là lao động phổ thông, làm việc chủ yếu ở các bộ phận phục vụ.

Trình độ ngoại ngữ của đại bôn phận lao động thấp, chỉ có 12 hướng dẫn viên là có khả năng đáp ứng nhu cầu tiếp đón khách nước ngoài. Khóa luận: Thực trạng hoạt động Du lịch tại khu vực Hồ Núi Cốc.

3.1.5. Hiện trạng khai thác các tuyến, điểm du lịch của khu vực Hồ Núi Cốc

Cho đến thời điểm hiện tại, du lịch Hồ Núi Cốc mới tập trung vào hai địa điểm chính: Khu du lịch Hồ Núi Cốc (thuộc địa phận xã Tân Thái, huyện Đại Từ) và khu du lịch Nam Phương (xã Phúc Trìu, TP Thái Nguyên) và các tuyến du lịch ngắm cảnh trên hồ kết hợp tham quan các đảo nổi bằng tàu du lịch.

Đối với địa điểm du lịch phía Bắc (Khu du lịch Hồ Núi Cốc), là khu vực được tập trung đầu tư mạnh về cơ sở hạ tầng, vật chất, phục vụ đa dạng các loại hình du lịch: nghỉ dưỡng, du ngoạn hồ, cắm trại, tắm hồ, tìm hiểu văn hóa bản địa, tham quan vườn thú và rất nhiều các loại hình dịch vụ giải trí khác…Đây là điểm tập trung khách chủ yếu, với đa dạng các thành phần khách và cũng là nguồn thu nhập chính của du lịch Hồ Núi Cốc.

Trong khi đó, Khu nghỉ dưỡng Nam Phương (nằm cạnh đập chính), vẫn chỉ ở dạng tiềm năng, khi mức độ đầu tư cũng như số lượng khách đến nơi đây vẫn còn hạn chế. Tại nơi đây mới chỉ có một số ít các nhà nghỉ mini, nhà hàng, phục vụ các món ăn đặc sản, các loại hình dịch vụ khác hầu như chưa có. Đối tượng khách đến với khu du lịch Nam Phương chủ yếu là những du khách có thu nhập cao (doanh nhân và khách nước ngoài), tuy nhiên, do số lượng hạn chế, thời gian lưu lại ngắn nên thu nhập vẫn chưa đáng kể và chưa có sức hút đối với các nhà đầu tư.

Tuyến du lịch lòng hồ kết hợp tham quan đảo nổi bằng tàu du lịch, đây được đánh giá là tuyến du lịch có nhiều tiềm năng, tuy nhiên do chi phí cao so với đa phần khách du lịch đến với Hồ Núi Cốc nên số lượng khách tham gia tuyến du lịch này cũng rất hạn chế. Cho đến nay, Khu du lịch Hồ Núi Cốc đang khai thác 3 tuyến tham quan các đảo lòng hồ bằng tàu cao tốc và tàu thường:

  • Tuyến Khách sạn – Đảo Cò – Đền Bà Chúa thượng ngàn- Khách sạn.
  • Tuyến Khách sạn – Đảo Sim – Đảo Mâm xôi – Đảo hang Rắn – Đảo Long hội-đập chính.
  • Tuyến khách sạn Đảo Cò – Đảo Sim – Đảo văn hóa.
  • Thời gian mỗi tuyến khoảng 50 phút- 2,5 giờ.

Bên cạnh đó, tuyến du lịch theo tỉnh lộ 261 (ngã tư Phổ Yên, thị trấn Đại Từ) cũng đã phần nào được khai thác. Nhưng quy mô và hiệu quả du lịch còn hết sức nhỏ bé. Các điểm du lịch nhiều tiềm năng như quần thể di tích Núi Văn, Núi Võ, hồ Vai Miếu mới chỉ được người dân địa phương và các xã lân cận biết tới và họ cũng chính là những du khách.

3.2. ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH THEO NGUYÊN TẮC CỦA DU LỊCH SINH THÁI 

3.2.1. Khả năng đáp ứng nhu cầu du khách Khóa luận: Thực trạng hoạt động Du lịch tại khu vực Hồ Núi Cốc.

Chất lượng du lịch được thể hiện qua việc đáp ứng nhu cầu tham quan và các nhu cầu khác (nhu cầu chính đáng) của du khách. Vấn đề này được tổng hợp trên cơ sở diều tra ý kiến của du khách về: mức độ hài lòng và nhu cầu đối với các loại hình du lịch. Tuy nhiên, trên thực tế thì việc đánh giá, hỏi ý kiến của du khách nước ngoài gặp khó khăn do số lượng khách này quá ít. Do vậy, việc đánh giá khả năng đáp ứng nhu cầu du lịch, chúng ta chỉ phân tích ý kiến của khách du lịch nội địa

  • Mức độ hài lòng của khách du lịch (nội địa)

Bảng 3.5: Mức độ hài lòng của khách du lịch nội địa

Như bảng trên cho chúng ta thấy mức độ hài lòng của khách du lịch khi đến Hồ Núi Cốc. Trong đó gần 80% khách được hỏi cảm thấy hài lòng và tương đối hài lòng, còn lại ở mức bình thường, tương đối thất vọng và thất vọng hoàn toàn.Có nhiều ý kiến thể hiện sự đánh giá về chất lượng du lịch chưa cao, giá cả các dịch vụ quá cao, còn nhiều loại phí trong khu du lịch (vé vào cửa, huyền thoại cung, động cổ tích – âm phủ, vườn thú, công viên nước, nhạc nước…). Lại có ý kiến bày tỏ sự thất vọng về cảnh quan tự nhiên, kiến trúc của khu dịch vụ, sự quá tải của các điểm dịch vụ, chất lượng môi trường, sự đơn điệu, chất lượng thấp của các mặt hàng được bày bán…

Có hai nhóm ý kiến thể hiện hai nhu cầu du lịch khác nhau, một nhóm quan tâm nhiều hơn đến việc thỏa mãn các dịch vụ du lịch (chiếm 60%), nhóm còn lại quan tâm đến kinh nghiệm du lịch và bảo vệ môi trường (chiếm 38%), còn lại khoảng 2% không có sự quan tâm đến những gì mình được thụ hưởng khi đi du lịch Hồ Núi Cốc.

  • Nhu cầu du lịch tại Hồ Núi Cốc

Phần lớn khách du lịch đều thừa nhận rằng yếu tố hấp dẫn để đến thăm Hồ Núi Cốc là: Phong cảnh thiên nhiên; khí hậu trong lành, mát mẻ; tránh nơi ồn ào, đông đúc; các món đặc sản. Các yếu tố còn lại ít thu hút sự quan tâm của du khách (Tìm hiểu động – thực vật; tìm hiểu văn hóa bản địa; tham quan di tích lịch sử văn hóa; Kiến trúc khách sạn, nhà hàng; Các loại hình dịch vụ hấp dẫn; lí do khác…). Yếu tố hấp dẫn du khách nhất là phong cảnh thiên nhiên, trời mây non nước Hồ Núi Cốc, nhưng thực tế khách du lịch đến Hồ Núi Cốc chỉ được ngắm Hồ từ trên bờ. Do vậy, cần có kế hoạch mở thêm nhiều tuyến du lịch ngắm hồ, với giá cả hợp lý để thu hút nhiều du khách hơn nữa đến với Hồ Núi Cốc.

3.2.2. Hoạt động giáo dục môi trường

Một trong những tiêu chuẩn để phân biệt Du lịch sinh thái với các loại hình du lịch thông thường khác, chính là đề cao vai trò giáo dục và thuyết minh về môi trường. Tiêu chuẩn này thể hiện ở chỗ, khách du lịch phải có được những thông tin khá đầy đủ và đảm bảo tính thực tế trước khi đến tham quan, được hướng dẫn, thuyết minh về môi trường thiên nhiên và các giá trị của khu vực diễn ra các hoạt động du lịch. Khóa luận: Thực trạng hoạt động Du lịch tại khu vực Hồ Núi Cốc.

Đến nay, phần lớn khách du lịch đến với Hồ Núi Cốc đều không được cung cấp các thông tin chính và những hiểu biết cơ bản về khu vực hồ. Thông tin về Hồ Núi Cốc đến với du khách chủ yếu qua bạn bè, người thân bằng “truyền miệng” và một phần từ các phương tiện thông tin khác (báo chí, sách vở…), hay chính từ lần du lịch trước của du khách.

Các nguồn thông tin từ sơ đồ chỉ dẫn các tuyến điểm, điểm tham quan, các tờ gấp giới thiệu về khu du lịch còn rất hạn chế. Số lượng khách du lịch được biết thông tin từ sách hướng dẫn du lịch, quảng cáo chiếm một tỷ lệ nhỏ.

Mức độ đảm bảo yêu cầu giáo dục và thuyết minh môi trường trong hoạt động du lịch còn hạn chế nếu không muốn nói là chưa có. Trong thực tế cho thấy, trong chương trình tham quan tại các điểm, các tuyến du lịch trong khu vực hồ, đều không chứa đựng các nội dung diễn giải về môi trường nhằm nâng cao hiểu biết của du khách về môi trường nói chung cũng như giá trị đối với môi trường của Hồ Núi Cốc nói riêng.

Hiện trạng này do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do tư duy của các nhà quản lý du lịch, trình độ của hướng dẫn viên. Họ chưa nhận thức được vai trò của các hoạt động diễn giải về môi trường đối với sự phát triển bền vững các nguồn tài nguyên du lịch, lợi nhuận thu được từ khả năng giảm chi phí cho việc khắc phục ô nhiễm môi trường tại các điểm du lịch. Mặt khác do cách nhìn nhận du lịch sinh thái theo nghĩa hẹp, coi du lịch sinh thái như là một loại hình du lịch, đến những nơi thiên nhiên còn hoang sơ nên những nguyên tắc của Du lịch sinh thái không cần thực hiện, tại những mà tác động của con người giữ vai trò to lớn trong phạm vi du lịch Hồ Núi Cốc.

Về phía du khách, chủ yếu là dạng du lịch tự do, đi theo nhóm nhỏ, tự tổ chức, do vậy phần lớn không yêu cầu hướng dẫn viên. Đây cũng là vấn đề nan giải trong việc giải quyết mối quan hệ giữa yêu cầu giáo dục môi trường như là một nguyên tắc của du lịch hiện đại với nhu cầu du lịch thực tế của khách.

Ngoài ra, tính giáo dục môi trường còn hạn chế ở các phương tiện phục vụ thông tin du lịch cũng như nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho khách trên tuyến điểm tham quan. Các biển báo, chỉ dẫn còn ít hoặc mang tính sơ sài, chưa có tác dụng giáo dục cao.

3.2.3. Hỗ trợ cho công tác bảo tồn và duy trì hệ sinh thái

Hiện nay, một trong những bất cập lớn nhất đối với việc phát triển du lịch Hồ Núi Cốc nói chung và việc đảm bảo các nguyên tắc cơ bản của phát triển du lịch sinh thái nói riêng là sự có mặt của quá nhiều đơn vị quản lý thuộc các cơ quan chức năng khác nhau: các cơ quan chính quyền địa phương thuộc Thành Phố Thái Nguyên, huyện Đại Từ, Phổ Yên; Ban quản lý rừng phòng hộ Hồ Núi Cốc trực thuộc chi cục kiểm lâm Thái Nguyên; Trung tâm thủy sản Hồ Núi Cốc, Công ty thủy nông Hồ Núi Cốc thuộc Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn; Ban quản lý Hồ Núi Cốc thuộc sở Văn hóa – Thể thao & Du lịch; Công ty cổ phần khách sạn du lịch công đoàn Hồ Núi Cốc. Sự chồng chéo trong cơ chế quản lý khu vực hồ hiện nay, gây rào cản cho việc tái đầu tư vào duy trì bảo vệ các hệ sinh thái từ nguồn lợi du lịch. Bên cạnh đó thì việc thiếu một chính sách nhất quán với những quy định chặt chẽ về quyền lợi và trách nhiệm của các sở kinh doanh du lịch đối với môi trường hệ sinh thái Hồ Núi Cốc.

Thực tế cho thấy, trong những năm qua, mặc dù số lượng khách và doanh thu từ hoạt động du lịch đã tăng lên nhanh chóng, nhưng lợi nhuận từ hoạt động du lịch không có những đóng góp gì đáng kể cho công tác bảo vệ và duy trì hệ sinh thái trong khu vực. Đặc biệt là hệ sinh thái rừng tự nhiên và nhân sinh, hệ sinh thái hồ. Trái lại, các hoạt động kinh doanh du lịch đang tạo một sức ép đáng kể cho hệ sinh thái này. Ví dụ như nguồn nước thải, chất thải từ các khu dịch vụ ăn uống, nghỉ dướng, sự tập trung đông du khách vào một số ít ngày (như: cuối tuần, ngày lễ, tết), việc xây dựng các công trình dịch vụ (nhà nghỉ, khách sạn…), mở các tuyến đường giao thông…đang gây tác động tiêu cực đến chất lượng các hệ sinh thái trong khu du lịch. Sự có mặt của khách du lịch đang tạo nên một thị trường sôi động, với các sản vật từ các hệ sinh thái ở địa phương cũng là một nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến các hệ sinh thái bản địa.

Hiện nay, nguồn tài chính phục vụ cho công tác bảo tồn và khôi phục các hệ sinh thái được lấy từ ngân sách của tỉnh, từ các dự án phục hồi và bảo vệ rừng trong nước và quốc tế như: dự án FAO (rừng PAM), dự án 327 của chính phủ…

3.2.4. Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa cộng đồng

Khi nhắc đến cộng đồng là chúng ta nói đến một tập thể người định cư trên một lãnh thổ nhât định, với một ý chí và tình cảm chung được hình thành trong quá trình cùng sinh sống, lao động sản xuất. Cơ sở của tính cộng đồng chính là các hoạt động kinh tế của cộng đồng dân cư đó. Một trong những yếu tố cộng đồng đang được xem như là một nguồn tài nguyên du lịch đó chính là văn hóa-đây là một yếu tố thể hiện tổng hợp để nhận biết cộng đồng, hay nói cách khác, văn hóa là đặc tính riêng được hình thành trong quá trình phát triển của mỗi cộng đồng, yếu tố văn hóa được xem xét trên ba khía cạnh cơ bản là tộc người, tôn giáo – tín ngưỡng, hệ giá trị và các chuẩn mực. Khóa luận: Thực trạng hoạt động Du lịch tại khu vực Hồ Núi Cốc.

Văn hóa bản địa là một trong những nguồn tài nguyên dụ lịch quan trọng, tuy nhiên có một nghịch lý mang tính phổ biến tại các điểm du lịch đó là, khi các hoạt động du lịch được phát triển mạnh thì những giá trị văn hóa bản địa thường bị mai một dần. Đặc biệt là các giá trị văn hóa phi vật thể, tồn tại dưới dạng phong tục tập quán, canh tác, sản xuất, sinh hoạt của cộng đồng dân cư địa phương. Đối với khu vực Hồ Núi Cốc, cho đến nay, văn hóa bản địa đã phần nào được khai thác để tạo nên một dạng sản phẩm du lịch đặc sắc, đó là việc xây dựng Động Chuyện tình ba cây Thông và Huyền thoại cung phỏng theo nội dung các câu truyện cổ tích của cư dân trong vùng. Đây là những địa điểm thu hút rất đông khách du lịch. Đặc biệt là du khách nhỏ tuổi.

Tuy nhiên, xét trên phạm vi rộng thì những giá trị văn hóa bản địa của khu vực đang bị biến dạng. Do sức ép của nền kinh tế thị trường, những phương thức canh tác truyền thống đang được thay thế dần bằng những cách thức mới với sự tham gia nhiều hơn của các yếu tố kỹ thuật. Sự thay đổi đó góp phần tạo ra lượng sản phẩm lớn hơn, đời sống vật chất của người dân được nâng cao, kèm theo đó là sự thay đổi trong lối sống, sinh hoạt, các giá trị đạo đức truyền thống. Nhưng nhìn dưới góc độ của du lịch bảo tồn, thì đây là một hạn chế, việc thiếu một chiến lược quản lý cũng như những quy hoạch chi tiết đang làm suy giảm một dạng tài nguyên du lịch quan trọng của khu vực. Ví dụ điển hình như hiện nay là người dân Tân Cương không còn trồng và chế biến chè theo phương thức truyền thống nữa mà thay vào đó là các thiết bị công nghiệp, sản lượng chè làm ra lớn gấp nhiều lần trước đây, đời sống vật chất và tinh thần của người dân tăng nên đáng kể. Nhưng chúng ta không còn được chứng kiến cảnh hái chè bằng tay với những chiếc gùi sau lưng và hình ảnh xao chè bằng chiếc chảo gang nữa.

Nhìn chung các hoạt động du lịch trong khu vực chưa mang lại những lợi ích cần thiết để thuyết phục người dân địa phương duy trì những nét văn hóa truyền thống đó.

3.2.5. Tạo việc làm và hỗ trợ cộng đồng địa phương

Hoạt động du lịch đã mang lại lợi ích cho người dân địa phương. Tuy nhiên, lợi ích lớn nhất mà người dân địa phương được hưởng không phải là trực tiếp từ các hoạt động kinh doanh du lịch, mà là những lợi ích gián tiếp thông qua việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như: mở rộng, nâng cấp và xây dựng các tuyến giao thông (Tỉnh lộ 260, Tỉnh lộ 253), hệ thống điện, mạng lưới thong tin liên lạc…Từ đó tạo điều kiện cho các cư dân trong vùng mở rộng quy mô, đa dạng hóa ngành nghề sản xuất, nâng cao sản lượng và chất lượng sản phẩm của nền kinh tế địa phương. Từ đó góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân địa phương. Khóa luận: Thực trạng hoạt động Du lịch tại khu vực Hồ Núi Cốc.

Bên cạnh đó, sự có mặt của một lượng lớn khách du lịch và các hoạt động kinh doanh du lịch cũng tạo nên nhu cầu sử dụng lớn các sản phẩm, chủ yếu là nông sản của địa phương. Tuy nhiên, lợi ích thu được từ thị trường này chưa cao, do chất lượng , chủng loại hàng nông sản ở nơi đây chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế của du khách., ngoại trừ các thủy sản đánh bắt từ hồ. Đối với mặt hàng lưu niệm, tuy nhu cầu và lượng tiêu thụ thực tế lớn nhưng nguồn lợi này không dành nhiều cho người dân bản địa, vì các sản phẩm đồ lưu niệm thường được đặt từ nơi khác. Tác động của hoạt động du lịch đến cộng đồng địa phương chủ yếu là tác động gián tiếp.

Về vấn đề tạo việc làm cho cộng đồng địa phương, du lịch Hồ Núi Cốc hiện nay cũng chưa mang lại lợi ích thiết thực. Trong tổng số gần 200 lao động làm việc thường xuyên trong khu vực Hồ Núi Cốc, mới có khoảng 15% số lao động là người địa phương. Những lao động này phần lớn là lao động phổ thông, làm việc tại các bộ phận: bảo vệ, vệ sinh môi trường, nhân viên phục vụ trong các cơ sở dịch vụ ăn uống, hướng dẫn viên trên tuyến du lịch lòng hồ, tham quan đảo nổi. Thu nhập của dạng lao động này thường thấp, mức độ rủi ro nghề nghiệp cao (dễ mất việc). Khóa luận: Thực trạng hoạt động Du lịch tại khu vực Hồ Núi Cốc.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Khóa luận: Giải pháp Du lịch sinh thái khu vực Hồ Núi Cốc

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x