Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại NH

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại NH hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại ngân hàng thương mại ở Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này. 

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Thị trường thẻ ngân hàng của Việt Nam được hình thành từ những năm 90 của thế kỷ trước. Tuy nhiên, phải sau năm 2002, sau sự kiện Vietcombank triển khai hệ thống giao dịch ATM dựa trên nền tảng kết nối trực tuyến toàn hệ thống và thẻ ghi nợ nội địa lần đầu tiên được phát hành tại Việt Nam thì thị trường thẻ ở Việt Nam mới có những bước phát triển đáng kể. Sau hơn 10 năm phát triển, tính đến ngày 31/12/2013, tổng số lượng thẻ phát hành đã đạt hơn 66,2 triệu thẻ – tăng hơn 20% so với năm 2012 và gấp hơn 44 lần so với số lượng thẻ năm 2005. Tổng doanh số thanh toán thẻ theo đó cũng đạt hơn 1.206.704 tỷ đồng, tăng 23,37% so với năm 2012 và gấp khoảng 47 lần doanh số giao dịch năm 2005. Số lượng tổ chức phát hành cũng tăng từ 20 ngân hàng năm 2005 lên 50 ngân hàng với khoảng 490 thương hiệu thẻ các loại bao gồm thẻ ghi nợ nội địa, thẻ ghi nợ quốc tế, thẻ tín dụng và thẻ trả trước.. Trong xu thế phát triển chung của dịch vụ thẻ ngân hàng, thẻ ATM cũng đã đạt được tốc độ phát triển nhanh chóng. Năm 2010, dư nợ thẻ ATM chỉ đạt khoảng 52 triệu USD tương đương 1.083 tỷ đồng với số lượng thẻ phát hành là 530.000 thẻ thì đến năm 2013, dư nợ thẻ tín dụng đã đạt khoảng 126 triệu USD tương đương 2.624 tỷ VND; số lượng thẻ tín dụng cũng đạt khoảng 2,43 triệu thẻ; doanh số giao dịch và số lượng giao dịch trên thẻ tăng khoảng 30% mỗi năm trong giai đoạn từ 2010 – 2013. Bên cạnh đó, các sản phẩm thẻ tín dụng cũng ngày càng được đa dạng hóa.

Tuy nhiên, khung pháp lý về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ tại Ngân hàng Thương mại nói riêng và người tiêu dùng sử dụng dịch vụ tài chính nói chung vẫn chưa được quan tâm xây dựng, hoàn thiện đúng mức. Hiện tại văn bản pháp lý cao nhất về việc bảo vệ người tiêu dùng là Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010. Tuy nhiên văn bản pháp lý này chỉ điều chỉnh các vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hoá cho mục đích tiêu dùng sinh hoạt cá nhân mà không đề cập đến việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng sử dụng dịch vụ tài chính nói chung và người sử dụng dịch vụ thẻ tại Ngân hàng Thương mại nói riêng. Cho đến nay chưa có một văn bản pháp lý nào quy định một cách có hệ thống và cụ thể việc bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ tài chính và người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa. Như vậy, hệ thống pháp luật liên quan đến bảo vệ Người tiêu dùng trong lĩnh vực tài chính của nước ta còn nhiều bất cập. Để Người tiêu dùng trong khu vực này được đảm bảo triệt để quyền lợi, luật pháp cần có sự điều chỉnh cho phù hợp với lý luận về bảo vệ người tiêu dùng, phù hợp với thực tiễn khách quan của thị trường tài chính, đảm bảo cân bằng lợi ích giữa Người tiêu dùng và tổ chức kinh doanh dịch vụ tài chính. Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại NH.

Hiện nay đã có một số nghiên cứu về vấn đề bảo vệ quyền lợi người sử dụng dịch vụ thẻ tại Ngân hàng Thương mại nhưng chủ yếu tập trung vào khía cạnh kinh tế của vấn đề, chưa nhắc đến vai trò của pháp luật điều chỉnh. Với mục đích làm rõ và khái quát những vấn đề liên quan đến bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại sao cho đạt hiệu quả nhất, trên cơ sở tập trung nghiên cứu những cơ sở lý luận của việc bảo vệ Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại, khoá luận còn đề xuất kiến nghị hoàn thiện quy chế pháp lý về bảo vệ người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ  nội địa , phân tích thực trạng quy chế pháp lý hiện hành, đồng thời nghiên cứu tính khả thi của vấn đề trên trong điều kiện Việt Nam hiện nay.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

2. Mục đích, nhiệm vụ của khoá luận

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ bản chất và sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại và đưa ra các giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ tại Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam.

Phục vụ cho mục đích trên, khoá luận có nhiệm vụ:

Thứ nhất, nghiên cứu vấn đề lý luận về bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ tại Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam.

Thứ hai, nghiên cứu thực trạng việc áp dụng pháp luật bảo vệ Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ tại Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam, từ đó nêu ra các bất cập và một số kiến nghị nhằm bổ sung và hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này.

3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định hiện hành về bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ tại Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam. Trên cơ sở đối chiếu các quy định của pháp luật hiện hành với thực tiễn bài viết phân tích, đánh giá làm rõ ưu, nhược điểm của các quy định trong thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ tại Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam. Từ đó mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị cho việc tiếp tục xây dựng pháp luật về bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ tại Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam trong thời gian tới.

Phạm vi nghiên cứu: khoá luận chỉ làm rõ những vấn đề lý luận chung của pháp luật về bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ tại Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam như quy định liên quan đến hoạt động thẻ tại Ngân hàng, các quy định từ phía Ngân hàng Nhà nước…

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại NH.

Trong quá trình tiếp cận và giải quyết các vấn đề mà luận văn đặt ra, tác giả đã sử dụng phương pháp biện chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác-Lê-nin, chính sách của Nhà nước về các vấn đề có liên quan, Trong những trường hợp cụ thể, tác giả kết hợp sử dụng phương pháp nghiên cứu phù hợp như phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp…nhằm kết hợp giữa kiến thức lý luận và thực tiễn, góp phần làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu.

5. Kết cấu của khoá luận Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Mục lục, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được thiết kế gồm ba chương như sau:

  • Chương 1. Những vấn đề lý luận về pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
  • Chương 2. Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
  • Chương 3. Kiến nghị nhằm hoàn thiện và thực thi hiệu quả các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng thương mại ở Việt Nam.

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG SỬ DỤNG DỊCH VỤ THẺ GHI NỢ NỘI ĐỊA TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM

1. Khái niệm và đặc điểm Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam.

1.1.1. Khái niệm “NTD sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại”

Khái niệm “NTD” và “dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa” là các khái niệm rất cơ bản, được sử dụng xuyên suốt trong các quy định của Luật bảo vệ Người tiêu dùng cũng như pháp luật liên quan đến hoạt động thẻ của Ngân hàng Thương mại. Vì trọng tâm của pháp luật bảo vệ NTD chính là Người tiêu dùng, còn “dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa” là cơ sở quan trọng để hình thành quan hệ giữa Người tiêu dùng và nhà cung cấp, do vậy nên nội hàm của các khái niệm này sẽ là kim chỉ nam cho các nội dung khác được phân tích trong bài viết này, đặc biệt là xác định phạm vi điều chỉnh của các pháp luật có liên quan.

Trước hết với khái niệm “NTD”, xét tổng quan quy định của một số nước, có thể nhận thấy pháp luật bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng các nước có ba cách quy định, cụ thể như sau: Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại NH.

(i) Cách thứ nhất quy định Người tiêu dùng chỉ là cá nhân. Xét Luật của Liên minh châu Âu (EU), trước đây, khi chưa có giải thích rõ ràng, đã từng có vụ tranh chấp vào năm 1991 trong đó các đương sự đề nghị Tòa Công lý châu Âu (European Court of Justice) giải thích khái niệm Người tiêu dùng bao gồm cả các doanh nghiệp khi mua sản phẩm, dịch vụ không nhằm mục đích hoạt động kinh doanh, tuy nhiên, Tòa Công lý Châu Âu đã bác bỏ đề nghị này và cho rằng, Người tiêu dùng chỉ được hiểu là các cá nhân Người tiêu dùng, không bao gồm các chủ thể khác. [27] Khái niệm Người tiêu dùng trong các văn bản pháp luật về bảo vệ Người tiêu dùng của Liên minh Châu Âu đã được giải thích trong Chỉ thị số 1999/44/EC ngày 25/5/1999 về việc mua bán hàng hóa tiêu dùng và các bảo đảm có liên quan (Directive 1999/44/EC of the European Parliament and of the Council of 25 May 1999 on certain aspects of the sale of consumer goods and associated guarantees). Chỉ thị này giải thích ““NTD là bất cứ cá nhân nào …  tham gia vào các hợp đồng điều chỉnh trong Chỉ thị này… vì mục đích không liên quan tới hoạt động kinh doanh hoặc nghề nghiệp của mình”.

Một trường hợp cũng quy định về Người tiêu dùng là cá nhân là pháp luật Nhật Bản. Cụ thể, Điều 2(1) Luật về Hợp đồng tiêu dùng (tức là hợp đồng giao kết giữa Người tiêu dùng với thương nhân) của Nhật Bản năm 2000 giải thích rõ: “As used in this Act, the term “consumer” means individuals (however, the same shall not apply in cases where said individual becomes a party to a contract as a business or for the purpose of business. As used in this Act, the term “business” mean juristic person, associations and individuals Who become a party to a contract as a business or for the purpose of business. [29]. Tạm dịch là “NTD theo quy định của luật này là cá nhân nhưng không bao gồm cá nhân tham gia hợp đồng là pháp nhân hoặc với mục đích kinh doanh.”

Cách quy định này thể hiện rõ luật bảo vệ Người tiêu dùng chỉ bảo vệ đối với cá nhân, còn pháp nhân do họ có những vị thế và điều kiện tốt hơn so với cá nhân trong quan hệ với nhà cung cấp nên luật bảo vệ Người tiêu dùng không cần thiết phải can thiệp vào quan hệ tiêu dùng của họ. Tuy nhiên cách tiếp cận này cũng có một số điểm hạn chế bởi lẽ theo quy định của pháp luật thì pháp nhân có nhiều loại bao gồm cả doanh nghiệp và các cơ quan tổ chức khác trong xã hội. Các đối tượng này ngoài họ cũng có hoạt động tiêu dùng thông thường mà không nhất các quan hệ mua bán của họ đều là các quan hệ thương mại. Do đó trong quan hệ tiêu dùng họ cũng không phải là những người chuyên nghiệp và cũng như Người tiêu dùng, họ cũng không có sẵn nguồn lực để đối phó với những hành vi vi phạm từ phía nhà sản xuất và cũng rất cần tới sự bảo vệ của pháp luật bảo vệ Người tiêu dùng. Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại NH.

Cách thứ hai quy định rõ về bản chất Người tiêu dùng là cả cá nhân và pháp nhân. Theo quy định này thì Người tiêu dùng bao gồm cả cá nhân và pháp nhân. Quy định này tuy có vẻ hơi rộng và có thể có quan điểm cho rằng nó sẽ làm loãng đi hiệu lực của Luật bảo vệ Người tiêu dùng. Tuy nhiên cách quy định này đã khắc phục được hạn chế của cách quy định thứ nhất vì không phải lúc nào pháp nhân cũng là người đủ khả năng để đối mặt được với các vi phạm từ phía nhà sản xuất kinh doanh và hậu quả là nếu Luật bảo vệ Người tiêu dùng không bảo vệ họ như đối với các cá nhân tiêu dùng khác thì quyền lợi của một nhóm đối tượng khá lớn trong xã hội bị xâm phạm, gây thiệt hại chung cho toàn xã hội. Một số trường hợp như quy định của Thái Lan, Ấn Độ, Đài Loan… Luật Bảo vệ Người tiêu dùng của Ấn Độ năm 1986 có một số quy định như sau (Điều 2(1d) và 2(1m)):  Điều 2(1d):

“NTD là bất cứ người nào mua … hàng hóa… mà không có mục đích để bán lại hoặc vì mục đích thương mại khác.” Điều 2(1m) giải thích chữ “người” (nhân) ở đây được hiểu bao gồm: hãng (doanh nghiệp), cá nhân, hộ gia đình, hợp tác xã, tổ chức xã hội. Theo pháp luật Thái Lan, khái niệm Người tiêu dùng có thể bao gồm cả thể nhân và pháp nhân và họ phải là người mua hoặc sử dụng dịch vụ của nhà kinh doanh. Tuy quy định của Thái Lan không đề cập tới các chủ thể sử dụng hàng hóa dịch vụ nhưng không mua hàng hóa hay thuê dịch vụ đó có là Người tiêu dùng hay không nhưng lại có sự mở rộng thêm cả giai đoạn được chào hàng hoặc được đề nghị mua hàng hoặc sử dụng dịch vụ. Như vậy, tại thời điểm được nhà kinh doanh chào hàng hoặc đề nghị mua hàng, các chủ thể nói trên đã được coi là Người tiêu dùng và được bảo vệ theo các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng. [14]

Cách thứ ba là không nêu rõ chỉ là cá nhân hay bao gồm cả cá nhân và pháp nhân. Cách quy định này chỉ nói là “người nào” hoặc “những ai” như của Malaysia. Cách quy định này có thể dẫn tới nhiều cách hiểu khác nhau và khó có thể được áp dụng trong thực tiễn bởi lẽ nó có thể được hiểu là gồm cả cá nhân và pháp nhân, nhưng cũng có thể giải thích theo hướng chỉ là cá nhân. Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại NH.

Đối với pháp luật Việt Nam, tại khoản 1 Điều 3 Luật bảo vệ Người tiêu dùng 2010 quy định: “NTD là người mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức. Như vậy, pháp luật Việt Nam thuộc cách quy định thứ ba như đã phân tích ở trên. Điều này gây khó khăn cho việc nghiên cứu các nội dung pháp luật liên quan do cách hiểu của mỗi người về vấn đề này là khác nhau. Tuy nhiên, trong bài nghiên cứu này, tác giả từ tham khảo các quy định của các pháp luật liên quan cũng như cách hiểu được sử dụng phần lớn trên thực tế, sẽ hiểu Người tiêu dùng ở đây theo nghĩa bao gồm cả cả nhân và tổ chức mua, sử dụng hàng hoá vì mục tiêu tiêu dùng.

Tiếp theo sẽ đến đến khái niệm “sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại NHTM”. Theo quy định tại Điều 3 Thông tư 19/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động thẻ Ngân hàng: “Thẻ Ngân hàng là phương tiện thanh toán do tổ chức phát hành thẻ phát hành để thực hiện giao dịch thẻ theo các Điều kiện và Điều khoản được các bên thoả thuận.” Cũng tại thông tư này, Ngân hàng Nhà nước đã phân loại các loại thẻ theo tính chất thanh toán của thẻ như sau: Thẻ ghi nợ là thẻ cho phép chủ thẻ thực hiện giao dịch thẻ trong phạm vi số tiền và hạn mức thấu chi (nếu có) trên tài khoản thanh toán của chủ thẻ mở tại tổ chức phát hành thẻ. Thẻ tín dụng là thẻ cho phép chủ thẻ thực hiện giao dịch trong phạm vi hạn mức tín dụng đã được cấp theo thoả thuận với tổ chức phát hành thẻ. Thẻ trả trước là thẻ cho phép chủ thẻ thực hiện giao dịch thẻ trong phạm vi giá trị tiền được nạp vào thẻ tương ứng với số tiền đã trả trước cho tổ chức phát hành thẻ. Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, tính đến cuối tháng 4/2014, cả nước có 52 tổ chức phát hành thẻ với hơn 69,7 triệu thẻ được phát hành, gồm 461 thương hiệu thẻ. Trong đó thẻ ghi nợ chiếm tỷ trọng lớn nhất với 92,1%, thẻ tín dụng là 3,7% và thẻ trả trước là 4,2%.  Bên cạnh đó, theo nghiên cứu cho thấy số vụ việc xâm phạm về quyền lợi Người tiêu dùng của thẻ ghi nợ cũng chiếm tỷ trọng lớn nhất,. Do đó, vì những lý do trên, trong bài viết này, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về việc phát hành, giao dịch thẻ ghi nợ nội địa (hay thường được gọi là thẻ ATM).

Về các bên liên quan trong việc sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa, trên thực tế bao gồm những chủ thể sau:

  • Tổ chức phát hành: là tổ chức tín dụng, chí nhánh ngân hàng nước ngoài được thực hiện phát hành thẻ theo quy định tại Điều 9 Thông tư 19/2016/TT-NHNN. Ngân hàng phát hành sẽ quy định các điều khoản, điều kiện sử dụng thẻ cho chủ thẻ tuân thủ. Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại NH.
  • Đơn vị chấp nhận thẻ: là tổ chức, cá nhân chấp nhận thanh toán hàng hóa, dịch vụ bằng thẻ theo hợp đồng thanh toán thẻ ký kết với tổ chức phát hành thẻ.
  • Chủ thẻ: là cá nhân hoặc tổ chức được tổ chức phát hành thẻ cung cấp thẻ để sử dụng, bao gồm chủ thẻ chính và chủ thẻ phụ. Chủ thẻ chính là cá nhân hoặc tổ chức đứng tên ký hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ với tổ chức phát hành thẻ. Chủ thẻ phụ là cá nhân được chủ thẻ chính cho phép sử dụng thẻ và chủ thẻ chính cam kết bằng văn bản thực hiện toàn bộ các nghĩa vụ phát sinh liên quan đến việc sử dụng thẻ theo hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ.

Xét theo các khái niệm liên quan đến “NTD” đã nêu ra ở trên, có thể thấy rằng chủ thẻ sẽ được đặt vào vị trí cá nhân, tổ chức sử dụng dịch vụ ngân hàng, hay chính là Người tiêu dùng trong lĩnh vực ngân hàng. Với cách hiểu đã được nêu ra ở trên là Người tiêu dùng bao gồm cả cá nhân và pháp nhân đến đây đã hoàn toàn hợp lý và có sự thống nhất với các quy định pháp luật tại pháp luật chuyên ngành ngân hàng. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với các hợp đồng phát hành hay điều khoản giao dịch chung áp dụng cho thẻ ghi nợ của các Ngân hàng Thương mại khi mà trong hợp đồng lúc nào cũng có quy định về hai đối tượng yêu cầu phát hành thẻ: cá nhân hoặc người đại diện của pháp nhân.

Để giao dịch thẻ được hình thành, hai chủ thể: chủ thẻ – Người tiêu dùng và tổ chức phát hành hay chính là Ngân hàng Thương mại – bên cung cấp dịch vụ sẽ ký với nhau một hợp đồng mang tên “Hợp đồng phát hành”: “Hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ là thỏa thuận bằng văn bản giữa TCPHT với chủ thẻ về việc phát hành và sử dụng thẻ.”[Điều 3 thông tư 19/2016/TT/NHNN]. Về bản chất của hợp đồng phát hành này, qua một số vụ án và khiếu nại về thẻ, có thể thấy một số chủ thẻ cho rằng quan hệ giữa ngân hàng phát hành thẻ với chủ thẻ là quan hệ gửi giữ tài sản. Bằng chứng cho sự tồn tại quan hệ gửi giữ tài sản giữa ngân hàng và chủ thẻ là chiếc thẻ ATM và tài khoản mang tên chủ thẻ tại ngân hàng. Do đó, số tiền trên tài khoản là tài sản mà chủ thẻ gửi giữ tại ngân hàng. Chính vì vậy, nếu làm mất mát, hư hỏng tài sản gửi giữ đó (trừ trường hợp bất khả kháng), thì ngân hàng giữ tài sản phải bồi thường thiệt hại cho người gửi tài sản [Điều 554,557 BLDS 2015].  Tuy nhiên, căn cứ quy định tại Điều 554 BLDS 2015 thì việc cho rằng quan hệ gửi giữa chủ thẻ và Ngân hàng Thương mại là quan hệ gửi giữ tài sản là chưa đủ cơ sở và chưa phù hợp với quy định của pháp luật vì những lý do sau đây:

Thứ nhất, người giữ tài sản là pháp nhân và thực hiện dịch vụ này nhằm mục đích sinh lợi (NHTM), trong khi một bên là cá nhân gửi tài sản hầu như không có mục đích kinh doanh (chủ thẻ). Mục đích chính của cá nhân sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại không phải hưởng lãi theo lãi suất không kỳ hạn do Ngân hàng Thương mại quy định mà để cất giữ hoặc thuận tiện cho việc thanh toán hàng hoá, dịch vụ. Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại NH.

Thứ hai, hiện nay không có văn bản pháp luật nào định nghĩa tài sản mà chỉ có quy định mang tính liệt kê “tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản” (Điều 105 BLDS 2015). Cho nên, tiền trên tài khoản của chủ thẻ là tài sản mà chủ thẻ gửi tại ngân hàng. Tuy nhiên, số tiền gửi giữ này khác với tài sản gửi giữ được nêu trong hợp đồng gửi giữ tài sản theo quy định trong Bộ luật Dân sự. Trong quan hệ giữa chủ thẻ với ngân hàng phát hành thẻ, bên giữ tài sản (ngân hàng) có trách nhiệm bảo quản tài sản cho người gửi tài sản (chủ thẻ) nhưng không có nghĩa vụ trả lại chính tài sản đó cho bên gửi tài sản khi hết thời hạn hợp đồng. Trường hợp chủ thẻ phải trả lại chính số tiền mà người gửi đã nộp, thì chủ thẻ không được sử dụng thẻ ATM để rút tiền mặt hoặc thanh toán hàng hoá, dịch vụ trong suốt thời gian có hiệu lực của hợp đồng gửi giữ tài sản. Hơn nữa, hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ ATM giữa ngân hàng với chủ thẻ là loại hợp đồng dân sự không xác định thời hạn và bên gửi tài sản không phải trả tiền công cho bên giữ.

Chẳng hạn như, khi mở tài khoản, chủ thẻ nộp cho ngân hàng mười triệu đồng, trong đó có 5 triệu đồng loại tiền 500.000 đồng, 3 triệu đồng loại tiền 100.000 đồng và 2 triệu đồng loại tiền 50.000 đồng với số seri xác định. Số tiền này sẽ được ngân hàng đưa vào lưu thông và không còn là tài sản thuộc sở hữu của chủ thẻ ngay sau khi nộp. Do đó, khi sử dụng thẻ ATM để rút tiền mặt hoặc thanh toán hàng hoá, dịch vụ, thì chủ thẻ không thể nhận lại số tiền mà mình đã nộp vào tài khoản tại ngân hàng và cũng không có quyền yêu cầu ngân hàng thanh toán hàng hoá, dịch vụ bằng chính số tiền đó.

Thứ ba, theo quy định của Bộ luật Dân sự, trong quan hệ gửi giữ tài sản, bên gửi tài sản có nghĩa vụ giao tài sản cho bên giữ tài sản và thông báo ngay cho người giữ tài sản biết tình trạng tài sản, biện pháp bảo quản thích hợp đối với tài sản gửi giữ. Đối chiếu với quan hệ phát hành và sử dụng thẻ ATM giữa ngân hàng phát hành thẻ với chủ thẻ, số tiền trên tài khoản của chủ thẻ không nhất thiết là tiền do chủ thẻ trực tiếp nộp tại ngân hàng mà có thể tiền từ bên thứ ba chuyển đến thông qua hệ thống tài khoản của ngân hàng. Bên thứ ba có thể là người sử dụng lao động trả lương cho người lao động, người mua hàng hoá, dịch vụ thanh toán hàng hoá, dịch vụ cho bên bán hàng, cung ứng dịch vụ…

Từ những lý lý do trên đây, chúng tôi cho rằng quan hệ giữa chủ thẻ với Ngân hàng Thương mại chỉ là quan hệ dân sự thông thường chứ không thuộc một trong những hợp đồng dân sự thông dụng được quy định trong Bộ luật Dân sự như hợp đồng gửi giữ tài sản mà một số chủ thẻ đã nói ở trên. Do đó, những quy định chung về hợp đồng dân sự trong Bộ luật Dân sự được áp dụng đối với quan hệ phát hành và sử dụng thẻ giữa chủ thẻ với ngân hàng phát hành thẻ. Ngoài ra, mối quan hệ giữa chủ thẻ với ngân hàng phát hành thẻ còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật chuyên ngành như Thông tư 19/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động thẻ ngân hàng. Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại NH.

Như vậy, từ những sự phân tích trên, tác giả mạnh dạn đưa ra khái niệm “NTD sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại” như sau: Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa của Ngân hàng Thương mại là cá nhân hoặc tổ chức (thông qua người đại diện) đăng ký việc mở và sử dụng thẻ tại Ngân hàng Thương mại để thực hiện giao dịch thẻ trong phạm vi số tiền và hạn mức thấu chi (nếu có) trên tài khoản thanh toán của mình mở tại  NHTM đó, trên cơ sở hợp đồng phát hành theo quy định của pháp luật phù hợp với mục đích, yêu cầu của khách hàng và TCTD.

1.1.2. Đặc điểm của dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa và của Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại

Thứ nhất, Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Theo phân tích ở trên, có thể nói mối quan hệ giữa Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa và Ngân hàng Thương mại là quan hệ hợp đồng dân sự. Do đó, để trở thành chủ thể hợp đồng này thì cá nhân, tổ chức phải đáp ứng các điều kiện của hợp đồng dân sự. Điều 117 Bộ luật dân sự (BLDS) 2015 quy định: “Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập”. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự. [Điều 16] và Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau. Năng lực dân sự của cá nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp do pháp luật quy định. Như vậy, yếu tố năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là điều đương nhiên và sẵn có. Tuy nhiên, để tham gia được vào quan hệ hợp đồng, cá nhân còn phải có năng lực hành vi dân sự. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân được BLDS quy định theo các tiêu chí khác nhau phụ thuộc vào độ tuổi và khả năng nhận thức trong các

Điều 19, 20, 21, 22, 23, 24 BLDS 2015. Căn cứ vào đó, văn bản pháp quy lĩnh vực ngân hàng đã quy định về chủ thể được phép thực hiện các giao dịch liên quan đến dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa. Theo Điều 16 Thông tư 19/2016/TT-NHNN quy định chủ thẻ:

  1. Đối với chủ thẻ chính là cá nhân:
  2. Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật được sử dụng thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng, thẻ trả trước; Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại NH.
  3. Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, có tài sản riêng đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trong việc sử dụng thẻ được sử dụng thẻ ghi nợ không được thấu chi, thẻ trả trước.”
  4. Đối với chủ thẻ chính là tổ chức: Các tổ chức được thành lập, hoạt động hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam, bao gồm: pháp nhân, doanh nghiệp tư nhân được sử dụng các loại thẻ. Chủ thẻ là tổ chức được ủy quyền bằng văn bản cho cá nhân sử dụng thẻ của tổ chức hoặc cho phép cá nhân sử dụng thẻ phụ theo quy định tại Thông tư này.
  5. Đối với chủ thẻ phụ:

Chủ thẻ phụ được sử dụng thẻ theo chỉ định cụ thể của chủ thẻ chính nhưng chỉ trong phạm vi quy định sau đây:

  1. Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật được sử dụng thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng, thẻ trả trước;
  2. Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự được người đại diện theo pháp luật của người đó đồng ý bằng văn bản về việc sử dụng thẻ được sử dụng thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng, thẻ trả trước;
  3. Người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự được người đại diện theo pháp luật của người đó đồng ý bằng văn bản về việc sử dụng thẻ được sử dụng thẻ ghi nợ không được thấu chi, thẻ trả trước.”

Như vậy, theo các quy định này thì chủ thẻ chính sẽ là người bị ràng buộc các điều kiện khắt khe hơn chủ thẻ phụ do chủ thẻ chính là người giao dịch trực tiếp với ngân hàng và với những người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện cũng đã có thể trở thành chủ thể sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa không có thấu chi. Còn nếu muốn mở tài khoản ghi nợ nội địa đầy đủ có thêm thấu chi thì bắt buộc phải là người từ đủ 18 tuổi đáp ứng các điều kiện nêu ra. Thêm nữa, do phân tích ở trên, Người tiêu dùng được hiểu ở đây có cả cá nhân và pháp nhân nên pháp nhân cũng hoàn toàn có thể tham gia giao dịch thẻ thông qua người đại diện của mình, người đại diện cho pháp nhân sẽ tham gia giao dịch thẻ giống với quy định đối với cá nhân.

Thứ hai, Người tiêu dùng là bên yếu thế trong quan hệ phát hành, sử dụng thẻ ATM tại Ngân hàng Thương mại do sự hạn chế về thông tin, về kiến thức chuyên môn, về khả năng đàm phán hợp đồng cũng như khả năng tự bảo vệ mình. Người tiêu dùng các dịch vụ tài chính  nói chung và dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa nói riêng nhìn chung có mức độ hiểu biết về các sản phẩm tài chính thấp. Trong vòng một thập kỷ vừa qua, tất cả các nền kinh tế đang trên đà phát triển trong khu vực và trên thế giới đều có những bước tiến vượt bậc trong việc tạo dựng và phát triển các khu vực tài chính của mình. Sự mở cửa của các nền kinh tế cho các công ty đa quốc gia được tự do vào hoạt động, mức độ cạnh tranh ngày càng gia tăng giữa các tổ chức tín dụng như ngân hàng, bảo hiểm, các quỹ đầu tư tương hỗ,…và sự phát triển của công nghệ và cơ sở hạ tầng, đã dẫn đến sự ra đời của các sản phẩm tài chính ngày càng phức hợp dành cho công chúng. Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại NH.

Tuy nhiên, công chúng tại các nền kinh tế chuyển đổi và đang phát triển như Việt Nam lại không có được một lịch sử lâu dài trong việc làm quen với các sản phẩm tài chính phức tạp, tinh vi. Ví dụ, việc sử dụng thẻ ATM để rút tiền từ các máy rút tiền tự động, hay sử dụng thẻ tín dụng trong thanh toán vẫn còn xa lạ với đại bộ phận dân chúng, đặc biệt tại khu vực ngoại ô, nông thôn hoặc cả các thị xã, thị trấn. Mức tăng hiểu biết về tài chính, do đó, chậm hơn rất nhiều so với tốc độ phát triển của những kênh đầu tư, hoặc các sản phẩm tín dụng được chào bán trên thị trường, dẫn đến khoảng cách ngày càng gia tăng giữa sự phức hợp của các sản phẩm tài chính và khả năng của Người tiêu dùng có thể hiểu biết tường tận những sản phẩm mà họ đang mua. Đặc biệt tại các nước có mức thu nhập thấp, với những Người tiêu dùng lần đầu tiên đến với các sản phẩm tài chính, khoa học công nghệ cũng có tác động thay đổi đáng kể đối với những sự bảo vệ mà Người tiêu dùng cần có trong các giao dịch tài chính. Như vậy, vô hình chung, Người tiêu dùng đã ở một bên yếu thế hơn, không chủ động được thông tin trong quan hệ giao dịch thẻ với bên tổ chức phát hành là các Ngân hàng Thương mại với sự hiểu biết và chủ động về sản phẩm tài chính cao.

Thứ ba, dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa mang đến cho Người tiêu dùng rất nhiều lợi ích tuy nhiên bên cạnh đó cũng là những rủi ro rất lớn. Không thể chối cãi rằng với một chiếc thẻ ATM, Người tiêu dùng sử dụng rất nhanh, gọn và tiện lợi trong việc cất giữ tiền và thanh toán do thẻ ATM ngày càng được chấp nhận tại nhiều điểm thanh toán. Ngoài ra thẻ thanh toán cũng rất dễ dàng cho việc quản lý chi tiêu và an toàn với các nghiệp vụ khoá thẻ hoặc huỷ thẻ khi có báo mất. Tuy nhiên, điểm yếu lớn nhất của thẻ ATM cũng chính là thứ mang lại rủi ro lớn nhất cho Người tiêu dùng chính là rủi ro về thông tin. Thẻ được tích hợp chip EMW có độ bảo mật rất cao, nhưng với tội phạm công nghệ cao đang ngày càng phức tạp và tinh vi như hiện nay, thông tin của chủ thẻ bị rủi ro đánh cắp là rất lớn, đơn cử  như hàng loạt vụ mất tiền trong tài khoản ngân hàng không rõ nguyên nhân như báo chí đưa tin rầm rộ thời gian gần đây. Ngoài ra, rủi ro về phí và lãi suất cũng ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi của Người tiêu dùng. Phần lớn Người tiêu dùng khi sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa không hoặc rất ít quan tâm đến biểu phí cũng như quy định sử dụng thẻ do tổ chức phát hành đưa ra một phần do những quy định chưa rõ ràng hoặc chi phí quá nhỏ đã tạo tâm lý chủ quan nơi Người tiêu dùng, đến khi mức phí hoặc lãi suất phình to đến mức gây bất ngờ và cần can thiệp thì có thể đã gây ra thiệt hại rất lớn rồi.

1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại NH.

Hiện nay bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng đã ngày càng được quan tâm nhưng quyền lợi của Người tiêu dùng dịch vụ tài chính nói chung và quyền lợi của Người tiêu dùng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại nói riêng vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Nhìn vào một số vụ việc mới đây như vụ việc ngân hàng tự ý thu phí thường niên, 1 chiếc thẻ ATM “cõng” trên mình 25 loại phí, mất tiền trong tài khoản qua giao dịch thẻ, xâm phạm việc bảo mật thông tin cá nhân, giải quyết khiếu nại và tranh chấp chưa hợp lý… , số lượng các vụ khiếu nại liên quan đến lĩnh vực tài chính ngân hàng không ngừng tăng lên có thể thấy được rằng rất cấp thiết phải có một cơ chế bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa một cách triệt để và an toàn hơn. Có thể thấy rằng quyền lợi Người tiêu dùng đã bị vi phạm nhưng Người tiêu dùng rất khó tự bảo vệ mình vì pháp luật bảo vệ Người tiêu dùng trong lĩnh vực ngân hàng của Việt Nam vẫn còn quá chung chung và đơn giản, và việc thực thi luật bảo vệ Người tiêu dùng vẫn còn chưa hiệu quả.

Ngoài ra, mức độ phát triển và văn minh của một quốc gia không chỉ được đánh giá bằng tốc độ tăng trưởng của GDP, của thu nhập bình quân đầu người mà còn phụ thuộc vào giá trị công bằng và khả năng thực thi của pháp luật. Một nền pháp chế văn minh phải ưu tiên bảo vệ kẻ yếu. [20] Có lẽ vì thế, pháp luật về quyền của người tiêu dùng luôn là một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống pháp luật thương mại của các quốc gia phát triển và đã trở thành vấn đề pháp lý quốc tế. Vì vậy, xây dựng cơ chế bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa mạnh hơn cũng là việc cần thiết để bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng nhằm đảm bảo và thực hiện quyền con người và để phù hợp với thông lệ quốc tế và khung chung của Liên Hợp Quốc về bảo vệ quyền con người trong kinh doanh. Hơn nữa, vấn đề quyền con người ở Việt Nam đã trở thành mục tiêu đạt tới của các chính sách phát triển đất nước. Các quan điểm của Đảng và chính sách phát triển của Nhà nước đều nhằm thực hiện mục tiêu cuối cùng là thực hiện trên thực tế các quyền của con người về dân sự, kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá. Cụ thể tại Điều 14 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2013 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Vì vậy, việc thực hiện các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền của người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa góp phần thực hiện quyền con người thực tế. Bởi lẽ các quyền của người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại như quyền được an toàn, quyền được thông tin, quyền được lựa chọn…là các biểu hiện cụ thể của quyền con người trên lĩnh vực kinh tế và xã hội. Một quốc gia không được đánh giá là đảm bảo quyền con người nếu trong giao dịch với NH, Người tiêu dùng không được cung cấp đầy đủ thông tin về các dịch vụ tài chính, không được đảm bảo an toàn khi mở và sử dụng thẻ… [17] Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại NH.

1.3. Các quyền lợi của Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam

Theo từ điển Tiếng Việt thì quyền lợi được hiểu là lợi ích được hưởng mà người khác không được xâm phạm đến. Như vậy, trong quá trình thực hiện giao dịch thẻ tại Ngân hàng Thương mại, thì chủ thẻ luôn có những lợi ích nhất định mà họ được hưởng và ngân hàng không được phép xâm phạm. Dưới góc độ lý luận, chủ thẻ được coi là Người tiêu dùng trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, nên chủ thẻ cũng có những quyền cơ bản của một Người tiêu dùng.

Theo nghị quyết số 39/248 ngày 9/4/1985 của Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua “Bản hướng dẫn bảo vệ Người tiêu dùng”, thì Người tiêu dùng có tám quyền sau: Quyền được thoả mãn những nhu cầu cơ bản; quyền được an toàn; quyền được cung cấp thông tin; quyền được lựa chọn; quyền được đại diện; quyền được khiếu nại và bồi thường thiệt hại; quyền được giáo dục về tiêu dùng và quyền được sống trong môi trường trong lành. [15]

Tám quyền trên là các quyền cơ bản nhất của Người tiêu dùng, trong mỗi lĩnh vực tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ khác nhau, quyền của Người tiêu dùng có thể có những điểm khác biệt. Tuy vậy, điểm khác biệt chỉ là quyền nào thể hiện sâu sắc hơn. Lĩnh vực tài chính ngân hàng là lĩnh vực kinh doanh đặc biệt, người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại – Người tiêu dùng đặc biệt có những quyền chủ yếu sau:

  • Một là, quyền được an toàn: người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa phải được bảo đảm an toàn về số tiền trong tài khoản cũng như tính mạng, sức khỏe, bảo mật thông tin cá nhân, quyền, lợi ích hợp pháp khác khi tham gia giao dịch thẻ do tổ chức phát hành hoặc chấp nhận thanh toán cung cấp.
  • Hai là, quyền được cung cấp thông tin: chủ thẻ được quyền có các số liệu cần thiết như biểu phí, lãi suất, việc thay đổi hợp đồng…để trên cơ sở đó lựa chọn việc thực hiện giao dịch của mình.
  • Ba là, quyền được chọn lựa: Người tiêu dùng được tự do lựa chọn sản phẩm cũng như ngân hàng phát hành phù hợp với yêu cầu và điều kiện của mình.
  • Bốn là, quyền được khiếu nại và bồi thường thiệt hại: chủ thẻ được quyền khiếu nại với Ngân hàng Thương mại đã gây ra thiệt hại cho mình và được thực hiện việc đền bù một cách hữu hiệu.
  • Năm là, quyền được giáo dục về tiêu dùng: Người tiêu dùng có quyền được giáo dục về lựa chọn và sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa cho phù hợp với yêu cầu bản thân, giáo dục về quyền và nghĩa vụ của mình trong quan hệ chủ thẻ – tổ chức phát hành… Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại NH.
  • Sáu là, quyền được đại diện: Người tiêu dùng có quyền được đưa ra ý kiến với đại diện của mình trong việc hoạch định chính sách của Chính phủ, được phép tự do thành lập các nhóm hay các tổ chức Người tiêu dùng thích hợp và tạo điều kiện cho các tổ chức đó trình bày quan điểm của mình trong các quá trình ra quyết định có ảnh hưởng đến họ.

Trong pháp luật Việt Nam, xem xét trong hệ thống pháp luật hiện hành, thật sự đã thấy có được sự kế thừa và phát triển các quyền nêu trên trong các văn bản pháp luật bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng, cụ thể như quy định về quyền của Người tiêu dùng tại Điều 8 Luật bảo vệ Người tiêu dùng 2010.

  1. Được bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp.
  2. Được cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; nội dung giao dịch hàng hóa, dịch vụ; nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa; được cung cấp hóa đơn, chứng từ, tài liệu liên quan đến giao dịch và thông tin cần thiết khác về hàng hóa, dịch vụ mà Người tiêu dùng đã mua, sử dụng.
  3. Lựa chọn hàng hóa, dịch vụ, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo nhu cầu, điều kiện thực tế của mình; quyết định tham gia hoặc không tham gia giao dịch và các nội dung thỏa thuận khi tham gia giao dịch với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
  4. Góp ý kiến với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ về giá cả, chất lượng hàng hóa, dịch vụ, phong cách phục vụ, phương thức giao dịch và nội dung khác liên quan đến giao dịch giữa Người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
  5. Tham gia xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng.
  6. Yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hóa, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng, giá cả hoặc nội dung khác mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đã công bố, niêm yết, quảng cáo hoặc cam kết.
  7. Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
  8. Được tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn kiến thức về tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ.”

Các quy định trên tuy cách diễn đạt khác nhau nhưng về bản chất cũng thể hiện sáu quyền chủ yếu mà Người tiêu dùng dịch vụ tài chính nói chung và Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại nói riêng.

1.4. Pháp luật về bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại NH.

1.4.1. Khái niệm pháp luật về bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam

Có thể thấy các quan hệ giữa Người tiêu dùng và nhà cung cấp hàng hóa dịch vụ là các quan hệ tư và bản thân Người tiêu dùng cũng là một bên trong quan hệ hợp đồng đó. Tuy nhiên, do có đặc điểm về sự khác biệt giữa vị thế của người cung cấp và Người tiêu dùng trong quan hệ này, cụ thể là Người tiêu dùng luôn ở thế yếu hơn, thiếu thông tin hơn, ít chuyên nghiệp hơn, nên cần thiết phải có sự can thiệp nhất định của nhà nước vào quan hệ này để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bên yếu thế. Do vậy cần xác định phạm vi các loại quan hệ tư này sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật bảo vệ Người tiêu dùng, cụ thể là pháp luật bảo vệ Người tiêu dùng sẽ can thiệp vào những quan hệ tư nào, còn những quan hệ nào sẽ được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật tư khác.

Hiện nay, trên thế giới có hai phương pháp chủ đạo mà thông qua đó Nhà nước có thể bảo vệ lợi ích của Người tiêu dùng:

  • Xây dựng một hệ thống pháp lý trong đó quy định trách nhiệm pháp lý đối với các bên sau khi đã xảy ra vi phạm;
  • Hoặc xây dựng một hệ thống pháp lý điều chỉnh, ngăn chặn trước các hành vi vi phạm để giảm thiểu vi phạm.[14]

Với phương pháp thứ nhất, các bên liên quan phải bồi thường thiệt hại sau khi xảy ra thiệt hại thực sự. Theo cách này, các cơ quan phân xử, trong đại đa số các trường hợp là các toà án, bao gồm cả các toà chuyên biệt, sẽ quyết định mức độ bồi thường thiệt hại, căn cứ trên bản chất và thực tế vụ việc. Các bên liên quan sẽ phải chịu bồi thường thiệt hại do hành vi sai sót của họ gây ra, nhưng chỉ sau khi bên bị thiệt hại đã kiện ra toà hoặc khiếu nại đến các cơ quan chức năng có thẩm quyền khác. Hệ thống quy định liên quan đến bảo vệ Người tiêu dùng thường bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, môi trường, hay sức khoẻ. Ở nhiều quốc gia trên thế giới, hệ thống quy định này do các cơ quan chức năng giám sát thực thi. Ví dụ như tại Ấn Độ, các vấn đề tiêu chuẩn do Cục Tiêu chuẩn Ấn Độ (cơ quan tồn tại song song với Vụ Các Vấn đề Tiêu dùng thuộc Bộ Các Vấn đề Tiêu dùng, Lương thực thực phẩm và Phân phối các Hàng hoá công cộng) chịu trách nhiệm, tại Việt Nam cho đến nay là Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường và Chất lượng (thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ) [14] Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại NH.

Cách thứ hai mang tính ngăn chặn, phòng ngừa, trước khi xảy ra vi phạm, theo đó các bên liên quan phải chịu phạt kể cả trước khi có thiệt hại thực sự, do đã vi phạm các quy định về tiêu chuẩn. Theo cách này, một hệ thống quy chuẩn phải được thiết lập, không liên quan đến việc có xảy ra thiệt hại thực sự cho Người tiêu dùng hay không. Các vụ việc đơn lẻ, hay cả một nhóm các vấn đề, đều có thể được điều chỉnh bởi các quy định chuẩn chung này, giảm thiểu khả năng xảy ra việc phải phân định đúng sai, hay giúp tránh các phán quyết không nhất quán và thiếu công bằng trên cơ sở vụ việc. Các bên liên quan sẽ phải chịu phạt chỉ khi các cơ quan chức năng phát hiện được rằng họ không tuân thủ các quy định về tiêu chuẩn. Và trong đại đa số các trường hợp, các cơ quan chức năng sẽ sử dụng các thủ tục hành chính để xem xét các thông tin kỹ thuật có liên quan, nhằm đi đến kết luận cuối cùng. Hệ thống quy định trách nhiệm pháp lý liên quan đến bảo vệ Người tiêu dùng thường bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến các quyền cơ bản của Người tiêu dùng, trách nhiệm sản phẩm, các hành vi thương mại không công bằng, giải quyết tranh chấp tiêu dùng và các chế tài áp dụng. Đây là các quy định thường gặp nhất trong bất kỳ một đạo luật hay bộ luật về bảo vệ Người tiêu dùng nào trên thế giới. Các vụ việc liên quan đến trách nhiệm pháp lý thường do các toà án chung, các toà chuyên biệt về Người tiêu dùng, hay các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ Người tiêu dùng có chức năng xét xử áp dụng và thực thi.

Xét thấy cả hai hệ thống bảo vệ Người tiêu dùng ở trên, có thể nói rằng không có hệ thống nào có thể loại bỏ hoàn toàn rủi ro cho Người tiêu dùng. Hệ thống quy định tiêu chuẩn không thể làm được điều này, do các cơ quan chức năng không có đủ thông tin về các hành vi vi phạm quy định của các doanh nghiệp, cũng như chi phí thực thi cao, v.v. Trái lại, hệ thống quy trách nhiệm pháp lý lại thất bại do các bên liên quan có thể không đủ khả năng bồi thường thiệt hại, hoặc cơ quan phân xử không thể buộc tội họ do bằng chứng không thuyết phục hoặc các thủ tục pháp lý phức tạp. Bên cạnh đó, những điểm chung của hai hệ thống này cũng đặt ra yêu cầu xem xét khả năng kết hợp cả hai lại thành một hệ thống pháp lý bảo vệ Người tiêu dùng tối ưu nhất, để giảm thiểu các nguy cơ thiệt hại cho Người tiêu dùng. Đây là một thực tế thường thấy tại hầu hết các quốc gia trên thế giới như Pháp, Canada, Hàn Quốc, Malaysia….. Luật bảo vệ Người tiêu dùng, chủ yếu bao gồm các điều khoản quy trách nhiệm pháp lý, thường được bổ sung bởi quy định của các văn bản quy phạm pháp luật khác, ví dụ như về tiêu chuẩn, an toàn, bảo hiểm, sức khoẻ, v.v. Cách tiếp cận này giúp đảm bảo tính chuyên biệt của từng lãnh vực pháp lý khác nhau, giúp các cơ quan thực thi tập trung vào chuyên môn của mình, tuy có mặt trái là tính rời rạc, đôi khi có thể dẫn đến không nhất quán, hay xung đột pháp lý. Ngược lại, tham vọng đưa quá nhiều các vấn đề khác nhau vào cùng một đạo luật về bảo vệ Người tiêu dùng có thể làm giảm hiệu quả pháp lý của các điều khoản, hay tăng chi phí thực thi của cơ quan thực thi hay hệ thống tư pháp.

Với Việt Nam, do thực tiễn áp dụng cho thấy bản chất mối quan hệ giữa chủ thẻ – Người tiêu dùng và Ngân hàng Thương mại – nhà cung cấp dịch vụ là một quan hệ hợp đồng dân sự nơi mà sự thoả thuận giữa các chủ thể được đề lên cao nhất thì phương pháp xây dựng pháp luật sẽ nên trọng việc xây dựng một hệ thống pháp lý trong đó quy định trách nhiệm pháp lý đối với các bên sau khi đã xảy ra vi phạm để phù hợp với bản chất mối quan hệ giữa hai bên. Tuy nhiên cũng có thể kết hợp theo hướng kết hợp tối đa hai hệ thống này, theo đó sẽ: Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại NH.

  • Đối với các quy định về tiêu chuẩn, an toàn của Người tiêu dùng như các loại phí sử dụng thẻ, yêu cầu kỹ thuật về an toàn bảo mật với trang thiết bị phục vụ thanh toán thẻ ngân hàng, vấn đề bảo mật thông tin… hiện đang được điều chỉnh tại các văn bản pháp luật khác thì sẽ quy định theo hướng dẫn chiếu.
  • Đối với các vấn đề liên quan đến bảo vệ Người tiêu dùng chưa được quy định tại các văn bản nào như: hợp đồng phát hành, trách nhiệm với sản phẩm dịch vụ…quy định không rõ ràng thì sẽ được làm rõ tại Luật BVNTD.

Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm pháp luật bảo vệ Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại như sau: Pháp luật bảo vệ Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hàng và bảo đảm thực hiện, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại và ngân hàng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Người tiêu dùng

1.4.2. Đặc điểm pháp luật về bảo vệ Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam

Thứ nhất, pháp luật bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại là một bộ phận của pháp luật bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng. Như đã phân tích ở trên, người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại được coi là Người tiêu dùng trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Quan hệ giữa tổ chức cá nhân cung ứng hàng hoá, dịch vụ và Người tiêu dùng nói chung, giữa chủ thẻ và Ngân hàng Thương mại – tổ chức phát hành nói riêng được coi là quan hệ bất bình đẳng. Ngân hàng Thương mại được coi là bên có thế mạnh, người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa bị coi là bên yếu thế do Ngân hàng Thương mại là tổ chức, có trình độ hiểu biết cao hơn, là chủ thể cung cấp dịch vụ và chủ yếu đều có sẵn các hợp đồng mẫu do họ tự soạn thảo nên họ có khả năng chủ động tự vệ trong quan hệ hợp đồng. Người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại thì chủ yếu là cá nhân, mức độ hiểu biết về các sản phẩm tài chính thường thấp hơn, khả năng tự bảo vệ mình trong quan hệ hợp đồng với Ngân hàng Thương mại thường thấp hơn. Vì vậy, hệ thống pháp luật bảo vệ quyền lợi người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại chính là một bộ phận hợp thành pháp luật bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng. Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại NH.

Thứ hai, pháp luật về bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại được hợp thành bởi nhiều quy phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau (pháp luật dân sự, pháp luật ngân hàng, pháp luật tài chính…). Hiện nay ở Việt Nam chưa có pháp luật chuyên biệt về bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại mà hệ thống quy phạm pháp luật này nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Chúng được quy định tại Luật bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng 2010; nghị định Chính phủ số 99/2011/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết Luật bảo vệ Người tiêu dùng 2010; thông tư số 19/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động thẻ ngân hàng; nghị định số 124/2015/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của nghị định số 185/2013 về xử phạt vi phạm hành chính sản xuất buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng; quyết định số 35/2015/QĐ-TTg sửa đổi quyết định số 02/2012/QĐ-TTg về danh mục hàng hoá, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung do Thủ tướng Chính phủ Ban hành… Do đó, thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại là thực hiện các quy định trong các văn bản khác nhau, là trách nhiệm của các chủ thể khác nhau trong xã hội. Chính vì vậy, để đảm bảo thực hiện hiệu quả và đồng bộ hệ thống pháp luật này cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các chủ thể pháp luật đó.

1.4.3. Nội dung pháp luật về bảo vệ Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam

Ngân hàng là một tổ chức tài chính trung gian huy động vốn, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán cho khác hàng. Mọi hoạt động của Ngân hàng Thương mại đều nhằm mục tiêu lợi nhuận và hoạt động cấp dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa cũng không nằm ngoài mục đích đó. Với việc cung cấp dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa, Ngân hàng Thương mại mong muốn nhận được những lợi ích sau: làm thế nào để tối đa hoá các khoản lệ phí hàng năm mà chủ thẻ phải nộp để hưởng dịch vụ thanh toán do ngân hàng cung cấp để tạo một nguồn thu đều đặn, quy định về số dư bắt buộc thế nào để có thêm được một nguồn huy động từ tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng thông qua số dư bắt buộc theo quy định trong tài khoản của chủ thẻ tại ngân hàng, triển khai việc ra sao để mở rộng địa bàn hoạt động của ngân hàng thông qua việc đặt các máy ATM hoặc liên hệ các cơ sở chấp nhận thẻ mới… Trên thực tế, nếu ngân hàng muốn tối đa hoá lợi ích của mình thông qua việc cung cấp dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa, không thế tránh khỏi những xâm phạm đến quyền lợi của đối tượng sử dụng dịch vụ đó, chính là chủ thẻ trong vai trò Người tiêu dùng.

Về phía người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa của ngân hàng, họ lại quan tâm đến những vấn đề sau: họ có được đảm bảo một cách hợp lý để sử dụng được tiền từ tài khoản của mình khi họ muốn hay không? Cơ chế nào mà họ có thể có được để bảo vệ quyền lợi của họ để kiểm soát được các hành vi sử dụng tiền của ngân hàng? Các ưu đãi nào ngân hàng đưa ra để đảm bảo được quyền lợi cho người sử dụng dịch vụ?…Nghĩa là sự quan tâm cơ bản của người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa là việc bảo đảm an toàn cho những hoạt động của họ trong quá trình giao dịch thẻ. So với những Người tiêu dùng khác trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa ở vị thế hưởng lợi tương đối ít từ sự tăng trưởng nhanh của ngân hàng hoặc việc theo đuổi các khoản lợi nhuận tương đối rủi ro. Mặt khác, người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa lại phải chịu phần thiệt hại tương đối lớn nếu ngân hàng có vấn đề với việc bảo mật thông tin.

Do vậy, đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng và bảo vệ người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa là vấn đề quan trọng và cần thiết. Nhà nước với vai trò to lớn trong việc giảm nhẹ xung đột các lợi ích này đã thông qua công cụ luật pháp và công cụ kinh tế tài chính, giúp ngăn chặn sự mạo hiểm quá mức của các ngân hàng mà cuối cùng chuyển rủi ro đến những Người tiêu dùng. Về khía cạnh này, các cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng là người hành động đứng về phía người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa. Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại NH.

Từ những phân tích về mối quan tâm cũng như lợi ích mong muốn nhận được của các chủ thể khi tham gia quan hệ giao dịch thẻ, nội dung pháp luật bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng cần bao gồm các vấn đề sau:

Thứ nhất, các quy định về phòng tránh rủi ro, đảm bảo an toàn cho người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại. Đây là nội dung rất quan trọng của pháp luật bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại. Lĩnh vực tài chính, tiền tệ là lĩnh vực nhạy cảm, tiềm ẩn nhiều rủi ro, với bất cứ động thái nào của thiết chế tài chính này kéo theo hậu quả khôn lường cho nền kinh tế. Hơn nữa, trong quan hệ hợp đồng dân sự, những rủi ro có thể đến với Người tiêu dùng, nhưng họ lại không kiểm soát được rủi ro đó. Vì thế, để bảo vệ quyền lợi người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại và đảm bảo sự phát triển ổn định của nền kinh tế, pháp luật cần đưa ra các biện pháp phòng tránh rủi ro và đảm bảo an toàn cho Người tiêu dùng. Các quy định phòng tránh rủi ro và đảm bảo an toàn này nên tập trung điều chỉnh các hoạt động gắn liền nhất với Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa như ký kế hợp đồng phát hành, việc điều chỉnh phí sử dụng các dịch vụ liên quan đến giao dịch thẻ, việc đảm bảo an toàn trong quá trình giao dịch thẻ, điều kiện an toàn với việc sử dụng cây ATM…

Thứ hai, các quy định về phương thức giải quyết tranh chấp giữa NHTM và người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa. Trong bất kỳ quan hệ hợp đồng nào, khi thiện chí và tự nguyện giao kết, các bên đều mong muốn hợp đồng được thực hiện theo đúng như thoả thuận nhằm mang lại lợi ích lớn nhất cho các bên. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp, chủ thể các bên trong quan hệ hợp đồng vì nhiều nguyên nhân khác nhau vi phạm nội dung đã thoả thuận làm ảnh hưởng tới quyền lợi của chủ thể còn lại. Hơn nữa, trong quan hệ hợp đồng giao dịch thẻ này, người sử dụng dịch vụ được đặt ở vị thế người yếu thế hơn, nên nếu xảy ra tranh chấp hợp đồng giữa Ngân hàng Thương mại và Người tiêu dùng thì chủ yếu do Ngân hàng Thương mại xâm phạm quyền lợi của Người tiêu dùng. Vì vậy, pháp luật phải xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp giữa Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa và Ngân hàng Thương mại. Hiện nay có bốn phương pháp giải quyết tranh chấp được quy định tại Chương 4 Luật bảo vệ Người tiêu dùng 2010. Ngoài ra còn các quy định về xử phạt hành chính tại Nghị định 185/2013/NĐ-CP  và nghị định số 124/2015/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của nghị định số 185/2013 về xử phạt vi phạm hành chính sản xuất buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng.

Thứ ba, các quy định về cơ quan bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng. Đây được đánh giá là nội dung quan trọng nhất của pháp luật bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng. Do Người tiêu dùng được đánh giá là bên yếu thế trong quan hệ hợp đồng giao dịch thẻ với đặc điểm hạn chế về thông tin, về kiến thức chuyên môn, về khả năng đàm phán hợp đồng nên tự bản thân họ rất ít hoặc không có khả năng tự bảo vệ mình trong việc ký kết hợp đồng, sử dụng dịch vụ cũng như giải quyết tranh chấp. Chính vì vậy, các cơ quan Nhà nước có nhiệm vụ bảo vệ Người tiêu dùng với vai trò là đại diện của quyền lực chính trị là chủ thể quan trọng trong việc làm việc đòi lại quyền lợi hợp pháp cho Người tiêu dùng. Hiện nay, pháp luật bảo vệ Người tiêu dùng của Việt Nam cũng đã có quy định cụ thể về nhiệm vụ của các Cơ quan nhà nước trong việc bảo vệ Người tiêu dùng như Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công thương…Ngoài ra còn đẩy mạnh vai trò của các Hội bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng trong việc đại diện Người tiêu dùng đứng ra giành lại quyền lợi chính đáng của mình. Việc thực hiện những quy định trên cũng khá khả quan trên thực tế như mạng lưới tổ chức Hội bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng đã được phát triển rộng đến cấp huyện, giúp đưa các tổ chức này đến gần với Người tiêu dùng ở các cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hỗ trợ Người tiêu dùng. Hơn nữa, giữa các cơ quan quản lý nhà nước như: Cục quản lý cạnh tranh, Hội đồng cạnh tranh, Bộ Công thương…đã có sự phối hợp nhịp nhàng, hỗ trợ lẫn nhau trong công tác bảo vệ lợi ích Người tiêu dùng. Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại NH.

Mới đây, Cục quản lý cạnh tranh cũng đã đa dạng hóa các phương thức hỗ trợ, tư vấn và tiếp nhận khiếu nại từ Người tiêu dùng, với mong muốn giúp Người tiêu dùng có thể thực hiện được các quyền lợi của mình. Theo đó, Người tiêu dùng có thể gọi điện đến tổng đài hỗ trợ, tư vấn; có thể gửi những thắc mắc, khiếu nại đến trang web bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng hay địa chỉ email của Cục quản lý cạnh tranh; hoặc cũng có thể gửi khiếu nại qua đường bưu điện, hay đến nộp trực tiếp tại địa chỉ của Cục quản lý cạnh tranh.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Trong chương 1, người viết đã trình  bày những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam.

Trong đó làm rõ khái niệm, đặc điểm “NTD sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại” và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa. Đồng thời phân tích các quyền, lợi ích cơ bản của Người tiêu dùng, sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng, qua đó đưa ra các biện pháp bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng. Trên cơ sở đó, người viết nêu ra nội dung pháp luật bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại bao gồm các thiết chế hữu hiệu là các cơ quan Nhà nước, các hiệp hội bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng, Ngân hàng Thương mại và chính từ phía NTD. Những lý luận trên là cơ sở giúp chúng ta đi sâu  nghiên cứu thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam ở chương tiếp theo của khoá luận. Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại NH.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Khóa luận: Thực trạng PL bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại NH

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x