Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Thực trạng Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: hiện trạng về quần thể di tích Chùa Bái Đính với khả năng khai thác phục vụ du lịch dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.1. Doanh nghiệp xây dựng Xuân Trường
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của doanh nghiệp
Trong quá trình hội nhập kinh tế, Ninh Bình cũng như các tỉnh trong cả nước đang tạo cho mình những thế đứng và vị trí trong nền kinh tế của nước nhà. Trong xu hướng đó thì các cụm khu công nghiệp cũng như các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước liên tiếp ra đời để tự khẳng định vị trí của mình. Doanh Nghiệp xây dựng Xuân Trường là một trong những doanh nghiệp có những đóng góp quan trọng trong nền kinh tế của Ninh Bình nói riêng và cả nước nói chung. Doanh nghiệp đã được cấp giấy phếp kinh doanh theo số 015004, đăng ký lần đầu vào ngày 17/3/1993 và thay đổi lần thứ 6 ngày 8/6/2007. Với tên giao dịch doanh nghiệp tư nhân xây dựng Xuân Trường. Địa chỉ trụ sở chính là 16 đường Xuân Thành, phường Tân Thành, thị xã Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình.
Doanh nghiệp Xuân Trường vốn là một doanh nghiệp của tư nhân chuyên kinh doanh các ngành nghề như: xây dựng các công trình dân dụng, công nghiệp, giao thông thuỷ lợi; san lấp mặt bằng và hoàn thiện các công trình xây dựng; xây dựng đường dây tải điện và trạm biến áp có cấp điện áp đến 35 kv; kinh doanh máy móc xây dựng và thiết bị công nghiệp, khách sạn du lịch lữ hành và các dịch vụ du lịch khác; sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng; khai thác đá, cát, sỏi, đất sét và cao lanh. Với ngành nghề đa dạng, doanh nghiệp có đủ khả năng đáp ứng nhu cầu xây dựng trong tỉnh cũng như ngoài tỉnh.
Doanh nghiệp thành lập từ năm 1993, nhưng ngành nghề xây dựng cơ sở hạ tầng mới thực sự bắt đầu vào năm 1998. Với nguồn vốn tự có và sự đóng góp của các nhà đầu tư, doanh nghiệp đã trang bị cho mình hệ thống cơ sở vật chất hạ tầng hiện đại với 350 xe vận tải, 100 máy thi công đường bộ. Đội ngũ cán bộ trong ngành là 130 kỹ sư trình độ trung cấp trở nên với chuyên môn, dày dặn kinh nghiệm và trên 700 công nhân lành nghề. Sự lãnh đạo tài tình của người chủ doanh nghiệp, cùng với sự đoàn kết của tập thể cán bộ công nhân viên là động lực thúc đảy sự phát triển của doanh nghiệp. Tuy là một doanh nghiệp tư nhân nhưng với việc thực hiện các chính sách như: chính sách khuyến khích người lao động bằng các chế độ ưu tiên khen thưởng, các chế độ lương hợp lý, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của người lao động, bồi dưỡng nâng cao tay nghề đã là nguồn động lực thúc đẩy tiến độ làm việc, cũng như trình độ chuyên môn của người lao động. Khóa luận: Thực trạng Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.
Vốn là một người có tài năng trí tuệ, lại có sự nhạy bén trước tình hình kinh tế, người chủ doanh nghiệp ông Nguyễn Xuân Trường đó có những hướng đi ngay những ngày khi doanh nghiệp mới bắt đầu đi vào hoạt động. Cho tới nay doanh nghiệp đã đạt được những thành tích đáng kể. Nhờ sự nỗ lực của chính bản thân tính đến thời điểm này, doanh nghiệp đã và đang thực thi 10 công trình lớn trong và ngoài tỉnh: Các công trình đừơng sơ tán cứu hộ dân ngập lũ, kết hợp với đờ chắn nước Tam Chúc – Khả Phong (Hà Nam), đường 477 công trình chắn nước lũ (huyện Gia Viễn), công trình Bắc Rịa – Nho Quan, các công trình trọng điểm khu du lịch Tràng An, khu tâm linh Chùa Bái Đính….Tổng doanh thu tính đến 9/2007 là 350 tỷ đồng.
Theo bảng đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh nhiệm kỳ qua được thể hiện qua số liệu cụ thể như sau:
Với khả năng và sự nỗ lực của mình, doanh nghiệp Xuân Trường đã có những đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế nước nhà, tạo đà cho ngành du lịch hội nhập và sánh vai với thế giới.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
2.1.2.Dự án khai thác Chùa Bái Đính.
Là một ngươì kinh doanh lành nghề, có kinh nghiệm trong việc nắm bắt thị trường, nắm bắt cơ hội, là điều kiện tiên quyết quyết định sự thành công trong kinh doanh. Việc lựa chọn đầu tư xây dựng khu Chùa Baí Đính là một trong những chiến lược thúc đẩy sự thành bại của doanh nghiệp cũng như sự phát triển của du lịch nước nhà. Dự án đầu tư xây dựng khu du lịch sinh thái Tràng An nói chung và khu Chùa Bái Đính nói riêng đã được UBND (Uỷ Ban Nhân Dân) tỉnh chấp thuận tại quyết định số 728/QĐ-UBND ngày 09/04/2008 cụ thể như sau: Địa điểm thực hiện dự án bao gồm huyện Gia Viễn, Hoa Lư, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Tổng diện tích 2.168,53 ha (trong đó huyện Gia Sinh: 529,6 ha). Tổng vốn đầu tư là 2.614 tỷ đồng trong đó (chi phí xây dựng: 2.265 tỷ đồng ; thiết bị: 349 tỷ đồng). Nguồn vốn đầu tư: tự có, tự huy động và công đức của các tín đồ, nhân dân địa phương đóng góp. Thời hạn hoạt dộng dự án là 70 năm. Tiến độ thực hiện dự án từ 2003- 2015.
Dự án xây dựng khu núi chùa Bái Đính thuộc khu du lịch Tràng An sẽ góp phần bảo tồn tôn tạo, phát huy giá trị di tích lịch sử, văn hoá cố đô Hoa Lư. Đồng thời cũng là để giữ gìn cho muôn đời sau, và thu hút khách du lịch thập phương đến tham quan học tập. Góp phần giáo dục truyền thống cho các thế hệ kế tiếp với ý thức độc lập tự chủ, trong công cuộc bảo vệ và xây dựng tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Khóa luận: Thực trạng Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.
Việc đầu tư dự án khu chùa Bái Đính để phát triển du lịch. Đây là một dự án lớn có tác động đến ngành du lịch của cả nước cũng như Ninh Bình nói riêng. Dự án này có ý nghĩa vực dậy nền du lịch trong mấy năm trì trệ vừa qua, đồng thời làm tăng sức hấp dẫn của ngành du lịch Ninh Bình với khách du lịch.
Mục tiêu xây dựng khu du lịch Tràng An noí chung và khu Chùa Bái Đính nói riêng, để tiến tới đề nghị UNESSCO, công nhận là di sản thiên nhiên thế giới.
- Bằng việc tôn tạo nhằm làm đẹp thêm cảnh quan thiên nhiên (núi rừng, hang động, thung lũng….) tôn tạo các di tích lịch sử: đền chùa miếu mạo, lễ hội truyền thống. Thu hút khách thập phương tìm về cội nguồn lịch sử.
- Nghiên cứu học tập tham quan du lịch, xây dựng nơi đây thành một khu du lịch tổng hợp tất cả các loại hình du lịch mà đặc trưng cơ bản là: lịch sử, văn hoá, sinh thái.
- Rèn luyện sức khoẻ bằng các hoạt động bơi lội chèo thuyền, leo núi, chơi tennis, cầu lông, bóng chuyền, lướt ván. Tổ chức các hoạt động văn hoá văn nghệ, sân khấu ngoài trời, tổ chức cắm trại sinh hoạt, dã ngoại cho khách du lịch.
- Giải trí lành mạnh với các loại hình vui chơi hấp dẫn gây hưng phấn. Tham quan kiến tạo núi non hang động, đặc biệt của thiên nhiên. Thưởng thức các loại ẩm thực đặc sản cổ truyền của cố đô Hoa Lư.
- Giúp đỡ các tầng lớp nhân dân lao động một nơi nghỉ ngơi thư giãn, trong các ngày nghỉ.
- Khi công trình được đưa vào sử dụng sẽ cải tạo mỹ quan khu vực. Đồng thời làm nền tảng các dịch vụ khác phát triển theo nhất là ngành du lịch của tỉnh, tạo thêm công ăn việc làm tăng thu nhập cho người dân cũng như tránh được tình trạng thất nghiệp cho đa số người lao động của địa phương.
- Việc thực thi dự án chia thành 3 giai đoạn: Giai đoạn 1: Xây dựng khu chùa Bái Đính.
Giai đoạn 2: Khảo sát lập đề cương, nhiệm vụ thiết kế quy hoạch chi tiết toàn bộ khu vực núi Chùa Bái Đính, xây dựng cơ sở hạ tầng hệ thống dịch vụ.
Giai đoạn 3: Hoàn chỉnh thiết kế quy hoạch toàn bộ quần thể khu du lịch hang động Tràng An, cố đô Hoa Lư, thị xã Ninh Bình. Khớp nối các hạng mục còn lại thành một quần thể thống nhất đưa vào khai thác và bảo tồn
2.2. Quần thể di tích Chùa Baí Đính Khóa luận: Thực trạng Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.
2.2.1. Vị trí địa lý
Núi Bái Đính thuộc địa phận xã Lê Xá, Sinh Dược, Xuân Trì xưa (nay là xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, Ninh Bình). Núi Bái Đính với chiều cao 185 m diện tích khoảng 15.000 m2. Đây là vùng đất nổi danh, tên mỗi huyền thoại, mỗi ngọn núi, mỗi thung lũng là sự kết nối kỳ diệu một chuỗi sự tích của thiền sư Nguyễn Minh Không – Người sáng lập ra ngôi chùa cổ. Đến với khu núi Chùa Bái Đính du khách có thể tìm về với cõi niết bàn, tịnh tâm cùng đức Phật từ bi. Giữa trời đất mênh mông, vạn vật yên bình, du khách có thể phát hiện ra ở nơi cùng cốc có một Ao Tiên mà theo tục truyền nơi đây đã diễn ra cảnh sinh hoạt của các Tiên nữ chốn thiên đình. Cùng với nét đẹp trang nghiêm trầm mặc của Bái Đính cổ tự là ngôi chùa Bái Đính mới nguy nga tráng lệ nằm trên đồi Ba Rau tựa lưng với chùa Bái Đính cổ. Chùa mới là sự mô phỏng lại chùa cổ, nhưng xây dựng với quy mô lớn hơn, được xem như là một ngôi chùa lớn nhất Đông Nam Á.
Đến với ngôi chùa Bái Đính du khách sẽ bị choáng ngợp trước sự hoành tráng của những bức tượng bằng đồng to và nặng nhất Việt Nam. Đây là một công trình kiến trúc Phật giáo vĩ đại nhất của người Việt
2.2.2. Khu chùa Baí Đính cổ
2.2.2.1. Nguồn gốc lịch sử Khóa luận: Thực trạng Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.
Đây là một ngôi chùa cổ được xây dựng từ triều Lý, tương truyền rằng người khai sinh ra chùa Bái Đính là quốc sư Nguyễn Minh Không (quốc sư triều Lý). Vào thời vua Lý Thánh Tông năm Bính Ngọ (1066) ở thôn Điềm Dương nay thuộc (Gia Thắng, Gia Viễn, Ninh Bình). Có hai vợ chồng nghèo là Nguyễn Sùng và Dương thị Mỹ đã sinh hạ ra một người con khôi ngô tuấn tú đặt tên Nguyễn Chí Thành. Không bao lâu sau thì cha mẹ mất, Nguyễn Chí Thành kiếm sống nuôi thân bằng nghề mò cua bắt cá. Lớn lên ông kết nghĩa với Từ Đạo Hạnh (? – 1115) và Nguyễn Giác Hải, là hai vị chân sư có uy tín đương thời. Khi tu hành đắc đạo, Nguyễn Chí Thành trở về quê nhà và dựng chùa Viên Quang, sau đó lại quay về quê mẹ của mình ở Phả Lại (Hải Dương), Giao Thuỷ (Nam Định), Vũ Thư (Thái Bình). Ông dựng chùa tu hành, lấy vị hiệu là Minh Không. Ông là một nhà sư tài năng lẫy lừng, được coi là thần y khi chữa được bệnh “hoá hổ” cho vua Lý Thần Tông (1128-1138). Bộ đại việt ký sử toàn thư có chép: “khi sư Từ Đạo Hạnh sắp trút xác (để đầu thai làm vua Thần Tông ), bèn đem thuốc và thần chú giao cho học trò Nguyễn Chí Thành và dặn rằng: 20 năm sau nếu thấy Quốc Vương bị bệnh nặng thì đến chữa ngay”. Quả nhiên đến năm 1136 thì vua Thần Tông bị bệnh “hoá hổ” thầy thuốc khắp nơi trong thiên hạ đều bó tay chỉ có Nguyễn Minh Không là chữa được bệnh cho nhà vua, phong làm Quốc Sư và mang họ vua, ban bổng lộc của triều đình.
Trong khi đi tìm thuốc chữa bệnh cho nhà vua ông đã tình cờ phát hiện ra hai hang động tuyệt đẹp. Bằng con mắt tinh tường của mình, ông đã nhận ra đây là đất Phật. Ông xin chối từ những bổng lộc của vua để về tu hành ở ngọn núi này . Ông cho xây chùa thỉnh Phật, để tạ ơn trời Phật, chùa Bái Đính ra đời từ đó. Theo lý giải, Bái ở đây có nghĩa là lễ bái, cúng bái trời đất Tiên-Phật, Đính có nghĩa là đỉnh như vậy Bái Đính có thể hiểu là cúng bái trời đất Tiên, Phật ở trên cao, điều này thuận theo địa thế của Bái Đính cổ tự là như vậy. Nói đến công đức của nhà sư Nguyễn Minh Không là người đã tạo nên Tứ đại khí (còn được dân gian gọi là ông tổ đúc đồng). Nguyễn Minh Không là người đã đặt tên cho vườn thuốc của mình là “Sinh Dược” có nghĩa là “Vườn thuốc sống”, để chữa bệnh cho muôn dân, là người có công gây dựng ra khoảng 400 ngôi chùa lớn nhỏ trong vùng. Vì tính nhân văn cao cả và công đức lớn lao của vị Bồ tát sống, khi ông chết người dân đã đúc tượng lập ban thờ trên núi Bái Đính, để tưởng nhớ đến người lập nên ngôi chùa Cổ Thạch Am trên động núi Bái Đính.
2.2.2.2.Danh lam thắng cảnh và những sự tích huyền thoại Khóa luận: Thực trạng Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.
Bước vào khu chùa Bái Đính cổ là bước vào không gian tâm linh của thế giới Phật – Đạo – Nho giáo, các sự tích, huyền thoại, và vẻ đẹp kỳ ảo của danh lam thắng cảnh.
Từ đường lên chùa Bái Đính cổ ngay phía chân núi du khách sẽ bắt gặp Giếng Ngọc. Tương truyền đây là giếng nước thuở sinh thời đức Thánh Nguyễn, đào để lấy nước thổi cơm, đồ xôi cúng Phật cũng là lấy nước để sắc thuốc chữa bệnh cho chúng sinh (gọi là Lỗ Lùng ổ gà), đây là mạch tiểu Long nước không bao giờ cạn. Nước từ Giếng Tiên lên đến động thờ Mẫu đỉnh Bái Đính chảy qua các khe núi Bái Đính xuống, lọc qua khe đá rễ cây rừng, qua mạch nước ngầm nên trong suốt, ngọt như nước mưa, tụ lại Lỗ Lùng. Người ta gọi đây là mắt, điểm lộ thiên của long mạch Bái Đính.
Giếng Ngọc nằm trong khuôn viên rộng 6.000 m2, bốn góc đựơc xây bốn lầu bát giác. Giếng xây thành hình tròn giữa khuôn viên vuông theo quan niệm triết học cổ “Trời tròn Đất vuông”. Đường kính giếng rộng 30 m, nước trong suốt có chiều sâu từ 5 – 6 m. Miệng giếng được làm lan can bằng đá tiện bao quanh, tôn vẻ đẹp và cổ kính của ngôi chùa. Đường đi xung quanh được lát đá rộng thoáng. Mùa hè nước bốc hơi mát, mùa đông bốc toả hơi ấm, mặt giếng có hôm bao phủ màn sương khói trông huyền ảo. Đây là công trình đã được trung tâm sách kỷ lục Việt Nam cấp bằng xác nhận ngày 12/12/2007: “Ngôi Chùa có giếng lớn nhất Việt Nam”.
Đến với Bái Đính cổ là trải qua một chặng đường khá dài nhưng khi lên với Phật tìm về với cõi thanh tịnh thì mỗi chúng sinh dù trải qua bao nhiêu bậc đá thì vẫn mang trong lòng sự phấn khởi, niềm vui mừng lộ rã trên từng nét mặt. Lên đến động thờ Phật, thờ Thần, thờ Tiên trên đỉnh núi Bái Đính, đều được làm bằng 265 bậc đá xanh đục chạm công phu, đẹp đẽ. Xưa kia, người ta chỉ lợi dụng sườn núi để làm bậc kê bằng các phiến đá thô ráp, tự nhiên nên lên xuống khó khăn.
Bước lên 135 bậc đá là tới tam quan. Hai mặt trong ngoài trên đỉnh tam auan đề bốn chữ “Minh Đỉnh Danh Lam”. Leo lên 43 bậc đá nữa, rẽ tay phải hơn 30 m là đến bàn thờ tổ đựơc kiến lập từ một mái đá núi tự nhiên. Chính giữa bàn thờ đặt tượng Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) mặc áo đỏ ngồi toạ thiền. Đây là vị sư Ấn Độ, vào khoảng năm 520, ngài đã theo thuyền vượt biển đến Trung Quốc, tu hành ở chùa Thiếu Lâm trên núi Tùng Sơn, trở thành Đông Tổ Lịch Đại Thiền Tông thứ nhất của Trung Hoa, đồng thời là sư Tổ của Thiếu Lâm võ thuật. Tượng ngài thường được tạc dáng ngồi, đặt ở bàn thờ Tổ ( hậu đường) của các chùa. Tượng của ngài được tạc, mặt vuông mũi cao, râu quai nón, ria râu cằm rậm, có khi mặt được sơn xanh. Bên cạnh tượng Tổ Đạt Ma là tượng Sư Tổ người Việt, không rõ danh tính, mặt vuông quắc thước, cả hai pho tượng này nguyên trước đây ở chùa Đà A (hiện nay thì không còn ngôi chùa này). Khoảng năm 1962 sư trụ trì trên núi Bái Đính chuyển về lập ban thờ tổ ở đây.
a, Động thờ Phật Khóa luận: Thực trạng Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.
Từ bàn thờ Tổ Đạt Ma đi lên khoảng 77 bậc đá, rẽ về bên phải khoảng 21 bậc đá nưó là đến cửa động (Hang Sáng- Minh Đỉnh Danh Lam trên núi). Cửa động quay hướng chính Bắc, cao hơn 2m, động Sáng dài khoảng 25m, rộng 15m trần và nền động đều bằng phẳng. Trong động thờ Phật nên người dân địa phương goị là động Phật (hay chùa Hang), có Thạch Am (Am đá) thờ đức thánh Nguyễn Minh Không. Nhưng ngày nay người ta không còn thờ đứcThánh Nguyễn trong Thạch Am nữa, mà thờ ngay ở giữa vòng cung tay ngai của chùa Bái Đính (lối sang giữa hang Sáng và hang Tối).
Truyền rằng khi vua Lê Thánh Tông (1460 – 1496), một lần kinh lý phương Nam về qua vùng đất Ninh Bình. Sau khi lên vãn cảnh chùa trên đỉnh núi Bái Đính, đức vua đã đề tặng bốn chữ “Minh Đỉnh Danh Lam” và đề một bài thơ tứ tuyệt:
Phiên âm chữ hán:”Minh Đỉnh Danh Lam” Đính Sơn độc chiếm nhất danh cao Bảo chướng hoàng đụ tự tích triều Nhân kiệt địa linh chung vượng khí Huyền sơn mỹ lệ tráng kim âu.
Dịch thơ:
- Đính Sơn danh tiếng thực cao xa,
- Che chở kinh thành tự thuở xa.
- Nhân kiệt địa linh nên vượng khí,
- Núi thiêng cảnh đẹp vững sơn hà.
Trong chùa Hang trước kia có rất nhiều tượng nhưng do hang sâu, hơi nước của động đá vôi ẩm thấp nên nên tượng Phật không còn nữa. Các cụ cao niên địa phương cho biết, đã có thời Đức hoà thượng trụ trì chùa này, đã cho đắp tượng Phật bằng đất, sau bị hỏng cả, lại cho làm tượng bằng đá để thờ. Nhưng cho đến nay đều không còn, nên sau này (2007 – 2008), người ta đã đúc tượng Phật bằng nguyên khối mạ vàng để thờ. Trước cửa chùa Hang đặt hai pho tượng hộ pháp (Khuyến thiện và Trừng ác) bằng đồng nguyên khối mới đúc.
Ban thờ Phật được bài trí thờ các tượng Phật theo cách bài trí thông thường giống như các ngôi chùa cổ ở miền Bắc, trên cùng là 3 pho tượng Tam thế: Phật quá khứ ngồi bên trái tay trái đặt trên đùi, tay phải dơ ngang ngực, các ngon khum vào lòng tay, ngón út giơ ra tụng niệm theo thế ấn quyết ; Phật hiện tại ngồi giữa toạ thiền hai tay đan chồng lên đùi; Phật vị lai ngồi bên phải tay phải để trên đùi, tay trái cầm viên ngọc. Hàng thứ 2: Tượng Thích Ca Mâu Ni cầm bông sen giơ cao ngang mày nên gọi là Thích Ca niêm hoa sen, tượng được đúc to và cao hơn các pho tượng khác trên bàn thờ. Hàng thứ 3: Phật Quan Âm Bồ Tát niêm hoa sen. Hai bên ban thờ Phật là hai bàn thờ Thánh Hiền và Đức Ông. Tất cả những pho tượng đều được đúc bằng đồng nguyên khối, mạ vàng, cỏc đồ tế tự cũng được đúc bằng đồng. Chiêm ngưỡng động Phật sáng sáng, tối tối, hư hư thực thực, óng ánh long lanh như một động Phật bằng vàng, hương thơm của nhang khoí, hương hoa rừng, cảnh sắc đẹp vừa thiêng liêng.
b, Động thờ thần Cao Sơn Khóa luận: Thực trạng Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.
Qua động thờ Phật rẽ tay trái là động thờ thần Cao Sơn. Cửa động quay hướng Đông Đông Nam 145 độ, vách đá bên phải của động có khắc bia nói về việc tu sửa động thờ Thần ( thời Tự Đức). Nét chữ hán khắc nông mờ khó đọc. Tượng thần Cao Sơn bằng gỗ sơn son thiếp vàng, đầu đội mũ cánh chuồn, hai tay cầm thẻ lệnh bài trước ngực dáng có vẻ nghiêm cẩn, oai phong.
Từ cửa động thờ Thần Cao Sơn, đi xuống hơn 70 bậc đá phía thung đền còn có một ngôi đền thờ thần Cao Sơn được xây cất áp lối lên xuống bên sườn núi, lộ thiên. Đền mới xây cất năm 2007, theo kiểu chữ “Đinh”. Tiền bái ba gian, hậu cung hai gian dọc, kèo và xà đều bằng gỗ thứ thiết, theo kiểu chồng giường, không gác tường, dựng trên 12 cột gỗ tứ thiết kê đá. Nguyên là do khi đúc tượng thần Cao Sơn bằng đồng nguyên khối mạ vàng để thay thế cho tượng ngài bằng gỗ trên động hang Sáng, nhưng khi đặt tượng đồng vào thì pho tượng gỗ không thể di dời đi được nên người ta đã cho xây ngôi đền mới để thờ ngài. Dù chỉ hiện thân là gỗ, nhưng dân gian đã thờ phụng ngài trải qua bao khói lửa binh đao, phế hưng thời đại. Chính vì lẽ đó mà đền thờ thần Cao Sơn càng uy nghi, công đức của ngài luôn được chúng sinh tưởng nhớ đến. Đó chính là nét văn hoá trong tín ngưỡng dân gian của người Việt. Ngày nay khi lên chùa Bái Đính ta thâý một ngôi chùa thờ Thần Cao Sơn mới có tên đề tự “Cao Sơn Thần Từ” sơn son thiếp vàng. Pho tượng mới đúc cao tới 1.50 m, phỏng theo hình dáng của pho tượng cũ để tạo khắc.
c, Đền thờ Lý triều quốc sư Nguyễn Minh Không Khóa luận: Thực trạng Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.
Từ động thờ Phật rẽ tay trái đi xuống khoảng hơn 20 bậc đá là một ngôi nhà xây dựng theo kiểu nhà sàn khang trang. Quay hướng Nam Tây Nam 225 độ là đền thờ thánh Nguyễn Minh Không, đền mới được xây dựng toạ lạc bên sườn núi. Giữa vòng tay ngai của núi Bái Đính nhìn xuống thấy thung Ổ Gà (Sinh Dược, Gia Sinh), hai bên là Quỳnh Lưu và Sơn Lai (Nho Quan). Hai bên tả hữu “tay ngai” là động thờ Phật Cao Sơn và động thờ Mẫu. Đều là kiến trúc 2 tầng tầng dưới xây dựng bằng bê tông cốt thép, kích thước: rộng 10.50 m, sâu 15.80 m, phía trước có hiên rộng 1.60m. Tầng trên có kiến trúc hoàn toàn bằng gỗ tứ thiết theo kiểu chữ Đinh, chồng giường, tiền bẩy, hậu bẩy, gồm 6 vì kèo. Các đầu bẩy đều trạm trổ hoa lá, nhà 5 gian 2 chái, tạo thành 4 mái, đều lợp ngói men ống màu nâu. Các mái đao đều có hình chim phượng chầu, đầu kìm là hình rồng chầu. Đỉnh mái là “Lưỡng Long Triều Nguyệt”. Gian tiền đường dài 14.0m, rộng 4.70m, có hai hàng cột song song, mỗi hàng có 6 cột. Hậu cung có 2 cột, các cột có kích thước bằng nhau: cao 3.20m, đường kính 0.40m.
Điều đặc biệt là tường đều làm bằng gỗ tứ thiết đục thông phong “thượng song hỷ hạ bản”. Các cánh cửa đều làm bằng gỗ lim. Hậu cung có một gian dọc, trên cửa có bức đại tự chữ hán “Lý triều quốc sư”. Tường hậu cung dựng bằng gỗ tứ thiết, giữa đặt tượng thánh Nguyễn Minh Không, cao 1.50m đúc bằng đồng nguyên khối mạ vàng, trên một bệ đá. Tượng đúc theo mẫu tượng thánh Nguyễn thờ ở đền Lý Quốc Sư (Phố Lý Quốc Sư, Hà Nội), lan can đều làm bằng đá chạm chổ kỳ công đẹp đẽ.
d, Động thờ Tam Toà Thánh Mẫu:
Đối diện với động Sáng thờ Phật, là động Tối thờ Tam toà thánh Mẫu. Động tối quay hướng Đông Đông Nam, cửa cao rộng, có treo quả chuông đồng, nặng hơn 300 kg, đúc nổi 8 chữ hán “Mẫu Nghi Thiên Hạ” và “Xuân Hạ Thu Đông”. Bên trong động tối có nhiều ngăn hơn động sáng gồm 7 động nhỏ thông nhau, có động ở trên cao, lại có động ở dộ sâu tới 4- 5 m, có động nền lại bằng phẳng, có động trũng xuống như lòng chảo….Trần động có chỗ cao hơn chục một. Bàn thờ Tam toà Thánh Mẫu được bài trí ở ngăn động Sáng hơn . Nhũ đá trong động Tối thi nhau rủ xuống tạo nên đủ các hình dáng tuỳ theo trí tưởng tượng của mỗi người. Cá vượt vũ môn, rồng hút nước, cây tiền, cây bạc, cây thóc, bàn cờ đế thích, người cày ruộng, ao bèo, lợn ăn no tròn nằm ngủ…..Lại có những nhũ đá rủ xuống giữa động giống như một cây cột lóng lánh gọi là “Nhất trụ kình thiên” (một cột chống trời), gõ vào phát ra những âm thanh kỳ diệu như cây đàn đá nhiều cung điệu.
Bàn thờ mẫu được đặt tượng tam vị Thánh mẫu bằng đồng, dát vàng. Pho tượng mẫu ở giữa ngồi dạng phật niệm thiền. Pho tượng bên tay trái: tay phải đặt trên đùi, ngửa lòng bàn tay, bàn tay trái úp trên đùi. Tượng bên phải có dáng ngồi và để tay ngược lại pho tượng bên trái. Khóa luận: Thực trạng Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.
Hàng thứ hai trên bàn thờ là tượng Ngũ Vị Tôn Ông cũng bằng đồng dát vàng. Khác với động Sáng thờ Phật, động Thờ thần Cao Sơn thì động Tam toà Thánh Mẫu được lập lên thờ tự ít nhất, từ thời thánh Nguyễn (thế kỷ XII), động thờ mẫu Liễu Hạnh ở động Tối được lập nên chưa lâu. Theo truyền rằng Mẫu Liễu xuống trần vào cuối thế kỷ XVI, hiển linh vào thế kỷ XVII và đặc biệt trong triều phong kiến nhà Lê Trung Hưng (thế kỷ XVIII), nhà Nguyễn và nhân dân tôn thờ rộng rãi từ thế kỷ XIX, với sắc phong và sự tôn vinh cao nhất “Mẫu nghi thiên hạ” như riêng ở chùa Bái Đính cổ, thì Liễu Mẫu Hạnh được thờ khoảng những năm 30 của thế kỷ XX. Theo ngươì dân địa phương ở đây kể lại rằng, xưa có một người tiều phu đi kiếm củi tình cờ phá đống mối khổng lồ khổng lồ thấy xuất hiện cửa động, dân gian thấy động tối (âm), nên từ đó lấy tên là động Tối, đối lập với động Sáng để có âm dương ôn hoà theo quan niệm triết học “âm dương khai thái”. Sau này người ta thấy, đỉnh núi đã có động thờ Phật, thờ Thần (dương) rồi lập động thờ Mẫu Tiên (âm). Cũng là theo thuyết âm dương, và hoàn chỉnh tín ngưỡng đa thần của người Việt. Đặc biệt là phong tục thờ (Phật ,Tiên, Thần), Đạo Mẫu chính là là tín ngưỡng bản địa của người Việt.
Bên cạnh ban thờ Mẫu là ngăn động tối hơn, phía trong chia thành hai ngăn nhỏ. Bên trái chính giữa là thờ Phật, có ba hàng tượng Phật, trong đó có pho tượng Thích Ca và pho tượng Thích Ca sơ sinh (tượng Cưủ Long). Bên trái lại thờ Tam toà Thánh Mẫu, tất cả mặc áo hồng. Theo một số thông tin của những người trông coi ở đây, thì tất cả số tượng này đều là tượng cũ của động Tối (tượng mới đúc bằng đồng thay cho các tượng cũ dồn vào ban thờ này), và tượng của các chùa Đà A, chùa Chợ, chùa Lê ( Sinh Dược ) chuyển về thờ ở đây. Ngăn động liền bên phải thờ công đồng.
Trong động Tối còn có đường lên trời và đừơng xuống âm phủ, lối lên trời của động nhỏ, lộ thiên thẳng tận đỉnh núi, tới cột cờ. Đường xuống âm phủ trong sâu thăm thẳm, càng đi xuống càng nhỏ dần, trần động càng cao, nhiều ngóc ngách, sâu khoảng vài ba chục thước, lại có lôí xuống Ao Tiên. Nước thánh thót trần hang rủ quanh năm nên Ao Tiên không bao giờ cạn, nước nhũ đá đủ mọi hình thù kỳ dị, long lanh soi bóng xuống mặt nước lung linh huyền ảo.
Với vẻ đẹp kỳ ảo của mình cũng như những sự tích, các yếu tố tín ngưỡng văn hoá của người Việt được hội tụ ở nên đây vừa tạo nên cảnh quan vô cùng đẹp mắt và có ý nghĩa tâm linh to lớn. Đến với Bái Đính nếu không hiểu hết giá trị của nó thì cũng giống như lên chùa để thưởng ngoạn mà không thấy được nét đẹp thiêng liêng của nó. Sức hấp dẫn của chùa cổ Bái đính không chỉ là ngôi chùa với những hang động đẹp mà nó còn thu hút sự tò mò, khám phá của khách hành hương qua từng bậc đá đi lên. Những lớp tam cấp được xây bằng những lớp đá thoai thoải, để giúp du khách lên xuống được dễ dàng. Hai bên sườn núi là những gò đá bụi cây, có lên núi mới biết núi cao, đứng từ trên núi phóng tầm mắt xuống về hướng chân núi du khách sẽ thấy được toàn cảnh Giếng Ngọc, những dòng người nhấp nhô lên núi tìm đến Phật tìm đến chỗ thanh tịnh để cầu mong những điều an lành sẽ đến với họ, cũng như để tỏ lòng thành kính của chúng sinh trước Phật.
2.2.3. Bái Đính tân tự – khu chùa Bái Đính mới Khóa luận: Thực trạng Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.
2.2.3.1.Trung tâm Phật giáo qua các thời “Đinh -Tiền Lê
Không gian Phật giáo qua các triều đại Chùa Bái Đính toạ lạc trong không gian qua các triều đại được xây dựng trên dải đất áp kề trung tâm Phật Giáo “Đinh – Tiền Lê” vào buổi đầu nhà Lý. Trong không gian thiêng của cố đô Hoa Lư và rộng hơn đến các đời “Trần- Lê – Nguyễn” sau này, là cả một không gian thiêng với cỏc đền chùa miếu mạo, thu hút nhiều tầng lớp dân chúng như:
a, Am Tiên (Động thờ Phật thời Lý)
Tương truyền đây là ngục đá nhốt hổ dữ, để trừng trị những kẻ có tội thời nhà Đinh. Đến thời Lý quốc sư Nguyễn Minh Không, vào đây tụng kinh thuyết pháp để yểm đảo quỷ, ma không kêu rú, hãm hại dân lành, cải đặt tên là động Am Tiên. Còn có ban thờ Đức Thánh Nguyễn Minh không với 3 chữ Hán trên ban thờ “Hiển Thánh Từ” (miếu thờ hiển thánh) và đôi câu đối “Điềm giang sinh hiển thánh, Hoa Động tiếp Thần Cao” (Điềm giang sinh hiển thánh, Động Hoa Lư đón Thần Cao).
b, Viên Quang Tự và Đền thánh Nguyễn Minh Không
Hai di tích này thuộc 2 xã Gia Tiến và xã Gia Thắng (huyện Gia Viễn, Ninh Bình) đối ngạn qua con sông Hoàng Long với Bái Đính cổ, do Thánh Nguyễn lập. Đền Thánh Nguyễn thờ Đức Thánh Nguyễn Minh Không là người quê ngay bản xã, đền còn thờ thân phụ thân mẫu của Đức Thánh Nguyễn ở nhà chính tẩm. Đây vốn là nhà để thờ Phật, sau khi Thánh Nguyễn mất, nhân dân lập đền ngài ngay trên đất chùa, đền và chùa nằm trên kiểu đất “Tượng Sơn Chung Dục, Ngưng Thuỷ Trường Thành” (núi voi hun đúc nên, trước mặt có dòng sông uốn khúc) được cho là long mạch địa linh nhân kiệt trong vùng, hiện còn 5 gian phía tây thờ Phật.
Động Hoa Lư ở địa phận xã Uy Tế (nay xã Gia Hưng, Gia Viễn, Ninh Bình). Gọi là động nhưng không có hang, đây là căn cứ ban đầu, thời thơ ấu cờ lau lập trận, sau này là nơi tụ nghĩa của nghĩa quân Hoa Lư do Đinh Bộ Lĩnh làm thủ lĩnh. Trong động có đền thờ Lý triều quốc sư Nguyễn Minh Không. Có tượng và bức đại tự bằng gỗ, có ba chữ Hán “Hoa Lư Động” khảm trai không đề niên đại cũng được các nhà phong thuỷ cho là địa linh phát tích
c, Chùa Địch Lộng. Khóa luận: Thực trạng Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.
Địch Lộng có nghĩa là tiếng sáo thổi, vì khi đứng giữa cửa động, gió thổi vào cửa động, nghe tiếng vi vu như tiếng sáo. Tên làng Địch Lộng và chùa Địch Lộng là gọi theo tên này. Chùa còn có tên khác là chùa Hang hay là Cổ Am tự, động tên là Nham Sơn. Chùa và Địch Lộng nằm ở phía Bắc xã Gia Thanh, cách cầu Khuốt 600m về phía Tây, cách Bái Đính về phía Bắc gần 20 km. Chùa Địch lộng là một cụm kiến trúc chùa và Đình Chùa thờ Phật , Đền thờ Thần. Theo truyền thuyết sinh thời Nguyễn Minh Không thường đơm đó
- Kẽm Trống cách Địch Lộng 400m, giữa Kẽm Trống là một mô đất nhô lên gọi là “Nút đó”. Hai bên Kẽm Trống và Núi Rùa có hai nốt chân khổng lồ trên đá, dân gian gọi là lốt chân của Thánh Nguyễn, lúc đầu nhân dân thờ Ông
- Gộp Hồ một vách núi đá ven núi Kẽm Trống, về sau mới rước về thờ ở đền Địch Lộng. Chùa có 22 pho tượng Phật và Bồ Tát, có tượng Phật Quan Âm nghìn mắt nghìn tay và một tượng quốc sư Nguyễn Minh Không. Chùa và Địch lộng là một thắng cảnh nổi tiếng của Ninh Bình. Động đã được mệnh danh là “Nam thiên đệ tam động” (động đẹp thứ ba trời nam) và cũng được các nhà phong thuỷ coi là vùng địa linh.
d, Đền Vực Vông
Đền thuộc thôn Điểm Thượng, làng Chi Phong, xã Trường Yên thuộc thành nội của Kinh thành Hoa Lư xưa. Đền thờ bà Quận Mỹ vợ thứ của ông Mỹ Quận Công Bùi Văn Khuê nguời trong thôn, thời Lê Trung Hưng. Đền làm trên một khu đất bên bờ sông Hoàng Long. Trước cửa Vực Vông nên gọi là Đền Vực vông. Phía sau đền là núi Trư Sơn (núi con lợn), dãy núi phía Đông Bắc Bái Đính. Từ đền Vực Vông lên núi Bái Đính khoảng 2 km. Đền được lập đầu thế kỷ thứ XVII, ngay sau khi bà chúa Mỹ Quận Công tự vẫn. Sau khi trả nợ thù chồng. Qua nhiều lần trùng tu có quy mô như hiện nay, ngôi đền nổi tiếng linh thiêng từ lâu đời.
e, Chùa Bích Động ở thôn Đam Khê (thuộc xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư) Động ở trên qủa núi cao 130m, tên động do Nguyễn Nghiễm đặt vào năm 1773, động có 3 ngôi chùa là chùa Hạ, chùa Trung và chùa Thượng, chùa xây dựng vào năm 1707 cửa động phía tây có 3 pho tượng Phật Tam Thế, bằng đá uy nghi.
f, Chùa Kim Cương -Tháp Hiển Diệu Khóa luận: Thực trạng Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.
Núi Tiên Long gọi là núi tháp (thôn Áng Sơn, Ninh Hoà, Hoa Lư) trên vách đá có khắc bia Đại trị thứ 10, năm Đinh Mùi 1367. Nhà sư Trí Nhu, người đã có công trùng tu ngôi tháp Linh Tế trên núi Dục Thuý và tháp Hiển Diệu của chùa Kim Cương ở trên núi Tiên Long (hiện nay thì không còn nữa). Năm 1981 thì các nhà khảo cổ học đào thám sát trên nền tháp nằm trên đỉnh núi Tiên Long, đã tìm thấy rất nhiều mảnh vỡ gạch ngói và cả một số mảng đất nung có mảng có hình rồng của thời Trần muộn. Họ đã khẳng định vào thời Trần tại đây có ngôi chùa và tháp khá lớn như văn bia trên vách đá đã nêu. Người ta phỏng đoán theo truyền ngôn là tại đây từ thời “Đinh- Lê” đã có chùa thờ Phật, nhưng năm tháng nắng mưa, chiến tranh, nên chùa không còn nữa. Đến thời Trần thì Chùa và Tháp được xây dựng lại trên nền chùa cũ.
g, Đền Thái Vi (Điện Thái Vi)
Ở thôn Văn Lâm, Ninh Hải, Hoa Lư, đền thờ 3 vị vua nhà Trần là Trần Thái Tông (1225 – 1258), Trần Thánh Tông (1258 – 1278), Trần Nhân Tông (1278 – 1293). Đền được xây dựng từ thời nhà Trần, và trở thành trung tâm Đạo giáo của nhà Trần.
h, Làng Sinh Dược cũng là nơi tập trung của nhiều đền chùa miếu mạo như đền thờ đức Thánh Nguyễn, đình Chợ (chợ Sinh Dược cũ), chùa Đà A, đền Bóng (thờ quan Đệ Tứ), đình Trung( thờ Quý Minh Đại Vương là Thành Hoàng), Văn Chỉ (thờ Đức Khổng tử trên đỉnh núi làng Đồi), đền Từ, đền Mon..
Không gian Phật gioá qua các trục thiêng Đông Tây Nam Bắc, Chùa cổ trên động Phật núi Bái Đính và chùa Bái Đính mới không những nằm trên trong trung tâm Phật giáo thời (Đinh- Tiền Lê) mà nó còn nằm trong không gian theo trục thiêng Đông Tây và trục thiêng Nam Bắc.
Xét theo trục Bắc Nam thì đó là cố đô Hoa Lư, trung tâm Phật giáo của thế kỷ XX, Bái Đính– trung tâm tâm linh Phật giáo đầu thế kỷ XXI thờ “Tiên ,Thần ,Phật” trên đỉnh núi Bái Đính. Thái Vi (Văn Lâm) – trung tâm Đạo giáo thời nhà Trần thế kỷ XIV, nhà thờ Thiên chúa giáo Phát Diệm – trung tâm Đạo Thiên chúa giáo của thế kỷ XIX.
Xét theo trục thiêng Đông Tây là :Thiên Tôn – thờ Thiên Thần (Thần), Cố Đô Hoa Lư – là thờ Phật, Thần (nhân thần vua Đinh, vua Lê và các yếu nhân Cung Đình Hoa Lư như Thái hậu Dương Vân Nga, Đinh Liễn, Đinh Toàn, Đinh Hạng Lang, Lê Ngoạ Triều…Vực Vông – thờ Mẫu (Mỹ quận công phu nhân), Bái Đính – thờ “Phật ,Thần, Tiên”, đền phủ Đồi và phố Cát – thờ Mẫu Liễu Hạnh. Như vậy khu trung tâm Bái Đính, vừa là tâm điểm vừa là giao thoa của hai trục thiêng này, cũng là tâm điểm của phong tục truyền thống thờ: Phật, Thần (đạo giáo), Tiên (mẫu). Khóa luận: Thực trạng Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.
Đáng chú ý trung tâm tâm linh Bái Đính đã tạo nên sự đăng đối, hài hoà tục thờ cúng truyền thống, nhất là đã tạo nên sự đăng đối vừa ngẫu nhiên lại vừa tiền định. Ba đạo trong tín ngưỡng dân gian của người Việt, từ lâu đời là đạo Phật giáo, Đạo giáo, Thiên chúa giáo trong vùng đất cố ô Hoa Lư cổ nói riêng và mở rộng ra vùng châu thổ Bắc Bộ: Đó là Phủ Dày (Mẫu) và Bảo Lộc Thánh (thuộc Nam Định), Liễu Đôi ( Hà Nam), (Thần và tín ngưỡng dân gian) và Bắc Hoá là đền Sòng Sơn ( Mẫu), Hàn Sơn (Tam toà tứ phủ). Trung tâm tâm linh Phật giáo của Bái Đính ở vùng núi rừng – Tượng dương, trung tâm Thiên chúa giáo Phát Diệm ở vùng biển nước- Tượng âm. Bái Đính đã tạo nên sự đăng đối tâm linh giữa hai đạo giáo lớn trên đất Ninh Bình, mà còn tạo nên sự cân bằng âm dương theo triết cổ học. Lấy trung tâm đạo giáo Thái Vi làm tâm điểm đăng đối và cân bằng của trục thiêng Nam Bắc.
Trục thiêng là không gian thiêng rộng lớn, chạy dọc theo mạch núi mạch sông kỳ vĩ, và mảnh đất linh theo thuyết phong thuỷ cổ. Để phân biệt với ngôi chùa cổ trên động núi Bái Đính, thì dưới chân núi Bái Đính là một ngôi chùa hoàn toàn mới, người ta gọi là Bái Đính tân tự.
Không gian thiêng của tâm linh Phật giáo là không gian ngôi chùa ngôi chùa (chùa Bái Đính) giống như các ngôi chùa của người Việt miền Bắc, là chùa theo Phật giáo Đại Thừa. Vào thời lý nhà sư Thảo Đường người Trung Quốc, vốn là tù binh bị bắt tại Chiêm Thành, được Lý Thánh Tông (1504-1072) giải phóng khỏi kiếp nô lệ và cho mở Đạo Tràng tại Chùa Khai Quốc-Thăng Long (1609). Đệ tử theo học rất đông, trong đó có cả vua Lý Thánh Tông, lập nên dòng thiền thứ ba được truyền được 6 đời. Thiền Tông thời Lý, mang một đặc trưng dễ nhận thấy đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn Đạo Thiền với Nho giáo và Tịnh Độ. Thời Lý đất nước được thống nhất độc lập về chủ quyền chính trị, về cương vực lãnh thổ, một cách thực sự và trên ý nghĩa đó là sự độc lập tất yếu về hệ tư tưởng. Trong buổi đầu dựng nước Phật giáo có ý nghĩa như một thứ vũ khí tinh thần hữu hiệu để cố kết lòng dân, đoàn kết dân tộc chống lại kẻ thù xâm lược Phương Bắc. Nền Phật giáo Việt Nam đã phát triển cực thịnh dưới thời Lý, nhất là trong thời Nguyên Phi Ỷ Lan nhiếp chính. Sang đời Trần thì phái Thiền Tông được thống nhất, nên có thể hiểu ở chùa Bái Đính theo dòng phái Thiền Tông. Khóa luận: Thực trạng Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.
Theo dòng phái này thì không gian thiêng trước hết được thể hiện qua tên gọi của ngôi chùa như chùa Phật Tích (dấu tích của Như Lai), chùa Tây Phương (cõi tây phương cực lạc)…còn chùa Bái Đính (ý là tiếp nối không gian tâm linh và diễn xướng lễ hội Phật, Thần, Tiên từ ngàn xưa đã diễn ra trên mảnh đất và ngọn núi linh thiêng này).
Không gian thiêng còn biểu hiện ở thế đất lập chùa, theo Đạo giáo thì gọi là cảnh sắc. Chọn được thế đất có âm dương là thế đất tốt theo như lời của Thánh Nguyễn thì chùa Bái Đính cổ trên núi – tượng dương. Chùa mới dưới chân núi là – tượng âm, âm dương lưỡng hợp, khai minh, khai thái. Chùa Bái Đính cổ trên động núi quay hướng Bắc, chùa Bái Đính mới toạ lạc trên triền đồi Ba Rau huyền thoại phía Đông Bắc chân núi Bái Đính. Chùa toạ Nam nhìn hướng chính Bắc là Trạch Tốn. Hướng cửa các điện lớn trong chùa.. Chùa xây dựng theo thuyết phong thuỷ cổ “tiền thuỷ hậu sơn”, phía trước lấy cận minh đường là Hồ Đàm Thị, viễn minh đường là sông Hoàng Long. Núi Phường, núi Tháp, núi Hang Trai, tạo thành chữ “tâm” làm tiền án, tả thanh long là khu đồi Ba Rau, hữu bạch hổ là núi Bái Đính, xa hơn về phía Đông Nam là núi Mắt Rồng, hậu bối là núi Thung Bình. Người Việt chọn thế đất dựng chùa chẳng phải chỉ để hướng về cõi hư vô, mà còn hướng về nơi sinh sôi phát triển. Đất tốt theo quan niệm phong thuỷ cổ truyền phải là đất bên trái trống không, hoặc có sông ngòi ao hồ bao bọc, bên phải cao dầy có hình Hoa sen, tràng phướn, lọng báu có hình Rồng, Phượng, Quy, Xà chầu bái, trước mặt có minh đường, phía sau không có núi áp kề là đất tốt.
Chùa Bái Đính mới đã chọn được thế đất “đắc địa”, “cảnh sắc có đủ: nứơc, hoả, lương, rau, cảnh không gần nhân gian mà cũng không xa nhân gian vì gần thì ồn ào, xa thì cô quạnh, cảnh có thể trú là chỗ yên nghiệp có thể dưỡng thân, nuôi tính, tâm linh sáng suốt, trường dưỡng thảnh thơi, để được dưỡng đạo ,ấy là cứu cánh” đối chiếu lại thêm một chuẩn mực hết sức trọng yếu nữa là chùa Bái Đính chọn được cảnh sắc và thế đất “đắc địa” vừa đời vừa đạo, đời ở chỗ bên trái thì trông không, theo triết học cổ phương đông “vô cực sinh thái cực” có nghĩa là vật chất từ không thành có, sông hồ ao ngòi là nước yếu tố khởi nguyên của sự sống, bên phải có Rồng, Phượng, Quy, Xà là hội đủ âm dương, điều kiện cần và đủ cho sự sống sinh sôi phát triển. Đời còn biểu hiện ở lơng thực, rau , nước, lửa để duy trì sự sống nhân gian. Đạo là ở chỗ phía trước có minh đường (nơi nước tụ lại) cũng tốt, phía sau không có núi áp kề là không có dương, hàm ý chỉ cầu âm (vô sinh). Theo quan niệm của Phật, chùa cần yên tĩnh thì phải xa dân nhưng đạo Phật cứu sinh độ thế nên cần có dân. Chùa Bái Đính vừa có dân vừa không quá gần dân để có không gian tĩnh độ. Khóa luận: Thực trạng Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.
2.2.3.2. Các công trình kiến trúc
Theo quy hoạch chùa Bái Đính mới, bao gồm cả khu vực rộng lớn gồm nhiều hạng mục công trình được gọi chung là “khu tâm linh Phật giáo Bái Đính”. Diện tích tổng thể 30.000m2 với trên 20 hạng mục công trình. Được quy hoạch cụ thể như sau: điện Tam Thế 2.053m2, điện Pháp Chủ (Thích Ca Mâu Ni) 2.000m2, điện Quan Thế Âm Bồ Tát 676m2, điện thờ 500 vị La Hán 12.000m2, các công trình phụ trợ khác 13.270m2 (công viên văn hoá và học viện Phật giáo 30.28ha, khu đón tiếp và công viên cảnh quan 15ha, khu Hồ Đàm Thị và hồ Phóng Sinh 143.7ha, khu cây xanh cách ly và bảo tồn 121.03ha. Chùa được xây dựng theo độ dốc “soi gương” cao dần theo trục thần đạo từ tam quan đến điện Tam Thế, theo kiểu “nội công ngoại quốc”, các kiến trúc chính như tam quan, gác chuông, điện thờ Phật Bà Quan Âm, điện Pháp Chủ và điện Tam Thế xây dựng theo kiểu kiến trúc ngôi chùa cổ truyền Việt Nam nhà 4 mái, 2 đến 3 tầng mái, các góc đao đều uốn quanh đôi phượng. Nhìn từ cố đô Hoa Lư thì khu chùa Bái Đính giống như một bức tranh thuỷ mặc lớn treo nghiêng trên nền đồi xanh thẳm. Núi Bái Đính giống như một cái đinh chốt khổng lồ treo bức tranh tâm linh tuyệt mỹ và kỳ vĩ đó .
a , Tam Quan
Nhìn từ ngoài vào ranh giới giữa cái đời thường và chốn chùa thanh tịnh ta bắt gặp ngay đó là tam quan bao gồm 3 cửa: cửa giới giữ trọn những điều giới luật, cửa định tập trung thanh lọc tâm, cửa tuệ tu Phật phải trí tuệ, sáng suốt, hay cũng là 3 cửa: khổ, vô thường, vô ngã. Dưới con mắt của người thường thì tam quan chỉ đơn giản là 3 cửa nhưng trong giới tu hành đó chính là ranh giới giữa cõi thiêng và cõi tục, là ngưỡng cửa thiêng liêng, siêu thoát là lúc thanh thản về với cõi vĩnh hằng.
Tam quan chùa Bái Đính mới có hình dạng “lộng tàn” xây dựng theo kiểu chồng giường gồm 3 tầng mái cong mỗi tầng 4 mái , 2 tầng dưới 8 mái là bát quái. Tầng trên 4 mái và nóc là ngũ hành. Mái lợp ngói ống màu nâu sẫm, tiền bẩy, hậu bẩy, xà nách cao 16.5m, chu vi 13.85m*13.5m, tất cả bằng gỗ tứ thiết, 4 cột cái mỗi cột cao 13.85m, đường kính 0.87m nặng gần 10 tấn. Bốn cột trung mỗi cột cao 11m đường kính 0.75m, 16 cột con xung quanh, mỗi cột cao 5m đường kính 0.65m. Tất cả các cột đều kê trên tảng đá vuông theo kích cỡ từ cột cái, cột trung cột con với kích thước cạnh thứ tự 1.4m, 1.2m, 0.9m. Đầu đao của mái tam quan cong như hình đuôi chim phượng. Nóc tam quan là 2 đầu kìm chầu mặt nguyệt, tầng ba tam quan, gian giữa phía trước và sau đều chạm thông phong phù điêu lớn, xung quanh là hạ vân mây vần vũ, giữa bánh xe pháp luân (biểu tượng cho sự chuyển vần không ngừng của Phật pháp cũng như là của trời đất theo triết lý đạo Phật. Các cánh của đều làm bằng gỗ lim, mỗi cửa 4 cánh, đều được chạm “thượng song hỷ kép – thông phong- hạ bản”. Khóa luận: Thực trạng Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.
Nhìn vào hai gian phụ của tam quan là tượng 2 ông hộ pháp bằng đồng cao 5.5m, nặng 12 tấn, tượng 8 vị bát bộ Kim Cương (8 võ sỹ thiên thần bảo vệ Phật pháp có tâm can sáng- trong- cứng rắn như kim cương, cầm truỳ kim cương, được đúc bằng đồng nặng tới 8 tấn, bố trí đứng ngay ở cổng tam quan.
Phía sau dãy tam quan là 2 dãy toà nhà gỗ song song nối liền nhà hành lang La Hán, theo lối kiến trúc cổ, mỗi toà 16 gian, dài 70m, mỗi gian rộng 4.5m.
Để hoàn thiện được tam quan người ta đã phải sử dụng đến 550 tấn gỗ, chỉ bấy nhiêu thôi ta đã thấy được sự hoành tráng đồ sộ của nó. Chưa có một ngôi chùa nào có được một tam quan bề thế như vậy, phải chăng chủ ý của nguời thiết kế muốn tạo ấn tượng mạnh với các đấng tu hành.
b, Tháp Chuông
Sau Tam quan là tháp chuông. Tháp chuông ở đây được xây dựng bắng bê tông cốt thép gỉa gỗ hình dáng phỏng theo các tháp chuông của ngôi chùa cổ ở đồng bằng Bắc Bộ, trong ngôi chùa nội công ngoại quốc thì biểu tượng thiêng liêng của đức Phật đặc biệt chú ý đó là sự vươn cao của gác chuông. Theo quan niệm của nhà Phật, gác chuông chùa càng ngân càng vang xa bao nhiêu thì lời răn dạy của đức Phật càng phổ độ đến chúng sinh càng được thấm nhuần bấy nhiêu. Khi tiếng chuông ngân lên 108 tiếng, tức là xua đi 108 điều phiền não trong cuộc đời.
Tháp chuông chùa Bái Đính có hình bát giác, có ba tầng mái cong, thu dần lên đỉnh tháp, tổng cộng 24 mái, lợp ngói ống tráng men màu nâu sẫm, 24 đao mái cong vút có hoạ tiết hoa lá dây leo, mỗi mái cao 4.65m, dưới đắp các hoạ tiết cao 2.3m đỡ chân đao. Mỗi tầng 16 cột (8 cột cái và 8 cột con) tầng một cột cái cao tới 16m đường kính 0.8m; cột con cao 8m, đường kính 0.7m; chóp tháp hình búp sen cao 3.5m toàn bộ tháp chuông cao 49m. Trên là một quả chuông mới đúc có trọng luợng 28 tấn bên trên chuông được tạc khắc đôi câu đối “Nương theo chân Phật pháp, vượt qua vùng vũ trụ, Trời- Thần- Ngư-ời, đều tỉnh ngộ trong tiếng chuông thức tỉnh đại niết bàn; Nguyện xin chuông đại hùng vang vọng biển phúc âm, cho chúng sinh bừng cơn mộng, nghe âm thanh giác ngộ đến bồ đề”. Câu đối này có ý niệm thiêng liêng liêng “Đại giác” của đức Phật truyền lại cho chúng sinh. Tháp chuông Bái Đính có cấu trúc tương tự như Tháp chuông chùa Keo, nhà thờ đá Phát Diệm. Quả chuông bằng đồng này có trọng lượng 36 tấn đã được trung tâm sách kỷ lục Việt Nam cấp bằng ngày 12/12/2007 xác lập kỷ lục “Đại Hồng Chuông” lớn nhất Việt Nam. Khi đánh phải dùng chày kình dài hơn 4m, đường kính 0.3m, nặng gần 5 tạ bằng gỗ tứ thiết. Chuông được luyện pha bằng vàng lại treo trên tháp cao một sườn đồi của vùng núi sông kỳ vĩ nên khi chuông ngân lên, tiếng chuông âm vang, đồng vọng từ các hang động, vách núi khiến ngời nghe như từ thinh không vọng xuống, từ thập phương vọng về. Cách xa hơn 10km vẫn nghe thấy tiếng chuông ngân nga âm vang lan toả. Tháp chuông lại có hình dáng của bông sen khổng lồ điều này lại có càng có ý nghĩa to lớn hơn sen vốn là biểu tượng của đức Phật của sự thanh tịnh.
c, Điện Quan Thế Âm Bồ Tát. Khóa luận: Thực trạng Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.
Từ Tháp Chuông đi qua thảm cỏ là tới Điện Quan thế âm Bồ Tát. Nhìn từ bên ngoài điện được xây dựng trên triền đồi cao hơn tháp chuông và tam quan, với hình dáng “lộng tàn” kiến trúc chồng giường, tiền bẩy, hậu bẩy giống như tháp chuông, xà nách, cột chốn, góc kẻ chuyền. Mái kiến thiết hai tầng kiểu 4 mái (bát quái ) lợp ống ngói tráng men nâu . Điện cao 14.8m, chu 41m*16.8m, có 7 gian gồm 5 gian chính, gian trung đường rộng 6.6m, mỗi bên 2 gian, mỗi gian rộng 6m. Phía trước có lắp cửa lim cao 2.5m , rộng 0.94m. Hai gian chái mỗi gian rộng 4.2m, cánh cửa ở 2 gian này hẹp hơn rộng 0.84m, chạm khắc và trang trí giống cánh cửa tam quan “thượng thông phong, song hỷ kép, hạ bàn”.
Trong Điện có hai hàng cột cái, mỗi hàng 16 cột cao 11.8m đường kính 0.7m, xung quanh có 24 cột cao 4.8m, đường kính 0.56m, các cột đều bằng gỗ tứ thiết, kê trên tảng đá vuông, cột cái 1.3m cột con 1.05m, đều chạm khắc hoa sen. Vì kèo xà ngang, dọc đều bằng gỗ tứ thiết. Tầng mái thứ hai của điện được dựng 20 cột con (cột chốn), đường kính 0.6m được đỡ bằng các xà nách to cũng bằng gỗ tứ thiết. Ở những chỗ lồi lõm của kèo, bẩy bài trí những bức gỗ chạm bong, chạm lộng các hình hoa lá, hoa văn, nghệ thuật, chạm chổ tinh sảo. Gian trung đường đặt một sập thờ “chân quỳ dạ cá”chạm thông phong, hình tứ linh, hoa lá bằng gỗ dài 4.79m, rộng 2.35m, cao 1.27m, các đồ tế tự đều bằng đồng.
Điện Quan Thế Âm Bồ Tát được xây dựng hoàn toàn bằng gỗ tứ thiết, trông dáng vẻ uy nghi bề thế hết khoảng 900 khối gỗ tròn. Gian chính điện đặt tượng quan thế Âm Bồ Tát “thiên thủ thiên nhãn”(nghìn mắt nghìn tay) bằng đồng dát vàng, nặng 80 tấn.
Công trình tuy chưa hoàn chỉnh vì đang trong thời kỳ xây dựng, nhưng có thể nói đây là pho tượng lớn nhất ở Việt Nam. Tượng Quan Thế Âm ở đây có khuôn mặt to sáng, sau hai bên Phật có mặt nhỏ quay ra hai bên, đầu đội mũ Phật 3 tầng xếp chồng, trên có 8 mặt nhỏ và một tượng Phật ngồi trên đỉnh cao nhất, hai bên tay trái và phải phía toà sen trước tượng có 42 cánh tay: hai tay chắp truớc ngực, 2 tay bắt chéo để trên lòng mỗi bên có 18 cánh tay xoè ra như hào quang. Phía sau tượng Quan thế Âm Bồ Tát là một lá sen bằng đồng mạ vàng hình tròn đường kính rộng 5.5m và 16 vòng tròn to nhỏ đồng tâm trang trí hoa văn, nhô ra 958 cánh tay nhỏ, mỗi cánh tay dài 0.6m, có hình con mắt, trên cao ngọn lá đề lại có 2 mặt tượng nữa. Pho tượng Quan Thế Âm bằng đồng có giá trị cao về nghệ thuật đúc đồng. Khóa luận: Thực trạng Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.
d, Điện Pháp Chủ.
Điện thờ Thích Ca Mầu Ni người sáng lập ra đạo Phật, điện Pháp Chủ có kiến trúc theo kiểu dáng điện Tam Thế, bao gồm 2 tầng mái cong, mỗi tầng 4 mái đều lợp ngói men ống nâu và một hàng cổ lâu tạo nên độ cao, thông không khí và lấy ánh sáng mặt trời. Điện là công trình kiến trúc đồ sộ, hoành tráng cao 30m, chu vi 44.7m*43.3m, với tổng diện tích tới 1.945m2, mái đao cao 2.6m bờ đao cao 1.3m, mặt nguyệt trên nóc điện cao tới 4.4m đầu kình cao 3.3m. Điện có 5 gian trung đường dài 13.5m, mỗi bên 2 gian mỗi gian dài 8.13m. Điện có 4 hàng cột gồm 56 cột bằng bê tông cốt thép giả gỗ, 2 hàng cột cái và cột trung ở giữa, cột cái cao 17.2 m, đường kính 0.8 m mỗi hàng có 4 cột. Xung quanh điện có 20 cột cái cao 9m đường kính 0.7m, 20 cột con ở hiên cao 7.4 m đường kính 0.7 m. Các cột trong điện làm bằng bê tông cốt thép, ốp gỗ và sơn phủ vân gỗ bên ngoài nên thoạt nhìn lầm tưởng đây là gỗ quý , riêng chỉ có các chuồng cửa và hộc cửa làm bàng gỗ lim.
Cửa của gian trung đường gồm 12 cánh, kích thước 3.7m*1.05m, 4 gian còn lại mỗi gian có 4 cánh có chiều cao bằng cửa trung đường, rộng 0.84m, cánh cửa đều tiện cầu cài lá, tường xây bằng gạch không trát phía trong tạo thành 1284 ô nhỏ cao 0.59m*0.3m*0.3m, bên trong mỗi ô đặt vừa một pho tượng Thích Ca bằng đồng loại nhỏ gian trung đường đặt tượng Thích Ca Mâu Ni ngồi trên toà sen bằng đồng khối mạ vàng cao 10m nặng tới 100 tấn. Tượng Thích Ca được thờ trong các ngôi chùa cổ ở Việt Nam, thường được ngồi giữa hàng thứ 3 từ trên xuống dưới là tượng ngài thuyết pháp, ngồi trên toà hoa sen, tay phải cầm hoa sen nên được gọi là “ thế tôn niêm hoa”.
Cũng giống như tượng đặt trong các chùa khác, thì tượng ngài được đặt trong chùa Bái Đính là hình tượng ngài ngồi tren toà hoa sen, tượng để lộ viên đỉnh, mặc áo pháp hở ngực, tay trái đặt trên lòng, tay phải cầm hoa sen giơ ngang trán biểu hiện cho trí Phật, tâm đức Phật. Trên ngực được khắc hình tượng chữ “vạn” biểu thị sự vận động vô hạn của Phật lực kéo dài đến bốn phương, mở rộng vô cùng tận, luôn tế độ chúng sinh ở thập phương. Toà sen gồm 3 lớp cánh sen hai lớp cánh sen nở hướng lên trên, lưng cánh ngoài lớn ôm lấy lớp cánh trong nhỏ so le lấy nhau, lớp cánh sen nở hướng xuống , to tương đương, và so le với lớp cánh to nở hướng lên trên, tạo đường nét nghệ thuật hài hoà, đăng đối. Phía sau tượng là phù điêu lá đề lớn bằng nhiều mảng đồng ghép lại, gắn hàng trăm pho tượng Phật nhỏ, đúc đồng biểu thị Phật pháp biến hoá vô biên.
Hoàn thiện công trình này người nghệ nhân phaỉ mất tới hàng năm mới hoàn thiện được. Pho tượng này được sách trung tâm kỷ lục Việt Nam công nhận là pho tượng Thích Ca bằng đồng cao và nặng nhất ở Việt Nam. Điện thờ Pháp Chủ còn có 3 cửa võng 3 bức hoành phi bằng gỗ vàng tâm sơn son thiếp vàng phủ hoàn kim và các câu đối ca ngợi công đức của đức Phật. Đồng thời nói lên ý nghĩa của việc trùng tu di tích danh thắng Bái Đính làm rạng danh cảnh núi sông của khu vực Tràng An: “Tổ quốc hoà bình dân chủ, trùng tu Bái Đính cựu danh lam, thảo mộc sơn xuyên sinh tú sắc; Việt Nam độc lập tự do, kiến thiết Tràng An tân thắng tích, phong vân tuyết nguyệt áng từ quang” (có nghĩa là “Tổ quốc hoà bình, dân chủ, trùng tu Bái Đính cổ nổi tiếng, cỏ cây sông núi thêm khởi sắc; Việt Nam độc lập, tự do, kiến thiết danh thắng mới Tràng An, gió mây trăng tuyết rạng ánh từ bi”).
Hai câu đối 2 bên cột tiền điện thể hiện triết lý đạo Phật sâu sắc: “Tâm tức thị Phật, Phật tức thi tâm, hữu thị tâm phương khai Phật pháp sùng thâm; Duyên bản hữa duyên, thị hữu duyên nãi khếch thiện duyên quảng bị”. (có nghĩa là “tâm là Phật, Phật là tâm, có tâm sẽ mở ra Phật pháp cao sâu; duyên có nhân, nhân có duyên, có duyên thì duyên lành toả rộng khắp”) .
Bức hoành phi trung đường có kích thước 11.2m*4m, dày 0.06m bằng gỗ vàng tâm với khối luợng 5 khối gỗ thành khí, nặng gần 3 tấn, cửa võng rộng 12.8m dọc cột 8m, dày 0.11m, gồm 19m3 gỗ vàng tâm nặng 8.5 tấn. Khóa luận: Thực trạng Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.
Điều đáng chú ý là gian trung điện có một sập thờ khổng lồ bàng gỗ vàng tâm với kích thước chiều cao là 8.55m * 4.52m * 1.27m, diện tích mặt sập tới 39m2, dày 0.1m, sập có 8 chân vuông 0.45m chạm rồng uốn kênh bong. Sập được đục chạm 4 mặt, giữa sập chạm hoa sen và bánh xe pháp luân biểu thị sự huyền diệu của Phật pháp, 4 mặt yếm đục chạm hình tượng “long vân khánh hội ”(rồng mây gặp gỡ) – biểu thị Phật pháp đắc thời và phát triển. Phần diềm sập được chạm hàng ngàn lá đề và cánh sen cách điệu cầu kỳ, tinh xảo, để hoàn thiện công trình này người nghệ nhân đã phải sử dụng hết tới 10m3 vàng tân thành khí.
Hai bên gian trung đường có hoành phi, cửa võng bằng nhau và nhỏ hơn ở gian trung đường , cũng bằng gỗ vàng tâm , hoành phi kích thước 7m *3m, dày 0.06m ,3.5m3 gỗ khoảng 2.5 tấn, cửa võng chiều ngang 7.35m, dọc cột 7m, dầy 0.11m, 15m3 gỗ, nặng 5.5 tấn. Kỹ thật làm hoành phi chạm kênh bong, chia đều 4 ô chữ Hán nổi 2cm, trên nền gấm cài bát bảo: kiếm bút, sáo, đàn quạt, sách…đường viền soi vỏ măng tứ quý, tứ linh. Kỹ thuật làm cửa võng là chạm kênh bong, thông phong với các vật tứ linh tứ quý, lưỡng long triều nguyệt, phượng chầu, long mã, sen quy, long cuốn thuỷ….Trong Điện còn đôi hạc bằng đồng cao 4.5m, nặng 1 tấn, 1 lư đồng dài 1.8m * 1m, lồng đèn cao 4m. Hai bên hồi điện mỗi bên có 4 vị hộ pháp Kim Cương bằng đồng quay chầu ban thờ Pháp Chủ.
e, Điện Tam Thế.
Được xây dựng trên sườn đồi Ba Rau. Điện nằm giữa khuôn viên riêng, sân xung quanh đã rộng tới 13.000m2, từ bậc tam quan đến bậc thềm Điện Tam thế theo trục đường thần đạo dài 812m. Lên điện Tam Thế theo hai lối, mỗi lối rộng 8 m=32 bậc đá, độ cao từ sân lên nền điện cao 4m. Nhìn từ dưới lên điện Tam Thế như một ngôi nhà sàn khổng lồ, 3 mái chồng giường, lan can hai lối lên điện được chạm khắc 4 con rồng đá chầu theo độ dốc như đang bò trườn xuống, chào đón Phật tử, chúng sinh, 4 con rồng, giống hình tượng con rồng được chạm khắc ở điện Kính Thiên thời Hậu Lê ở kinh đô Thăng Long.
Giữa 2 lối lên xuống điện được trang trí bằng một bức phù điêu đá hình vuông 10m * 10m bằng cách lắp ghép nhiều phiến đá dày 0.2m trên chạm khắc tứ linh tứ quý (long ly quy phượng). Điện Tam Thế là công trình kiến trúc nguy nga hoành tráng nhất trong các công trình kiến trúc ở chùa Bái Đính mới, với chiều cao toà điện 34m dài 59.1m, rộng 40.5m, diện tích điện tới trên 2.364m2. Kiến trúc điện Tam Thế về hình thức giống như điện Pháp Chủ nhưng lại có 3 tầng maí, mỗi tầng 4 mái, lợp ngói ống tráng men nâu, các mái đao cũng uốn cong hình đuôi phượng, cao tới 2.7m, mặt nguyệt đỉnh mái cao 4m, 2 đầu kình cao 3.5m, bờ đao cao 1.3m, 12 mái đao được trang trí bằng cách đắp hình tượng hoa lá, dây leo.
Điện Tam Thế có 7 gian 2 chái, gian chính điện rộng 10.5 m, 2 gian bên rộng 9 m, 4 gian hai bên kế tiếp mỗi gian rộng 7.2m, 2 chái mỗi gian rộng 4.5m. Toà điện có 66 cột: 2 hàng cột cái, phía trước gồm 4 hàng cột, hàng sau 2 cột, mỗi cột cao 24.8m, đường kính 1.1m, chu vi 3.3m. Hai hàng cột trung mỗi hàng 6 cột, mỗi cột cao 16.2m đường kính 0.8m, 24 cột con ở xung quanh và 24 cột khác ở hiên điện, mỗi cột cao 9m, đường kính 0.7m, 66 cột đều làm bằng bê tông cốt thép ốp gỗ. Các xà ngang, dọc, rui mè trong điện đều được sơn giả gỗ, riêng các cánh cửa đều làm bằng gỗ lim, gian trung điện 10 cánh, cao 3.7m, rộng 0.91m, 2 gian bên 8 cánh cao 3.7m, rộng 0.945 m. Khóa luận: Thực trạng Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.
Tường điện và phía ngoài tường xây gạch không trát, phía trong xây thành 1.808 pho, tạo cảm giác Phật hiện hữu khắp mọi nơi trên thế giới chúng sinh. Trong điện trên 12 cột có 6 đôi câu đối thúc bằng đồng rất đẹp, bên trong điện có 3 pho tượng Tam Thế thờ Phật quá khứ (là chư Phật thời quá khứ, một trong Phật quá khứ là A Di Đà), Phật hiện tại (Phật giáo Đại thừa coi Thích Ca Mâu Ni là hoá thân của Phật hiện tại xuất hiện để giáo hoá chúng sinh), Phật tương lai ( Phật Di Lặc).
Ba pho tượng có kích thước hình dáng giống nhau: đỉnh đầu có gò thịt nổi cao như búi tóc, tóc xoắn ốc, tai dày tai dài ngực có ấn hình chữ “vạn”, mình có sắc hoàng kim sáng rực, mặt tròn mặt nguyệt cả 3 pho đều được đặt tren toà sen, bằng đồng nguyên khối mỗi pho cao 7.2m, nặng 50 tấn trên bệ cao 1.5m ốp đá. Cả 3 pho tượng này được lấy nguyên mẫu từ tượng Tam Thế ở chùa Tây Phương (Thạch Thất, Hà Tây). Chỉ có cách bố trí vị trí là khác nhau bên trái là Phật quá khứ, bên phải là vị lai Phật còn ở chùa Bái Đính bên phải là Phật quá khứ, phật bên trái là vị lai Phật.
Tượng Phật hiện tại ngồi trong thế “định ấn” với ý nghĩa là tập trung cao độ vào một đối tượng ngắm nguyện để thu hút toàn bộ ý nghĩa, làm cắt đứt tất cả “thế giới hiện tượng” (thế toạ thiền – thiền định ), thế tay thiền định bắt nguồn từ thế ngồi của Phật Thích Ca Mâu Ni, khi ngài toạ thiền lần cuối dưới gốc cây Bồ đề. Thế tay tượng trưng cho sự thiền định cao nhất của Thích Ca Mâu Ni, đồng thời là những phẩm chất của chư Phật như tĩnh lại, bất khả xâm phạm và cao quý vô biên, trên toà sen, 2 chân khoanh tròn, chân phải dựa vào đùi chân trái, gan bàn chân ngửa lên, chân trái cũng dựa vào đùi chân phải như thế. Hai bàn tay để lên trên nhau, tay phải để trên tay traí, hai ngón trạm nhau.
Phật quá khứ: Với tư thế ngồi thiền, bàn chân phải để gác lên đùi chân trái, tay trái để úp lên đùi trai, tay phải mở lòng bàn tay, hướng ra phía trước, 5 ngón tay duỗi thẳng, bàn tay cao hơn vai là thế “vô uý ấn”, mang lại sự bình an và không lo sợ điều gì cho chúng sinh. Thế tay này có nguồn gốc từ kẻ ác tâm Devadata (Đề bà đạt đa) muốn làm hại Phật đã khiến một con voi cuồng nộ, khi voi sắp sửa dày xéo Đề bà đạt đa thì Thích Ca Mâu Ni, đã dơ tay phải lên với những ngón tay khép chặt lại với nhau, động tác này làm cho con voi dừng chân và bị chinh phục, hay còn một truyền thuyết khác đó là khi Phật giơ bàn tay phải lên từ 5 ngón tay hiện ra năm con sư tử tấn công voi và bảo vệ Phật. Từ năm ngón tay còn phóng ra năm tia sáng màu.
Tượng vị lai ngồi trong tư thế 2 chân bắt chéo nhau bàn chân phải đặt lên đùi chân trái, tay phải đặt ngửa trên lòng, tay trái dơ lên ngửa bàn tay về phía trước, các ngón tay thẳng, riêng ngón cái trạm vào ngón tay đeo nhẫn. Đây là thế “an uỷ nhẫn”, hình tròn được tạo thành bởi ngón cái và nón đeo nhẫn tượng trưng cho Phật pháp thánh thiện và vĩnh cửu. Thế tay cũng gợi hình tròn tượng trưng “pháp luân” của đạo Phật. Khóa luận: Thực trạng Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.
Tây tạng vòng tròn được tạo bởi 2 ngón này gọi là “ Thế tam giác-một thế tay huyền bí của 8 vị Bồ tát. Với phái Mật tông thì thế tay này được gọi là biểu tượng của trí tuệ hoàn thiện của Phật và sự thực hiện trọn vẹn các nguyện của ngài. Thế tay này cũng diễn tả tình thương vô hạn của đức Phật, thế tay trên của tượng vị lai Phật tượng trưng cho sự vô uý (không sợ) do phật ban cho chúng sinh. Sự “vô uý” của Bồ Tát là do sức mạnh của trí nhớ, của phán đoán kết hợp với năng lực đánh giá và khả năng xua tan mọi hoài nghi.
Sau 3 pho tượng Tam Thế là bức phù điêu lá đề bằng nhiều mảng đồng ghép lại, có gắn hàng trăm pho tượng Phật nhỏ, biểu hiện Phật pháp hiện hữu vô biên. Điện Tam Thế còn có 3 bức hoành phi và 3 cửa võng bằng vàng tâm, nhưng kích thước nhỏ hơn, bức hoành phi gian trung điện kích thước 8.8m *3.2m *0.06m (độ dày); cửa võng kích thước 9.46m *9.3m *0.12m (dày) nặng khoảng 6 tấn. Đặc biệt trong điện Tam Thế còn có 3 sập thờ bằng gỗ vàng tâm, tuy không to bắng sập thờ của điện Pháp Chủ, nhưng nghệ thuật chạm khắc có giá trị cao về chạm khắc gỗ. Ở đây còn có một đôi hạc, mỗ con cao 4.9m, nặng 1 tấn, lư hương rộng 1.8m, đèn lồng cao 4m sân trước điện Tam Thế đặt 9 bức tượng Thích Ca sơ sinh bằng đồng nguyên khối. Tượng tạc hình đức Phật hài đồng đứng trên đài sen, tay phải chỉ thiên tay trái chỉ địa, bụng quấn tã, bồn tắm cho đức Phật sơ sinh là hình tượng hoa sen được cách điệu bằng 9 chậu đá cẩm thạch hình bông sen. Xung quanh chạm chổ hình tượng rồng (rồng phun nước tắm cho đức Phật). Đây là 9 pho tượng diẽn tả tích thời khắc đức Phật mới sinh ra, ngài đi liền 7 bước tay phải chỉ lên trời tay trái chỉ xuống đất mà rằng: “Thiên thượng, địa hạ, duy ngã độc tôn” (tức là trên tời dưới đất chỉ có ta là tôn quý nhất), trước sân điện Tam Thế trồng nhiều cây bồ đề, có cây được triết từ gốc tích từ đức Phật ở Ấn Độ
f, Những công trình phụ trợ
Ngoài những công trình hạng mục như trên thì chùa Bái Đính cũn có các công trình phụ trợ khác như:
- Thảo viên, được xây dựng ngay trước khuôn viên chùa, ngay sau Tam Quan một vườn cây thảm cỏ rộng khoảng 17.000m2 .
- Hoa Viên, đi qua tháp chuông lại có một vườn hoa thảm cỏ rộng gần 7.600 m2.
- Hồ Phóng sinh rộng với diện tích gần 5.000 m2 để nhà chùa và các Phật tử phóng sinh, trong những ngày đại lễ của nhà Phật. Khóa luận: Thực trạng Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.
- Phật tích viên là khu vườn tượng bằng đá thể hiện tích Phật Thích Ca qua các thời kỳ.
- Tháp bồ đề cao 9 tầng (50m), mỗi chiều cao 30m *25m, có cầu thang cao 34m.
La Hán đường là nơi bày cac vị La Hán, sau khi Phật Niết Bàn ngoài Ma Ha Ca Diếp thay Phật xuất tăng chúng họp cả thảy 500 vị đệ tử Phật tử, ở thành Vương Xá giảng tụng lại đạo lý của đạo Phật dạy, 500 đệ tử này chưa thành Phật nên gọi là La Hán. La Hán đường là nơi đặt 500 pho tượng La Hán tạc bằng đá do thợ đá Ninh Xuân, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình chế tác. La Hán đường là 2 dãy nhà lớn dọc 2 bên từ 2 toà nhà gỗ cổ từ Tam Quan nội vào đến nhà tả vu hữu vu, mỗi dãy gồm 117 gian, dài 526m, đều kiến trúc gỗ bằng gỗ tứ thiết theo kiểu chồng giường, tiền bẩy, hậu bảy, cột và kèo đều bằng gỗ tứ thiết, mái lợp ngói ống tráng men nâu sẫm. Xây dựng La Hán đường đã dùng hết 3.500m3, mỗi tượng La Hán cao từ 2- 2.5m, nặng khoảng 2- 2.5 tấn, ngoài ra hành lang này cũng đặt thêm 1 số tượng Phật ở nước ta như thiền sư Thái Tông, hoà thượng Thích Quảng đức
Ngoài những công trình kiến trúc thì bên cạnh đó là những cơ sở vật chất phục vụ cho khách du lịch cũng không kém phần hấp dẫn đó là cụm nhà hàng Vạn Tâm Chay, sau khi viếng chùa Bái Đính du khách có thể dừng chân tại hầm Điện Tam Thế của chùa Bái Đính để dùng cơm chay và nghỉ ngơi, tại nhà hàng Vạn Tâm Chay, với thực đơn phong phú hơn 100 món ăn trong đó có các món cơm, bún gà ri, súp nấm đông cô, nấm đậu phụ…ngoài ra tại đây còn có các món ăn nhẹ như chuối ,chè chuối, đậu đen, chè trôi nước, xôi và bánh với mong muốn được phục vụ mọi thực khách. Nhà hàng dẫ xây dựng thực đơn đa dạng với các món ăn không chỉ phù hợp khẩu vị đối với người ăn chay mà còn thật vừa miệng đối với những người dùng món mặn. Tuy món ăn không đặc sắc nó mang nhiều tính chất dân dã nhưng nó lại có ý nghĩa khi đến với đất Phật tìm đến chốn thanh tịnh mà lại được thưởng thức những món ăn của nhà Phật sẽ khiến cho du khách như đựơc hoà mình vào thế giới của Phật pháp.
2.3.Khả năng khai thác và phục vụ du lịch của quần thể di tích chùa Bái Đính. Khóa luận: Thực trạng Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.
2.3.1.Nguồn khách :
Du lịch đã được đánh giá như là một ngành công nghiệp không khói, vai trò của ngành du lịch đã được đánh giá rất quan trọng với phát triển kinh tế- xã hội. Thành công của ngành du lịch ở nhiều quốc gia đã đóng góp tích cực vào tốc dộ tăng trưởng kinh tế, thời gian qua ngành du lịch Ninh Bình tuy có bước phát triển nhưng quy mô còn nhỏ và chưa đồng bộ do đó nghiên cứu giao lưu học hỏi về ngành du lịch và kinh nghiệm của một số nước về du lịch là điều cần thiết. Bên cạnh những hạn chế nhưng Ninh Bình lại nằm trong tuyến điểm du lịch quan trọng, gần địa bàn kinh tế trọng điểm (Hà Nội-Hải Phòng – Quảng Ninh).
Nền kinh tế của tỉnh nói chung và du lịch nói riêng được đánh gía là có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển .Trong thời gian qua được sự quan tâm và đầu tư về cơ sở hạ tầng cuả chính phủ, các chính sách khuyến khích phát triển du lịch, xúc tiến đầu tư tuyên truyền quảng bá, du lịch Ninh Bình đã có những bước tiến khá mạnh. Năm 2007 số lựơng khách đến Ninh Bình là 1.518.559 lượt tăng 2.3 lần so với năm 2002 (trong đó số luợng khách quốc tế đạt 475.92 nghìn lượt tăng 1.8 lần so với năm 2002, khách nội địa 1.060.639 lượt tăng 2.7 lần so với năm 2002). Tốc độ tăng trưởng lượng khách trung bình giai đoạn 2002- 2007 đạt 18.6%. Năm 2008 mặc dù gặp nhiều khó khăn tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu nhưng Ninh Bình vẫ đón được 1.9 triệu lượt khách tăng 26% so với năm 2007. Năm 2008 là sự đánh dấu của du lịch Ninh Bình nói riêng và cả nước nói chung là sự ra đời của khu di tích chùa Bái Đính đã khởi sắc cho du lịch Ninh Bình.
Tuy chưa thực sự đi vào khai thác vì đây là công trình đang nằm trong quá trình xây dựng nhưng số lượng khách đến chùa Bái Đính theo con số ước tính năm 2008 vào khoảng 365.000 lượt khách đây là con số khá lớn so với những công trình còn đang thi công bởi sức hút mạnh mẽ của nó. Trung bình mỗi ngày số lượng khách lên tới 1.000 lượt với tiềm năng du lịch của mình kết hợp với điểm di tích chùa Bái Đính là những chuyến du lịch về với cội nguồn văn hoá, lịch sử và du lịch tâm linh của du khách càng thu hút được số lượng khách từ mọi nơi. Với khả năng khai thác các giá trị về văn hoá lịch sử, kiến trúc tiêu biểu thì chùa Bái Đính là điểm du lịch tiềm năng nhất của cả nước.
Riêng sự kiện trọng đại, quan trọng đại nhất trong lịch sử Phật giáo Việt Nam từ trước tới nay là việc đón rước “Ngọc xá Lị” từ Thái Lan sang Việt Nam và được rước về ngự lãm tại chựa Bái Đính.
Bắt đầu từ 4h sáng ngày 6/6, 16 viên xá lợi nhà phật sẽ được cung nghinh từ chùa Giác Quang đến sân bay Tân Sơn Nhất, lên một chuyến phi cơ đặc biệt của Viet Nam Airlines để ra Hà Nội vào 8h cùng ngày. Bắt đầu từ 9h, đoàn rước xá lợi sẽ đến Trụ sở Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam tại chùa Quán Sứ (Hà Nội) và được nghênh đón về an vị, cúng dường vĩnh viễn tại chùa Bái Đính (Ninh Bình). Đây là một lễ rước mang tính quốc tế với sự hiện diện của lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Đại sứ quán Thái Lan. Khóa luận: Thực trạng Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.
Theo tính toán sơ bộ của BTC, số lượng người tham dự đại lễ cung nghinh xá lợi phật tại chùa Bái Đính cũng đó vượt ngưỡng dự kiến ban đầu là hơn 15 ngàn người. Chỉ tính riêng đại lễ hội của ngọc xá lị đó thu hút được một số lượng tín đồ cũng như dân chúng từ mọi nơi, mới thấy được khả năng khai thác phục vụ của chùa Bái Đính với quy mô hoành tráng như thế nào. Việc rước ngọc xá lợi về ngự tại chùa Bái Đính sẽ là tư liệu quý báu và tăng khả năng khai thác du lịch trong tương lai.
2.3.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật
Việc phục vụ cho Du lịch Ninh Bình nói chung và cho khu chùa Bái Đính nói riêng, cần đòi hỏi những yêu cầu về cơ sở vật chất kỹ thuật, cũng như cơ sở hạ tầng để đảm bảo khả năng phục vụ khách du lịch. Đến với quần thể di tích này, trong những năm qua trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển du lịch đã được UBND tỉnh phê duyệt căn cứ vào nhu cầu của khách du lịch các nhà đầu tư trong và ngoài tỉnh đã tập trung đầu tư vào phát triển du lịch đặc biệt là kinh doanh kinh doanh lưu trú trên địa bàn tỉnh. Năm 2001 chỉ có 18 cơ sở lưu trú với 324 phòng nhưng đến 31/110/2008 toàn tỉnh đã có 103 cơ sở lưu trú với 1576 phòng nghỉ và 2602 giường các loại, cụ thể theo só liệu cụ thể ở các huyện trên địa bàn như sau: Thành phố Ninh Bình với 48 cơ sở lưu trú 782 phòng ngủ 1369 giường. Thị xã Tam Điệp với 16 cơ sở lưu trú bao gồm 180 phòng ngủ, 283 giường các loại. Huyện Nho Quan với 5 cở sở l-ưu trú gồm 43 phòng ngủ ,259 giường ngủ các loại. Huyện Yên mô với 5 cơ sở lưu trú 31 phòng ngủ, 47 giường ngủ các loại. Huyện Gia viễn với 6 cơ sở lưu trú gồm 131 phòng ngủ, 159 giường các loại. Huyện Kim Sơn với 3 cơ sở lưu trú gồm 20 phòng ngủ và 30 giường ngủ các loaị.
Tỉnh có 22 cơ sở lưu trú đựoc công nhận từ 1- 2 sao chiếm tỷ lệ 20.3% so với tổng số cơ sở lưu trú và 46.61%số phòng hiện có, 40 cơ sở lưu trú được công nhận đạt tiêu chuẩn tối thiểu chiếm 44.6% cơ sở lưu trú , như vậy đã có 65% số cơ sở lưu trú đủ tiêu chuẩn đón khách quốc tế.
Hệ thống nhà hàng trong khách sạn, nhà nghỉ đã có sự tăng nhanh cả về số lượng lẫn chất lượng gồm nhiều loại hình khác nhau mở rộng thêm nhiều các dịch vụ ngoài ăn nghỉ như dịch vụ giặt là, pax,…. Ngay tại khu chùa Bái Đính đã có nhà hàng Vạn Tâm Chay với các món ăn truyền thống phong phú và đa dạng phục vụ cho khách du lịch ngay tại điểm tham quan. Ngoài ra tại các địa bàn trên tỉnh có phân bố nhiều của nhiều nhà hàng với những món ăn đặc sắc mang hương vị đặc trưng như rượu Kim Sơn, thịt dê núi, cơm cháy và rất nhiều món ăn khác nhau. Về các loại dịch vụ khác thì bên trong các cơ sở lưu trú cũng đã cố gắng hoàn thiện mình nhằm nâng cao chất lượng cũng như đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách, ngay tại khu sinh thái Tràng An thì có nhiều hoạt động vói loại hình du lịch thể thao phong phú như lướt ván, bơi thuyền … Các sân chơi thể thao phục vụ nhu cầu du lịch, bên cạnh cở sở vật chất phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt và tiêu dùng.
Một yếu tố khác quyết định đến sự thành công của du lịch mà cần phải quan tâm đầu tư là hệ thống cơ sở hạ tầng: Hệ thống cấp thoát nước, hệ thống đường điện…. Tất cả phải bảo đảm cho quy hoạch phát triển của điểm du lịch hợp lý và đảm bảo cho công trình khai thác. Để tiện lợi cho việc thực hiện các chương trình du lịch thì hệ thống đường xá phải thuận lợi như tuyến đường vào khu chùa Bái Đính, đã hoàn thiện và đưa vào khai thác. Tuyến đường 10 tuyến vào khu Sinh Dược – Bái Đính, thiết kế mới thành đường đạt tiêu chuẩn loại đường A GTNT điểm đầu nối từ đường 12C điểm cuối chân dốc đường leo núi lên chùa Bái Đính với tổng chiều dài 1.66 km, chiều rộng mặt đường bm=3.5m,bn=5m; kết cấu mặt đường (lớp mặt bằng đá dăm tiêu chuẩn dày 12cm láng nhựa tiêu chuẩn nhựa 4/5 kg/m2, lớp móng đá dăm tiêu chuẩn dày 15cm sau lu lèn ) đồng thời lắp đặt phụ lề để trồng cây xanh 2 bên tuyến ngoài tuyến đường này thì còn rất nhiều tuyến đường khác để vào khu chùa Bái Đính được đảm bảo về kỹ thuật cũng như cảnh quan. Khóa luận: Thực trạng Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.
Đến trung tâm chùa Bái Đính có thể bằng 6 con đường: con đường từ Hà Nội hoặc từ thành phố Ninh Bỡnh đến thị trấn Thiên Tôn (huyện Hoa Lư), rẽ vào Cố Đô Hoa Lư (Trường Yên, Hoa Lư), đi tiếp lên đê Hoàng Long độ 7 km nữa là đến.
Con đưũng thứ hai từ núi Kỳ Lân (thành phố Ninh Bình) theo đường Tràng An, qua xã Ninh Nhất, rẽ phải, theo con đường du lịch vào đi thăm khu hang động Tràng An, cứ theo con đường rải nhựa, qua hai đường hầm xuyên núi, lên đê Hoàng Long, đến đền Vực Vông, theo đường ven đê sông Hoàng Long, đi khoảng 2km nữa.
Con đường thứ ba là từ Nho Quan xuống, hoặc từ thị xã Tam Điệp lên; từ Thạch Thành, Vĩnh Lộc (Thanh Hoá) đi Rịa, đến đồi Sọng (ngã ba đường Nguyễn Văn Trỗi, Quỳnh Lưu, Nho Quan), rẽ vào đường Nguyễn Văn Trỗi), đi bộ khoảng 7km.
Con đường thứ tư từ quốc lộ 1, đến ngó ba Giỏn Khẩu hoặc từ thị trấn Nho Quan, theo đường 12C rẽ về thị trấn Me, đi đến khu du lịch nước khoáng Kênh Gà (Gia Thịnh, Gia Viễn), qua cầu phao Lạc Khoái (Gia Thịnh, Gia Viễn ) khoảng 7km nữa.
Con đường thứ năm là từ Hà Nội về, từ thành phố Ninh Bình lên, đến Gián Khẩu, xuống thuyền đi theo con đường thuỷ độ hơn 7km theo sông Hoàng Long là tới.
Con đường thứ 6 từ Hoà Bình về, đến thị trấn Nho Quan, xuống thuyền đi theo sông Lạng, qua Kênh Gà vào sông Hoàng Long, đến bến đũ Sinh Dược (Gia Sinh) là đến. Đến với Bái Đính du khách có thể chiêm ngưỡng cảnh sắc bằng nhiều con đường cả thuỷ và bộ đồng thời có thể chiêm ngưỡng cảnh sắc những vùng lân cận đó là việc thuận lợi cho khai thác và phát triển du lịch ở Bái Đính nói riêng và Ninh Bình núi chung.
2.3.3. Hiện trạng tổ chức quản lý.
Đây là cơ cấu tổ chức quản lý chung của khu sinh thái Tràng An noí chung và khu Bái Đính nói riêng. Vì đang trong thời gian quy hoạch nên khu chuà Bái Đính chưa có một cơ cấu quản lý riêng, tuy nhiên có thể áp dụng vào cơ cấu này để hoạt động kinh doanh cũng như điều hành, vì du khách khi thực hiện các chương trình du lịch thường kết hợp liên tuyến giữa khu Tràng An với chùa Bái Đính, vì vậy việc tổ chức bán vé diễn ra ở khu sinh thái Tràng An. Thông qua cơ cấu, mỗi ban ngành đều có chức năng nhiệm vụ khác nhau với chuyên môn nghiệp vụ của mình phối hợp giữa Tràng An với chùa Bái Đính. Mỗi bộ phận phải đảm nhiệm được công việc của mình theo chuyên nghành. Bộ phận nhà nghỉ có trách nhiệm đảm bảo cho du khách các dịch vụ nghỉ ngơi và các dịch vụ khác. Bộ phận bán hàng và dịch vụ ăn uống vừa cung cấp nhu cầu ăn uống cho du khách vừa cung cấp các sản phẩm du lịch thông qua các chương trình quảng cáo ấn phẩm bằng các hình thức truyền thông nhằm đa đến thông tin xác thực về sản phẩm mà mình đang có đồng thời quảng bá hình ảnh cũng như thương hiệu của công ty. Bộ phận sửa chữa điện nước và thiết bị đảm bảo để hoàn thiện công trình và quá trình khai thác điểm du lịch. Riêng tổ điều khiển thuyền máy thì dành riêng cho khu hang động ở khu Tràng An. Tổ bảo vệ và tổ vệ sinh thu dọn rác thải có trách nhiệm trông coi cũng như thực hiện các biện pháp vệ sinh, ở khu vực tại chùa Bái Đính thì đã được bố trí thùng đựng rác… .Các ban nghành bộ phận tuy có hoạt động nhưng chưa được quy mô , vì chưa đi vào hoạt động thực tế nên hoạt động của bộ phận HDV tại điểm chưa được diễn ra, mới chăng nó chỉ diễn ra ở khu sinh Thái Tràng An. Nhưng trong thời gian tới thì cơ cấu tổ chức của khu chùa Bái Đính sẽ đi vào hoạt động có quy mô hơn khi công trình được hoàn tất.
2.3.4. Môi trường tự nhiên và xã hội Khóa luận: Thực trạng Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.
Ninh Bình là một tỉnh nằm ở phía Nam đồng bằng Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội hơn 90 km, nằm trên các tuyến đường giao thông quan trọng là cầu nối giao lưu kinh tế, văn hoá giữa 2 miền Nam – Bắc. Tuy là một tỉnh không lớn với diện tích tự nhiện 1.390 km2. Nhưng Ninh Bình lại có địa hình đa dạng, đặc điểm về địa hình kết hợp với các thành phần tự nhiên khác như hệ thống thuỷ văn, lớp phủ thực vật…đã tạo cho Ninh Bình tiềm năng du lịch phong phú. Điểm di tích chùa Bái Đính nằm trong vùng Đồng bằng Bắc Bộ thuộc Khu du lịch Bắc bộ vơi thủ đô Hà Nội là trung tâm vùng. Trải dài từ Hà Giang đến Hà Tĩnh gồm 29 tỉnh thành phố có tiềm năng du lịch đa dạng trong đó có nhiều tài nguyên Du lịch đặc sắc mà tiêu biểu là di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long, có vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển du lịch Việt Nam.
Với trung tâm du lịch quan trọng là Hà Nội với phụ cận là Hải Phòng, Quảng Ninh với nhiều điểm du lịch nổi tiếng như SaPa, Ba Bể, Yên Tử, Cát Bà….Trong thời gian qua vùng du lịch Bắc Bộ luôn thu hút được một số lượng khách trong nước và ngoài nước, tỷ lệ khách đến vùng dạt 40% số lượng khách đến trong cả nước, khách đi lại giũa các địa phương trong cả nước. Ninh Nình là một trong 2 trọng điểm phát triển du lịch ở vùng du lịch Bắc Bộ trung tâm du lịch Hà nội & phụ cận bao gồm Thủ đô Hà Nội và 13 tỉnh phụ cận bao gồm: Hà Tây, Bắc Ninh, Ninh Bình, Bắc Giang,Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Thanh Hoá, Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Hoà Bình, Hải Dương. Có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển du lịch của vùng Bắc Bộ nói nói chung và du lịch Ninh Bình nói riêng, tính chất liên vùng tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức các chương trình du lịch.
Bởi những lợi thế về vị trí địa lý, về hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật và những giá trị văn hoá truyền thống. So với các địa phương trung tâm du lịch và phụ cận thì Ninh Bình là một tỉnh có diện tích không lớn. Nhưng lại là nơi tập trung nhiều điểm du lịch lý thú và hấp dẫn như Cố Đô Hoa Lư, Nhà thờ đá Phát Diệm, Rừng Cúc Phương, Suôí nước nóng Kênh Gà, khu ngập nước Vân Long, khu sinh thái Tràng An. Đặc biệt là điểm du lịch chùa Bái Đính với khả năng thu hút lựợng khách từ mọi nơi, cao điểm nhất so với các điểm du lịch trong địa bàn. Với tài nguyên phong phú, Ninh Bình có thể tổ chức nhiều tuor du lịch với nhiều loại hình du lịch phong phú như nghỉ dưỡng, du lịch tâm linh, du lịch tham quan thắng cảnh, tìm hiểu những giỏ trị văn hoá lịch sử, với những điều kiện trên sẽ thúc đẩy du lịch phát triển mạnh mẽ. Khóa luận: Thực trạng Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.
Vùng đất Ninh Bình lại có cảnh quan tự nhiên vô cùng đặc sắc, nổi tiếng với nhiều dãy núi đá vôi, đặc biệt là vùng Trường Yên, núi cứ dựng thành hàng kéo dài từ bên ngoài khu cố đô Hoa Lư cho đến khu chuà Bái Đính. Hướng về khu núi chùa Bái Đính, nếu tinh mắt sẽ nhìn thấy những ngọn núi có hình dáng tựa như một đàn voi đang phủ phục, chầu hướng về Hoa Lư- Bái Đính. Nó gợi nhớ về đất tổ Hùng Vương, nơi có 99 ngọn núi hình voi chầu bái phục Đền Hùng. Ngoài hình voi phục, núi ở đây có nhiều hình dáng phong phú như: Dáng hổ phục, yên mã…Không thể tả hết được vẻ đẹp kỳ vĩ của từng ngọn núi, cứ đứng đó tự bao giờ sừng sững, nối đuôi nhau lúc thưa, lúc dày, lúc to, lúc nhỏ. Qua tâm thức tâm gian, núi không chỉ là núi mà là tâm khí của đất trời là tất cả những gì thiêng liêng mà người ta gọi vẫn gọi là hồn dân tộc, hồn thiêng đất nước. Vì thế mới có “hòn vọng phu” mới có “hữu thanh long, tả bạch hổ”,”lưỡng long chầu nguyệt”…chính vì điều này mà xưa kia được xem là vùng đất thiêng đã sinh ra chân mạch Đế Vương, anh hùng hào kiệt. Về Cố Đô, lên chùa lễ Phật, ngắm nhiều ngọn núi với nhiều hình thù khác nhau, du khách sẽ có dịp liên tưởng và hoài niệm về một thời vang bang của 3 triều đại “Đinh – Tiền Lê- Lý”
Ngoài những điều kiện về môi trường tự nhiên thì sự phát triển kinh tế xã hội là yếu tố quyết định sự thành công của du lịch, với nền kinh tế nông nghiệp truyền thống nền cơ cấu là: Nông nghiệp – Công nghiệp- Dịch vụ- Du lịch, tuy nhiên thực tế phát triên Du lịch ở Ninh Bình trong những năm qua cho thấy du lịch đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế- xã hội của địa phương. Tổng doanh thu của tỉnh trong những năm qua có sự tăng trưởng đáng kể, nếu 1995 tổng doanh thu của ngành đạt 8.55 tỷ đồng thì đến năm 2000 đã tăng lên gấp 3.27 lần để đạt mức 2.8 tỷ đồng , tốc độ tăng trưởng trung bình giai đoạn 1995-2000 là 26.78%, đến năm 2005 tức là 10 năm sau thì doanh thu đã lên tới 63.18 tỷ đồng tăng gấp 7.39 lần so với khi bắt đầu thực hiện việc quy hoạch (đây là doanh thu thuần tuý từ du lịch), năm 2006 ngành du lịch ninh bình đã đạt đựợc 87.98 tỷ đồng tốc độ tăng truởng trung bình doanh thu thuân tuý giai đoạn 2001-2006 đạt 23.6% năm, cho thấy đóng góp của ngành du lịch vào phát triển kinh tế của tỉnh nhà, năng cao mức sống cho người dân, giải quyết các tình trạng thiếu việc làm cho người lao động.
Qua phân tích trên thì ta thấy sự tác động qua lại giưã du lịch Ninh Bình với nền kinh tế. Nền kinh tế có mạnh thì mới tạo đà cho phát triển du lịch bằng chứng là nhiều doanh nghiệp, công ty kinh doanh về du lịch ra đời biểu hiện cụ thể nhất cho việc đầu tư khai thác khu du lịch chùa Bái Đính là doanh nghiệp Xuân Trường, nhiều cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật đáp ứng cho việc phục vụ và khai thác điểm du lịch trên. Như vậy kinh tế có mạnh mới tạo đà cho sự phát triển và mở rộng loại hình Du lịch. Tình hình an ninh chính trị an sinh xã hội cũng tác động tới du lịch trong những năm gần đây được sự quan tâm của nhà nước cũng như tình hình an ninh luật pháp của Ninh Bình, người dân địa phương cũng như chính quyền phối hợp chặt chẽ để phát triển du lịch cho tỉnh nhà Khóa luận: Thực trạng Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.
2.3.5. Những thuận lợi – khó khăn đối với việc khai thác, phục vụ du lịch của quần thể di tích chùa Bái Đính
2.3.5.1. Thuận lợi
Khu di tích chùa Bái Đính là một trong những dự án đang khai thác nhưng với tiềm năng du lịch của Ninh bình, cộng thêm những lợi thế giúp phần thúc đẩy việc khai thác đạt được những hiệu quả .Trước hết phải kể đến hệ thống nhà hàng, khách sạn, cơ sở vật chất hạ tầng tiên tiến đa dạng nhiều thành phần đáp ứng được khả năng kinh doanh du lịch có chất lượng và hiệu quả phục vụ cho nhu cầu nghỉ ngơi ăn uống của du khách và các nhu cầu khác…
Tính chất liên vùng cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các tuor du lịch từ các tỉnh thành tạo ra sự phong phú và đa dạng của sản phẩm du lịch như các chương trình du lịch tìm về cội nguồn văn hoá, lịch sử,các tuor du lịch tâm linh, lễ hội ….Không những thu hút được du khách trong nước mà thu hút được số lượng đông đảo du khách nước ngoài đến Ninh Bình
Trong những năm gần đây nhờ chính sách đổi mới, mở cửa của Đảng và Nhà nước tạo điều kiện cho ngành du lịch phát triển. Cấp nguồn vốn đầu tư, tôn tạo di tích tổ chức nhiều chương trình hoạt động có lợi cho du lịch cũng như tạo điều kiện cho việc xuất nhập cảnh…cho du khách nước ngoài đến tham quan tìm hiểu nét văn hoá lịch sử của nước nhà (đặc biệt từ khi có nghị quyết 45/CP của chính phủ về đối mới quản lý và phát triển ngành du lịch và chỉ thị 46/CT-TW của ban bí thư trung ương đảng). Dưới sự chỉ đạo của tỉnh uỷ , UBND tỉnh, du lịch Ninh Bình đạt được những thành tựu đáng kể. Tốc độ tăng trưởng của ngành du lịch là 19.64 %/ năm, mới mức tăng trưởng trong thời gian qua có thể thấy kinh tế của Ninh Bình đã và đang phát triển đúng với định hướng phát triển của tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh đã đề
- Sự hội nhập kinh tế với các nước tiên tiến cũng làm thay đổi tư duy của người Việt trong việc chú trọng phát triển du lịch.
Tình hình kinh tế ổn định cũng là điều kiện phát triển đu lịch của khu di tích chùa Bái Đính, tuy chưa thực sự đi vào khai thác nhưng đây là một công trình mới mẻ mang yếu tố tâm linh, có giá trị văn hoá lịch sử gắn với 1000 năm Thăng Long Hà Nội. Đây cũng là một công trình kiến trúc hoành tráng nhất Việt Nam hiện nay. Là một sản phẩm du lịch hoàn toàn mới, khởi sắc cho du lịch Ninh Bình nói riêng và du lịch cả nước nói chung. Khóa luận: Thực trạng Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.
Bên cạnh những điều kiên thuận lợi thì Ninh Bình nằm ở vị trí thuận lợi cho phát triển lưu thông hàng hoá với các địa phương khác trong cả nước, hệ thống giao thông thuận lợi như những tuyến đường vào khu vực chùa Bái Đính như, tuyến đường 10 vào thôn Sinh Dựơc chùa Bái Đính …được quy hoạch có quy mô tạo điều kiện thuận lợi cho du khách đên tham quan du lịch.
2.3.5.2.Khó khăn
Với những điều kiện thuận lợi trên thì việc khai thác khu chùa Bái Đính còn gặp những hạn chế. Do công trình đang trong thời kỳ xây dựng nên các nguyên vật liệu xây dựng còn ngổn ngang gây mất cảnh quan cũng như khó khăn trong việc tham quan của khu du lịch.
Các cơ sở vật chất phục vụ ăn nghỉ nhà hàng các dịch vụ phục vụ cho khách du lịch vẫn còn gặp hạn chế, manh mún nhỏ lẻ chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của du khách. Cách phục vụ cũng gặp khó khăn do có một số người lao động chưa có trình độ về chuyên môn nghiệp vụ.
Đồng thời do chưa thực sự đi vào khai thác nên cơ cấu tổ chức còn thiếu sót và hạn chế, chưa có đội ngũ hướng dẫn viên du lịch điểm, vì thế cho đến thời điểm hiện tại vẫn chưa thu hút khách ở mức độ tối đa. Các dịch vụ nhỏ lẻ bán hàng tại điểm đôi khi còn có tình trạng tăng giá…..những khó khăn trên sẽ được hoàn thiện và khắc phục khi công trình thực sự đi vào khai thác và hoạt động làm cho khu di tích chùa Bái Đính thực sự là một nơi du lịch lý tưởng của khách tham quan.
2.4.Tiểu kết
Khu chùa Bái Đính được xây dựng trên đồi núi cao tại xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Chùa được lấy tên là Bái Đính để ghi nhận khu chùa ở gần chùa Bái Đính cũ và cũng là tên núi Bái Đính. Du khách đến đây không chỉ tham quan, vãn cảnh chùa mà còn được chiêm ngưỡng những kỳ tích của Phật giáo Việt nam: Đại hội đồng chuông lớn nhất Việt Nam, Pho tượng Phật Thích Ca bằng đồng lớn nhất và Tháp bồ đề 9 tầng cao nhất trong các chùa hiện nay.
Mặc dù vẫn đang trong giai đoạn hoàn thiện nhưng mỗi ngày khu chùa Bái Đính vẫn đón hàng ngàn lượt du khách trong và ngoài nước đến thăm quan. Với tổng diện tích 2000 ha, nằm trong quần thể các khu du lịch nổi tiếng của tỉnh Ninh Bình như: Di tích lịch sử Cố đô Hoa Lư, khu du lịch Tam Cốc – Bích Động, vườn quốc gia Cúc Phương, khu du lịch sinh thái Tràng An đã trở thành 1 địa danh du lịch lịch sử, văn hóa, tâm linh, sinh thái, hấp dẫn. Sự vận động, biến ảo của đất trời đã tạo nên 1 quần thể hang động với núi non hùng vĩ, hòa quyện với nhau. Công trường đang ngổn ngang xây dựng, chưa thể hình dung được vẻ đẹp cũng như sự trang nghiêm trầm mặc của một ngôi chùa theo đúng nghĩa xưa nay nhưng sự bề thế, hoành tráng của nó thì bất cứ ai dù chỉ ghé qua nhìn cũng có thể cảm nhận được. Điểm nhấn quan trọng nhất của công trình tôn giáo khổng lồ này vẫn là điện thờ Tam thế và điện thờ Pháp Chủ. Diện tích hai ngôi điện này lên đến trên 1.000m2 (diện tích các điện thờ chính của các ngôi chùa truyền thống tối đa chỉ thường khoảng 150m2 do bị hạn chế bởi các gian – được qui định bằng chiều dài của cây gỗ dùng làm xà nhà). Chiều cao của Pháp chủ điện lên đến 22 m, chứa được bốn pho tượng kỷ lục bên trong.
Bốn pho tượng – ba pho Tam Thế và một pho Phật tổ Như Lai – thật sự là niềm tự hào của các “ông chủ” chùa Bái Đính. Mỗi pho Tam thế nặng đến 50 tấn, cao 1 2m, pho Phật tổ Như Lai cao 16 m, nặng 100 tấn, đúc bằng đồng nguyên chất mua từ Nga về, do các nghệ nhân đúc đồng lừng danh ở Ý Yên, Nam Định đúc và lắp đặt.
Một “đại hồng chung” nặng tới 36 tấn cũng đã được đúc và ngự trên đỉnh một quả đồi ngay trên đường lên đại điện. Quả chuông lớn đến độ người ta đã dự tính nếu muốn gióng chuông phải cần một cây gỗ lớn và bốn người kéo cây gỗ để thúc chuông.
Gây sửng sốt không kém là sự “tập kết” của 500 pho tượng La Hán trên quả đồi phía bên phải Pháp điện. 500 La Hán cao lừng lững 2.3 m, tạc bằng đá Ninh Bình.
Với nét đẹp kỳ ảo của ngôi chùa Bái Đính cũ và sự hoành tráng đồ sộ của công trình kiến trúc của khu chùa Bái Đính mới, cảnh quan và môi truờng thiên nhiên sẽ là điểm thu hút khách du lịch trong nước và ngoài nước. Là điểm nhấn tạo đà cho du lịch Ninh Bình phát triển theo xu thế của thế giới Khóa luận: Thực trạng Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Khóa luận: Giải pháp Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch