Khóa luận: Giải pháp Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Giải pháp Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: hiện trạng về quần thể di tích Chùa Bái Đính với khả năng khai thác phục vụ du lịch dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này. 

3.1. Định hướng về phát triển Du lịch Ninh Bình nói chung và Chùa Bái Đính nói riêng.

Trên cơ sở nhận biết được các thế mạnh, đặc biệt để phát triển du lịch, thời gian qua ngành du lịch Ninh Bình đã tập trung khai thác đồng thời cả du lịch tự nhiên để phát triển du lịch sinh thái và tài nguyên nhân văn để phát triển loại hình du lịch văn hoá. Ngoài việc khai thác các tài nguyên hiện có, Ninh Bình tiếp tục khám phá, khai thác thêm nhiều tài nguyên mới và thực hiện tốt việc quy hoạch tổng thể và chi tiết thành những tuyến điểm, địa danh hấp dẫn như khu du lịch sinh thái Tràng An, khu nước khoáng Kênh Gà, khu bảo tồn ngập nước Vân Long…

Định hướng phát triển của du lịch Ninh Bình không những nhằm mục đích khai thác các thế mạnh của tài nguyên Du lịch mà đòi hỏi quy trình khai thác như thế nào cho hợp lý vì thế xu hướng phát triển du lịch gắn liền với phát triển bền vững. Ngày nay sự phát triển bền vững của các ngành kinh tế là một đòi hỏi khách quan. Du lịch Ninh Bình là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn có vai trò quan trọng trong việc phát huy tiềm năng thế mạnh của tỉnh, để có những quyết đinh đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Về nguyên tắc phát triển du lịch, luật du lịch số 44/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005 của quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã nêu: “Phát triển du lịch bền vững, theo quy hoạch, kế hoạch, bảo đảm hài hoà giữa kinh tế, xã hội và môi truờng. Phát triển có trọng tâm, trọng điểm theo hướng du lịch văn hoá – lịch sử, du lịch sinh thái. bảo tồn, phát huy các giá trị của tài nguyên du lịch”. Đây chính là cơ sở pháp lý trực tiếp, toàn diện hơn hoạt động du lịch. Nhiều văn bản pháp luật liên quan đến du lịch được xây dựng mới và sửa đổi, bổ sung như luật đầu tư, luật đấu thầu, pháp lệnh xuất nhập cảnh, luật cư trú tạo hành lang pháp lý cho việc phát triển du lịch bền vững. Khóa luận: Giải pháp Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.

Như vậy “Du lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp ứng được các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu du lịch trong tương lai”.

Phát triển bền vững là nhu cầu cấp bách và là xu thế tất yếu trong quá trình phát triển xã hội của loài nguời, vì vậy đã được các quốc gia trên thế giới đồng thuận xây dựng thành chương trình nghị sự cho từng thời kỳ phát triển của lịch sử. Trên cơ sở đó Hội đồng thế giới về môi truờng và phát triển của liên hợp quốc đã đưa ra định nghĩa (WCED) : “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau”.

Quan điểm phát triển bền vững đã được khẳng định trong chỉ thị 36 – CT/TW ngày 12/6/1998 của bộ chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đát nước và một lần nũa được tái khẳng định trong văn kiện của đại biểu đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam và trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001 -2010 là: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với việc thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”, và “Phát triển kinh tế – xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn sự đa dạng sinh học”. Phát triển bền vững trở thành quan điểm đường lối của Đảng và chính sách Nhà nước.

Song song với việc phát triển theo hướng bền vững thì xu hướng của ngành Ninh Bình là đẩy mạnh phát triến sinh thái vì có môt trường sinh thái mới tạo đà cho du lịch bền vững phát triển. Nằm trong xu hướng phát triển đó chùa Bái Đính cần có những hướng đi cho riêng mình để khai thác nguồn tài nguyên cuả mình có hiệu quả, hạn chế việc khai thác quá mức để sản phẩm du lịch đạt chất lượng cao. Kết hợp với khu du lịch sinh thái Tràng An để tạo đà phát triển cho mình tức là kết hợp phát triển bèn vững và du lịch sinh thái để đem lại hiệu quả cao nhất. Đồng thời việc liên kết giữa hai loại hình sinh thái và du lịch tâm linh làm cho sản phẩm du lịch thêm phong phú. Việc khai thác phục vụ du lịch đang tiếp tục được mở rộng quy mô, hệ thống đường giao thông cũng được mở mang khi công trình bắt đầu đi vào tổ chức, ngoài con đường bộ từ khu du lịch Tràng An đến khu núi chùa Bái Đính, thì người ta đang triển khai kế hoạch mở thêm một con đường thuỷ. Công trình này trong tương lai gần sẽ được nạo vét và đi vào hoạt động, nối bến thuyền trên đoạn sông Hoàng Long ngay trước cổng Bái Đính tân tự.

Du khách đến chùa Bái Đính không chỉ được viếng cảnh chùa, mà được xuống thuyền du ngoạn trên dòng sông hiền hoà chảy ngang qua những cánh đồng thơm mùi mạ non. Du thuyền vào hang Long ẩn, một trong những hang động dài và đẹp nhất tại đây để khám phá nét hoang sơ tiềm ẩn của vùng đất trên, non dưới nước. Ngoài ra theo lộ trình này, du khách cũng có thể du thuyền tham quan Khu du lịch sinh thái Tràng An. Hiện nay những hạn mục chính của Bái Đính tân tự gần như đã được định hình. Các hạng mục khác cũng đang được gấp rút thi công. Trong tương lai, Bái Đính sẽ là ngôi chùa có quy mô hàng đầu, không chỉ ở Việt Nam mà tầm cỡ Đông Nam Á. Khóa luận: Giải pháp Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Du Lịch

3.2. Đánh giá

3.2.1. Đánh giá về các giá trị văn hoá lịch sử của chùa Bái Đính

3.2.1.1. Gía trị lịch sử

Đánh giá về giá trị của vùng đất lịch sử này tức là tìm về với cội nguồn dân tộc, các truyền thống yêu nước của con người Việt ngay từ buổi đầu dựng nước ở Cố Đô Hoa Lư, các huyền thoại và nhân vật lịch sử. Cùng đi vào tìm hiểu vấn đề này chúng ta sẽ thấy được giá trị và ý nghĩa to lớn của nó.

Núi Bái Đính vốn xưa kia là mảnh đất che chở cho kinh thành tự thuở xưa, theo như cố Giáo Sư Trần Quốc Vượng, cổng Hoàng thành ngoài lính canh còn có thần trấn giữ bốn cửa, có yểm bùa hay còn làm lễ hiến sinh. Và theo một số cụ túc nho ở Ninh Bình cho biết, khi vua Đinh dựng kinh đô Hoa Lư, ngài đã cho đặt bốn trấn yểm ở bốn ngọn núi linh theo bốn hướng trong vùng, thờ các vị Thần làm thành hoàng để bảo vệ kinh đô, gọi là “Hoa lư tứ trấn sơn”: Bái Đính Sơn – thờ thần Cao Sơn – trấn giữ phía Tây kinh thành Hoa Lư. Thiên Tôn Sơn – thờ thần Huyền Thiên Trấn Vũ – trấn giữ phía Bắc kinh thành Hoa Lư. Thiên Dưỡng Sơn thờ thần Cao Sơn Đại Vương – trấn giữ phía Nam kinh thành Hoa Lư. “theo sử nhà Minh, thì trong số 21 núi có tiếng An Nam, nuí ấy tức là (Thiên Dưỡng). Đầu thời Hồng Đức, có bày bàn tế Giao (tế Trời – Đất), năm thứ 3 có sai quan tế, vẽ hình thế núi đem về” (theo Ninh Bình toàn tỉnh địa chí khảo biên, Sdd, tr, 110- 111). Diên Sí Sơn (núi Cánh Diều) – thờ Quý Minh Đại Vương – trấn giữ phía Đông kinh thành Hoa Lư. Vào thế kỷ thứ X – Dưới triều đại nhà Đinh và Tiền Lê- núi Bái Đính là một căn cứ quân sự che chắn cho cửa ngõ phía Tây kinh thành Hoa Lư có giá trị như một “chốt mộc lợi hại án ngữ đường Thượng Đạo”, con đường chiến lược vào các tỉnh Thanh- Nghệ và lên mạn núi phía rừng Tây Bắc lúc bấy giờ. Và đây cũng là vùng đất “nhân kiệt, địa linh chung vượng khí” (người giỏi đất linh nên tạo ra vượng khí cho nơi đây) giống như bài thơ “Minh đỉnh danh lam”của đức Vua đứng đầu Hội Tao đàn thời Lê ca ngợi. Sau này vua Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long cũng lập “Thăng Long tứ trấn”, bốn đền thờ thần trấn giữ kinh thành Thăng Long như thời Đinh -Tiền Lê ở Hoa Lư. Khóa luận: Giải pháp Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.

Nằm song song với dải núi Bái Đính là con sông hoàng long là nơi gắn liền với các sự tích của Đinh Bộ Lĩnh nơi ghi dấu phát tích Đế Vương làm nên những huyền thoại lịch sử. Sông Hoàng Long vốn là lưu hợp của 3 con sông (sông Lạng, sông Bồi, sông Lê). Sông Lạng bắt nguồn từ Hoà Bình, chảy qua thị trấn Nho Quan, đổ về gặp sông Bôi (sông Kiến Phong cổ) cũng từ Hoà Bình đổ về ngã ba Kênh Gà, (Gia Thịnh, Gia Viễn). Sông Hoàng Long chảy đến núi Lê (thôn Lê, Gia Sinh, Gia Viễn) nhập thêm dòng sông Lê từ phú lộc, Sơn Thành (Nho Quan) đổ vào. Xưa kia chảy đến Phú Mỹ (Gia Vượng, Gia Viễn), sông Hoàng Long lượn về phía Tây Bắc, đến thôn Hoàng Long, Đức Hậu, An Thái (Gia Trung) chảy đến sát chân núi Bồ Đình (Gia Vượng), Kỳ Lân (Đại Hữu cổ, nay là xã Gia Phương), rồi lại vòng qua Điềm Giang (Gia Thắng), Điềm Xá (Gia Tiến, Gia Viễn) tạo thành hình vòng cung nước ôm lấy các xã Gia Trung, Gia Vượng, Gia Phương, Gia Thắng, Gia Tiến. Khúc uốn quanh này sách cổ gọi là sông Đại Hoàng. Còn sông Hoàng Long chỉ là đoạn chảy thẳng từ Hán Nam- Hán Bắc (Gia Tiến) chảy xuôi qua Thần Thiệu, Thiện Hối (Gia Tân) khoảng 8 km ra Gián Khẩu, đổ vào sông Đáy (sông Thanh). Cho đến nay tại xã Gia Trung vẫn còn lưu dữ địa danh thôn Hoàng Long, gần núi Bồ Đình và núi Kỳ Lân.Vòng cung thuỷ – uốn khúc quanh sông Đại Hoàng cổ tạo thành phía trước núi Bái Đính (nhưng ngày nay thì không còn nữa). Do thuỷ lợi uốn thẳng đoạn sông đại hoàng khúc từ Phú Mỹ (Gia Vượng) đến Nam Hán (Gia Tiến) để tiêu úng chặt đứt khúc uốn quan của con rồng nước khổng lồ của con sông này.

Hoàng Long – con sông gắn với bao huyền thoại của Đinh Bộ Lĩnh thủơ sinh thời với hàm nghĩa “vua lớn”, nơi phát tích nên vị anh hùng đại thắng Minh – người khai sang tiều đại nhà Đinh vẻ vang trong lịch sử (dấu vết còn lại nay chỉ là khúc sông “nội đồng” nông nhỏ, nằm giữa cánh đồng chiêm chũng của các xã Gia Trung, Gia Vượng, Gia Thắng, Gia Tiến, Gia Phương thuộc huyện Gia Viễn). Sông Đại Hoàng cổ ngày nay không còn nữa. Khúc “uốn cong” của “Con Rồng nước” Đại Hoàng nay đều đã mất hết vết tích xưa. Dân gian cho rằng “long mạch Đại Hoàng bị “đứt – nghẽn” từ đó.

Ngày nay, con sông chảy từ ngã ba Kênh Gà đựơc “nắn thẳng” từ Phú Mỹ (Gia Vượng) đến trạm bơm xã Gia Tiến dài gần 6 km chảy thẳng ra sông Đáy ở Gián Khẩu được gọi là sông Hoàng Long. Sông Hoàng Long cổ chỉ là khúc sông từ Điềm Xá xưa (nay là xã Gia Tiến) đến Gián Khẩu, gắn với huyền tích Rồng Vàng nổi lên cứu Đinh Bộ Lĩnh qua sông ở đoạn núi Cắm Gươm (Gia Tiến). Nay sông Hoàng Long chỉ còn là con sông ở ngã ba Đồng Đinh (Thượng Hoà, Nho Quan) đến Gián Khẩu (Gia Trấn, Gia Viễn. Theo tích xưa truyền thì huyền thoại của Đinh Bộ Lĩnh gắn với nhiều sự tích ở vùng núi Bái Đính và con sông Hoàng Long. tích Con Rái Thần, kể lại rằng ở thời Dương Đình Nghệ có đôi vợ chồng do chiến tranh phản loạn phải khăn gói lên đường về quê. Chồng là Đinh Công Trứ quê ở động Hoa Lư (nay là Gia Phương, Gia Viễn) là thứ sử châu Hoan (Nghệ An) cùng vợ là Đàm Thị, trên đường về do đường xá xa xôi vất vả nên hai vợ chồng rất mệt mỏi, buồn phiền. Nhưng điều buồn phiền hơn cả là ông bà lấy nhau đã được mấy chục năm rồi mà chưa có nổi một mụn con cho vui cửa vui nhà, ông bà vốn ăn ở hiền lành phúc đức mà trời vẫn không thương. Chẳng mấy chốc mà ông bà đã đi được ròng rã gần một tháng trời, khi về đến núi Bái Lĩnh vợ chồng ông nghỉ dưới một gốc cây cổ thụ gần làng. Thấy dưới ruộng thỉnh thoảng có tiếng cá quẫy bà Đàm Thị bảo chồng ngả vào gốc cây cho đỡ mệt, còn mình xuống ruộng mò lấy ít cua cá nấu bát canh chua cho đỡ mệt.

Bà Đàm Thị càng bắt càng thấy lắm cua cá, nên mải mê chẳng mấy chốc đã cách xa chỗ chồng nghỉ, vào tới chân núi cuối đồng. Trời đang nắng to, bỗng một trận mưa rào ập tới, bà Đàm Thị bèn lánh mưa vào một hang núi trước mặt. Trước hang là một cái đầm rất to và sâu, bà đứng trong hang núi, chụm tay hứng những giọt nước mưa lung linh ngũ sắc từ một cây nhũ đá rỏ xuống. Uống song kỳ lạ thật bà buồn ngủ nhíu mắt lại, thấy giữa hang có một tảng đá to, nhẫn lì như một cái sập gụ, bà ngả lưng xuống và ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Cơn mưa vừa tạnh, Bà Đàm Thị cũng vừa tỉnh giấc, bà giật mình thấy một Con Rái Cá hình nhân, to lớn như một người đàn ông nằm bên cạnh, một chân vắt qua bụng bà. Hoảng sợ bà kêu la ầm ĩ, vùng ra khỏi con Rái Cá, cắm đầu cắm cổ chạy về phía chồng kêu cứu. Chồng bà và những người xung quanh nghe thấy tiếng la thất thanh, chạy đổ xô về phía hang núi Khóa luận: Giải pháp Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.

Con Rái Cá hình nhân thấy đoàn ngưòi tay dao, tay gậy, tay liềm ầm ầm kéo vào hang, nhưng nó vẫn đứng trên phiến đá trơ trơ như pho tượng không hề chạy trốn. Đoàn người sông vào đánh chem tới tấp con Rái Cá kỳ lạ ấy. Ông Đinh Công Trứ vì chạy đến sau nên chỉ xin được bộ xương và tấm da con rái cá, gói lại cẩn thận mang về để trên gác bếp.

Ít lâu sau bà Đàm Thị thấy trong người nôn nao, rực bà biết mình đã có thai . Bà không biết nói thế nào với ông về gíâc ngủ như bị thôi miên trong hang núi lúc trú mưa, băn khoăn do dự mái cuối cùng thì bà cũng vẫn dấu chồng . Ông Đinh Công Trứ thấy vợ có thai thì mừng rỡ nói rằng mai này khi sinh hạ thì đặt tên con là Bộ Lĩnh để kỷ niệm chặng đường vất vả chạy loạn, và buổi trưa nghỉ ở chân núi Bái Lĩnh.

Vợ chồng ông về quê sinh sống được hai tháng thì ông mất đột ngột, bà Đàm thị gào khóc thảm thiết, dân làng ai cũng thuơng tình, hàng ngày sống bằng nghề mà cua bắt cá kiếm sống qua ngày, bà không hề nói với ai là mình có thai. khi ông Trứ mất đã được một năm mà bà vẫn chưa sinh, dân làng thi nhau thêu dệt nguời em chồng cho là bà chửa hoang bèn đuổi bà đi. Bà Đàm Thị bụng mang dạ chửa bỏ làng vào trong núi kỳ lân để ở, trong động có đền thờ Sơn Thần cách làng không bao xa.

Hôm ấy, trời đang nắng chang chang, bỗng sấm chớp nổi lên ầm ầm, mây đen vần vũ. Bà Đàm Thị trở dạ, sinh ra một cậu bé khôi ngô tuấn tú, bà bấm đốt ngón tay thế là đã mang thai mười bốn tháng trời. Nhìn con khoẻ mạnh, đẹp đẽ bà ôm con sung sướng đến ràn rụa nước mắt. Đứa bé thật ngoan không hề quấy khóc nhưng lại rất hiếu động chưa đầy cữ mà cậu bé đã nhổm dậy như là được mấy tuổi rồi, mắt sang như dao diện mạo phương phi khác thường. Ngay sang hôm bà sinh nở, những người vào động lễ sơn thần, thấy trên các cây sen núi, lá nào cũng có vết sên bò in thành chữ “Thiên Tử”. Dân làng kéo nhau vào động xem thấy điềm lạ, bảo nhau rước mẹ con bà về làng, làm một túp lều cho 2 mẹ con ở tạm. Chỗ này sau gọi là Bồ Đề ở Sách Bông.

Chuyện bà Đàm Thị có thai mười bốn tháng lại có những điềm lạ nên từ làng trên xóm dưới, bàn tán xôn xao truyền đi khắp nơi. Vào lúc bấy giờ có một ông thầy tướng đến nhìn cậu bé rồi nói với mọi nguời “thằng bé này lớn lên, tất không phải là người thuờng, sẽ đứng đầu thiên hạ”. Bà Đàm Thị vô cùng phấn khởi, nhớ tới lời dặn của nguời chồng khi mất, bà đặt tên con là Bộ Lĩnh. Lên 5 tuổi bộ lĩnh đã phải mò cua bắt ốc để kiếm tiền thuốc thang nuôi mẹ và nuôi thân. Bộ lĩnh có biệt tài bơi lặn, dòng sông chảy qua làng rất sâu, chảy xiết chỉ có Bộ Lĩnh mới có thể bơi ra được giữa dòng và lặn xuống, bắt đầy vành dây lưng cá mới chịu ngoi lên bờ. Sông này lại có rất nhiêu Ba ba to, ai muốn mua ba ba to chừng nào chỉ cần đứng chờ một lát, Bộ Lĩnh sẽ bắt lên đúng như hình vẽ. Cũng vì biệt tài bơi lặn gỏi của cậu bé mà dân làng dần biết được bí mật về câu chuyện trong hang của bà mẹ năm nào. Khóa luận: Giải pháp Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.

Huyền tích này của Đinh Bộ Lĩnh đã ngàn năm nay đã lưu truyền trong nhân gian Ninh Bình. Núi Bái Lĩnh khi xưa nơi bà mẹ mang thai với Rái cá thần nay trở thành núi Bái Đính mang tên đức vua thuở thiêu thời. Hồ Đàm Thị nơi mẹ đức vua mò cua bắt ốc giao cấu với rái thần trong động Long Ẩn, sinh ra vua Đinh, các địa danh đó đến nay rồi vẫn còn (nay thuộc thôn Sinh Dược, Gia Sinh,Gia Viễn) nơi có chùa Bái Đính lớn nhất Việt Nam. Núi Bái Đính sát bên Đông Nam chuà, Hồ Đàm Thị ngay trước cửa chùa Bái Đính.

Lại nói đến con sông Hoàng Long đây là con sông huyền thoại đã đi vào trong lịch sử của người dân Việt, nơi đây là nơi gắn với thời thơ ấu của một vị vua tài ba, mà sự tích của nó còn lưu truyền mãi đến các thế hệ con cháu người Việt Nam. Đây là nơi thuở nhỏ khi phải đi ở chăn trâu cho chú là Đinh Dự ở Sách Bông (nay là Gia Phương, Gia Viễn). Hàng ngày Bộ Lĩnh cùng với trẻ chăn trâu trong làng tụ tập ở động Hoa Lư (nay là xã Gia Hưng, Gia Viễn), bẻ hoa lau làm cờ, xếp hàng hai, chồng kiệu nghênh rước Đinh Bộ Lĩnh như nghi lễ triều đình. Bốn người bạn “đồng lân, đồng giáp thân” (cùng làng cùng tuổi giáp thân – năm 924) là Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ, Trịnh Tú được Bộ Lĩnh giao cho làm “tứ trụ triều đình”. Đinh Bộ Lĩnh thường bày trận ở động Hoa Lư, lấy trâu làm ngựa cưỡi, lấy tre nứa làm cung đao, lấy hoa lau làm cờ, lấy mõ trâu, tù và làm hiệu lện. Khi tiến đánh trẻ trâu Nga My thì cho trâu bơi dọc sông, còn người thì cưỡi trên lưng trâu như cưỡi thuyền chiến. Sau đó thấy quân Nga My có thuyền thúng lợi hại, Bộ Lĩnh lại cho đan thuyền lá tre để dành chiến thắng. Danh tiếng của Bộ Lĩnh và quân Hoa Lư nổi tiếng khắp vùng. Phụ lão các động, các sách nói với nhau “Đứa trẻ này có khí độ như thế, lớn lên tất sẽ làm nên tướng soái, nếu không cho con em mình về theo sau này hối cũng không kịp”. Bởi lẽ đó mà mọi người cho con em của mình đến rất đông, rồi lập Đinh Bộ Lĩnh là trưởng động Hoa Lư.

Sau khi đánh thắng được trẻ chăn trâu của các làng khác, cả một vùng rộng lớn thuộc trẻ Hoa Lư làm chủ, Đinh Bộ Lĩnh bèn bắt con trâu to nhất của chú để khao quân. Chiếc nồi lớn làm bằng da trâu trát bùn, căng lên trên bốn chiếc cọc, rồi đổ nước vào đun. Khi nước sôi, lũ trẻ dùng lưỡi hái cắt thịt trâu luộc chin, vớt ra bày trên lá chuối rừng. Gạo tẻ, gạo nếp do lũ tre góp lại được bỏ vào trong các ống bương, ống luồng tươi chứa nước, trát đất kín, nướng trên ngọn lửa. Cỗ được bày trên các tấm lá chuối rừng làm mân, rồi đặt trên phiến đá to làm bàn thờ. Hai bên cắm hai hang cờ lau, hương là những đoạn cây trầm đốt nghi ngút. Đinh Bộ Lĩnh cho quân xếp thành 10 hàng, tượng trưng cho 10 đạo quân thiên tử, trước bàn thờ tuyên thệ: “Chúng ta nguyện sống chết có nhau, quyết lấy nương đồng, bãi cỏ bốn phương để người động Hoa Lư làm chủ”. Tiếng thề, tiếng reo hò của lũ trẻ ầm vang vách núi. Chúng công kênh Bộ Lĩnh rồi vác cờ lau, khí giới bằng tre gỗ, đi hai hang như rước ông hoàng.

Khao quân song, để đối phó với chú, Bộ Lĩnh lấy đuôi trâu cắm xuống lỗ nẻ ở ruộng, chạy về nói dối chú là là trâu đã chui xuống đất. Nguời chú tưởng thật, hớt hải chạy ra, dè chân chèo, cố sức nắm duôi trâu kéo kên. Trâu chẳng thấy đâu chỉ thấy chú ngã chỏng gọng ra giữa ruộng. Biết cháu trhịt mất trâu, lại bày trò lừa mình, Đinh Dự nổi dạn đùng đùng, vác gươm đuổi cháu để trị tội. Bộ Lĩnh ráng sức chạy, chạy mãi mà chú vẫn đuổi riết đằng sau. Đến bờ sông cái, cùng đường không còn lối chạy, Bộ Lĩnh chợt nhớ trong số trẻ chăn trâu có đứa tên là Long, nhà ở bãi sông, bố làm nghề chở đò ngang trên sông bèn gọi lớn: “Long ơi Long, cứu ta với, nhanh chở ta qua sông”. Bộ Lĩnh vừa dứt lời chẳng thấy Long đâu, khúc sông bỗng nổi sóng cồn, một con Rồng lớn hiện lên, hụp đầu 3 lần như vái chào, vâng lệnh ghé lưng vào bờ đón Bộ Lĩnh. Bộ Lĩnh ung dung ghé lưng bước lên lưng rồng qua bờ sông bên kia. Người chú thấy vậy vùa kinh sợ, vừa cảm phục cháu, lúc ấy mới biết cháu mình là thiên tử giáng sinh. Chú cắm thanh gươm bên chân núi, quỳ bên bờ sông vái lậy như tế sao, đến lúc ngẩng đầu lên không thấy cháu đâu nữa, mới lững thững quay về nhà thì trời đã chập choạng tối. Khóa luận: Giải pháp Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.

Đến nay con đường chú đuổi cháu gọi là con đường tiến yết. Hàng năm mở hội, nhân dân vẫn rước kiệu, tế cờ tế kiếm từ động hoa lư về gò Bồ Đề (nay thuộc xã Gia Phương, Gia Viễn – tương truyền nơi đây là nền nhà của Đinh Bộ Lĩnh hồi còn nhỏ), qua sông Cái về đến đền vua Đinh ở Trường Yên. Dòng sông Cái có rồng vàng nổi lên cứu vua từ đó gọi là Sông Hoàng Long (rồng Vàng), núi chỗ chú cắm gưom lạy cháu nay gọi là núi Cắm Gươm, dải ruộng dưới chân núi cắm gươm gọi là Kiếm Điềm.

Lại trở lại với không gian của núi Bái Đính, xét về cảnh quan thiên nhiên xung quanh chân núi Bái Đính thì đây là một vùng chủ yếu là núi đá và đồi đất, ngoài một số ngọn độc sơn như núi Hàn Cay, Hàm Rồng, Hang Trai, núi Nhãn, núi Làng Đồi, núi Lê, Thanh Lương, núi Khám….núi đồi quanh núi Bái Đính tạo thành 2 vòng cung chính: Vòng cung phía Đông Bắc khởi đầu là núi Hàm Rồng, núi Hàm Xà, Hàn Cay, Trai Sơn, và núi Phường. Vòng cung Tây Bắc khởi đầu là núi Lê, sát bờ sông Hoàng Long, như con Kỳ Lân khổng lồ, tiếp đến là núi khám, U Bò, Thanh Lương, núi Thờ, Ba Chạc, núi Lê chạy dài đến núi khơi và vùng đồi núi của các xã Sơn Lai, Quỳnh Lưu của huyện Nho Quan. Cả hai vòng cung này đều chầu về phía núi Bồ Đình và núi Kỳ Lân (Gia Vượng, Gia Phương, Gia Viễn), nơi sinh ra vua Đinh gắn với truyền thuyết “mả táng hàm rồng” nói về việc Đinh Bộ Lĩnh đưa hài cốt cha mình tang vào Hàm Rồng .

Tích kể lại rằng vào một hôm, khi Đinh Bộ Lĩnh lặn xuống đáy sông Đại Hoàng, chỗ sâu nhất, nước xoáy tròn trên mặt sông như một chiếc cối xay khổng lồ. Khi lên bờ Đinh Bộ Lĩnh kể lại với mọi người, nơi thẳng vực nước xoáy, dưới lòng sông sâu thẳm ấy, có một ngầm đá lớn như miệng một con rồng, nước xoáy quanh một quanh một quả cầu lung linh bẩy sắc ở giữa miệng rồng. Chuyện lạ đó đồn đại khắp nơi, nhưng ngoài Đinh Bộ Lĩnh ra không ai có thể để xem kỳ lạ hư thực như thế nào. Ít lâu sau có một người khách lạ đến ngồi trên bờ sông Đại Hoàng xem Bộ Lĩnh mò cá. Người khách gọi cậu lên bờ rồi hỏi: “Cậu lặn giỏi thế liệu có giám lặn vào vực soáy kia không? Sao lại không? Dòng sông này chỉ có bên dưới long đất đá là tôi không xuống được đó thôi, còn chỗ nào chẳng có dấu tay tôi mò bắt ba ba! Bộ Lĩnh thản nhiên trả lời. Người khách lạ lại hỏi có vẻ thăm dò: thế dươí vực xoáy kia cậu có thấy gì lạ không? Bộ Lĩnh kể đúng như những điều đã thấy, lại còn bịa thêm nơi ấy cậu đang nuôi một đôi ba ba giống, chuyên sinh sản, để mình lấy ba ba con đem bán. Khóa luận: Giải pháp Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.

Người khách lạ lại thẽ thọt: Cậu hãy đặt giúp ta chiếc chĩnh sành này vào giữa miệng rồng, song việc ta sẽ thưởng cho 5 lạng vàng. Bộ Lĩnh tò mò hỏi trong chĩnh đựng gì thì người khách không nói.Vốn là người thông minh,Bộ Lĩnh nghĩ, chắc phải có gì hệ trọng nên ông khách mới cố giấu giếm mình, lại trả công hậu hĩnh như vậy. Cậu lặn xuống nhưng không đặt cái chĩnh đúng như lời dặn của người khách, mà để chiếc chĩnh qua ngoài miệng rồng, rồi bơi lên bờ lĩnh thưởng. Người khách tỏ ra cận thận và hào phóng : Thưởng cho cậu thêm một nén bạc nữa không được nói với ai chuyện này!.

Bộ Lĩnh về nhà thuật lại với mẹ rồi tò mò hỏi mẹ. Lúc đó bà Đàm Thị đang bị bệnh nặng, chỉ nói : “người ta bảo có phúc mả táng hàm rồng, chẳng phát đế cũng phát vương” Bộ lĩnh liền hỏi: “Thế mả bố con ở đâu?”.Vì đang mệt mỏi, bà Đàm Thị bỗng buột miệng trả lời cho qua chuyện “Mả bố đang bọc gác trên gác bếp ấy!”.

Bộ Lĩnh chẳng nói chẳng rằng, leo lên gác bếp, tìm thấy bộ xương bọc trong tấm da bám đày bồ hóng, gói lại cẩn thận, rồi lặn xuống sông, bỏ hài cốt của người khách đặt ra ngoài chĩnh, lấy gói da bọc xương rái thần cho vao chĩnh rồi đặt giữa miệng rồng. Bỗng sấm chớp nổi lên ầm ầm, nước sông sôi sung sục như người nấu. Chiếc hàm rồng ngậm chặt lấy bộ hài cốt rái thần. Cũng từ đó Bộ lĩnh lớn nhanh như thổi, tính tình táo tợn, thông minh, lam lợi hơn người. Cậu tụ tập trẻ chăn trâu làng mình lại, kéo đi đánh trẻ trâu ở các làng khác, đến đâu chúng cũng đều sợ, phục, tôn lên làm truởng. Đến năm 21 tuổi, Bộ Lĩnh phất cờ, tụ nghĩa chiêu mộ anh hùng, nghĩa sỹ bốn phương . Sau khi nhà hậu Ngô mất, Bộ Lĩnh xuất quân đánh dẹp các sứ quân cát cứ, thống nhất non sông về một mối, lên ngôi hoàng Đế. Đinh Tiên Hoàng lên ngôi được dăm năm .Một hôm có một thầy địa lý người Tàu đến kinh đô Hoa Lư xin yết kiến vua Đinh.

Thầy địa lý Tàu nói: “Thần đã đi khắp nước Đại Cồ Việt, quả là đất này có nhiều long mạch quý, nhưng chỉ có long mạch ở cửa Đại Hoàng Giang là phát kết Đế Vương. Nhưng hiềm một nỗi, đại mạch này đang bị các tiểu mạch khác chi phối, lấn át, nên ngôi chủ đang chông chênh, không vững”.Theo lời phán của thầy đại lý người Tàu, “Muốn cho long mạch Đại Hoàng vẫn giữ được ngôi chủ soái, xin hoàng Đế cắm hai thanh gươm bạc hai bên đầu rồng, vừa giữ được vẻ uy nghi, lại vừa trấn trị được các long mạch khác lấn át”. Vua Đinh vì tin lời thày địa lý người Tàu, bèn nhờ ông ta mua cho hai thanh gươm bằng bạc để trang hoàng hai bên đầu rồng. Chỉ mươi hôm sau, thầy địạ lý Tàu lại đến kinh đô Hoa Lư dâng cho vua Đinh hai thanh gươm bạc rất đẹp. Vua Đinh lấy làm hài long lắm, trọng thưởng cho người khách Tàu 10 nén vàng, 10 nén bạc rồi cho cắm thanh gươm đó vào hai bên đầu rồng như lời thầy đại lý chỉ dẫn.

Chỗ đầu rồng đặt hài cốt rái thần nước xoáy rất xiết, hai thanh gươm cứ bám theo làn nước xoáy, ngày này qua ngày khác cứa mãi vào đầu rồng, khiến đầu rồng bị đứt làm đôi. Nước sông Đại Hoàng đỏ ngầu như máu suốt ba tháng ròng. Khi vua Đinh biết rõ sự thật thì dã muộn. Cũng trong thời gian ấy, vua Đinh và Nam Việt Vương Đinh Liễn bị sát hại. Cơ nghiệp đế vương cũng mất từ đấy. Khóa luận: Giải pháp Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.

Mọi chuyện xảy ra rồi, sau này người ta mới biết duyên là do chính thầy địa lý người Tàu ấy là người khách lạ trước đây đã thuê Bộ Lĩnh để mộ bố mình vào hàm rồng, nhưng bị Bộ Lĩnh đánh tráo, đặt hài cốt rái thần vào, nên ông ta nghĩ kế đặt thanh gươm kê đứt đầu rồng để báo thù. Hai thanh gươm ấy ông ta đã yểm bùa “đoản mệnh” để dâng vua Đinh. Khi triều đình nhà Đinh biết rõ mưu kế thâm độc của thầy phù thuỷ ngưòi Tàu, liền cho quân bủa vây, truy nã. Nhưng ông ta đã cải trang thành lái buôn, trốn chạy về phương Bắc. Triều đình và thần dân Đại Việt vô cùng căm dận hắn.

Sau này khi lập đền thờ vua Đinh ở Trường Yên, Hoa Lư người ta đã cho khắc bốn chữ đại tự ở trước cổng đền là “bắc môn toả thược”, nghĩa là (khoá chặt cửa Bắc) hàm ý nhắc nhở đời sau về bài học về cảnh giác vô cùng đau lòng của nhà Đinh. Đến nay bốn chữ đại tự đó vẫn còn ở trước cổng đền vua Đinh Tiên Hoàng ở Trường Yên, và câu truyện “mả táng hàm rồng” vẫn còn đến ngày nay.

Sông Hoàng Long – núi Bái Đính, không chỉ gắn với sự tích của vị vua nhà Đinh có công trong việc khai sáng ra nước Đại Cồ Việt. Trên mảnh đất cố đô xưa mà còn gắn liền với nhiều nhân vật trong lịch sử trong các thời kỳ lịch sử khác nhau. Vào thời nhà Mạc, ông Bùi Văn Khuê ( quê ở Chi Phong, Trường Yên, Hoa Lư) được phong tới chức Mỹ Quận Công. Sau khi ông bị Phan Ngạn giết hại, các con ông cầm quân theo về phò nhà Lê, ông được vua Lê truy phong là Nghĩa Quận Công, ông có 2 bà vợ. Bà cả sinh con trai đầu lòng là một tướng tài, được phong là Vân Quận Công. Bà vợ thứ hai là Nguyễn Thị Niên, con gái đại tướng quân Nguyễn Quyện cháu nội trạng nguyên Nguyễn Thiến (Canh Hoạch, Hoài Đức, Hà Nội), vốn có nhan sắc tuyệt trần. Vua Mạc đã lấy chị gái bà làm phi, lại muốn lấy cả bà, mặc dù chồng bà là Quận Công Bùi Văn Khuê, đang phò tá nhà Mạc chống lại nhà Lê.

Đây cũng là nguyên nhân làm cho cha con họ Bùi bất mãn với nhà Mạc, về theo vua Lê. Bà Nguyễn thị Niên sinh hạ được ba người con trai đều làm tới chức Quận Công nay ở làng Sinh Dược vẫn còn có đền thờ con trai của bà. Lúc bấy giờ, Kế Quận Công Phan văn Ngạn lập mưu sát hại Bùi Văn Khuê để mưu ép bà về làm vợ. Sau khi trả thù cho chồng bà đã dặn ba con trai của mình bỏ nhà Mạc về phò Lê sau đó bà đã gieo mình xuống sông Hoàng long. Vụ án “chém đầu Quận Kế để tế Quận Mỹ” cùng với cái chết thương tâm của người đàn bà tài sắc vẹn toàn ở trên sông Hoàng Long đã làm trấn động dư luận vua quan của triều đình Lê- Trịnh và Mạc vào cuối thế kỷ XVI, còn dư âm trong dân gian đến bây giờ. Để tưởng nhớ và ghi công đức của gia đình ông nên năm cha con ông đã được phụ thờ ở đền vua Đinh Tiên Hoàng (Trường Yên, Hoa Lư), vì có công với nuớc, với dân và cũng có công tôn tạo đền thờ vua Đinh, vua Lê khang trang vào thế kỷ XVII. Khóa luận: Giải pháp Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.

Cũng vì có công phò tá nhà Lê Trung Hưng, nên vua Lê ban cả daỉ đất ven sông Hoàng Long một ở thôn Chi Phong (nay là Trường Yên, Hoa Lư), một thôn Chi Phong thuộc (Gia Trung, Gia Viễn). Đền thờ Mỹ Quận Công Nguyễn Thị Niên nay dân gian gọi là đền Vực Vông, lăng bà cũng gần đó, ngay trên đường vào khu núi Bái Đính, cách 2km, đền từ xưa nổi tiếng linh thiêng.

Thời kỳ chiến tranh Lê- Trịnh với Mạc, khu vực núi Bái Đính là vùng tranh chấp quyết liệt giữa hai tập đoàn phong kiến này. Nơi đây là đại bàn đóng đại bản doanh của Đại Tướng quân Nguyễn Quyện, một vị trí có tầm chiến lược vô cùng quan trọng của nhà Mạc để chặn đánh quân Lê – Trịnh từ Aí Châu tiến ra đồng bằng Bắc Bộ và kinh thành Thăng Long. Nơi đây cũng là nơi giáp chiến của Mỹ Quận Công Bùi Văn Khuê với quân Lê – Trịnh. Lúc bấy giờ khi khi đang đóng quân ở Thanh Hoá thì tương quan lực lượng nghiêng hẳn về nhà Lê, lại bị mất địa bàn chiến lược này suốt đến Tam Điệp, nhà Mạc yếu thế hẳn về quân sự. Và cũng từ đây quân Lê – Trịnh có thế ỷ dốc tiến như vũ bão về đồng bằng Bắc Bộ, bao vây chiếm lại Thăng Long làm chủ toàn bộ đất nước, đẩy nhà Mạc lên Cao Bằng và một số tỉnh biên giới phía Bắc. Xem như thế mới biết, một dải núi rừng hiểm trở suốt từ Cúc Phương, Bái Đính tới Tam Điệp,Thần Phù “Trời đất xây dựng, rất là hiểm yếu”, theo (Hoàng Lê nhất thống chí) có tầm quan trọng như thế nào trong công cuộc dựng nước và dữ nước của ông cha ta.

Sang đến thời nhà Lý thì nơi đây lại gắn với huyền thoại và công tích của người đã lập ra ngôi chùa Bái Đính trên đỉnh Bái Đính Sơn là thiền sư Nguyễn Minh Không, là người đã có công chữa bệnh cho muôn dân và vua Lý Thần Tông. Song song với chiều dài lịch sử của đất nước nơi đây là địa danh ghi lại những dấu tích của một thời kỳ vẻ vang của dân tộc Việt Nam nơi khai sinh ra vị anh hùng, vị vua của triều Đinh, cùng với các sự tích huyền thoại về ông thuở thiếu thời, cũng như các tướng lĩnh có công trong công cuộc xây dựng và bảo vệ dân tộc chống ngoại xâm, Núi Bái Đính cùng với dòng sông Hoàng Long đã kề vai vào nhau để hoàn thành những chiến tích lẫy lừng, nó đã đi vào lịch sử, tâm thức của người dân cố đô Hoa Lư, cùng với hai vòng cung núi Tây Bắc và Đông Bắc, Hoàng Long Giang đã tạo cho Bái Đính cổ tự một thế đất “tiền thuỷ hậu sơn”.

Qua thời gian dòng chảy của dòng sông Hoàng Long hôm nay không còn nguyên dáng vẻ như xưa. Đoạn sông chảy qua vùng núi Bái Đính giờ đây là một vùng nước cạn hiền hoà. Dòng sông vẫn âm thầm mang phù sa và nước ngọt, tô điểm màu xanh cho những vùng lân cận mà nó chảy qua, rồi mai đây chính nó sẽ là dòng sông cập bến trở du khách qua những con thuyền từ khắp nơi về viếng cảnh chùa. Nó gợi nhớ về một thời đã xa, cũng trên dòng sông này nhân dân đã tiễn đoàn thuyền của vua Lý Thái Tổ trên đường kinh lý dời đô về Thăng Long. Khóa luận: Giải pháp Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.

3.2.1.2. Gía trị văn hoá

Đề cập đến vấn đề này là bao gồm tất cả những yéu tố văn hoá từ xưa cũng như hiện tại bởi yếu tố này là vô cùng. Tính văn hoá thể hiện ở lễ hội, không gian điễn xướng của các vị vua, tướng lĩnh đều tập trung ở đây cho thấy đó là nét văn hoá có từ rất lâu của người Việt. Từ khi hình thành đến khi mất đi từ những nét văn hoá đó vẫn được lưu truyền từ đời này sang đời khác, vừa là lưu giữ, bảo tồn, vừa có tinh thần giáo dục thế hệ trẻ.

Khi nói về ngọn núi Bái Lĩnh, đã có không ít người đã tưởng nhầm tên núi Bái Đính với tên Bái Lĩnh là một. Theo sách “Ninh Bình toàn tỉnh địa chí khảo biện” của Nguyễn tử Mẫn và Đại Nam nhất thống chí – bộ địa lý lịch sử đồ sộ của nhà Nguyễn gọi là núi Bái Lĩnh và chép là “Núi Bái Lĩnh phía Tây huyện Gia Viễn, ở các địa phận xã phúc Lai, Sinh Dược, Mộc Hoàn, Xuân Trì, Lê Xá, Khoáng Trang (thuộc Phụng Hoá, Gia Viễn), một dải núi đất liền kề với sơn phận Chi Phong và Trường Yên bên cạnh. Đỉnh núi có đền thần Cao Sơn” (Hán – Việt từ điển, NXB Văn hoá – thông tin, Hà Nội, 2002, tr 209). Như vậy Bái Lĩnh không phải danh từ chỉ một tên núi cụ thể mà chỉ cả quần thể núi, đồi trong một vùng rộng lớn của Gia Viễn và Phụng Hoá xưa. Theo các địa danh ghi trong sách “Đại Nam nhất thống chí” thì nay bao gồm các xã sơn Lai, Sơn Thành, Sơn Hà, (Huyện Nho Quan), Gia Minh, Gia Phong, Gia Sinh, Gia Lạc (huyện Gia Viễn). Núi Bái Đính chỉ trong quần thể Bái Lĩnh Sơn mà thôi. Như vậy có thể hiểu Bái Lĩnh sơn là vùng núi có diễn xướng lễ bái, hoặc nơi đây đã từng diễn ra phong hầu bái tướng, vì con đường từ đây ra đường lớn rất thuận tiện (đường thượng đạo đi từ phủ Trường Yên lên Phủ Thiên Quan xưa để vào các tỉnh miền trong hoặc lên mạn Hoà Bình, Tây Bắc, nên có rất thích hợp cho các buổi diễn xướng tế lễ .

Vào thời Vua Hùng thứ 18 –Hùng Duệ Vương, đến nghiã quân tây Sơn tập kết ở nơi đây, tế cờ, tế kiếm, đức vua phong thưởng ba quân tướng sỹ trên vùng đồi này. Như vậy từ xa xưa Bái Đính là nơi diễn xướng lễ bái lớn trên đỉnh núi. Theo truyền thuyết khi vua Đinh Tiên Hoàng dẹp song 12 sứ quân Cát Cứ, đức vua đã cho lập đàn tràng để làm lễ phong hầu bái tướng, phong chức tước cho các bá quan văn võ. Ngài đã cho xây dựng hành cung ở vùng núi Sơn Lai cách núi Bái Đính khoảng 4 -5 km .

Dân gian truyền rằng muốn lên được chùa Thạch Am trên đỉnh núi Bái Đính để lễ phật, phải qua “ba bái”: Qua làng Bái thứ nhất (Sơn Thành, Nho Quan), làng Bái thứ hai (Sơn Lai, Nho Quan), và qua eo đồi Ba rau lên Bái Đính sơn là ba Bái. Gần Bái Đính xưa có phường Bái Ân (Sơn Thành, Nho Quan). Như vậy vùng này từ xa xưa đã từng là không gian lễ Bái, Bái Đính vừa là đỉnh cao của diễn xướng tín ngưỡng lễ bái của một vùng giáp ranh 3 tỉnh Ninh Bình –Thanh Hoá–Hoà Bình. Ngày nay nơi đây thu hút khách cả nước và quốc tế về thăm quan lễ Phật, lễ Thánh, lễ Tiên cầu phúc cả năm . Hàng năm cứ vào ngày mồng 6 tháng giêng là khai hội chùa Bái Đính cho đến hết mùa xuân. Trước ngày mở hội, trong thời gian đón tết, tất cả các động, chùa trên núi Bái Đính đều khói hương nghi ngút, cờ hội được treo lên khiến không khí lễ hội bao trùm cả vùng quê chiêm trũng. Về phần lễ ở chùa Bái Đính diễn ra tương đối trang trọng vì ở đây không chỉ thờ các vị sơn thần, phật tổ, bà chúa thượng ngàn mà còn gắn với nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc với các danh nhân đức Thánh Nguyễn, Đing Bộ Lĩnh. Phần lễ ở chùa Bái Đính gồm tổng hòa toàn thể hệ thống tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam, có sự sùng bái tự nhiên, có Đạo, có Phật và có cả Nho…

Vào những ngày mở hội du khách từ khắp mọi nơi đến để tham gia ngày lễ lớn trọng đại này. Trong chùa mọi ngõ ngách nơi nào có tượng Phật là nơi đó toả khói hương nghi ngút. Lễ hội được diễn ra rất long trọng, các đồ tế lễ,mân quả được bày biện kỹ lưỡng, lễ vật được xếp thành hang được mang lên chùa tế lễ. Du khách đến lễ hội chùa Bái Đính còn có thể leo núi thăm hang, với đông đảo mọi người tham gia và hưởng ứng.Cuộc hành hương ấy tạo ra trong con người tâm lý kỳ vọng, sự thanh thản trong tâm hồn và đức hướng thiện. Các hoạt động hội diễn ra sôi động với đấu vật, ném còn, đánh bài, kéo co, các trò chơi dân gian ngày tết…Âý là sự lặp lại kỳ thú của diễn xướng tế bái hàng năm trước hình thức sôi động của hoạt động tâm linh trên dải đất này. Khóa luận: Giải pháp Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.

Tín ngưỡng văn hoá kết hợp với không gian tâm linh là một trong những nét tiêu biểu nhất của các ngôi chùa Việt, tiêu biểu hơn cả là ở chùa Bái Đính nó đã thể hiện cho mình cái riêng rất cụ thể. Bản thân Nguyễn Minh Không, một nhân vật địa phương được thần thánh hoá có những phép thuật phi thường thể hiện theo tín nguỡng Đạo giáo, thường được dân gian gọi là ông khổng lồ, rồi đi thỉnh kinh tu Phật, cho thấy đây là biểu tượng cao nhất của sự dung nhập và hào đồng các tín ngưỡng Phật và Lão.

Xét về không gian tâm linh thì Bái Đính cổ tự là biểu tượng cao nhất, tập trung và rực rỡ nhất của của sự dung nhập của tôn giáo và tín ngưỡng của nhân dân trong vùng gần một ngàn năm nay. Ngoài tín ngưỡng thờ Phật thì ở chùa Bái Đính là sự dung hoà các tín ngưỡng thờ tiên – Thần trong không gian ngôi chùa.

Đạo thờ Tiên gắn liền với liễu Mẫu, theo Vân Cát Thần nữ của Đoàn Thị Điểm (Thiên Hương, Kim Thái, Vụ Bản, Nam Định) có một gia đình ông Lê Thái Công ham làm điều phúc. Khoảng năm Thiên Hựu (Lê Anh Tông – 1557), bà vợ đã có thai quá nửa kỳ sinh nở, tự nhiên mắc bệnh nặng. Vào một đêm Trung thu, mặt trăng trong sang có một người khăn áo mũ chỉnh tề, trong tay cầm một cái búa ngọc nói có phép làm cho bà nhanh chóng sinh nở. Thái Công liền mời vào nhà, đó là đạo nhân. Đạo nhân xoã tóc, lên đàn, miệng đọc thần chú, tay ném búa ngọc xuống đất, Thái Công liền ngã bất tỉnh nhân sự, trong cơn mơ Thái Công thấy có người dắt lên trời đúng vào ngày hội của Thiên Cung .Một Tiên nữ mặc áo hồng, tay nâng chén ngọc dâng rượu cho Ngọc Hoàng. Chẳng may tiên nữ lỡ tay đánh rơi chén ngọc, Ngọc Hoàng nổi dận đày xuống trần gian. Thái Công hỏi người lực sỹ đứng cạnh mình: người con gái đó là ai? Duyên cớ thế nao? Người lực sỹ trả lời đó là đệ nhị Tiên Chúa Quỳnh Nương vừa bị Ngọc Hoàng giáng đày xuống trần .Rồi Thái Công thấy mình đã về đến nhà, bỗng nghe thấy tiếng trẻ khóc, chợt tỉnh. Vợ ông đã sinh hạ một cô con gái, Thái Công đặt tên con gái là Giáng Tiên, Giáng Tiên chăm học lễ, Nhạc, Thi, Thư.

Ngay ở thôn Vân Cát có gia đình họ Trần, Lê Thái Công cho con gái sang nhận Trần Công làm nghĩa phụ và làm một cái lầu trong vườn Trần Công cho con gái ở. Một hôm Trần Công đang bách bộ trong vườn, bỗng thấy một cậu bé khôi ngô tuấn tú ngồi ở gốc cây bích đào, đem về nuôi đặt tên là Đào Lang. Lớn lên thấy Giáng Tiên xinh đẹp nết na, tư chất khác thưòng, Đào Lang bèn xin lấy làm vợ. Năm ấy Giáng Tiên vừa tròn 18 tuổi hai nhà thuận long. Năm sau vợ chồng đào lang sinh được một con trai, năm sau nữa sinh được một cô con gái.

Ngày 3 –3 Giáng Tiên không bệnh mà mất xuân xanh mới 21 tuổi đời .Giáng Tiên phải về trời vì đã hết hạn đi đày. Trần duyên dang dở, tơ tình vấn vương nên nàng vô cùng buồn bã. Quần tiên thấy vậy rất ái ngại, tâu lên Thượng Đế. Thượng Đế thương con phong làm Liễu Hạnh Công Chúa, lại cho giáng xuống trần gian. Ngày Công chúa trở lại trần thế đúng vào ngày kỵ thứ 2 của mình. Cả nhà đang khóc lóc Công chúa bỗng hiện ra và nói: “Con là người bất hiếu làm liên luỵ đến cha mẹ. Không phải con không muốn hầu cha mẹ, nhưng vì cơ trời không biết, số đã định. Xin ba mẹ nén long thương xót…Con ở Tiên cung, vì có lỗi, bị trích xuống trần gian. Nay từ biệt kiếp trần lại đến hầu nơi đế đình…” nói vừa dứt lời, tiên chúa liền biến mất.

Một lần tiên chúa hiện về gặp Đào Lang. Vợ chồng than vãn về cảnh cô đơn và hẹn vài chục năm nữa lại gặp nhau. Năm tháng trôi đi tiên chúa đi ngao du thiên hạ ở khắp mọi nơi, khi vào đến làng Sóc (Nghệ An) gặp lại Đào Lang (đã ở kiếp khác). Sau một năm sinh hạ được một con trai. Chồng thi đỗ làm quan, Tiên Chúa lại mãn hạn trần gian nên phải về trơì. Sau 5 năm ở Tiên cung, Tiên Chúa lại xin xuống trần gian, sau này Tiên Chúa là người có công giúp triều đình đánh giặc nên triều đình cho sửa sang lại đền miếu, sắc phong là Mã Hoàng Công Chúa, lại gia tặng “Chế Thắng Hoà Diệu Đại Vương”. Từ đây mẫu liễu trỏ thành bậc siêu trần, luôn ban ân đức cho mọi người, nên được nhân dân tôn làm Thánh Mẫu. Nhà Nguyễn gia phong “Mẫu Nghi Thiên Hạ” (Đức mẹ của muôn dân. Đến nay, mộ của Tiên Chúa vẫn còn ở xứ cây Đa (Kim Thái, Vụ Bản, Nam Định) .Có thể nói rằng, Mẫu Liễu là hiện than của văn hoá mẹ -văn hoá gốc Việt Nam. Khóa luận: Giải pháp Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.

Theo như nghiên cứu thì tại chùa Bái Đính thì với hệ thống thờ tam toà Thánh Mẫu ở đây không phải ba ngôi Mẫu Thiên – Địa -Thuỷ, hoặc mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải, Mẫu Liễu Hạnh như lầm tưởng của một số người mà là: “Không không sắc sắc Tiên- Thần- Phật; Hoá hoá sinh sinh nhất nhị tam”như một bài chầu ở đây. Bài chầu này nói về liễu Mẫu Hạnh Công chúa-con gái nhà trời “tam sinh, tam hoá”. Ba lần xuống trần gian ba lần được sắc phong: Mã Hoàng Công chúa, Chế Thắng Hoà Diệu Đại Vương, Mẫu Nghi Thiên Hạ. Ba tên chính: Đệ nhị Tiên chúa Quỳnh nương, Giáng Tiên, Liễu Hạnh Công chúa. Tiên Chúa mang theo Quế Nương, Thị Nương nên thành ba ngôi. Như vậy, Tam toà chỉ khái niệm “ba ngôi” trìu tượng như: Phật Tam thế,Tam bảo, đạo Tam phủ, để diễn tả cái cụ thể là Mẫu nghi thiên hạ- vừa là Thánh, vừa là Nhân.

Tín ngưỡng thờ Thần ở đây gắn với thần Cao Sơn. Nguồn gốc thờ thần Cao Sơn xuất phát từ tín ngưỡng xa xưa trong dân gian là thờ Thần Núi. Tín ngưỡng này không chỉ của người Việt mà nhiều dân tộc trên thế giới đều có như núi ngũ nhạc ở Trung Quốc, núi Ôlimpơ ở Hy Lạp, nhưng có khác là, người Việt quan niệm thần núi là vị thần cụ thể, hiện hữu, thần cũng là con người trần tục như mọi con người. Chính vì thế mà thần Thánh Cao Sơn được ghép cho một lý lịch cực kỳ phức tạp. Khắp nơi trên đất nước ta, chỗ nào có núi là hầu như có thờ Thần /Thánh Cao Sơn. Thậm chí ngay giữa lòng thủ đô Hà Nội cũng có đền thờ thánh Cao Sơn. Vì thế Thần /Thánh Cao Sơn là một hiện tượng chứng minh đạo thánh của người Việt. Theo các nhà nghiên cứu văn hoá, Thần Thánh Cao Sơn đã được xem là các vị sau đây:

  • Cao Sơn là con của Lạc Long Quân (Hùng Vương).
  • Cao Sơn là Tản Viên (Sự tích sơn Tinh,Thuỷ Tinh).
  • Cao Sơn là anh em với Tản Viên (Cao Sơn- Quý Minh).
  • Cao Sơn là thánh Đuổm (Bắc Giang).
  • Cao Sơn là đức Thánh Cưu (Thanh Hoá).
  • Cao Sơn còn có tên là Cao Hiển (vốn là người Trung Quốc sang trấn Nghệ An, thờ ở núi bộc, Lương Sơn, Thanh Hoá, hiển ứng giúp Lê Lợi đánh giặc Minh).
  • Cao Sơn là một thần y (Chí Linh, Hải Dương). Khóa luận: Giải pháp Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.

Theo sách Đại Nam nhất thống chí và “Ninh Bình toàn tỉnh địa chí khảo biện” đều chép: “Núi Bái Lĩnh….liền bên với sơn phận núi Chi Phong – Trường Yên, trên đỉnh núi có đền thờ thần Cao Sơn là Tản Viên (sự tích Sơn Tinh, Thuỷ Tinh), con rể vua Hùng Duệ Vương, đây là vị thần được chép trong Đại Việt sử ký toàn thư, Việt điện u linh với các câu chuyện thần kỳ “Chuyện Sơn Tinh và Thuỷ Tinh”. Ngài là vị thánh đã trở thành tứ bất tử trong tâm thức của người dân đất việt. Điều này cũng phù hợp với ước mơ chế ngự và chiến thắng lụt lội dữ dội của nhân dân Ninh Bình vùng “rốn nước” của sông nước Hoàng Long từ ngàn xưa.

Song cũng nên hiểu là Thần Cao Sơn được thờ ở đây cũng là biểu tượng Thần Núi Cao oai linh của cả vùng Bái Lĩnh sơn, núi đồi bao la trùng điệp. Mặt khác,xem Thần tích Quý Minh Đại Vương do Nguyễn Bính soạn lưu ở đền thờ Thần Cao Sơn (Lỗi Sơn, Gia Phong, Gia Viễn) và đền Trung (Sinh Dược, Gia Sinh, Gia Viễn), thì Cao Sơn Quý Minh là em ruột của Tản Viên Sơn Thánh, đã về lập doanh ở vùng này để chống nhau với Thục Phán và sau khi Thục Phán chiếm được Văn Lang Âu Lạc của Hùng Vương thứ 18. Như vậy thần Cao Sơn trên húi Bái Đính là Tản Viên Sơn thánh. Pho tương của ngài ở động thờ thần Cao Sơn với dáng vẻ uy nghiêm, uy phong, hai tay cầm lệnh bài vua ban, được dân gian trong vùng truyền đó là lệnh bài của vua Hùng Duệ Vương ban cho Ngài cầm quân về vùng Bái Lĩnh sơn để lập phòng tuyến chống lại Thục Vương. Đó chính là biểu tượng tâm linh về một vị thánh bất tử đầy quyền năng phù hộ cho nhân dân trong vùng chiến thắng kẻ thù, để có một cuộc sông ấm no hạnh phúc.

Sự kết hợp các giá trị tín ngưỡng trong không gian ngôi chùa Bái Đính cho thấy nó đã đạt đến đỉnh cao trong tín ngưỡng tâm linh của người việt đáp ứng được các yếu tố đời sống của con người với cõi linh, vừa thờ cúng tổ tiên vừa thờ các vị thánh thần vừa thờ phật, nhằm giải toả tâm lý của người dân việt tìm đên với không gian tâm linh để chông chờ mong mỏi vào những điều tốt lành, nhưng không quá xem vấn đề lễ bái là mê tín dị đoan chỉ có một số ít các phần tử lợi dụng nó để làm những việc không đúng như thế mới đáng lên án và phê phán, còn người Việt đi lễ đi chùa đây là một nét văn hoá mang tính bản sắc không có gì là lạ cả. Đã đến lúc người ta nên nhận thức rằng, “đời sống tâm linh là nền tảng vững chắc nhát của mối quan hệ cộng đồng làng xã và rộng lớn hơn là của cả đất nước”. Song song với nét văn hoá tín ngưỡng đa thần của ngôi chùa Bái Đính cổ là ngôi chùa Bái Đính mới nguy nga hoành tráng nhưng về mặt không gian tâm linh nó lại được đánh giá theo một góc độ mới phù hợp với phong thái của ngôi chùa. Khóa luận: Giải pháp Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.

Chùa Bái Đính mới lại được coi là trung tâm của Phật giáo lớn của Việt Nam. cõi thiêng Bái Đính được hun đúc từ ngàn năm, nay gặp buổi “thiên duyên kỳ ngộ”, cõi linh được thăng hoa, phát tích tạo nên sự đăng đối, hoàn thiện, ba trung tâm tâm linh lớn của ba dòng đạo từ thế kỷ XVI – nhà Trần cho đến nay là: trung tâm Đạo giáo thời nhà Trần – Thái Vi, trung tâm Thiên Chúa Giáo – Phát Diệm thế kỷ XIX, trung tâm Phật giáo – Bái Đính đầu thế kỷ XXI trên vùng đất cố đô Hoa Lư lịch sử.

Đây là sự tiếp nối vừa phát triển đến đỉnh cao của những biểu tượng tâm linh dân tộc trong vùng. Không những thế nó còn là biểu tượng rực rỡ của văn hoá tâm linh trong thời mở cửa và hội nhập. Đại lễ ngọc xá lị được coi là sự kiện văn hoá tâm linh lớn của Chùa Bái Đính. “Xá lị” là phiên âm của từ “sarira” trong tiếng Phạn, nghĩa đen là “những hạt cứng”. Theo ghi chép trong lịch sử Phật giáo, khi Phật tổ Thích Ca Mâu Ni viên tịch, các tín đồ đã đem thi hài đi hỏa táng. Sau khi lửa tàn, họ phát hiện trong tro có rất nhiều tinh thể trong suốt, hình dạng và kích thước khác nhau, cứng như thép, lóng lánh và tỏa ra những tia sáng muôn màu, giống như những viên ngọc quý. Họ đếm được cả thảy 84.000 viên, đựng đầy trong 8 hộc và 4 đấu. Nó được đặt tên là xá lị, là bảo vật của Phật giáo.

Những năm gần đây, lịch sử Phật giáo và giới khoa học đã ghi lại khá nhiều trường hợp các vị cao tăng sau khi viên tịch, hỏa thiêu đã để lại xá lị. Tháng 12/1990, Hoằng Huyền pháp sư ở Singapore viên tịch, sau khi thi thể được hỏa thiêu, người ta phát hiện thấy trong phần tro của ngài có 480 hạt cứng, loại cỡ như hạt đỗ tương, loại nhỏ bằng hạt gạo, trông gần như trong suốt và tỏa sáng lấp lánh như kim cương. Sau khi phân tích, các nhà nghiên cứu đã xác định rằng đó chính là xá lị.

Theo gjhi chép thì nguồn gốc của xá lị ra đời cùng với đức phật Thích. Nơi đản sanh của Ngài hiện được xem là một trong 4 đất nước cổ có nền văn minh lớn nhất thế giới, Ấn Độ. Phật Đà không chỉ ra đời nơi nhân gian, lớn lên tại nhân gian mà thành Phật cũng tại nhân gian. Ngài thành đạo vào năm 29 tuổi, hoằng hóa chúng sanh tại nhân gian 49 năm, vào năm 80 tuổi, Ngài thị hiện Niết Bàn tại rừng Sa La dưới hai cây Sa La đại thọ. Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử dùng các loại hương làm lễ Trà Tỳ di thể của Phật Tổ, trong đống tro tàn, thật ngạc nhiên đã phát hiện một đốt xương tay của Phật, bốn chiếc răng, một mãnh xương đầu cho đến vài sợi tóc. Trong những di vật chân thân của Phật còn xuất hiện nhiều hạt kết tinh li ti lấp lánh như trân châu. Nhìn kĩ, màu trắng là chất xương, màu đen là chất tóc, màu hồng là chất thịt, tổng cộng có đến tám vạn bốn ngàn hạt. Trước những thánh vật kì dị ấy, chúng đệ tử cúi đầu chắp tay, đều xem như là những chứng tích do đạo hạnh cao thâm của Phật cảm nên, đồng thời với lòng sùng kính cực độ bèn xem những hạt xương tàn kì dị này và những di vật còn lại tôn xưng là Xá Lợi. Theo phong tục mai táng và hỏa táng của Ấn Độ thì Xá lợi được phân làm hai loại khác nhau, Xá Lợi toàn thân và Xá Lợi mảnh vụn. Di thể mai táng gọi là Xá Lị toàn thân, di cốt còn lại sau khi hỏa táng gọi là Xá Lị mảnh vụn, mà theo Phật giáo cho rằng, chỉ có những vị kiền thành phụng Phật, và những bậc ngộ đạo mới có thể tự nhiên sau khi chết kết tinh Xá Lị, không phải là ai cũng có. Cho nên, Xá Lị được xem như hàm nghĩa thần thánh cao thượng khó bì, đóng vị trí chí cao vô thượng.Nét Văn hoá tâm linh của thế giới Phật pháp đã có nơi để ngự trị vững vàng, như thổi luồng văn hoá mới trên mảnh đát Ninh Bình, hẳn ông cha sẽ phải tự hoà lắm về những gì mà con cháu của thế hệ trẻ đã góp phần làm nên kỳ tích vĩ đại này. Khóa luận: Giải pháp Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.

Ngày nay đến với Bái Đính du khách không những được tìm hiểu các giá trị văn hoá lịch sử,…của ngôi chùa cổ, mà còn được chiêm ngưỡng sự hoành tráng của ngôi chùa mới. Được thưởng thức hương vị của các món ăn truyền thống dân giã các món ăn chay của người việt. Cụm nhà hang chùa Bái Đính, trong đó là nhà hàng “Vạn Tâm Chay” (Vạn tấm long) với sự phong phú về các món ăn cũng như hương vị đặc biệt, mang đến cho du khách sự hài làng nhất. Đến với Vạn Tâm Chay, thực khách không chỉ bị hấp dẫn bởi hưong vị thơm ngon trong từng món ăn, mà còn cảm nhận được sự bài trí tươm tất của không gian nhà hang.Trên mỗi chiếc bàn dành cho khách ngồi được trang trí bằng chiếc khăn vuông có in chữ “Vạn Tâm Chay – Vạn Tấm Lòng”, đặt trên mỗi chiếc khăn phủ bàn màu trắng sạch sẽ, trên cùng là một tâm kính luôn được lau sạch sáng bóng. Du khách có thể vào bên trong khuôn viên của nhà hàng để nghỉ ngơi trên những bộ truờng kỷ chạm khắc đẹp mắt trước khi thưởng thức cơm chay, ngay cạnh bên là trung tâm quà lưu niệm, dù mới thành lập nhưng lộc tài đã đáp ứng được nhu cầu mua sắm hang lưu niệm của Phật tử và khách thập phưong lưu lại thăm chùa. Sự phong phú của loại văn hoá phẩm lưu niệm ở đây tượng Phật Di Lặc…. được trạm khắc tinh sảo bằng gỗ và đá, ngoài những món quà lưu niệm ở đây còn có các sản phẩm như các ấn phẩm sách về phật giáo.

Đó chẳng phải là nét văn hoá có thể nói là văn hoá trong du lịch, trong kinh doanh du lịch đi chăng nữa thì nó vẫn là nét văn hoá của người Việt. Đến vãn cảnh chùa mà được thưởng thức những món ăn dân giã, để cho lòng thanh thản đúng như đang ngồi trước Phật, được mang về một món quà lưu niệm cho mình hay những người thân thì còn gì bằng. Đó là sự kết hợp giữa cái mới và cái cũ tạo nên một bản săc văn hoá riêng .

Gía trị văn hoá tiêu biểu được tìm thấy mà người xưa đã để lại dấu tích cho thế hệ tương lai giống như một thhứ của hồi môn cần lưu gĩư và bảo tồn. Theo các tài liệu khảo cổ được công bố gần đây thì vùng Bái Lĩnh xưa kia vốn là địa bàn cư trú của người Việt Cổ. Tại núi Thung Bình (nay xóm 7, xã Gia Sinh), có 5 hang đá, mỗi hang diện tích từ 50- 70 m2, cửa hang cao từ 7- 9 m so với mặt ruộng. Trên nền hang xuất lộ tầng văn hoá khảo cổ gồm vở nhuyễn thể nước ngọt (ốc núi, ốc suối, trùng trục…), vỏ nhuyễn thể nước mặn (ốc bù giác, sò huyết, ngao dầu….) cùng xương thú và công cụ được chế tác từ đá cuội. Đây là những di tích thời đá cũ, cách đây trên dưới một vạn năm. Cách núi Thung Bình về phía Đông Nam khoảng 3 km là thung Ui, nơi có hang Bụt, đã phát hiện di chỉ khảo cổ học thời Văn hoá Hoà Bình. Những di vật là vỏ nhuyễn thể biển cho thấy, cư dân văn hoá Hoà Bình ở đây đã tiếp xúc và khai thác nguồn thức ăn biển (biển lúc đó còn sóng vỗ ở vùng Trường Yên, Hoa Lư cách khoảng 3 – 4 km. Điều đáng chú ý là lớp trên của tầng văn hoá khảo cổ còn xuất lộ một số mảnh gốm thuộc thời đại kim khí cách ngày nay từ 3000 đến 4000 năm. Khóa luận: Giải pháp Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.

Như vậy cho đến nay, chúng ta đã có đủ bằng chứng về người Việt cổ từ rừng nguyên sinh Cúc Phương đến núi Bái Đính và gần đây là một số hang động Tràng An, Ninh Mỹ (Hoa Lư), mà vùng Bái Đính – Tràng An là gạch nối của cuộc tiến ra đồng bằng ven biển của người Việt cổ trên đất Ninh Bình.

3.2.2. Đánh giá về các công trình kiến trúc.

Quần thể khu chùa Bái Đính là một công trình kiến trúc độc đáo mới lạ bởi vừa mang phong cách cổ điển kết hợp với yếu tố hiện đại.

Nhìn bên này của khu chùa cổ Bái Đính, không gian bày biện của các gian thờ chủ yếu dựa vào yếu tố tự nhiên, như các hang động mà thiên nhiên đã ban tặng, lợi dụng lợi thế để tạo ra những gian thờ vừa thể hiện sự uy nghiêm của Phật lại vừa có cảnh trí hài hoà. chỉ riêng có ngôi đền thờ thần Cao Sơn mới được xây dựng theo dáng lộ thiên ở bên sườn núi giống như các ngôi chùa miền Bắc xưa, với kết cấu chữ “Đinh” tiền bái ba gian, hậu cung hai gian dọc, kiểu chồng giường được xây dựng bằng gỗ tứ thiết, dựng trên 12 cột gỗ dưới kê bằng bệ đá. không gian tưởng như chẳng có gì hấp dẫn, nhưng nhờ lối kiến trúc dựa vào yếu tố thiên nhiên là chủ yếu người thiết kế chỉ cần tạc đẽo sửa sang thêm đôi chút đẫ tạo cho không gian của chùa cổ vừa hư, vừa thực, kỳ kỳ ảo ảo, lung linh huyền diệu. Khóa luận: Giải pháp Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.

Bên này là khu chùa Bái Đính mới xây, đây là công trình kiến trúc đồ sộ hoành tráng của lối phong cách hiện đại nhưng vẫn mang đạm nét Đông Nam Á, nên đã thu hút được sự hiếu kỳ của du khách từ khắp mọi nơi.

Đánh giá về công trình kiến trúc này thì đây có thể nói là công trình có một không hai trong lịch sử của Việt Nam. Từ trên nền một ngôi chùa cổ người ta đã tái hiện lại không gian tâm linh bằng một ngôi chùa mới, nhưng vẫn mang dấu ấn của phong cách chùa cổ của đồng bằng Bắc Bộ xưa. Với quy mô kiến trúc điện Phật đồ sộ lộng lẫy, hoành tráng cùng với những pho tuợng bằng đồng bằng đá, những Hồng Chung vĩ đại…mãi là những tác phẩm nghệ thật vô giá vè kiến trúc điêu khắc đúc đồng và chế tác đá mỹ nghệ tuyệt vời cho hôm nay và muôn thế con cháu. Nhìn tổng thể kiến trúc của ngôi chùa là kiểu “nội công ngoại quốc” xây dựng theo độ dốc của sườn đồi từ duới chân lên theo trục thần đạo. Hai hàng La Hán được bao quanh từng công trình giống như hình tuợng của ngọn tháp (mang ý nghĩa vươn lên của đức phật). Nhìn chung các công trình Điện Phật đều xây dựng trên phong cách chùa cổ của làng quê Việt Nam, nhà 4 mái, 2 đến 3 tầng mái, các góc đao đều uốn quanh đôi phượng, nhưng quy mô của nó thì lớn hơn gấp nhiều lần các công trình kiến trúc cổ.

Bước vào ngay công Tam Quan đã gây cho du khách sự bất ngờ vì quy mô kiến trúc của nó, tiếp đến là các công trình gác chuông, điện Quan Thế Âm, điện Pháp Chủ, điện Tam Thế. Hết sự bất ngờ này đến bất ngờ khác làm cho du khách như đang lạc vào thế giới của Phật mà không tìm được đường ra. Mỗi một công trình là một tác phẩm nghệ thuật, để hoàn tất được công trình này người ta đã phải tốn một lượng gỗ, sắt thép bê tông lên đến con số khổng lồ chỉ tính riêng tam quan là 500 tấn gỗ tròn, điện Quan Thế Âm 900 khối gỗ tròn, hoành phi và sập thờ ở trong điện thờ Pháp Chủ (19+10) m3 gỗ vàng tâm. Đây chỉ là liệt kê những con số tiêu biểu, chưa kể đến các chi tiết khác, số lượng đồng dùng để hoàn thiện các tác phẩm nghệ thuật: hai chuông đồng (28+36) tấn, tượng Thích Ca 100 tấn, tượng Phật Bà Quan Âm 70 tấn, tượng Tam Thế mỗi pho nặng 50 tấn, bộ tượng Bát vị Kim Cương mỗi pho nặng 8 tấn, ngoài ra còn có các đồ tế tự khác, đôi hạc bằng đồng….Phải sử dụng hết một khối lượng nguyên vật liệu lớn và khổng lồ như thế thì chưa được tận mắt chứng kiến cũng thấy được mức độ hoành tráng của nó.

Chỉ riêng ở điện Tam Quan, điện Tam Thế người ta sử dụng nguyên bằng vật liệu gỗ còn các công trình khác như gác chuông, điện Pháp Chủ, điện Tam Thế người ta kết hợp với phong cách hiện đại là sự kết hợp giữa các vật liệu để xây dựng là bê tông cốt thép với gỗ để làm thành kết cấu giả gỗ mà nhìn bề ngoài không thể phát hiện được có sự pha trộn vật liệu, vừa tạo được nét về thẩm mỹ vừa chống đỡ được sức nặng của công trình cũng như giảm được chi phí tốn kém.

Tạo ấn tượng nhất là công trình điện Tam Thế là điện Phật lớn nhất Việt Nam hiện nay với chiều cao lớn tới 34 m, dài 59.1 m, rộng 40.55 m, diện tích lòng điện lên tới 2.361 m2, tường điện đựoc xây bằng gạch không trát, phía trong tạo thành 1.808 ô nhỏ để đặt các pho tượng nhỏ bằng đồng. Trong gian điện là ba pho tượng Tam Thế. Sân trước đặt 9 pho tượng Đức Phật sơ sinh…

Không những đồ sộ hoành tráng ở những công trình kiến trúc mà nó còn nghệ thuật điêu khắc của các nghệ nhân, những pho tượng đồng vừa có khối luợng khổng lồ mà được tạc khắc tinh sảo. Bằng những bàn tay tài hoa người nghệ nhân đã làm sống dậy một thế giới Phật. Tượng phật ở đây được lấy theo nguyên mẫu của phật Ấn Độ, tượng Phật tóc xoăn bụt ốc, phần nhô lên của phật là phần tóc sau mỗi pho tượng là những lá đê bằng đồng to được xếp trồng lên nhau thành 2 lớp, những pho tượng đều được tạo thế ngồi để bớt tiêu hao năng lượng (ngoài bộ tượng bát bộ kim Cương và tượng hộ pháp là đứng). Các pho thượng này đều thể hiện được tính cân đối, cân đối từ hình thể bên ngoài đến tâm hồn, tạo cho chúng sinh có thể hoàn toàn tin vào cõi Phật. Khóa luận: Giải pháp Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.

Nét đặc sắc tiêu biểu là tất cả những pho tượng của chùa Bái Đính không sử dụng vật liệu bằng gỗ mít như một số ngôi chùa cổ mà được thay thế bằng đồng nguyên khối được mạ vàng tạo cho pho tượng đẹp lung linh huyền ảo. Từ những đồ tế tự bằng đồng và những tác phẩm điêu khắc bằng đá đều mang đậm phong cách điêu khắc của thời Lý bởi sự uyển chuyển mền mại đường nét tinh sảo như đôi Hạc đặt trong điện thờ Pháp Chủ, hay đôi sư tử đá trước cổng tam quan… Những bức hoành phi, câu đối, cửa võng với kích thước chưa từng có. Bức hoành với hai chiều 9m x 3,2m nặng khoảng 9 tấn đang được những người thợ tài hoa nhất Cát Đằng trạm trổ, sơn son thếp vàng. Theo lời tâm sự của những nghệ nhân ở đây “Chúng tôi từng tu bổ bức hoành phi lớn nhất Việt Nam ở Cẩm Giang (Từ Sơn, Bắc Ninh) mà chỉ có kích thước 4,5m * 0,9m. Chưa bằng một nửa đơn hàng này”, đã phần nào thấy được quy mô đồ sộ của nó . Dự kiến có 3 tổ thợ mỗi tổ 100 người làm liên tục trong 5 tháng mới hoàn thành được khối lượng cửa võng, hoành phi cho điện Tam thế các hành lang La Hán là 500 pho tượng bằng đá, mỗi pho tượng là thể hiện một tư thế một nét mặt thể hiện được mọi sinh lão bệnh tử mọi suy tư, đau khổ vui buồn của thế sự.

Đã 3 năm rồi, xưởng đá của nghệ nhân Phạm Ngọc Hoàn lúc nào cũng vui như cái hội làng. Tiếng đục, tiếng mài cắt đá ầm ì, đường đi lối lại chật kín với những tảng đá cao hơn đầu người, hình khối đá phác thảo, tượng La Hán sắp hoàn chỉnh. Những người thợ tài hoa nhất làng đá Ninh Vân (Ninh Bình) đã hội tụ về đây để tạc khối tạo hình phục dựng 500 vị La Hán cho chùa Bái Đính. Thợ tạc Đặng Văn Phong sau một hồi miệt mài ghé sát mặt vào phiến đá tạo đường nét mới dừng tay: “Tượng La Hán phải sinh động, mà tạo đường nét mặt là cái khó nhất. Những tay thợ trẻ chỉ lơ là sẽ hỏng cả khối đá chọn tuyển rất kĩ càng”.

Anh em ở công trường vẫn hay có câu đùa “Bạc đầu với La Hán”. Cũng bởi chỉ sau độ nửa giờ tạc tượng, đầu ai cũng bạc trắng với bụi đá. Những chi tiết càng tinh xảo lại càng phải chăm chú “hít bụi tạc hình”. Cả công trường hàng trăm người được chia làm 7 đội làm liên tục 3 ca, ca tối từ 7h đến 10h 30, ăn ngủ giữa cả quần thể tượng. Đêm mùa đông, khí đá lạnh buốt mà từng mũi mài vẫn rít lên nóng rẫy tạo đường chỉnh nét.

Cái công phu nhất của tạc tượng La Hán là phải phục dựng tới 2 lần. Từ 4 tập sách dày ghi tên vẽ hình các vị lấy từ viện Hán Nôm, anh em thợ phải tạo thành một mẫu thạch cao hoàn chỉnh, từ đó mới dựa theo mà tạc mẫu đá.Phải mất hơn 2 tháng thì người thợ mới tạc song đ ược một pho tượng

Trên công trường chùa Bái Đính có hơn 500 thợ (phần lớn ở Ninh Bình và Huế) làm việc liên tục. Mỗi người từ thợ xẻ gỗ, lợp mái, quét sơn… đều đang lập kì tích cho mình.

Với kiến trúc đồ sộ như vậy Chùa Bái Đính đã mang về cho mình những kỷ lục đã được xác lập ở Việt Nam: Chùa có bộ tượng Tam Thế bằng đồng lớn nhất Việt Nam, ngôi chùa có Giếng nước lớn nhất Việt Nam, chùa có pho tượng Phật Thích Ca bằng đồng cao và nặng nhất Việt Nam, chùa có Đại Hồng chung lớn nhất Việt Nam, chùa hành lang La Hán lớn nhất Việt Nam, chùa có nhiều cây Bồ Đề nhất Việt Nam. và những kỷ lục đang được đề xuất xác lập: Tượng ông khuyến thiện và Trừng ác bằng đồng cao và nặng nhất Việt Nam, chùa có tượng Quan Âm bằng đồng, Cặp Hạc bằng đồng, bệ thờ bằng gỗ lớn nhất Việt Nam.

3.3. Giải pháp thu hút khách du lịch. Khóa luận: Giải pháp Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.

3.3.1. Đẩy mạnh và hoàn thiện nội dung quy hoạch, kiến trúc xây dựng.

Chùa Bái Đính mới là công trình kiến trúc đang xây dựng nhưng vẫn thu hút được số lượng khách du lịch tương đối lớn so với những điểm du lịch trên địa bàn, tuy nhiên việc chưa hoàn thiện các nội dung quy hoạch các hạng mục công trình kiến trúc có thể gây ảnh hưởng đến môi trường, tiếng ồn, cũng như tính mạng của khách du lịch. Việc đảy nhanh tiến độ là một việc hết sức cần thiết để hoàn thiện các trương trình du lịch cũng như đảm bảo cảnh quan về môi truờng. Để làm được điều đó thì đẩy nhanh tiến độ thi công cũng như tăng cường khối lượng người lao động nhưng vẫn đảm bảo đi đúng hướng không được làm qua loa cho song chuyện, làm ảnh hưởng đến chất lượng của công trình gây mất mỹ quan. Cần phải có kế hoạch giám sát cũng như các chính sách khuyến khích ưu đãi cho người lao động….

Việc hoàn thiện các hạng mục công trình kiến trúc nhằm nhanh chóng khai thác và phục vụ du lịch một cách tối đa nhất đặc biệt là có thể khai thác loại hình du lịch tôn giáo, tâm linh điều này rất phù hợp với những đặc điểm thực tế của khu chùa Bái Đính. Khai thác các nghi lễ, nghi thức Phật giáo với việc phục vụ du lịch nhu các nghi thức Cầu An, nghi lễ Cầu Siêu, nghi thức Vu Lan… kết hợp với văn hoá của phật giáo như ăn chay, âm nhạc…Với lễ Phật Đản, du khách có thể rước lễ mừng đức Phật đản sinh., tham gia dốt nến cầu nguyện cho chúng sinh. Lễ Vu Lan, du khách có thể trực tiép tham gia lễ bạt độ cầu siêu cho tổ tiên, cha mẹ, người than của mình, hoặc cùng cầu nguyện cho thập loại cô hồn chúng sinh được siêu thoát. Đối với du khách quốc tế đó sẽ là một sự trải nghiệm tuyệt vời để hướng người ta đến với các giá trị Chân – Thiện – Mỹ. Còn đối với những du khách Việt Nam họ có thể hoà mình trong không khí thiêng liêng của nền văn hoá bản sắc của dân tộc mình. Hoặc có thể khai thác loại hình thiền ngay tại chùa bằng cách mở những khoá tu ngồi thiền – đây là phương pháp tậo trung tinh thần, giúp định tĩnh nội tâm mang lại sức mạnh tinh thần, tìm lại sự bình yên thanh thản trong tâm hồn. Ngoài ra du khách có thể tham gia thực hiện các nghi thức ăn chay – đây là một loại thuốc chữa bệnh, kéo dài tuổi thọ giúp rèn luyện sức khoẻ và cũng là cơ hội để thưởng thức một nền nghệ thuật ẩm thực đặc sắc… Khóa luận: Giải pháp Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.

3.3.2.. Tăng cường quảng bá hình ảnh và nghiên cứu thị trường.

Ngày nay không riêng gì hoạt động du lịch, công tác tuyên truyền quảng bá đã trở thành một công cụ sắc bén không thể thiếu được đối với tất cả các ngành kinh doanh dịch vụ. Việc tuyên truyền quảng bá hình ảnh du lịch tại mỗi điểm di tích được xem là phương pháp hữu hiệu tạo sức hấp dẫn với du khách.

Quần thể di tích chùa Bái Đính là một công trình kiến trúc hoàn toàn mới lạ nên để thu hút đựơc nguồn khách đến thăm ngày một đông, việc tuyên truyền quảng bá là một hoạt động thiết thực, nhưng việc thực hiện phải có chiến lược kỹ càng thực sự phù hợp và hiệu quả. Để làm được điều này cần chú ý đến tính chuyên môn nghiệp vụ trong hoạt động quảng bá để làm nổi bật được các giá rtị độc đáo tại điểm di tích, thôi thúc du khách tới thăm việc tuyên truyền quảng bá không chỉ chú trọng vào các công trình kiến trúc mà còn chú trọng tới các yếu tố văn hoá lịch sử để tạo nên sự phong phú ngay trong điểm di tích. Công việc thực hiện này nên do các công ty quảng cáo có uy tín chuyên môn làm.

Biện pháp tiếp theo trong hoạt động quảng bá tuyên truyền về du lịch đó là việc sử dụng các phương tiện quảng cáo truyền thống và hiện đại (biển quảng cáo, tờ rơi, tập gấp, sách báo, đĩa CD…). Các công cụ này phải được thiết kế đẹp mắt, chuyên nghiệp, thông tin ngắn gọn, có ấn tượng và được phát hành miễn phí với số lượng lớn. Các phương tiện thông tin đại chúng như rađio, đài truyền hình, báo chí, những hoạt động này cũ đã và đang được thực hiện nhưng vẫn còn gặp những khó khăn về nguồn vốn đầu tư ,và những yếu tố khác nên hy vọng trong thời gian tới sẽ hoàn thiện hơn. Song bên cạnh đó cần tạo ra phương thức tiếp thị mới có tính sang tạo và hấp dẫn khách du lịch.

Một biện pháp dược coi là mang tính hiện tại và hiện nay là quảng bá du lịch trên internet. Đây là phương tiện mang tính truyền thông có sức ảnh hưởng rất lớn trong quần chúng, phổ biến và có sức lan toả nhanh như việc giới thiệu về điểm du lịch trên google, việc bán các chương trình du lịch trên mạng… Khóa luận: Giải pháp Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.

Việc nghiên cứu thị trường khách tiềm năng và khách mục tiêu, giúp cho viẹc dưa ra được chiến lược quảng cáo nhằm thu hút số lượng đông đảo khách quốc tế và khách nước ngoài. Qua nghiên cứu cho thấy nguồn khách đến chủ yếu là theo mục đích tôn giáo và tâm linh vì thế tập trung tuyên truyền quảng bá hơn nữa về hình ảnh và các giá trị tôn giáo, tâm linh của di tích chùa Bái Đính. Đồng thời phải nghiên cứu tâm lý loại khách này để có những chiến lược cũng như có những cách thức phục vụ hợp lý tạo ra sự hài long khó quên cho du khách: như phục vụ cơm chay, chuẩn bị sẵn đồ cúng cho khách lên chùa… cần tác động vào tâm lý của du khách bằng những hành động như tặng quà nhỏ như sách giới thiệu về chùa hoặc những tấm ảnh tại di tích những đĩa CD cho du khách…có tính tượng trưng hoặc gây ấn tượng cho du khách để từ dó chính những vị khách này sẽ là những người mang hình ảnh của di tích chùa Bái Đính giới thiệu cho bạn bè người thân cảu mình.Quần thể di tích chùa Bái Đính cũng là điểm du lịch có sức hút mạnh mẽ bởi các giá trị văn hoá truyền thống lịch sử cuả nó cũng như giá trị về nghệ thuật kiến trúc. Đây là điểm có thể thu hút được nguồn khách nghiên cứu tìm hiểu hấp dẫn được giới văn nghệ sĩ, một thị truờng khách tiềm năng vì vậy việc nghiên cứu thị trường này cũng vô cùng quan trọng. Việc xác định các dòng thị trường khách sẽ là cơ sở tốt cho việc diễn ra các chiến lược quảng bá phù hợp hiệu quả.

Hoạt động thị trường quảng bá du lịch cũng có thể thực hiện bằng cách thông qua các văn phòng đại diện trong nước và ngoài nuớc. Thông qua việc mở rộng lễ hội lớn hoặc tổ chức các sự kiện du lịch. Đây là cách mà nhiều tỉnh địa phương đã thực hiện và mang lại kết quả. Ngoài ra có thể liên hệ với các công ty lữ hành, các công ty kinh doanh về mua bán sản phẩm và cung cấp sản phẩm du lịch cho khách…. để tổ chức các tuor du lịch để đưa điểm du lịch này vào các chương trình du lịch.

Các giải pháp khác : Giải pháp nâng cao nhận thức ý thức của người dân trong vùng về điểm di tích này để tránh tình trạng không hiểu biết, không thấy được vai trò quan trọng của nó đối với lợi ích của tỉnh, địa phương và lợi ích của mình khi tham gia bảo vệ khu di tích. Gíao dục cho họ những nhận thức về du lịch và ý thức bảo vệ môi trường.

Giải pháp thu hút cộng đồng vào hoạt động du lịch, tạo ra việc làm cho ngươì dân đại phưong để tránh tình trạng tiêu cực mà họ gây ra với môi trường. tổ chức cho nhân dân tham gia vào các hoạt động bán hàng, vạn chuyển khách, trông dữ xe tại các điểm di tích để tạo thu nhập hay sử dụng tối đa nguồn thu nhậo của người dân địa phương vào việc xây dựng các công trình nhà hàng, khách sạn….Góp phần kích thích người dân trong tiến trình đẩy mạnh hoạt động du lịch.

3.3.3. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý. Khóa luận: Giải pháp Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.

Công tác quản lý đóng vai trò quan trọng trong hoạt động du lịch. Công tác này đảm bảo cho sự đúng đắn, thông suốt và hiệu quả của hoạt động du lịch. Đây là một công việc khi đã có sự quy hoạch chi tiết, công tác quản tổ chức quản lý có được thực hiện tốt hay không sẽ quyết định rất nhiều kinh doanh du lịch và việc bảo tồn gĩư gìn các di tích này. Khi công tác này bị lơi lỏng và không đi đúng hướng sẽ để lại hậu quả rất lớn khiến cho di tích này bị mất đi giá trị bản sắc vốn có và không còn sức hút đối với du khách, một điểm du lịch cần được phát triển theo hướng bền vững. Song nó có thực sự bền vững hay không phụ thuộc rất nhiều vào công tác quản lý. Với vị trí và vai trò quan trọng như vậy công tác quản lý cần được đặt lên hàng đầu và luôn hoạt dộng có hiệu quả rong công tac tổ chức quản lý ở đây cần có các biện pháp hợp lý và cụ thể. Điểm di tích chùa Bái Đính hiện nay là một công trình đang trong thời kỳ xây dựng vì thế bộ máy cơ cấu tổ chức quản lý chưa thực sự hoạt động có hiệu qủa, có chăng hoạt động này đều diễn ra thông qua tổ chức cảu khu sinh thái Tràng An nên việc này có thể tạm thời chấp nhận. Tuy thế hy vọng khi đã hoàn tất về nội dung công trình kiến trúc thì điểm di tích này sẽ có một cơ cấu hoạt động riêng để trực tiếp điều hành có hiệu quả. Do điểm này có nhiều giá trị văn hoá và lịch sử có ý nghĩa rất lớn với các công tác nghiên cứu, lịch sử, kiến trúc, tôn giáo do vậy không thể xem nhẹ công tác quản lý khiến các di tích bị mai một giá trị dưới tác động của thời gian và chính con người.

3.4. Tiểu kết

Với giá trị văn hoá lịch sử có ý nghĩa vô cùng to lớn của mình Bái Đính đã thực sự giữ được vị trí trong làng du lịch, giúp cho thế hệ trẻ tìm về được với cội nguồn và bản sắc dân tộc, giáo dục ý thức về giữ gìn và phát huy những giá trị mà ông cha ta để lại. Đồng thời làm sống dậy một quá trình lịch sử oai hùng cuả dân tộc thông qua tuyên truyền, lưu giữ cũng như qua các lễ hội được diễn ra tại chùa Bái Đính để tưởng nhớ đến những người có công trong lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Nguyễn Minh Không….tái hiện lại thế giới tâm linh mà sau này trong tương lai Bái Đính sẽ trở thành trung tâm Phật giáo của cả nước, thể hiện qua các công chính những công trình kiến trúc nguy nga hoành tráng như các công trình điện Tam Thế, gác chuông, điện Quan Thế Âm Bồ Tát, điện Pháp Chủ, điện Tam thế, cùng với những pho tượng phật bằng đồng được xác lập kỷ lục của sách Việt nam…và những kỷ lục đang được xác lập. là nơi tập trung của đông đảo các tín đồ cũng như chúng sinh tin tưởng vào sự từ bi của Phật pháp. Chính vì thế mà chùa Bái Đính là một trong ba tỉnh thành phố (TP.Hồ Chí Minh,TP.Hà Nội), là nơi nghinh đón đại lễ Ngọc Xá Lị của đức Phật, với ngàn chục ngàn các tín đồ từ mọi miền của tổ quốc về dự đại lễ hội này. Tuy trên công truờng xây dựng ngổn ngang những vật liệu xây dựng nhưng chùa Bái Đính vẫn là một trong những điểm thu hút du khách tương đối nhiều so với các tỉnh thành trong cả nước. Bên này chùa ồn ào náo nhiệt bởi tiếng đục đẽo của tiếng máy cưa và công cụ…Bên kia ngôi chùa cổ lại hoàn toàn tĩnh lặng và khác biệt bởi những nét xưa cổ kính trang nghiêm. Hai ngôi chùa tưởng như hai thế giới nhưng là điều thú vị hấp dẫn du khách hơn cả. Hy vọng trong tương lai với sự vươn mình và trỗi dậy hơn nữa chùa Bái Đính cùng với cơ chế mở của Đảng và Nhà nước, và sự hoàn thiện cơ chế quản lý và các chính sách của mình….chùa Bái Đính sẽ làm nên kỷ lục của Việt Nam trong ngành du lịch của nước nhà và tiến bước cùng với Thế Giới.

KẾT LUẬN Khóa luận: Giải pháp Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.

Khu Du lịch tâm linh Bái Đính nằm gần khu di tích Cố Đô Hoa Lư, áp quần thể du lịch sinh thái Tràng An, gần khu nước khoáng dưỡng sinh Kênh Gà, khu sinh thái ngập nước Vân Long, rừng Cúc Phương nguyên sinh và hầu hết các di tích, danh thắng cảu cả vùng: Động chùa Bái Đính cổ trên đỉnh núi, đền thờ Đức Thánh Nguyễn, đền Bóng, đình Trung làng Sinh Dược, Văn Chỉ, Đền Tư, Đền Phú Vinh, lang thờ Duyên Khang Công Chúa và Trưởng Quốc công chúa, Đền Mẫu Bà chúa hang Tiền, hồ Đàm Thị, động Long ẨN…. đều nằm trong vùng tâm linh và phụ cận, rất thuận lợi tham quan, du lịch liên hoàn.

Bái Đính tân tự – Chùa Bái Đính mới – ngôi chùa lớn nhất Việt Nam, sự tiếp nối tâm linh ngàn năm trước và sự chuyển tiếp tâm linh cho trăm ngàn năm sau Chùa Bái Đính toạ lạc trên vùng đồi dầy đặc các cổ tích và huyền thoại. Cõi tâm linh hôm nay là sự tiếp nối thăng hoa ở mức độ kỳ vĩ của dấu ấn tâm linh ngàn năm trước cảu cha ông ta. Đó là sự tiếp nối liên tục mặc dù trên dải đất thiêng này đã từng trải qua, đã từng chứng kiên sao thang trầm của lịch sử của dân tộc. Chính nơi đây đã từng là chiến trường, một thời thấm máu và nước mắt.

Núi Bái Đính nơi có cột của hành doanh Tản Viên Sơn Thánh. Cột cờ thời Đinh – Tiền Lê dựng phía Tây kinh thành Hoa Lư của nước Đại Cồ Việt xây nền độc lập tự chủ, sánh ngang với triều đình phương Bắc hùng cường. Cột cờ của người Anh hùng dân tộc Lê Lợi tế trời khi “Khôi huyện quân không một đội”. Cột cờ của cha con Mỹ Quận công Bùi Văn Khuê bỏ nhà Mạc đã ruỗng nát, theo phò nhà Lê để mưu dựng dựng trung hưng. Cột cờ của nghĩa quân Tây Sơn tế trời đất đêm Giao thừa Tết Kỷ Dậu 1789 phát xuất đánh úp đồn tiền tiêu Gián Khẩu, mở màn cuộc tập kích như vũ bão vào kinh thành Thăng Long đánh đuổi quân Thanh xâm lược ra khỏi cõi bờ. Cột cờ của những người nông dân “rũ bùn đứng dậy sang loà” theo Đảng giành chính quyền trong Cách mạng Mùa thu, tháng Tám năm 1945 lịch sử.

Phật Thích Ca, Thánh Cao Sơn, Mẫu Liễu Hạnh đã ngự trên đỉnh núi trăm năm, ngàn năm, biểu tượng của lòng từ bi, hỷ xả, niềm tin vào cõi thiêng liêng con người tu tâm, tích đức vươn đến Chân – Thiện – Mỹ của nhân dân ta ngàn đời nay lại gặp “thiện duyên” của thời mở cửa, của những tấm lòng đi theo Bồ Tát, biểu tượng đất Phật, cõi Phật. Hình tượng Phật lại hiển hiện với những công trình kỳ mỹ, như người xưa nói “tranh công cùng tạo hoá”. Đức Trần Nhân Tông, vị vua anh hùng, lãnh đạo quân dân Đại Việt đập tan mộng bành trướng bá quyền của đế chế Nguyên Mông thế kỷ thứ XIII, lại từ bỏ vương quyền lên tu Yên Tử, lập nên Thiền Phái Trúc Lâm. Ngài nói, không có Phật. Phật tại tâm. Thật đúng như vậy! “Linh tại ngã, bất linh tại ngã” (Thiêng do ta, không thiêng do ta). Âý là cái tâm quán xuyến tất cả vậy! Không có cái tâm Phật và “nhất tâm chí thành” theo đức Phật thì không thể có đức Thánh Nguyễn lặn lội núi sông tìm thuốc cứu dân, cầu Phật độ dân. Đức Phật hỷ xả từ bi, cứu khổ cứu nạn muôn dân là gốc của nhan văn muôn thế. Bởi thế, đạo Phật du nhập vào nước ta, nhanh hoà nhập và có sức mạnh lôi cuốn người Việt từ ngàn đời nay. Không có tâm hướng về Phật, không thể có những công trình sáng tạo kỳ vỹ như khu tâm linh Bái Đính. Khóa luận: Giải pháp Chùa Bái Đính với khả năng phục vụ du lịch.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Khóa luận: Tiềm năng du lịch của Chùa Bái Đính tỉnh Ninh Bình

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x