Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Thực trạng pháp luật việt nam về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này. 

2.1. Pháp luật về phòng tránh rủi ro và đảm bảo an toàn cho người gửi tiền tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam

Hiện nay pháp luật đưa ra nhiều quy định về phòng tránh rủi ro cho người gửi tiền bằng cách quy định cụ thể về nghĩa vụ của ngân hàng đối với khách hàng, các tỷ lệ bảo đảm an toàn và biện pháp phòng tránh rủi ro trong hoạt động của Ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, các quy định này rải rác ở các văn bản luật khác nhau.

Đầu tiên, chúng ta phải nói đến Luật Các Tổ chức tín dụng, tại điều 10, Luật quy định về việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, theo đó các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải có trách nhiệm:

  • Tham gia tổ chức bảo toàn, bảo hiểm tiền gửi và công bố công khai việc tham gia tổ chức bảo toàn, bảo hiểm tiền gửi tại trụ sở chính và chi nhánh theo quy định của pháp luật.
  • Tạo thuận lợi cho khách hàng gửi và rút tiền, bảo đảm thanh toán đủ, đúng hạn gốc và lãi của các khoản tiền gửi.
  • Từ chối việc điều tra, phong tỏa, cầm giữ, trích chuyển tiền gửi của khách hàng, trừ trường hợp có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc được sự chấp thuận của khách hàng.
  • Thông báo công khai lãi suất tiền gửi, phí dịch vụ, các quyền, nghĩa vụ của khách hàng đối với từng loại sản phẩm, dịch vụ đang cung ứng. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.
  • Công bố thời gian giao dịch chính thức và không được tự ý ngừng giao dịch vào thời gian đã công bố. Trường hợp ngừng giao dịch trong thời gian giao dịch chính thức, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải niêm yết tại nơi giao dịch chậm nhất là 24 giờ trước thời điểm ngừng giao dịch. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được phép ngừng giao dịch quá 01 ngày làm việc, trừ trường hợp tạm ngừng hoạt động do nguyên nhân bất khả kháng.

Từ việc quy định trên, có thể thấy trách nhiệm của ngân hàng phải công khai tất cả các dịch vụ và chế độ ưu đãi đối với người gửi tiền, hơn nữa phải bảo vệ và giữ bí mật những thông tin về chính khách hàng. Ngân hàng là bên nắm ưu thế hơn trong quan hệ giao dịch với người gửi tiền, do đó, các điều khoản cũng như lợi ích, ưu đãi hay quyền lợi dành cho người gửi tiền thì có thể người gửi tiền không thể nắm chắc và nắm rõ hết tất cả được. Vì thế, việc bên ngân hàng phải công khai mọi thứ liên quan đến ngân hàng từ dịch vụ hay chế độ ưu đãi dành cho khách hàng hay lãi suất tiền gửi… Đây cũng như một hình thức mà ngân hàng tôn trọng khách hàng cũng như luật pháp của Nhà nước.

Trong Hiến pháp 2013 có quy định về quyền con người trong đó có quyền được thông tin. Do đó, việc công khai thông tin của ngân hàng là điều bắt buộc và không thể làm khác được. Các dịch vụ của ngân hàng có thể được công khai thông qua nhiều hình thức: ghi trong hợp đồng mẫu của ngân hàng, niêm yết công khai tại quầy giao dịch của ngân hàng,… qua đó, người gửi tiền biết rõ quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia hợp đồng với ngân hàng. Việc công khai này cũng một phần giúp cho ngân hàng có thể quảng cáo các dịch vụ của ngân hàng để thu hút khách hàng. Tất cả các ngân hàng hầu như đều cố gắng mở rộng dịch vụ của mình cũng như nhiều ưu đãi nhất có thể cho khách hàng để thu hút vốn cũng như mở rộng quy mô. Các dịch vụ của ngân hàng có rất nhiều như dịch vụ gửi tiền tiết kiệm, ngân hàng liên kết với các siêu thị hay cửa hàng kinh doanh, dịch vụ để mở tài khoản thanh toán qua thẻ, dịch vụ thanh toán quốc tế… Tuy nhiên, dịch vụ mà nhiều người gửi tiền lựa chọn nhất tại ngân hàng thường là dịch vụ gửi tiền tiết kiệm hưởng lãi suất. Thông thường tâm lý của người Việt Nam đặc biệt là tầng lớp người già và người dân ở các vùng nông thôn thường có suy nghĩ là gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng cho số tiền mình tích cóp được để hưởng lãi suất đều đặn hàng tháng vì hầu hết những người này có suy nghĩ đơn giản vì vốn ít và không có xu hướng kinh doanh hay đầu tư lớn. Có thể thấy, khi khách hàng có nhu cầu với dịch vụ gì thì sẽ tìm hiểu thông tin của ngân hàng mình muốn thực hiện dịch vụ đó, khi đó, ngân hàng càng công khai nhiều thông tin thì khách hàng sẽ càng hiểu rõ hơn về dịch vụ mà mình muốn làm, tạo điều kiện cho cả khách hàng và cả ngân hàng thực hiện được giao dịch dịch vụ đó nhanh hơn. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.

Khi người gửi tiền có một hợp đồng với bên ngân hàng về số tiền mà mình gửi vào ngân hàng thì người gửi tiền sẽ phải cung cấp thông tin cá nhân cũng như thông tin về số tiền gửi. Ngay cả khi người gửi tiền tại ngân hàng rút tiền qua thẻ thì thông tin số dư tài khoản hay mật khẩu cũng như tài khoản của người gửi tiền, ngân hàng đều nắm giữ được thông tin. Do đó, việc bảo mật thông tin cho khách hàng từ thông tin cá nhân đến thông tin tài khoản tiền gửi cũng phải được bảo mật tuyệt đối. Điều 14 luật các Tổ chức tín dụng cũng có quy định: “Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được cung cấp thông tin liên quan đến tài khoản, tiền gửi, tài sản gửi, các giao dịch của khách hàng tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cho tổ chức, cá nhân khác, trừ trường hợp có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc được sự chấp thuận của khách hàng”. Như vậy, chỉ duy nhất có chủ tài khoản mới có quyền được ngân hàng tiết lộ thông tin tài khoản đó, trừ trường hợp khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu vì liên quan đến việc kiểm tra, điều tra số tiền của cá nhân đó liệu có là tiền “sạch” khi có liên quan đến vụ án, vụ việc cụ thể  nào đó. Không những vậy, khi người chủ tài khoản khai những thông tin cần thiết cho nhân viên ngân hàng thì còn phải xác nhận bằng chữ ký đã đăng ký với ngân hàng trong lần đầu đăng ký tài khoản với ngân hàng. Hiện nay, hầu hết tất cả các ngân hàng cũng áp dụng  việc tra chữ ký để xác thực thông tin chính xác chủ tài khoản như : BIDV, ViettinBank, Vietcombank…. đây là một hình thức bảo mật gần như tuyệt đối của ngân hàng, cũng như một cách giúp bảo đảm an toàn thông tin cho người gửi tiền.

Bảo đảm an toàn cho người gửi tiền còn là sự đảm bảo an toàn về số tiền mà khách hàng gửi vào ngân hàng. Như điều 10 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 có quy định: “Từ chối việc điều tra, phong tỏa, cầm giữ, trích chuyển tiền gửi của khách hàng, trừ trường hợp có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc được sự chấp thuận của khách hàng”

Như vậy, khi bảo đảm thông tin tài khoản cho khách hàng, ngân hàng đồng thời phải đảm bảo số tiền người gửi tiền gửi tại ngân hàng phải được đảm bảo tuyệt đối: không điều tra, phong tỏa, cầm giữ hay trích chuyển trừ trường hợp có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay là có sự đồng ý của khách hàng. Bởi khi ngân hàng cho phép ai khác hay chính ngân hàng xâm phạm đến số tiền gửi của người gửi tiền, đó như là việc “xâm hại bí mật đời tư” của số tiền đó vậy. Ngân hàng chỉ được quyền nhận tiền từ người gửi tiền, có trách nhiệm bảo đảm an toàn cho nó bằng việc “thanh toán đủ, đúng hạn gốc và lãi của các khoản tiền gửi” cho người gửi tiền. Đây được coi là nghĩa vụ cơ bản nhất của các ngân hàng để đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.

Bên cạnh đó, Ngân hàng thương mại cũng phải thực hiện đúng và đủ các quy định về tỷ lệ đảm bảo an toàn và phòng tránh rủi ro trong quá trình hoạt động. Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nêu rõ: “Dự phòng rủi ro là số tiền được trích lập và hạch toán vào chi phí hoạt động để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra đối với nợ của Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài”. Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với các nhóm nợ như sau:  Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn): 0%; Nhóm 2 (Nợ cần chú ý): 5%; Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn): 20%; Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ mất vốn): 50%; Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn): 100%. Lợi nhuận đang là nguyên nhân hàng đầu khiến các Ngân hàng thương mại tính toán, cân nhắc có nên trích đúng, đủ dự phòng rủi ro hằng năm. Các Ngân hàng thương mại luôn bị sức ép trong kinh doanh khiến họ phải giấu đi những khoản nợ đáng lẽ phải trích dự phòng rủi ro một cách sòng phẳng. Do vậy, quy định pháp luật cũng phần nào răn đe các Ngân hàng thương mại thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình, tuân thủ việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.

Thứ hai, các ngân hàng bắt buộc phải tham gia bảo hiểm tiền gửi. 

Theo khoản 1 điều 4 Luật Bảo hiểm tiền gửi 2012 “Bảo hiểm tiền gửi là sự bảo đảm hoàn trả tiền gửi cho người được bảo hiểm tiền gửi trong hạn mức trả tiền bảo hiểm khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền hoặc phá sản”. Có thể nói hiện nay, Bảo hiểm tiền gửi là công cụ quan trọng nhất để bảo vệ quyền lợi người gửi tiền. Bảo hiểm tiền gửi như một đòi hỏi tất yếu của nền kinh tế, là cơ sở củng cố niềm tin cho người gửi tiền đối với các Tổ chức tín dụng nói chung và các Ngân hàng thương mại nói riêng.  Mục đích lớn nhất của Luật Bảo hiểm tiền gửi là bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, chẳng vậy mà ngay tại điều 6 Luật Bảo hiểm tiền gửi đã có quy định: “Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nhận tiền gửi của cá nhân phải tham gia bảo hiểm tiền gửi”, chỉ trừ ngân hàng chính sách là không phải tham gia. Bảo hiểm tiền gửi trở thành hình thức bắt buộc đối với các Ngân hàng thương mại và các TCTD có huy động vốn từ các cá nhân hay chính là dân cư. Thực vậy, người gửi tiền không thể kiểm soát được rủi ro của chính họ bởi người gửi tiền là người cho ngân hàng vay tiền, trường hợp xấu nhất ngân hàng phá sản hay mất khả năng thanh toán các khoản tiền vay đó thì người gửi tiền sẽ phải chịu rủi ro đó. Nhưng khi có Bảo hiểm tiền gửi đứng ra bảo hiểm cho số tiền mà người gửi tiền gửi vào ngân hàng, đồng nghĩa với việc dù ngân hàng đó  không có khả năng thanh toán cho người gửi tiền thì Bảo hiểm tiền gửi sẽ đứng ra chịu trách nhiệm về số tiền mà ngân hàng đó đã mua bảo hiểm với số tiền mà người gửi tiền đã gửi vào ngân hàng. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.

Việc tham gia Bảo hiểm tiền gửi của ngân hàng cũng như việc nhà nước ban hành Luật Bảo hiểm tiền gửi cũng đã góp phần rất lớn trong việc củng cố niềm tin cho người gửi tiền. Khi thấy số tiền mình tích cóp luôn được đảm bảo an toàn dù có chuyện gì đi nữa, người dân sẽ có lòng tin hơn với ngân hàng mà mình gửi tiền, nhờ vậy, ngân hàng cũng có cơ hội có được nguồn vốn cần thiết để thực hiện các hoạt động đầu tư khác, đóng góp tiềm lực cho nền kinh tế càng phát triển hơn. Điều này đã khắc phục những bât cập của hệ thống pháp luật về Bảo hiểm tiền gửi trong việc xác định trách nhiệm quản lí Nhà nước và thanh tra về bảo hiềm tiền gửi, Luật Bảo hiểm tiền gửi đã quy định rõ: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chịu trách nhiệm trước chính phủ về quản lí Bảo hiểm tiền gửi và thực hiện chức năng thanh tra về Bảo hiểm tiền gửi. Việc quy định rõ ràng sẽ tránh được trường hợp đùn đẩy trách nhiệm hoặc tranh chấp về thẩm quyền của các cơ quan liên quan. Hơn nữa, trong bối cảnh tái cơ cấu ngân hàng, việc tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định pháp luật về Bảo hiểm tiền gửi còn giúp các Ngân hàng thương mại ổn định nguồn tiền gửi, cạnh tranh với các Ngân hàng thương mại khác trong và ngoài nước và vượt qua giai đoạn tái cơ cấu.

Tuy nhiên, quá trình triển khai những quy định của pháp luật về BHTG còn nhiều khó khăn. Ở vị trí người gửi tiền họ thường quan tâm đến đối tượng được hưởng bảo hiểm, loại tiền gửi được bảo hiểm, hạn mức chi trả tiền bảo hiểm và khi nào họ được chi trả bảo hiểm. Về loại tiền gửi được bảo hiểm, ở nước ta, tiền gửi được bảo hiểm bao gồm “tiền gửi bằng đồng Việt Nam”. Như vậy, tiền gửi bằng vàng hay ngoại tệ không được bảo hiểm. Điều này làm cho nhiều người có thắc mắc rằng tại sao khi họ có đô la muốn gửi vào ngân hàng nhưng lại không được bảo hiểm? Chưa kể Việt Nam đã gia nhập WTO, các chủ thể trong và ngoài nước sử dụng phương tiện thanh toán tại Ngân hàng thương mại ngày càng tăng, do vậy, việc không bảo hiểm cho ngoại tệ phần nào chống lại việc thu hút nguồn vốn ngoại tệ từ cá nhân, tổ chức gửi về Việt Nam.

Trong thời gian qua, các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm đưa ra các thông số để lường trước vấn đề rủi ro, từ đó tìm ra các giải pháp nhằm hạn chế và loại trừ rủi ro đối với hệ thống ngân hàng. Điều này đã tạo điều kiện để hệ thống ngân hàng phát triển lành mạnh, tạo cơ sở cho kinh tế phát triển bền vững cũng như bảo vệ quyền lợi người gửi tiền. Tuy nhiên, các quy định này còn nhiều vướng mắc. Hiện nay, các quy định về phòng tránh rủi ro cho hệ thống ngân hàng chưa được quan tâm đúng mực, các quy định nằm rải rác ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau, mà chủ yếu là các văn bản dưới luật, do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành. Điều này chưa thể hiện rõ được vai trò của việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiền đối với nền kinh tế quốc gia và hệ thống ngân hàng.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Nhận Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

2.2. Pháp luật về cơ quan bảo vệ người gửi tiền tại Ngân hàng thương mại Việt Nam Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.

Hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ của các Tổ chức tín dụng luôn tiềm ẩn rủi ro. Hơn nữa, đây là lĩnh vực kinh doanh hết sức nhạy cảm, do trực tiếp dùng tiền huy động của người dân để thực hiện các hoạt động đầu tư nên nếu không có hệ thống cơ chế, chính sách pháp luật đầy đủ và cụ thể cũng như hệ thống kiểm soát rủi ro chặt chẽ của cơ quan chức năng thì nguy cơ đổ vỡ Tổ chức tín dụng có thể xảy ra bất kỳ lúc nào.

2.2.1. Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV)

Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (Deposit Insurance of Vietnam – DIV) là tổ chức tài chính Nhà nước được thành lập theo Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ và chính thức hoạt động từ ngày 07/07/2000. Hoạt động của cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam không vì mục tiêu lợi nhuận mà nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng. Luật Bảo hiểm tiền gửi quy định rõ quyền và nghĩa vụ của DIV tại điều 13, những quy định đó đều nhằm bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền và các tổ chức tín dụng mà đặc biệt là người gửi tiền.

Thứ nhất, DIV chịu sự kiểm tra, thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Theo đó, DIV có trách nhiệm phải báo cáo thông tin liên quan đến các tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi và của người được Bảo hiểm tiền gửi cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Theo như điểm a, b khoản 1 điều 33 Luật Bảo hiểm tiền gửi có quy định về trách nhiệm báo cáo và công bố thông tin của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi: báo cáo thông tin về việc chấp hành quy định pháp luật về Bảo hiểm tiền gửi của tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi và thông tin về việc trả tiền bảo hiểm đối với người được bảo hiểm tiền gửi định kỳ 6 tháng hoặc nếu có yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì phải báo cáo đột xuất. Quy định này cho thấy sự phối hợp chặt chẽ giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và DIV. Và người gửi tiền cũng như các Ngân hàng thương mại cũng có thể yên tâm tuyệt đối về khoản tiền được bảo hiểm tại DIV vì được giám sát chặt chẽ từ phía Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Hơn nữa, việc theo dõi, kiểm tra việc chấp hành các quy định pháp luật về Bảo hiểm tiền gửi của các Tổ chức tín dụng và kiến nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xử lý các hành vi vi phạm quy định pháp luật về Bảo hiểm tiền gửi cũng được chú trọng. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.

Thứ hai, nghĩa vụ quản lý, sử dụng và bảo toàn nguồn vốn Bảo hiểm tiền gửi. Điều này nhằm tránh rủi ro và hao tổn quỹ Bảo hiểm tiền gửi, gây tác động xấu đến hiệu quả của hệ thống Bảo hiểm tiền gửi. Điều 31 Luật Bảo hiểm tiền gửi cho phép: “tổ chức bảo hiểm tiền gửi được sử dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để mua trái phiếu Chính phủ, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và gửi tiền tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”. DIV bản chất vẫn là một tổ chức bảo hiểm, do đó, hoạt động của nó vẫn dựa theo nguyên lý cơ bản là bù đắp rủi ro theo cơ chế lấy số đông bù cho số ít. Việc cần phải quản lý chặt chẽ nguồn vốn Bảo hiểm tiền gửi có vai trò rất quan trọng bởi nếu DIV cũng lấy nguồn vốn đó mang đi đầu tư như là các Tổ chức tín dụng thì nếu xảy ra rủi ro, cơ quan nào sẽ đứng ra bảo hiểm cho họ nữa. Hệ quả của vấn đề đó còn ảnh hưởng đến cả các Tổ chức tín dụng và cả người gửi tiền. Và hệ quả rộng hơn đó là ảnh hưởng đến cả nền kinh tế quốc gia.

Thứ ba, chi trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm tiền gửi. Việc chi trả tiền bảo hiểm được dành riêng mục 4 trong Luật Bảo hiểm tiền gửi để quy định về vấn đề này. Theo đó, trong thời hạn 60 ngày, kể từ thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm tiền gửi có trách nhiệm trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm tiền gửi. Số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của một người tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bao gồm tiền gốc và tiền lãi, tối đa bằng hạn mức trả tiền bảo hiểm. Hơn nữa, Luật cũng quy định rõ về hạn mức trả tiền bảo hiểm, thủ tục trả tiền như thế nào, số tiền bảo hiểm được trả trong trường hợp nhiều người sở hữu chung tiền gửi ra làm sao cũng như việc xử lý số tiền gửi vượt hạn mức trả tiền bảo hiểm và thu hồi số tiền bảo hiểm phải trả từ tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi.

Chi trả tiền bảo hiểm là sự khẳng định dễ nhận biết nhất về quyền lợi của người gửi tiền được đảm bảo. Việc chi trả kịp thời, thuận tiện cho người gửi tiền sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự an tâm của dân chúng với các ngân hàng khác chưa bị đổ vỡ và có thể giảm thiểu rủi ro khủng hoảng hệ thống bất thường. Theo Điều 24 Luật Bảo hiểm tiền gửi thì hạn mức trả tiền bảo hiểm là số tiền tối đa mà tổ chức bảo hiểm tiền gửi trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của một người tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm. Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi sẽ chi trả tiền bảo hiểm cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của mỗi khách hàng tại một tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi tối đa là 50 triệu đồng (bao gồm cả gốc và lãi). Nếu khoản tiền gửi được bảo hiểm (bao gồm cả tiền gốc và lãi) của người gửi tiền vượt quá hạn mức trả tiền bảo hiểm (hiện nay vượt hơn mức 50 triệu đồng) thì sẽ được giải quyết trong quá trình xử lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng giá tiêu dùng như hiện nay, hạn mức này đã trở nên không phù hợp với thu nhập bình quân đầu người ở nước ta hiện nay. Điều nay phần nào làm cho người gửi tiền không có niềm tin vững chắc vào Bảo hiểm tiền gửi. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.

Thứ tư, bảo đảm bí mật số liệu tiền gửi và tài liệu liên quan đến bảo hiểm tiền gửi của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Cũng như các ngân hàng, DIV cũng cần phải đảm bảo bí mật về số tiền cũng như thông tin liên quan đến người gửi tiền để bảo đảm an toàn cho người gửi tiền.

Thứ năm, tổng hợp, phân tích và xử lý thông tin về tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi nhằm phát hiện và kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xử lý kịp thời những vi phạm quy định về an toàn hoạt động ngân hàng, rủi ro gây mất an toàn trong hệ thống ngân hàng liên quan đến bảo hiểm tiền gửi của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Việc trao đổi, giám sát thông tin lẫn nhau giữa DIV và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam rất thường xuyên và khách quan. Theo như quy định tại điều 9, 10 nghị định 68/2013/NĐ- CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Bảo hiểm tiền gửi thì khi DIV thực hiện nhiệm vụ báo cáo với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong trường hợp: “Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi vi phạm quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng hoặc vi phạm các quy định về pháp luật ngân hàng khác” và “hoạt động của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có nguy cơ dẫn đến mất khả năng chi trả, thất thoát tài sản hoặc có tác động tiêu cực tới các tổ chức tín dụng khác”. Bên cạnh đó, DIV cũng được tiếp cận một số nguồn thông tin từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam như: “Thông tin về việc chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, giải thể, phá sản tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi” hay “thông tin về việc kiểm soát đặc biệt tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định pháp luật về kiểm soát đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng”. Việc tác động qua lại, kiểm tra giám sát cũng như báo cáo, nắm bắt thông tin liên tục của DIV và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam giúp cho DIV có biện pháp để ứng phó trước tình hình bất ổn của các ngân hàng hay có kiến nghị đến Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để xử lý các vụ việc xấu có thể xảy ra nhằm đảm bảo tối đa quyền lợi của người gửi tiền.

Hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã thực sự góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới đất nước, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, duy trì sự ổn định, phát triển an toàn lành mạnh của hệ thống các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, là nhân tố quan trọng trong việc phát huy nguồn vốn nội lực để phát triển kinh tế, giữ vững ổn định, an ninh kinh tế, chính trị và trật tự an toàn xã hội.

2.2.2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.

Theo điểm b khoản 2 điều 15 nghị định 68/2013/NĐ-CP: “Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động bảo hiểm tiền gửi, tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, tổ chức bảo hiểm tiền gửi; thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với tổ chức bảo hiểm tiền gửi…”. Có thể thấy, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chịu trách nhiệm quản lý chính về hoạt động của DIV, các Ngân hàng thương mại và tất cả các hoạt động chung về Bảo hiểm tiền gửi. Điều này cũng chứng tỏ một điều rằng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, thậm chí đóng vai trò chủ chốt trong việc quyết định các quyền lợi của người gửi tiền.

Còn theo Luật Bảo hiểm tiền gửi tại điều 35 thì Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có chức năng thanh tra về Bảo hiểm tiền gửi, trong đó, đối tượng của việc thanh tra này gồm có DIV và các tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi. Việc thanh tra này giúp cho DIV hoạt động tốt, đúng như quy trình pháp luật quy định; các Tổ chức tín dụng nói chung và Ngân hàng thương mại nói riêng cũng thực hiện các hoạt động theo như pháp luật quy định, không có sai phạm, góp phần làm sạch hệ thống ngân hàng, tránh xảy ra tình trạng xâm phạm quyền lợi người gửi tiền. Bên cạnh thanh tra, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam còn có nhiệm vụ giải quyết việc khiếu nại với quyết định hành chính, hành vi hành chính về Bảo hiểm tiền gửi trong trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu.

Tuy việc thanh tra, quản lý khá chặt chẽ nhưng thực tế một số ngân hàng còn cố tình thực hiện sai hay thực hiện không đầy đủ quy định của pháp luật Bảo hiểm tiền gửi, nhất là trong công tác kiểm tra tại chỗ của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi. Một sai phạm thường gặp nữa là trong việc nộp phí Bảo hiểm tiền gửi. Đó là tình trạng nộp thừa hay cố tình trốn tránh không nộp phí Bảo hiểm tiền gửi, nộp phí không đầy đủ, không đồng bộ.

Thực tế kiến thức về pháp luật bảo vệ người gửi tiền của các nhân viên ngân hàng còn hạn chế. Các Ngân hàng thương mại nỗ lực trong việc bảo vệ người gửi tiền là vì lợi ích của chính họ trong việc thu hút nguồn vốn chứ thực chất chưa xây dựng được văn hóa tuân thủ pháp luật về bảo vệ người gửi tiền. Chính vì vậy, trong nhiều trường hợp, lợi ích ngân hàng và lợi ích của người gửi tiền mâu thuẫn, Ngân hàng thương mại sẽ vi phạm lợi ích của người gửi tiền, gây ra những tranh chấp không đáng có. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.

2.2.3. Các cơ quan Nhà nước khác

Thứ nhất, Chính phủ là cơ quan quản lí có thẩm quyền chung, quản lý tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có vấn đề tài chính, tiền tệ. Chính phủ có thẩm quyền ban hành Nghị định, thể chế hóa các quy định của Hiến pháp, Luật, đưa các quy định về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền của Quốc hội vào cuộc sống. Ngoài ra, Chính phủ thống nhất quản lý về Bảo hiểm tiền gửi và một vai trò quan trọng hơn hết trong việc bảo vệ người gửi tiền của Chính phủ, đó là việc ban hành nhiều Nghị định hướng dẫn, thi hành mà nổi trội là ban hành nghị định 68/2013/NĐ- CP quy định chi tiết và hướng dẫn Luật Bảo hiểm tiền gửi 2012 do Quốc hội ban hành. Việc này có ý nghĩa rất quan trọng bởi nhiều điều quy định trong các văn bản Luật còn gây nhiều thắc mắc cũng như chưa thực sự rõ ràng cho người áp dụng luật, gây ra nhiều ảnh hưởng không đáng có vì chưa hiểu rõ Luật quy định. Nhưng việc ban hành các nghị định hướng dẫn giúp cho mọi điều được sáng tỏ hơn, giúp cho các tổ chức, cá nhân nắm bắt đầy đủ tinh thần của các văn bản luật mà Quốc hội đã ban hành. Qua đó cũng thấy được vai trò vô cùng to lớn của Chính phủ trong việc gián tiếp bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.

Thứ hai, hệ thống Tòa án, đây là cơ quan tài phán công, căn cứ vào quy định của pháp luật để đưa ra phán quyết công bằng, đúng đắn cho các bên tranh chấp. Tranh chấp phát sinh giữa Ngân hàng thương mại và người gửi tiền được quy định tại điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 sửa đổi bổ sung 2011. Trong đó, những tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận gồm: “Cung ứng dịch vụ” thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án. Nếu xét đúng đắn thì trong quan hệ giữa người gửi tiền và Ngân hàng thương mại, Ngân hàng thương mại có mục đích lợi nhuận nhưng người gửi tiền thường là các cá nhân có tiền gửi tiết kiệm và hưởng lãi, mà lãi đó thực chất là “hoa lợi, lợi tức” trên số tiền tiết kiệm của mình mang lại hay chính là tài sản của mình mang lại. Do đó, nếu nói đây là một tranh chấp mà hai bên đều có mục đích lợi nhuận cũng không hoàn toàn chính xác. Lúc này, hợp đồng gửi tiền giữa người gửi tiền và Ngân hàng thương mại là hợp đồng dân sự theo nghĩa hẹp. Tuy nhiên, nếu xét theo một khía cạnh khác, khi mà lãi suất từ khoản tiền tiết kiệm của người gửi tiền có thể coi là lợi nhuận thu được từ khoản tiền mình gửi vào ngân hàng cũng là một cách hiểu. Dù hiểu theo cách nào đi nữa thì việc tranh chấp giữa Ngân hàng thương mại và người gửi tiền cũng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo điều 25, 29 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 sửa đổi bổ sung 2011.

Theo dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự được Quốc hội thông qua vào 25/11/2015, về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp giữa NHTM và người gửi tiền vẫn được quy định tại điều 26 nếu tiếp cận từ góc độ là một tranh chấp hợp đồng dân sự. Với cách tiếp cận là một tranh chấp về kinh doanh, thương mại được quy định riêng ra hẳn một điều luật là điều 30. Đây được coi như là một sự nhìn nhận cao về việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiền của nhà nước ta.

Thứ ba, Bộ tài chính và Ủy ban giám sát Tài chính Quốc gia. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.

Theo điều 1 nghị định 215/2013/ NĐ – CP quy định về chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính: Bộ tài chính là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài chính (bao gồm: ngân sách nhà nước, thuế, phí, lệ phí và thu khác của ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia, tài sản nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước, đầu tư tài chính, tài chính doanh nghiệp, tài chính hợp tác xã và kinh tế tập thể); hải quan; kế toán; kiểm toán độc lập; giá; chứng khoán; bảo hiểm; hoạt động dịch vụ tài chính và dịch vụ khác thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ; thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Như vậy, nhìn qua nhiệm vụ, chức năng của Bộ Tài chính có thể thấy Bộ có chức năng quản lý các vấn đề liên quan đến bảo hiểm. Mà các Tổ chức tín dụng lại bắt buộc phải tham gia Bảo hiểm tiền gửi, như vậy, Bộ tài chính là cơ quan gián tiếp liên quan đến việc bảo vệ người gửi tiền. Theo như điểm đ) điều 15 nghị định 215/2013/ NĐ – CP thì Bộ tài chính có nhiệm vụ “hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện cơ chế tài chính của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các ngân hàng thương mại nhà nước, Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, Bảo hiểm xã hội Việt Nam và các quỹ tài chính khác theo quy định của pháp luật”. Bộ tài chính cũng có nhiệm vụ hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện cơ chế tài chính của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam hay DIV, tổ chức bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.

Theo Chương 3 Quy chế tổ chức và hoạt động của Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia được ban hành kèm theo Quyết định số 79/2009/QĐ-TTg ngày 18/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ có quy định về nhiệm vụ của Ủy ban giám sát tài chính Quốc gia: “giúp Thủ tướng Chính phủ thực hiện giám sát chung thị trường tài chính quốc gia, giám sát hợp nhất hoạt động của các tập đoàn tài chính, giám sát điều kiện được cấp phép hoạt động của các tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính, tổ chức khác hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm”. Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia có sự liên kết chặt chẽ với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ tài chính và các cơ quan liên quan trong việc xây dựng các cơ chế, chính sách, quy định về quản lý, thanh tra, giám sát hoạt động tài chính, các chiến lược, định hướng phát triển ngành ngân hàng, thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm. Bên cạnh đó, Ủy ban còn thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu, tổng hợp, xử lý, cung cấp thông tin về thị trường tài chính quốc gia rồi phân tích, dự báo, cảnh báo mức độ an toàn hệ thống tài chính, nguy cơ rủi ro đối với thị trường tài chính quốc gia và đề xuất giải pháp xử lý, báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Hơn thế, cơ quan này còn đề xuất, kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành hữu quan, các cơ quan thanh tra – giám sát chuyên ngành và cấp có thẩm quyền xử lý vi phạm đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm, không tuân thủ hoặc không thực hiện đầy đủ các quy định, các điều kiện trong hoạt động ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, quy định về cung cấp thông tin định kỳ, đột xuất phục vụ hoạt động giám sát thị trường tài chính quốc gia. Có thể thấy, Bộ tài chính và Ủy ban giám sát tài chính Quốc gia đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ bảo vệ quyền lợi người gửi tiền. Cả Bộ và Ủy ban đều có nhiệm vụ là nhân tố tác động và kiến nghị những vấn đề liên quan đến các NHTM hay cơ quan DIV, giúp cho quyền lợi người gửi tiền luôn được đảm bảo, tránh xảy ra rủi ro cũng như sai phạm trong hoạt động của các ngân hàng. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.

Có thể nói, các cơ quan nói trên được thành lập theo nhu cầu tất yếu của xã hội, có nhiệm vụ và quyền hạn riêng khác nhau với các lĩnh vực mình quản lý, nhưng có chung nhiệm vụ và quyền hạn sâu xa là bảo vệ quyền lợi người gửi tiền. Tất cả các cơ quan hoạt động, thành lập cũng như giám sát hay liên kết lẫn nhau để cùng bảo vệ quyền lợi, bênh vực cho kẻ yếu là người gửi tiền theo quy định của pháp luật. Tuy có nhiều quy định không thực sự rõ ràng nhưng thông qua nhiều điều luật, chúng ta vẫn có thể hiểu điều luật quy định như thế nhằm hướng đến người gửi tiền đồng thời bảo vệ sự an toàn của hệ thống tài chính quốc gia.

2.3. Pháp luật về phương thức giải quyết tranh chấp giữa Ngân hàng thương mại Việt Nam và người gửi tiền

Phương thức có thể hiểu chung là cách thức và phương pháp tiến hành. Cả Ngân hàng thương mại cũng như người gửi tiền đều không mong muốn có tranh chấp xảy ra vì nó sẽ ảnh hưởng nhiều đến mục đích cũng như quyền lợi của các bên. Tuy nhiên, có thể vì một nguyên nhân nào đó mà một bên vi phạm quyền và lợi ích của bên kia, mà bên vi phạm này thường là bên Ngân hàng thương mại. Tức là tranh chấp xảy ra thường là nguyên nhân xuất phát từ phía Ngân hàng thương mại, dẫn đến tổn hại quyền và lợi ích của người gửi tiền. Để giải quyết tranh chấp ở nước ta hiện nay, có bốn phương thức giải quyết tranh chấp chính:  thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và Tòa án.

Thương lượng là việc hai bên có tranh chấp (NHTM và người gửi tiền) tự gặp nhau bàn bạc thỏa thuận, không chịu bất kì ràng buộc của của nguyên tắc pháp lý hay quy định khuân mẫu nào về giải quyết tranh chấp, trong đó kết quả hoàn toàn phụ thuộc vào các bên và không được đảm bảo thi hành. Ưu điểm của phương thức này là đơn giản, hiệu quả, nhanh chóng, thuận tiện, ít tốn kém và đặc biệt có thể bảo vệ uy tín cho các bên tranh chấp, bảo vệ bí mật kinh doanh của Ngân hàng thương mại. Nhưng nhược điểm của phương thức này là không có cơ chế đảm bảo thi hành, việc này dễ đến đến việc Ngân hàng thương mại có thể không thực hiện nghĩa vụ như thương lượng và không có một chế tài nào bắt buộc thực hiện khi hai bên có thương lượng xong. Trong pháp luật Việt Nam không có quy định cụ thể cho phương thức thương lượng giữa Ngân hàng thương mại và người gửi tiền nhưng có quy định trong Luật thương mại 2005 về giải quyết tranh chấp trong thương mại bằng phương thức thương lượng giữa các bên tại khoản 1 điều 317. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.

Hòa giải là việc hai bên tranh chấp (NHTM và người gửi tiền) giải quyết tranh chấp trong đó có sự hiện diện của bên thứ ba làm trung gian để trợ giúp các bên tìm kiếm giải pháp tối ưu nhằm loại trừ tranh chấp, cũng không chịu bất kì ràng buộc của của nguyên tắc pháp lý hay quy định khuôn mẫu nào về giải quyết tranh chấp và kết quả hoàn toàn phụ thuộc vào các bên và không được đảm bảo thi hành. Ưu điểm của phương thức này là kết quả hòa giải dễ thành công hơn thương lượng do có sự can thiệp của bên thứ ba, tuy nhiên, có người thứ ba thì bí mật kinh doanh cũng như uy tín của Ngân hàng thương mại khó giữ được, chưa kể còn tốn kém phí dịch vụ cho người thứ ba. Hòa giải cũng được quy định tại khoản 2 điều 317 Luật thương mại 2005.

Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận, trong đó có sự tham gia của bên thứ ba – các trọng tài viên hoặc trọng tài viên duy nhất. Trọng tài là bên trung gian, hoàn toàn độc lập với các bên, đứng giữa để giải quyết tranh chấp và đưa ra phán quyết có tính chất bắt buộc để bảo vệ quyền lợi của các bên. Kết quả của việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài là phán quyết do trọng tài tuyên đối với các đương sự của vụ tranh chấp. Theo điều 2 Luật trọng tài thương mại 2010 có quy định về tranh chấp giữa Ngân hàng thương mại và người gửi tiền có thể được giải quyết theo phương thức trọng tài thương mại. Phương thức này có nhiều ưu điểm, đây là một cơ chế giải quyết tranh chấp mềm dẻo, nhanh chóng, thuận lợi cho các bên, đảm bảo tối đa quyền tự do thỏa thuận của các bên, tiết kiệm thời gian và chi phí cho các bên, nâng cao được hiệu quả kinh doanh. Hơn nữa, nó có thể đảm bảo được bí mật trong quá trình giải quyết tranh chấp, khả năng tiếp tục duy trì mối quan hệ của các bên. Phương thức này mang tính chuyên môn cao, không đại diện cho quyền lực Nhà nước nên thích hợp để giải quyết các tranh chấp giữa các bên có quốc tịch khác nhau. Bên cạnh các ưu điểm và lợi ích của Trọng tài thương mại thì phương thức này cũng có những điểm yếu. Nó hạn chế không cho các bên kháng cáo, kháng nghị và chi phí trong việc giải quyết trọng tài thường được ấn định trước và thường cao hơn rất nhiều so với các phương thức giải quyết tranh chấp khác.

Tòa án là phương thức giải quyết tại cơ quan tài phán Nhà nước. Đây là phương thức giải quyết tranh chấp thường được các bên sử dụng nhiều nhất bởi giá trị ràng buộc của phán quyết bắt buộc, bị cưỡng chế thi hành (trong trường hợp không tuân thủ), có thể kháng cáo và khả năng thực thi phán quyết cao. Tuy nhiên, khi giải quyết tranh chấp bằng phương thức Tòa án, kinh phí tốn kém hơn cũng như không giữ được bí mật kinh doanh cũng như ảnh hưởng đến uy tín ngân hàng do xét xử và tuyên án công khai. Có thể nói, trong tất cả các phương thức giải quyết tranh chấp, nếu có tranh chấp xảy ra, Ngân hàng sẽ “ngại” nhất là phương thức Tòa án bởi với một Ngân hàng thương mại, việc ảnh hưởng đến uy tín ngân hàng sẽ ảnh hưởng nhiều đến hoạt động kinh doanh cũng như tâm lý người gửi tiền cũng như khách hàng sử dụng các dịch vụ khác ở ngân hàng. Đôi khi chỉ cần một yếu tố bất lợi nhỏ như thế thôi nhưng cũng có thể khiến một ngân hàng phá sản.

Quan hệ hợp đồng vay – cho vay tài sản giữa Ngân hàng thương mại và người gửi tiền có đặc thù là chủ thể không cân xứng về trình độ hiểu biết và khả năng tiếp cận thông tin. Ngân hàng thương mại có trình độ hiểu biết pháp luật, khoa học công nghệ thường cao hơn người gửi tiền, họ có đủ kiến thức, cơ chế để bảo vệ mình trong cuộc tranh chấp nên thường là bên có thế mạnh. Và khi xảy ra tranh chấp, người gửi tiền khó có khả năng đưa ra các dẫn chứng chứng minh Ngân hàng thương mại vi phạm, lúc này, họ cần có sự giúp đỡ của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhưng hiện nay, pháp luật chưa có quy định nào về sự hỗ trợ này cho người gửi tiền. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.

Nhìn chung, các tranh chấp về tiền gửi giữa người gửi tiền và ngân hàng ít khi xảy ra bởi chỉ khi có lý do khách quan cực kì hãn hữu nào đó thì ngân hàng mới xâm phạm đến quyền và lợi ích của người gửi tiền mà xảy ra tranh chấp. Còn trong tình trạng hoạt động bình thường ít khi xảy ra trường hợp này bởi trên các Ngân hàng thương mại còn có sự giám sát chặt chẽ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ủy ban giám sát Tài chính Quốc gia hay DIV. Chính các cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng có chức năng là “công cụ răn đe”, phòng ngừa trước việc sai phạm của các Ngân hàng thương mại. Cũng có ít các trường hợp tranh chấp xảy ra nhưng thường được giải quyết bằng thương lượng, đôi khi ngân hàng cũng có thể dùng tiền để khuất lấp đi chính sai phạm của mình. Người gửi tiền không am hiểu nhiều về pháp luật, cũng yếu thế hơn nên việc ngân hàng đứng ra thương lượng thì họ thường sẽ không kiện cáo hay làm to chuyện lên làm gì, âu cũng là khi đó họ tự cảm thấy quyền lợi của mình được bù đắp xứng đáng rồi.

2.4. Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền trong trường hợp ngân hàng thương mại chấm dứt hoạt động

NHTM cũng như những chủ thể kinh doanh khác, do nhiều nguyên nhân mà nó được sinh ra và cũng vì nhiều nguyên nhân khác nhau mà nó cũng có thể mất đi. Sự bùng nổ về số lượng ngân hàng và chi nhánh ngân hàng được thành lập nhưng không đồng hành với sự cải thiện đáng kể trong công tác phòng tránh rủi ro (không áp dụng các chuẩn mực quốc tế về phân loại vốn vay, trích lập dự phòng và công bố thông tin) cũng như việc giám sát, thanh tra, xử phạt của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, lại còn chịu tác động bởi tham nhũng, can thiệp bởi chính quyền và các nhóm lợi ích. Sự yếu kém về quản trị, điều hành và nguồn nhân lực cùng việc thanh khoản yếu kém và tình hình nợ xấu cao; sự điều hành của Nhà nước không kịp thời đối với các thị trường có liên quan đến ngân hàng như thị trường chứng khoán; thị trường vàng, thị trường bất động sản gây ra các tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng; áp lực tăng vốn cùng thách thức bởi sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài; nhiều Ngân hàng thương mại vẫn có tâm lý ỷ lại vào sự bảo hộ của nhà nước, thiếu năng động trong hoạt động kinh doanh, thiếu chuẩn bị về nhân lực làm hạn chế khả năng mở rộng mạng lưới, thị phần, khả năng đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng còn thấp đã và đang là những nguyên nhân chính dẫn đến việc ngân hàng yếu kém phải tổ chức lại hay chấm dứt hoạt động.

Việc tổ chức lại hay chấm dứt hoạt động ngân hàng được thể hiện dưới nhiều hình thức: chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, giải thể, phá sản (quy định tại điều 153, 154, 155 Luật các Tổ chức tín dụng 2010)

2.4.1. Trường hợp chia ngân hàng thương mại Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.

Nội dung Luật các Tổ chức tín dụng 2010 có nói về trường hợp chia Ngân hàng thương mại tại khoản 1 điều 153: “Tổ chức tín dụng được tổ chức lại dưới hình thức chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi hình thức pháp lý sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản” nhưng không quy định cụ thể chia như thế nào, trình tự, thủ tục ra sao. Ngân hàng thương mại bản chất là doanh nghiệp đặc biệt hoạt động tuân thủ các quy định của Luật các Tổ chức tín dụng và các văn bản pháp luật khác. Do đó, ta căn cứ vào Luật doanh nghiệp để xem luật quy định như nào về việc chia Ngân hàng thương mại.

Theo quy định tại điều 192 Luật doanh nghiệp 2014, có thể nói Ngân hàng thương mại có thể chia thành hai hay nhiều ngân hàng nhỏ hơn, cùng loại hình ngân hàng và cùng kinh doanh lĩnh vực tiền tệ. Ngân hàng bị chia chấm dứt tồn tại sau khi ngân hàng mới được đăng ký kinh doanh. Các Ngân hàng thương mại mới cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của ngân hàng bị chia hoặc thỏa thuận với khách hàng và người gửi tiền để một trong các ngân hàng mới thực hiện nghĩa vụ này.  Như vậy, khi Ngân hàng thương mại cũ bị chia, khoản nợ người gửi tiền, trong đó gồm cả gốc lẫn lãi do các Ngân hàng thương mại mới liên đới chịu trách nhiệm trả. Người gửi tiền và các Ngân hàng thương mại mới sẽ thỏa thuận để xác định nghĩa vụ chi trả tiền cho người gửi tiền thuộc về Ngân hàng thương mại mới này trả. Như vậy, dù Ngân hàng thương mại bị chia thành các Ngân hàng thương mại mới thì quyền lợi của người gửi tiền vẫn được đảm bảo, số tiền mà người gửi tiền gửi vào Ngân hàng thương mại cũ vẫn được trả đầy đủ gồm cả lãi.

2.4.2. Trường hợp tách ngân hàng thương mại 

Theo quy định tại điều 193 Luật doanh nghiệp 2014, Ngân hàng thương mại cổ phần có thể tách bằng cách chuyển một phần tài sản, quyền và nghĩa vụ mà ngân hàng bị tách hiện có để thành lập một hoặc một số Ngân hàng thương mại mới cùng loại mà không chấm dứt tồn tại của ngân hàng bị tách. Theo Wikipedia Tiếng Việt, Ngân hàng thương mại cổ phần là các ngân hàng hoạt động kinh doanh, thương mại theo mô hình cổ phần và tuân theo các luật riêng của Chính phủ và các quy chế, quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi hoạt động. Như vậy, có thể hiểu chung nhất Ngân hàng thương mại cổ phần là Ngân hàng thương mại có mô hình cổ phần như quy định của Luật doanh nghiệp 2014 về công ty cổ phần. Ngân hàng thương mại cổ phần là Ngân hàng thương mại trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau do cổ đông là các tổ chức hay cá nhân góp và các cổ đông chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn góp của mình. Ngân hàng bị tách phải đăng ký thay đổi vốn điều lệ và số lượng cổ đông mới ứng với phần vốn góp. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.

Sau khi đăng ký kinh doanh, ngân hàng bị tách và ngân hàng được tách phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của ngân hàng bị tách trừ trường hợp ngân hàng mới thành lập, ngân hàng bị tách và người có các khoản nợ mà ngân hàng chưa thanh toán có thỏa thuận khác. Như vậy, quyền lợi của người gửi tiền trong trường hợp Ngân hàng thương mại bị tách do ngân hàng bị tách và ngân hàng được tách cùng liên đới chịu trách nhiệm. Nếu như giữa người gửi tiền, ngân hàng được tách và ngân hàng bị tách có thỏa thuận khác thì tuân theo sự thỏa thuận đó.

2.4.3. Trường hợp hợp nhất ngân hàng thương mại  

Theo quy định tại điều 4 Thông tư 04/2010/TT – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại tổ chức tín dụng: “Hợp nhất tổ chức tín dụng là hình thức hai hoặc một số tổ chức tín dụng (sau đây gọi là tổ chức tín dụng bị hợp nhất) hợp nhất thành một tổ chức tín dụng mới (sau đây gọi là tổ chức tín dụng hợp nhất) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang tổ chức tín dụng hợp nhất, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các tổ chức tín dụng bị hợp nhất”.  Vậy có thể hiểu hợp nhất Ngân hàng thương mại là việc hai hay một số Ngân hàng thương mại (NHTM bị hợp nhất) hợp nhất thánh một Ngân hàng thương mại mới bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền và nghĩa vụ cũng như lợi ích hợp pháp sang cho Ngân hàng thương mại hợp nhất. Theo điều 194 Luật doanh nghiệp 2014 quy định, sau khi đăng ký kinh doanh, các ngân hàng bị hợp nhất chấm dứt tồn tại còn Ngân hàng thương mại hợp nhất được hưởng các quyền và lợi ích từ các Ngân hàng thương mại bị hợp nhất, đồng thời chịu trách nhiệm về những khoản nợ chưa thanh toán cũng như các nghĩa vụ tài sản khác của ngân hàng bị hợp nhất. Như vậy, với trường hợp ngân hàng hợp nhất, ngân hàng hợp nhất được hưởng các lợi ích từ Ngân hàng thương mại bị hợp nhất, trong đó có quyền được sử dụng vốn mà người gửi tiền gửi vào. Đồng thời phải chịu trách nhiệm về việc thanh toán các khoản tiền cho người gửi tiền, hay chính là việc người gửi tiền sẽ được bảo đảm quyền lợi bởi ngân hàng hợp nhất. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.

Trong thời kỳ tái cơ cấu ngân hàng, hệ thống ngân hàng đã có nhiều vụ hợp nhất ngân hàng, tiêu biểu phải kể đến vào cuối năm 2011, lần đầu tiên Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chính thức chấp thuận sự hợp nhất tự nguyện của ba ngân hàng TMCP, là Ngân hàng TMCP Đệ nhất (FicomBank), ngân hàng TMCP Việt Nam Tín Nghĩa (TinNghiaBank) và ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB), dưới sự bảo trợ của Ngân hàng Đầu từ và phát triển Việt Nam (BIDV), tên gọi sau hợp nhất là Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB). Theo báo cáo tài chính năm 2012 của ngân hàng, sau khi hợp nhất, SCB tăng lên đáng kể về mặt lượng nguồn vốn và tài sản. SCB được hình thành từ ba ngân hàng với tình hình bi đát về tài chính, rình rập nguy cơ mất khả năng thanh khoản, tuy nhiên chỉ sau 1 năm hoạt động, từ năm 2011 lên 2012, ngân hàng đã nâng tổng mức tài sản lên hơn 149.000 tỷ đồng, gấp gần 2 lần tổng tài sản ban đầu của SCB, vốn chủ sở hữu cũng tăng lên hơn 11.000 tỷ, gấp gần 3 lần vốn chủ sở hữu của ngân hàng SCB trước khi hợp nhất. Đây là một dấu hiệu chứng tỏ sau khi hợp nhất sẽ có một Ngân hàng thương mại mới “khỏe mạnh” hơn Ngân hàng thương mại cũ, cũng chính là đảm bảo rằng quyền lợi của người gửi tiền sẽ luôn được đảm bảo.

2.4.4. Trường hợp sáp nhập ngân hàng thương mại 

Theo điều 4 Thông tư 04/2010/TT – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại tổ chức tín dụng: “Sáp nhập tổ chức tín dụng là hình thức một hoặc một số tổ chức tín dụng (sau đây gọi là tổ chức tín dụng bị sáp nhập) sáp nhập vào một tổ chức tín dụng khác (sau đây gọi là tổ chức tín dụng nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang tổ chức tín dụng nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của tổ chức tín dụng bị sáp nhập”. Có thể hiểu rằng sáp nhập Ngân hàng thương mại là việc một hoặc một số ngân hàng (ngân hàng bị sáp nhập) sáp nhập vào ngân hàng khác (ngân hàng nhận sáp nhập). Trường hợp Ngân hàng thương mại sáp nhập cũng gần giống như trường hợp Ngân hàng thương mại hợp nhất đó là việc sau khi đăng ký kinh doanh, ngân hàng bị sáp nhập chấm dứt tồn tại; ngân hàng nhận sáp nhập được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, nghĩa vụ tài sản khác của ngân hàng bị sáp nhập. Lúc này, ngân hàng nhận sáp nhập cũng được hưởng toàn bộ lợi ích của người gửi tiền, vì thế, đây cũng là chủ thể có nghĩa vụ bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.

Trong thời gian qua, nhiều vụ sáp nhập ngân hàng được diễn ra, tiêu biểu phải nói đến như MHB sáp nhập vào BIDV; PG.Bank sáp nhập vào VietinBank; MDB sáp nhập vào Maritime Bank (Quyết định có hiệu lực từ ngày 12.8.2015); SouthernBank sáp nhập vào Sacombank ….  Có thể thời gian đầu nhiều người gửi tiền hoang mang, nhưng càng các vụ sáp nhập ngân hàng về sau, người gửi tiền vẫn yên tâm và bình tâm hơn, bằng chứng là việc người gửi tiền dù nghe ngân hàng mình đang gửi tiền có nguy cơ sáp nhập với một ngân hàng nào đó thì cũng không có hiện tượng ồ ạt đi rút tiền như trước kia. Điều này chứng tỏ người gửi tiền càng ngày càng vững tin hơn vào nhà nước, vào các Ngân hàng thương mại hợp nhất, sáp nhật khi thực hiện chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: “TCTD tham gia sáp nhập, hợp nhất, mua lại phải đảm bảo không ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng, đặc biệt quyền lợi của người gửi tiền tại từng Tổ chức tín dụng tham gia sáp nhập, hợp nhất, mua lại” – điều 5 thông tư 04/2010/ TT – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

2.4.5. Trường hợp giải thể ngân hàng thương mại  Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.

Theo điều 154 Luật các Tổ chức tín dụng 2010 có quy định về việc các Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài bị giải thể trong các trường hợp:  tự nguyện xin giải thể; khi hết thời hạn hoạt động không xin gia hạn hoặc xin gia hạn nhưng không được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản và bị thu hồi Giấy phép. Trường hợp tự nguyện xin giải thể thì chỉ được khi NTHM đó có khả năng thanh toán hết nợ và được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp thuận bằng văn bản.

Như vậy, khi các Ngân hàng thương mại giải thể, phải đảm bảo rằng khi đó Ngân hàng thương mại đó đã thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác. Có thể hiểu rằng tiền gửi (bao gồm cả gốc và lãi) của người gửi tiền sẽ được thanh toán hết trước khi Ngân hàng thương mại tiến hành thủ tục giải thể. Quyền lợi người gửi tiền vẫn được đảm bảo khi Ngân hàng thương mại giải thể, đây cũng là mục tiêu cuối cùng của nhà nước trong quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng.

2.4.6. Trường hợp ngân hàng thương mại phá sản

Tính đến thời điểm này, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Việt Nam chưa phải áp dụng biện pháp phá sản đối với bất kỳ ngân hàng yếu kém nào. Sở dĩ vấn đề phá sản ngân hàng chưa xảy ra tại Việt Nam là bởi do một số yếu tố:  nếu để ngân hàng phá sản sẽ tác động xấu đến hệ thống, thị trường và tâm lý của người dân; dù đã có luật nhưng các thủ tục phá sản, định giá, thanh lý tài sản rất phức tạp, trong khi Việt Nam lại chưa có kinh nghiệm và khả năng để đáp ứng được các yêu cầu này. Tuy nhiên, thời gian tới  liệu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ xem xét nghiên cứu và trình Chính phủ cho phép áp dụng phá sản đối với Tổ chức tín dụng phi ngân hàng hay không nếu trường hợp việc phá sản này không gây ảnh hưởng lớn đến an toàn, ổn định của hệ thống và nền kinh tế.

Khác với thủ tục phá sản doanh nghiệp thông thường, Luật Phá sản 2014 quy định rõ việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với Tổ chức tín dụng chỉ thực hiện sau khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc văn bản chấm dứt áp dụng biện pháp phục hồi khả năng thanh toán hoặc văn bản không áp dụng biện pháp phục hồi khả năng thanh toán… Khi Tổ chức tín dụng có nguy cơ mất khả năng thanh toán, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ xem xét, quyết định áp dụng biện pháp kiểm soát đặc biệt đối với Tổ chức tín dụng đó. Việc mở thủ tục phá sản đối với Tổ chức tín dụng sẽ được thực hiện khi Tổ chức tín dụng không có khả năng khôi phục được khả năng thanh toán. Tòa án nhân dân thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản Tổ chức tín dụng khi đã có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hay văn bản chấm dứt áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp phục hồi khả năng thanh toán của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam mà Tổ chức tín dụng vẫn mất khả năng thanh toán. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.

 Để bảo đảm quyền lợi cho đối tượng gửi tiền tại Tổ chức tín dụng, điều 101 Luật phá sản 2014 quy định về thứ tự phân chia tài sản thì  các khoản tiền gửi, khoản tiền tổ chức bảo hiểm tiền gửi phải trả cho người gửi tiền tại Tổ chức tín dụng phá sản được ưu tiên chi trả trước các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước; khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho chủ nợ trong danh sách chủ nợ; khoản nợ có bảo đảm chưa được thanh toán do giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán nợ. Theo đó, thứ tự phân chia tài sản trong phá sản Tổ chức tín dụng được thực hiện theo trình tự sau: (i) Chi phí phá sản; (ii) Khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với người lao động, quyền lợi khác theo hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể đã ký kết; (iii) Khoản tiền gửi; khoản tiền tổ chức bảo hiểm tiền gửi phải trả cho người gửi tiền tại Tổ chức tín dụng phá sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; (iv) Nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước; khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho chủ nợ trong danh sách chủ nợ; khoản nợ có bảo đảm chưa được thanh toán do giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán nợ. Trường hợp giá trị tài sản không đủ để thanh toán các khoản nợ nêu trên, các đối tượng thuộc cùng một thứ tự ưu tiên được thanh toán theo tỷ lệ phần trăm tương ứng với số nợ. Như vậy, người gửi tiền dù là ngân hàng phá sản thì số tiền gửi tại ngân hàng đó vẫn được đảm bảo và được ưu tiên trả trước. Ngoài ra, Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật Bảo hiểm tiền gửi: “BHTG là sự bảo đảm hoàn trả tiền gửi cho người được Bảo hiểm tiền gửi trong hạn mức trả tiền bảo hiểm khi tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền hoặc phá sản”. Như vậy, đối với trường hợp Ngân hàng thương mại bị phá sản, ngoài việc hoàn trả tiền của người gửi tiền theo thủ tục thanh lí tài sản và các khoản nợ của Luật phá sản, người gửi tiền còn được thanh toán tiền gửi theo quy định của Luật Bảo hiểm tiền gửi.

Hiện nay, chỉ có Thông tư 04/2010/TT- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về sáp nhập, hợp nhất, mua lại Tổ chức tín dụng, chưa có quy định riêng về chia, tách, giải thể và phá sản các Tổ chức tín dụng mà phải dựa theo thủ tục, trình tự của Luật doanh nghiệp. Như vậy, hệ thống pháp luật quy định về các trường hợp chấm dứt hoạt động của Ngân hàng thương mại còn sơ sài, quy định về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền trong những trường hợp này cón chưa thành hệ hống thống nhất và chi tiết mà phải nhặt nhạnh quy định của văn bản này, văn bản khác để áp vào. Nhưng thực tế cũng cho thấy, ở Việt Nam chưa từng thấy có Ngân hàng thương mại nào bị phá sản, ta vẫn thấy được nhà nước ta còn quá “nhân đạo” trong việc xử lý các Ngân hàng thương mại và “nhân đạo” ngay từ khâu quy định pháp luật về vấn đề này. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Khóa luận: Kiến nghị pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x