Khóa luận: Nghi lễ cày Tịch điền ở Đọi Sơn

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Nghi lễ cày Tịch điền ở Đọi Sơn hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Nghi lễ cày Tịch điền ở Đọi Sơn dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này. 

2.1. BỐI CẢNH VÀ QUY TRÌNH PHỤC DỰNG LỄ HỘI

2.1.1. Bối cảnh phục dựng

Lễ hội Tịch điền Đọi Sơn là di sản văn hóa mang sắc thái Hà Nam rõ nét. Đọi Sơn là nơi đầu tiên diễn ra nghi lễ tịch điền của Vua Lê Đại Hành (năm 987), cách nay hơn 1000 năm. Đây là nghi lễ mang tính quốc gia của một đất nước lấy nông nghiệp làm cơ sở kinh tế chính, nên sau này các vương triều Lý, Trần, Lê, Nguyễn đều kế thừa, thực hiện một cách thành kính song từ thời Vua Khải Định (1916 – 1925), lễ Tịch điền Đọi Sơn với quy mô nghi lễ quốc gia không còn được tổ chức.

Trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân đang khẩn trương, tích cực triển khai Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khóa X) về nông nghiệp, nông thôn và nông dân, việc phục dựng lễ hội Tịch điền Đọi Sơn có ý nghĩa chính trị to lớn, không chỉ góp phần triển khai Nghị quyết của Trung ương; mà còn có tác dụng khuyến khích, phát triển tư tưởng trọng nông của cha ông.

Phục dựng để bảo tồn lễ hội Tịch điền Đọi Sơn còn là một công việc có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa để xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên địa bàn Hà Nam. Qua đó, khơi dậy lòng tự hào, trách nhiệm với di sản văn hóa của cha ông, của nhân dân trong tỉnh.

Tổ chức lễ hội Tịch điền Đọi Sơn – yếu tố văn hóa mang tầm vóc quốc gia là cơ hội để quảng bá hình ảnh của Hà Nam, nhằm thu hút khách du lịch trong và ngoài nước; là thử nghiệm đầu tiên được Tỉnh ủy, UBND và ngành VH – TT-DL chọn lựa.

Phục dựng và tổ chức để bảo tồn lễ hội Tịch điền Đọi Sơn cũng là một hoạt động hướng tới kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long Hà Nội vào năm 2010 theo chỉ đạo của Ban Bí thư. Lễ hội Đọi Sơn vốn là lễ hội nổi tiếng cả vùng ven sông Châu tưởng niệm các Vua Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và vương phi Ỷ Lan tổ chức vào ngày 19 đến ngày 21 tháng Ba hàng năm. Khi phục dựng và tổ chức để bảo tồn lễ hội Tịch điền Đọi Sơn có thể lồng ghép toàn bộ các nghi lễ của lễ hội này vào lễ hội Tịch điền Đọi Sơn.

Trong bối cảnh trên đây, tỉnh Hà Nam và Viện Văn hóa Nghệ thuật đã lập dự án khôi phục lễ hội Tịch điền Đọi Sơn.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Du Lịch

2.1.2. Phục dựng “kịch bản” của lễ hội

Như đã trình bày, lễ hội Tịch điền Đọi Sơn đã không được tổ chức gần trăm năm nay. Sử sách cũ chỉ ghi vài dòng tư liệu về các ông vua đi cày Tịch điền ở đây, không ghi nội dung và diễn trình hội. Vì thế, phục dựng lại nội dung và diễn trình hội cho đúng hay gần đúng với “nguyên bản” gặp nhiều khó khăn. Khóa luận: Nghi lễ cày Tịch điền ở Đọi Sơn.

Để có được kịch bản tổng thể của lễ hội Tịch điền Đọi Sơn năm 2009 và hiện thực hóa được nó, Viện Văn hóa Nghệ thuật phối hợp với Sở VH – TT – DL tỉnh Hà Nam gấp rút xây dựng nội dung Dự án “Phục dựng lễ hội Tịch điền Đọi Sơn năm 2009”.

Sau khi Dự án được xây dựng và phê duyệt, các công việc được tiến hành để có tư liệu xây dựng kịch bản là:

  • Tiến hành điền dã tại khu vực xã Đọi Sơn, khu di tích chùa Long Đọi Sơn, làng trống Đọi Tam và các làng, các di tích trong vùng.
  • Nghiên cứu các tư liệu viết về nguồn gốc, cách thức tổ chức lễ cày tịch điền qua các triều đại phong kiến Việt Nam, qua các cuốn sách viết về nghi lễ cày Tịch điền thời Vua Lê Đại Hành.

Lễ hội Tịch điền Đọi Sơn là lễ hội truyền thống kết hợp với ý nghĩa tâm linh, nơi có ngôi chùa trên núi Đọi – một trong những Trung tâm Phật giáo lớn của Việt Nam thời nhà Lý, đồng thời là nơi Vua Lê Đại Hành chọn tổ chức cày tịch điền khuyến khích nông tang.

Lễ hội Tịch điền Đọi Sơn được phục dựng dựa trên một số sự kiện lịch sử được sử cũ ghi lại và tư liệu văn hóa dân gian, nhằm tái hiện lại lễ cày Tịch điền của Vua Lê Đại Hành, tham khảo lễ Tịch điền thời Nguyễn (thông qua quyển sách Đại Nam hội điển sử lệ); kết hợp với một số hội truyền thống của xã Đọi Sơn như lễ hội chùa Đọi được tổ chức từ ngày 19 đến 21 tháng Ba, lễ hội làng trống Đọi Tam ngày mồng 7 tháng Giêng. Việc tổ chức hội cũng dựa trên Quy chế tổ chức lễ hội do Bộ trưởng Bộ VH – TT – DL ban hành theo Quyết định số 39/2001/QĐ – BVHTT ngày 28/8/2001.

Dựa vào phương pháp điều tra hồi cố đối với các bậc cao niên là chính, sau 5 tháng nghiên cứu và tiến hành phục dựng (từ tháng 2 đến tháng 7 năm 2008), các cán bộ tham gia dự án đã được hoàn thành và đạt được các phần việc sau của hội Tịch điền Đọi Sơn:

  • Khôi phục nghi lễ rước chân nhang Vua Lê Đại Hành từ đền Lăng, xã Liêm Cần, huyện Thanh Liêm về chùa Long Đọi Sơn.
  • Khôi phục lễ cáo yết thành hoàng xin mở cửa đình và lễ hát cửa đình tại đình làng Đọi Tam.
  • Khôi phục lễ rước kiệu của làng Đọi Tam đi đón vua.
  • Khôi phục lễ rước kiệu vua từ trên chùa xuống núi Đọi.
  • Đặc biệt phục dựng thành công nghi lễ cày Tịch điền – nghi lễ quan trọng trong suốt quá trình diễn ra lễ hội.

Sau khi thu được các nguồn tư liệu về các nghi lễ, tiến hành tổng hợp và xây dựng kịch bản tổng thể (do Tiến sĩ Bùi Quang Thắng chịu trách nhiệm và là tổng đạo diễn lễ hội Tịch điền Đọi Sơn); sau đó đưa kịch bản xuống các cộng đồng để lấy ý kiến của các tầng lớp nhân dân. Đây là bước quan trọng nhất, không thể thiếu trong quá trình hình thành kịch bản. Nó thể hiện một nguyên tắc trong khoa học: không được phép áp đặt những ý nghĩ, tình cảm chủ quan của nhà nghiên cứu đối, ngược lại, phải coi chính các cộng đồng trên là những chủ thể văn hóa đích thực của hội và chỉ được phép đưa ra những phương án để người dân lựa chọn. Sau bước thu thập ý kiến, kịch bản được điều chỉnh cho phù hợp với ý nguyện của nhân dân các làng.

Việc lấy ý kiến của nhân dân các cộng đồng mang lại một hiệu quả xã hội tích cực, khi người dân được bàn bạc và tự lựa chọn thì họ sẽ tự giác thực hiện. Khóa luận: Nghi lễ cày Tịch điền ở Đọi Sơn.

Thực tế trong quá trình tập luyện để “hiện thực hóa” kịch bản đã chứng minh điều này: đa số cán bộ, nhân dân các cộng đồng về sau đã hình thành được ý thức về cộng đồng mình trong việc tham gia vào hội và thể hiện điều đó trong việc tập luyện các diễn xướng, nghi lễ của lễ hội với một số lượng rất lớn (hơn 600 người).

2.1.3. Chỉ đạo phục dựng hội sau khi có “kịch bản”

2.1.3.1. Quan điểm phục dựng

Lễ hội truyền thống ở Việt Nam, dù ở quy mô nào (vùng, miền, quốc gia) đều diễn ra ở những không gian nhất định, trong đó chủ thể văn hóa là những người dân cụ thể ở những cộng đồng làng xã xác định.

Tuy nhiên, nhiều năm qua, do mong muốn nâng cao quy mô chất lượng các lễ hội truyền thống (đặc biệt là lễ hội cấp Quốc gia và cấp Tỉnh) nên nhiều hội đã được các nhà quản lý và các chuyên gia nghệ thuật can thiệp (đầu tư nhiều kinh phí và chuyên gia). Điều này dẫn đến một hệ quả là người dân các cộng đồng sở tại đã bị “tước” mất vai trò chủ thể của hội, trở thành người khán giả đơn thuần, bởi mọi nghi thức và diễn xướng quan trọng đều đã được “nâng cao” theo kiểu sân khấu hóa và theo những quan niệm về chất lượng nghệ thuật kiểu chuyên nghiệp).

Cách tổ chức và quản lý lễ hội theo kiểu “nâng cấp” đã khiến người dân dần dần “quên” đi vai trò chủ thể sáng tạo văn hóa của mình; đồng thời ỷ lại sự tài trợ của nhà nước với tâm lý chung là nếu họ “phải” tham gia một phần nào đó trong lễ hội thì nhà nước phải chi tiền, bởi họ coi lễ hội đó không phải của chính mình nữa).

Dự án phục dựng lễ hội Tịch điền Đọi Sơn nhằm thử nghiệm một mô hình mới trong tổ chức và quản lý lễ hội với các mục tiêu chính là:

  • Phục dựng các nghi lễ của lễ hội Tịch điền, đặc biệt là lễ cày Tịch điền có từ thời Vua Lê Đại Hành,
  • Trao cho người dân của các cộng đồng sở tại vai trò chủ thể trong hội;
  • Đưa một số trò diễn, trò chơi, cuộc thi dân gian vào hội, như múa rồng (cho dân làng Đọi Tam), vật dân tộc …
  • Đưa những nghi lễ đương đại vào trong lễ hội một cách hài hòa.

Do năng lực kinh tế của các cộng đồng còn hạn chế, tỉnh đã đầu tư kinh phí vào những khâu mấu chốt nhất là sắm kiệu, trang phục, đạo cụ và mời chuyên gia giỏi về tập huấn cho dân các làng những kỹ năng văn hoá dân gian và cách thức tổ chức lễ hội.

Do vậy, mỗi người dân xã Đọi Sơn có vinh dự được tham gia vào hội đều phấn khởi, khắc phục được tư tưởng “làm thuê” cho nhà nước (luyện tập phải có tiền công) và hình thành được lòng tự hào về sự đóng góp văn hoá của cộng đồng mình vào trong lễ hội chung. Khóa luận: Nghi lễ cày Tịch điền ở Đọi Sơn.

2.1.3.2. Nguyên tắc phục dựng

Quá trình phục dựng lễ hội Tịch điền Đọi Sơn, Viện Văn hóa Nghệ thuật phối hợp với Sở VH – TT – DL Hà Nam đã dựa trên các nguyên tắc sau:

  • Trang trí lễ hội được tính toán để bảo đảm tính trang nghiêm, phù hợp với nội dung lễ hội, lại vừa đơn giản, dễ tháo lắp. Có như vậy, đến lần lễ hội sau, người dân mới có thể dùng lại được. Nếu trang trí cầu kỳ và tốn kém quá, lần sau người dân không thể làm được.
  • Các lực lượng tham gia trình diễn lễ hội là những người dân của các làng trong xã Đọi Sơn. Mỗi làng đảm nhiệm một vài trò diễn và quản lý các trò chơi dân gian của mình; không chỉ phục vụ lễ cày Tịch điền vào ngày mồng 7 tháng Giêng, mà còn làm phong phú và nâng cao thêm chất lượng của hội. Vì thế người dân tham gia tích cực hơn và quan trọng hơn là họ có ý thức hơn về việc bảo tồn các giá trị văn hoá phi vật thể trong từng cộng đồng.
  • Những người tham gia các nghi lễ, diễn xướng không phải chỉ đóng vai người diễn, mà còn trực tiếp tham dự các nghi lễ nhằm tôn kính vị thần của mình và khi hết phần nghi thức họ cũng được tham dự vào các trò vui của ngày hội. Điều này khác hẳn với cách làm theo kiểu sân khấu hóa.
  • Các diễn xướng được truyền dạy cho các người dân các làng trong xã đều đạt được những tiêu chuẩn của một diễn xướng dân gian – truyền thống: tính tập thể, hoành tráng, số lượng tham gia đông, chú trọng vào đội hình và đặc biệt là tính nghi lễ…

2.2 LỄ HỘI TỊCH ĐIỀN ĐỌI SƠN QUA LẦN PHỤC DỰNG NĂM 2009

2.2.1. Khái quát về không gian lễ hội

Không gian chính của hội là núi Đọi, chùa Đọi – trung tâm của một quần thể di tích, danh thắng nổi tiếng nằm trên địa bàn xã Đọi Sơn.

Lễ hội Tịch điền Đọi Sơn được tổ chức trên cơ sở một số lễ hội truyền thống của xã Đọi Sơn, đồng thời khôi phục lại một số nghi lễ trong lễ hội tại khu vực xung quanh núi Đọi mà trọng tâm là khôi phục lễ hội Tịch điền.

Theo kịch bản tổng thể, hội Tịch điền Đọi Sơn được phục dựng có cơ quan chỉ đạo, cơ quan tổ chức, các cơ quan phối hợp, lực lượng tham gia các nghi lễ và thành phần khách mời (xem Chủ thích 2).

2.2.2. Hoạt động chuẩn bị cho lễ hội Khóa luận: Nghi lễ cày Tịch điền ở Đọi Sơn.

2.2.2.1 Chuẩn bị cơ sở vật chất, trang phục, đạo cụ

Đầu tháng 12 năm 2008, Ban tổ chức lễ hội Tịch điền Đọi Sơn đã có nhiều công văn chuyển xuống để triển khai công tác chuẩn bị cho lễ hội trong việc huy động lực lượng và cơ sở vật chất cho lễ hội (Chú thích 3).

2.2.2.2. Chuẩn bị về lực lượng tham gia

Lễ hội Tịch điền Đọi Sơn diễn ra từ ngày mồng 5 đến ngày mồng 7 tháng Giêng, là một liên hoàn các nghi lễ và diễn xướng trong một không gian rộng (trung tâm là chùa Đọi đến làng Đọi Tam ra đến bến sông Châu Giang). Đây là năm đầu tiên lễ hội Tịch điền được phục dựng, nên lực lượng tham gia vào lễ hội đóng vai trò đặc biệt quan trọng để lễ hội thành công; trong đó, lực lượng chủ yếu là người dân thôn Đọi Tam.

UBND xã Đọi Sơn huy động hơn 600 người vào các đội rước phục vụ tại lễ hội, cụ thể, cầm cờ: 200 người; số người khiêng kiệu: 40 người; múa cờ: 4 người; trống, chiêng: 8 người; tàn lọng: 6 người; chấp kích bát bửu: 26 người. Đội trống tham gia vào lễ hội: 100 người; đội rồng: 20 người; thôn nữ rắc hạt: 20 người; đội cày và phục vụ cày: 10 người; lễ tân phục vụ: 10 người; đội lễ: 12 người; hầu đàn tế, hầu hương, đóng thế vua: 11 người; đội tế các làng: 70 người; các vị bô lão đức cao vọng trọng của các làng trong xã: 30 người; nhà sư, tăng ni, phật tử: 100 người; ban diều hành: 10 người; lực lượng an ninh, dân quân xã: người; 100 cán bộ công an tỉnh, huyện phối hợp cùng công an xã bảo đảm an ninh.

Trong hội còn có một lực lượng đông đảo tham gia vào các trò chơi trong lễ hội; trong đó, ấn tượng nhất là hội thi vẽ, trang trí trâu được tổ chức vào ngày mồng 6, với sự tham gia của 30 họa sỹ đương đại được mời về từ các vùng miền trên đất nước và một số nước trong khu vực Đông Nam Á. 30 con trâu béo tốt, khỏe mạnh được chọn làm chất liệu trang trí đặc biệt để các họa sỹ sáng tạo cho những ý tưởng của mình. Bên canh hội thi vẽ, trang trí trâu là giải vật mùa xuân năm 2009 với 50 đô vật với đủ các hạng cân đến từ 6 huyện, thành phố trong tỉnh.

Trong hội còn diễn ra các trò chơi đan xen, tạo không khí vui chơi thoải mái cho người dân như: chơi đu, đi cầu khỉ, bịt mắt đánh trống, bịt mắt đập niêu, bịt mắt bắt dê, đi ván, kéo co … hay các trò chơi hiện đại như thi đấu bóng chuyền da, bóng chuyền hơi… thu hút đông đảo người dân tham gia.

Một việc đặc biệt quan trọng là lựa chon một vị bô lão trong xã đóng giả vua làm lễ cày tịch điền. Người được chọn là một cụ cao niên trong làng khỏe mạnh, có dáng dấp, phong thái khoan thai, đường bệ, gia đình ấm yên, hạnh phúc. Trong cả 3 năm 2009, 2010, 2011 đều chọn cụ Đinh Trọng Tế, 80 tuổi ở xóm 9 thôn Đọi Tín đóng làm vua.

Chuẩn bị cho lễ hội Tịch điền Đọi Sơn, Ban tổ chức lễ hội đã huy động 30 con trâu của người dân trong xã để tham gia trong hội thi vẽ, trang trí trâu và đặc biệt là lễ cày Tịch điền vào sáng mồng 7 tháng Giêng. Những chú trâu béo tốt, khỏe mạnh, là những giống trâu thuần, dễ bảo, dễ sai khiến và phải làm quen với nơi đông người, tiếng trống nhạc, tránh sợ hãi, góp phần quan trọng để lễ hội diễn ra đúng nghi thức và kế hoạch đã đề ra. Khóa luận: Nghi lễ cày Tịch điền ở Đọi Sơn.

Toàn bộ lực lượng tham gia lễ hội Tịch điền đã được tập luyện từ mồng 1 đến 25 tháng Chạp, dưới sự chỉ đạo của Tổng đạo diễn Bùi Quang Thắng. Mọi công việc đã được hoàn tất trước ngày 25 tháng Chạp để chuẩn bị cho tổng duyệt và diễn lễ.

2.2.2.3. Luyện tập các nghi lễ trong lễ hội Tịch điền

Sau gần 100 năm thất truyền, lễ hội Tịch điền Đọi Sơn đã được phục dựng. Để chuẩn bị cho lễ hội, người dân xã Đọi đã nhiệt tình, hăng say tập luyện các nghi lễ và coi đây là công việc quan trọng, có ý nghĩa. Trong lễ hội các nghi lễ được diễn ra đặc biệt là nghi lễ cày tịch điền đặt ra yêu cầu phải đảm bảo tính trang trọng, thiêng liêng, nghiêm cẩn và thành thục của các thành viên tham gia.

Lễ hội Tịch điền Đọi Sơn chính thức diễn ra trong 3 ngày từ ngày mồng 5 đến ngày mồng 7 tháng Giêng năm Kỷ Sửu (từ ngày 30 – 01 đến ngày 01- 02 – 2009). Từ trước Tết, người dân trong xã đã náo nức chào đón lễ hội. Lực lượng tham gia lễ hội gồm đủ các tầng lớp từ già trẻ, trai gái, các bô lão cùng các tăng ni, phật tử, đều cảm thấy vinh dự được tham gia vào lễ hội đều rất tự hào và phấn khởi, do đó họ tự ý thức về vai trò, nhiệm vụ của mình.

Sau khi các công việc chuẩn bị phục vụ cho lễ hội Tịch điền Đọi Sơn 2009 đã cơ bản hoàn thành, trong 2 ngày 25, 26 tháng Chạp năm Mậu Tý, Ban Tổ chức tiến hành tổng duyệt toàn bộ chương trình lễ hội sẽ diễn ra, đặc biệt là nghi lễ cày Tịch điền. Sau khi buổi tổng duyệt kết thúc, dưới sự chỉ đạo của Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam, một số công việc tồn tại đã được Ban Tổ chức nghiêm túc kiểm điểm, rút kinh nghiệm và giao cho các Sở, ban ngành, cơ quan liên quan tiếp tục chuẩn bị thật chu đáo và báo cáo kết quả với thường trực Tỉnh ủy, UBND tỉnh, Ban Tổ chức lễ hội vào ngày mồng 5 tháng Giêng Kỷ Sửu (năm 2009).

2.2 3. Diễn biến của lễ hội Tịch điền Đọi Sơn năm 2009

Lễ hội Tịch điền Đọị Sơn cũng như các lễ hội truyền thống khác ở đồng bằng sông Hồng, về căn bản được tổ chức theo 3 hoạt động chính là:

  • Nghi lễ (lễ rước chân nhang, lễ rước nước, lễ mộc dục, lễ rước kiệu, lễ sái tịnh…);
  • Diễn xướng các trò chơi ( vừa giải trí vừa nghi lễ );
  • Ẩm thực, thụ lộc.

Do mục tiêu, tính chất, nội dung của luận văn, trong khi khảo sát, thu thập tài liệu về lễ hội Tịch điền Đọi Sơn, em chỉ quan tâm, miêu thuật, bình luận, đánh giá phương diện tế lễ và phương diện diễn xướng các trò chơi, trò thi đấu thể thao. Cụ thể lễ hội Tịch điền Đọi sơn bao gồm những nghi lễ sau:

Đan xen trong các nghi lễ, là các trò chơi, trò thi đấu truyền thống của người dân Hà Nam như: Hội vật mùa xuân năm 2009, chơi đu, đi cầu khỉ,bịt mắt đánh trống, bịt mắt đập niêu, đi ván, kéo co,…và các trò chơi thể thao: thi đấu bóng chuyền da, thi dấu bóng chuyền hơi, biểu diễn nghệ thuật. Khóa luận: Nghi lễ cày Tịch điền ở Đọi Sơn.

2.2.3.1. Các nghi lễ

LỄ RƯỚC CHÂN NHANG VUA LÊ ĐẠI HÀNH

Ngay từ sáng mồng 5 Tết, hàng vạn người dân trong vùng cùng cán bộ tỉnh, huyện, xã địa phương đã tham gia lễ rước chân nhang thờ Vua Lê Đại Hành từ đền Lăng, xã Liêm Cần, huyện Thanh Liêm về chùa Long Đọi Sơn.

Đoàn rước chân nhang vua Lê do Phó Chủ tịch UBND tỉnh cùng với sư trụ trì chùa Long Đọi Sơn và các tăng ni phật tử thực hiện.

Tới đền thờ Vua Lê Đại Hành, cả đoàn rước xuống xe, đi đầu là 2 lá cờ, tiếp theo là bát hương, đi sau là cán bộ tỉnh, các nhà sư, lãnh đạo huyện, xã, bô lão… Sau đó, nhà sư tiến hành làm lễ xin chân nhang vào bát hương.

Nghi lễ này được thực hiện nhằm bảo đảm tính linh thiêng cho toàn bộ lễ Tịch điền và đại lễ giải hạn cầu an ở chùa Đọi. Nghi lễ được thực hiện với ý nghĩa rước vua Lê từ quê gốc của vua về Đọi Sơn để chứng kiến cảnh con cháu tiếp nối nghi lễ tốt đẹp do Người mở ra là cày tịch điền đầu xuân khuyến khích nông nghiệp phát triển; đồng thời rước Vua Lê về thờ tại chùa Đọi là công việc chuẩn bị để các năm sau không phải rước từ quê vua ra mỗi khi tổ chức lễ hội Tịch điền.

Khi chân nhang được cắm vào bát hương, nhà sư khấn xin rước ra xe, đưa linh vị Vua Lê Đại Hành lên kiệu Long đình. Sau đó cả đoàn rước lên xe trở về với đội hình ban đầu từ đền Lăng về chùa Long Đọi Sơn.

Rước kiệu Long đình do 6 thanh niên khỏe mạnh đảm nhiệm. Đi sau là cán bộ tỉnh, huyện, nhà sư và các tăng ni, phật tử cùng người dân trong vùng. Đoàn rước leo lên hơn 300 bậc đá để lên chùa Đọi. Tiếp đó, nhà sư khấn xin đặt bát hương lên nhang án và làm lễ yên vị.

LỄ RƯỚC NƯỚC

Sáng mồng 6 Tết, hàng trăm người dân và cán bộ trong vùng tập trung ở chùa Long Đọi để tiến hành lễ rước nước từ giếng Lạc lên chùa Đọi. Nghi lễ rước nước mở ra một không gian văn hóa trang trọng, linh thiêng cho lễ cầu an.

Đi đầu đoàn rước nước là rồng vàng. Tiếp đến hàng chục người được tuyển chọn làm chân kiệu và dân binh mặc áo đỏ, quần đỏ, viền vàng , chân đi hài, cầm cờ, quạt lọng. Trung tâm của buổi lễ là kiệu Phật đình do 4 thanh niên khỏe mạnh, trang phục gọn gàng khênh. Trên kiệu đặt một chóe đựng nước có nắp, phủ kín bằng vải đỏ. Đại đức Thích Thanh Vũ – trụ trì chùa Long Đọi đi trước kiệu rước chóe, phật tử và dân làng lập thành đoàn nối bước đi sau kiệu, kéo dài tới nửa km.

Đoàn rước nhộn nhịp trong tiếng trống trứ danh của làng Đọi Tam, đi từ chùa Long Đọi xuống đền Thánh thì dừng lại. Đây là một am nhỏ được tạo thành từ một hõm đá dưới chân núi Long Đọi. Giữa am ngay dưới bệ thờ Thánh có một giếng nước bốn mùa luôn trong vắt. Trên bờ giếng lấy nước có cắm cờ ngũ hành và một bức trướng có 4 chữ Hán “Thanh thủy mộc dục”. Đại đức Thích Thanh Vũ tự tay lấy nước ở giếng đưa vào chóe để đoàn rước lên chùa. Nước này sẽ được dùng để “làm phép” tẩy rửa mọi bụi bặm trần thế, thanh tịnh tâm hồn trong lễ mộc dục và lễ sái tịnh. Khi chóe đầy nước, hai thanh niên khỏe mạnh rước đặt lên kiệu, đậy nắp chóe, phủ khăn đỏ lên trên. Sau đó theo thứ tự như khi đi, rước nước về chùa, đặt trước cửa thượng điện, làm lễ yên vị, đặt chóe lên ban thờ. Khóa luận: Nghi lễ cày Tịch điền ở Đọi Sơn.

Lễ rước nước này là một nghi thức tâm linh rất đặc sắc, một mặt tạo sự uy nghiêm, linh thiêng nơi cửa Phật; mặt khác là sự cầu mong mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu của người nông dân.

Theo quan niêm từ ngàn xưa, nước luôn là yếu tố quan trọng đầu tiên trong nông nghiệp. Nước rước về chùa bên cạnh việc dùng cho lễ mộc dục – một nghi thức tắm rửa và thay quần áo, mũ mão cho tượng thần trước khi khai hội, còn hàm chứa ý nghĩa sâu sắc của nền văn minh nông nghiệp lúa nước, cầu mong một năm lúa thóc đầy bồ, mùa màng tươi tốt và hơn hẳn là cầu cho người dân ấm no, hạnh phúc,quốc thái dân an.

LỄ MỘC DỤC

Buổi tối, sau khi nước được rước lên chùa Đọi, Đại đức Thích Thanh Vũ cùng các tăng ni, phật tử đã tiến hành lễ mộc dục. Trước khi tắm rửa, dùng khăn đỏ cùng với nước sạch được rước từ giếng lên cùng với nước thơm. Phải tắm 2 lần, lần đầu dùng nước giếng hoặc nước sông trong sạch, nhúng khăn đỏ vào lau. Lau xong lại lau một lần nữa bằng nước thơm. Trong khi tắm cho tượng, nhà chùa cùng các tăng ni và các tín lão Phật tử tụng kinh Địa tạng, kinh Dược sư. Sau khi tắm xong tiến hành lễ an vị cho thần tượng.

LỄ CÁO YẾT ĐÌNH ĐỌI TAM

Lễ hội Tịch điền Đọi Sơn diễn ra dưới chân núi Đọi thuộc làng Đọi Tam. Do đó, theo truyền thống, mỗi lần mở hội, các cộng đồng sở tại phải làm một nghi lễ mở cửa đền (cửa đình) hay lễ cáo yết với ý nghĩa xin phép vị thần của cộng đồng ấy cho dân làng mở hội. Ngôi đình làng Đọi Tam thờ hai anh em cụ Năng và cụ Bản là Tổ nghề của làng trống Đọi Tam, sau đó hai ông được tôn làm thành hoàng làng.

Tham gia nghi lễ Cáo yết có lãnh đạo UBND xã Đọi Sơn, Ban khánh tiết của làng Đọi Tam và người dân trong xã.

Nghi lễ Cáo yết bắt đầu bằng ba hồi trống, chiêng. Ban Khánh tiết mang lễ vật (gồm có hương, nến, hoa quả, rượu, bánh cổ truyền của dân làng) vào đình. Tại đình Đọi Tam, hương án đặt chính giữa, trên hương án đặt đồ thờ. Trước hương án rải 4 chiếu cói in hoa theo một hàng, chiếu 1 (tính từ hương án xuống); chiếu thần vị; chiếu 2: chiếu chủ tế thụ tộ; chiếu 3, chiếu 4: chiếu bồi tế. Hai bên hàng chiếu đặt hai chiếc bàn nhỏ, bàn bên đông để bình rượu, bàn bên tây để trầu cau. Trên mỗi bàn đều có cây nến đặt sẵn.

Đội tế của thôn Đọi Tam gồm chủ tế đội mũ, mặc áo thụng đỏ đi giày; hai bồi tế; Đông xướng và Tây xướng, hai nội tán, mười chấp sự đội mũ, mặc áo thụng xanh, đi giày và dàn nhạc bát âm.

Đội tế tiến hành ba tuần tế, lễ Cáo yết được diễn ra theo trình tự hành tế thống nhất, hoàn chỉnh và chi tiết – như một chầu tế thường lệ. Khóa luận: Nghi lễ cày Tịch điền ở Đọi Sơn.

Sau lễ tế, các đại biểu và người dân trong xã tiến hành lễ dâng hương. Như vậy, nghi lễ Cáo yết đã tiến hành xong, các thần thánh đã chứng giám, cho phép người dân Đọi Sơn khai mở lễ hội Tịch điền Đọi Sơn năm 2009.

Những người được chọn trong đội của làng sau khi thực hiện xong nghi lễ Cáo yết vào mồng 6 tháng Giêng phải kiêng ăn thịt cá, trước khi vào lễ phải tắm gội sạch sẽ. Đặc biệt người chủ tế được chọn phải là người cao tuổi, khỏe mạnh,được mọi người kính nể và gia đình song toàn.

Cũng tại đình làng Đọi Tam, sau khi nghi lễ Cáo yết đã hoàn thành, đã diễn ra lễ Hát cửa đình. Ban tổ chức lễ hội, đã mời đoàn ca trù Thăng Long đến từ Thủ đô Hà Nội tham dự vào lễ hội. Ngay từ sớm đoàn đã bắt tay ngay vào việc, chuẩn bị thật kỹ lưỡng cho chương trình lễ nhạc của mình. Xưa kia, mỗi khi tế thành hoàng làng, người Việt thường mời giáo phường ca trù về làm lễ hát mở cửa đình trước khi bắt đầu lễ tế. Đây là một phong tục ngàn đời ở vùng châu thổ đồng bằng Bắc Bộ, giờ đây được phục dựng lại trong nghi lễ Tịch điền Đọi Sơn.

Dưới ánh sáng mờ ảo của những ngọn nến trong hậu cung, người ta nghe thấy tiếng gọi của chiếc trống đại khổng lồ làng Đọi, đối âm gióng giả với tiếng cồng linh thiêng được bố trí trang trọng 2 bên tả hữu điện thần. Tiếng trống làng Đọi vốn có tiếng từ lâu đời, bản thân chiếc trống dùng trong nghi lễ này lại là chiếc trống được thửa riêng với kích thước khá lớn, vậy nên âm thanh của nó thực sự gây chấn động mạnh trong sự hòa quyện với âm thanh trầm hùng của chiếc cồng lừng lững làm rung chuyển cả bầu không gian thiêng nơi đình làng. Xưa mỗi khi đi hát cửa đình, bọn giáo phường ca trù, già trẻ thường kéo nhau đi tới mấy mươi người. Giờ đây, trước điện thần đình Đọi Tam, hình ảnh cảm động đó dường như được làm sống lại.

Sau khi dâng lễ, toàn bộ đám đào kép ca trù Thăng Long đứng thành 2 hàng trang nghiêm đối mặt, với những nhạc cụ của dàn bát âm cổ truyền trong tay, bản liên khúc lễ nhạc xa xưa của người Việt được bắt đầu, thay cho lời tấu thỉnh lên đấng tối linh. Kế tiếp là màn múa hát dâng hương của 4 đào nương xinh đẹp với tiếng đàn đáy của đào đàn đầu tiên ở Việt Nam- chị Phạm Thị Huệ, chủ nhiệm đoàn ca trù Thăng Long. Đây là một trong những nghi thức mới được họ phục dựng trong cuộc chấn hưng ca trù, giờ mang tới Đọi Tam dâng hiến cho đại lễ Tịch điền. Rồi những bản ca trù nghi lễ nơi cửa đình như Thét nhạc, Bắc phản… lần lượt được trình tấu, kèm theo những tác phẩm nổi tiếng của tao nhân mặc khách thời xưa, dâng lên thành hoàng bản thổ nguyện cầu cho dân làng, cho quốc thái dân an. Sau màn hát múa Đại thạch của các đào nương, chuyển sang phần tế lễ của các vị bô lão làng Đọi Tam. Xưa kia, phần nghi thức quan trọng này bao giờ cũng diễn ra lúc nửa đêm. Giờ đây, cũng tương tự, màn tế của các cụ cũng cử hành vào đầu giờ Tý, tiếp ngay sau chương trình Hát cửa đình. Lúc này, toàn bộ đám đào kép ca trù Thăng Long, chuyển vị trí sang bên dàn bát bửu, chơi nhạc bát âm phụ họa với dàn nhạc tế đình của dân làng.

LỄ RƯỚC KIỆU CỦA LÀNG ĐỌI TAM ĐÓN VUA VÀ LỄ RƯỚC VUA TỪ CHÙA XUỐNG NÖI ĐỌI

Sáng sớm, ngày mồng 7 tháng Giêng (01/02/2009), lễ hội tịch điền chính thức diễn ra. Lần đầu tiên phục dựng lại đại lễ Tịch điền nên đã thu hút hàng vạn người dân sở tại và các vùng phụ cận đổ dồn về cánh đồng Đọi Sơn chờ đợi giây phút thiêng liêng, nhà vua xuống cày những sá đầu tiên để gieo những hạt mầm cho một vụ mùa tươi tốt.

Ngay từ mờ sáng, người dân nơi đây đã tiến hành các nghi lễ như: Lễ rước tổ nghề, lễ rước linh vị Vua Lê Đại Hành ra nơi làm lễ tịch điền để chuẩn vị cho đại lễ. Đây là nghi lễ có vai trò rất quan trọng trong việc kết nối với lễ Tịch điền nhằm tái hiện lại huyền tích: Khi biết tin Vua Lê Đại Hành về vùng núi Đọi làm lễ Tịch điền, hai anh em họ Nguyễn đã làm một quả trống lớn đón vua. Khi đón vua, tiếng trống rền vang cả một vùng, người Đọi Tam đã tôn anh em họ Nguyễn thành tổ nghề và thành hoàng làng. Khóa luận: Nghi lễ cày Tịch điền ở Đọi Sơn.

Đám rước làng Đọi Tam đi đầu là 5 lá cờ ngũ hành, chiếc trống cái do hai người khiêng có thủ hiệu đánh trống, một người vác lọng che cho thủ hiệu và trống, đội trống khẩu có 10 người, đội trống bỏi gồm 10 người, chiêng do hai người khiêng một người đánh chiêng, một người che lọng cho thủ hiệu và chiêng. Các chấp kích viên vác đồ lỗ bộ gồm 2 thanh mác dài, 1 búa, 1 rìu, 2 dùi, 1 tay văn, 1 tay võ, hàng bát bửu, 2 biển “Hồi tỵ”, “Tĩnh túc”.

Nghi lễ bắt đầu với đoàn rước hùng hậu đi đón Tổ nghề trống Đọi Tam tại đình làng Đọi Tam, rước Thánh Cả và về thôn Đọi Nhì dừng lại đón kiệu Vua Lê Đại Hành.

Đoàn rước Tổ nghề thôn Đọi Tam gồm đông đảo người dân trong làng từ các cụ ông, cụ bà râu tóc bạc phơ cho đến những thanh niên nam nữ tràn đầy sức trẻ. Họ rước những chiếc trống làm nên tên tuổi làng nghề lừng lẫy của mình. Đi một vòng trọn vẹn quanh lũy tre làng như hành trình vượt thời gian trở về với buổi đầu xa xưa định cư hành nghề của cha ông. Lễ rước cũng thể hiện lòng tôn kính của các thế hệ dân làng đối với tổ tiên, kính mời Tổ nghề cùng về dự hội với con cháu.

Một điều đặc biệt trong đoàn rước Tổ nghề làng Đọi Tam đó là đa phần những người đánh trống trên những chiếc xe không phải là đàn ông như những lễ rước khác. Làng trống Đọi Tam vốn nức tiếng xa gần với những thành viên toàn là phụ nữ. Những người phụ nữ này được coi là linh hồn của làng nghề vì không chỉ biết làm nghề, truyền nghề mà còn biết khéo léo trình diễn nghệ thuật cổ truyền của cha ông.

Tiếng trống vang rền, tưng bừng lúc dồn dập như đoàn quân xung trận, lúc trầm bổng như tiếng gọi của núi sông, lúc vui nhộn, hào hứng, bay bổng làm náo nức lòng người trong ngày hội.

Khi đoàn rước Tổ nghề làng Đọi Tam gần hoàn thành chuyến hành trình của mình thì cũng là lúc đoàn rước linh vị của Vua Lê Đại Hành từ trên chùa Long Đọi xuống tới chân núi. Đoàn rước từ trên chùa Đọi xuống đi đầu là 5 cờ ngũ hành, 1 cờ Phật, đội trống, đội chiêng, kiệu Long đình – kiệu có mái, kiệu do 4 thanh niên chưa vợ khiêng, quanh kiệu có lọng che, trên dặt bát hương chân nhang Vua Lê Đại Hành.

Các nhà sư cầu kinh, niệm Phật bày tỏ lòng thành kính dưới kiệu Long đình Vua Lê Đại Hành – vị vua mở đầu cho lễ hội Tịch điền thiêng liêng.

Vì thế, mỗi lần mở hội người dân lại tổ chức rước chân nhang và linh vị vua để chứng giám cho lòng thành cháu con phục dựng nghi lễ mà hơn 1000 năm trước nhà vua đã khởi đầu.

Dưới chân núi, hai đoàn rước gặp nhau và hợp lại làm một trở thành một biểu tượng cho tình đoàn kết một lòng giữa quân vương và nhân dân trong quá khứ, cho vai trò chủ thể của người dân trong lễ hội hiện nay.

Có thể nói, lễ hội là của nhân dân, do nhân dân tham gia dưới sự giúp đỡ của Viện Văn hóa Nghệ thuật và sự quan tâm của các cấp lãnh đạo chính quyền, từ vai trò của các tầng lớp nhân dân đặc biệt quan trọng từ các hoạt động của lễ hội cho đến nghi lễ cày tịch điền. Khóa luận: Nghi lễ cày Tịch điền ở Đọi Sơn.

LỄ CÀY TỊCH ĐIỀN

Sau một loạt các nghi lễ diễn ra để chuẩn bị cho lễ cày Tịch điền, lễ cày tịch điền được tiến hành long trọng và tưng bừng với sự tham gia của hàng nghìn cán bộ, gần bốn vạn người dân cùng cờ hoa rực rỡ chen chân chờ đợi giây phút linh thiêng, ý nghĩa lớn lao này.

Lễ cày Tịch điền được tổ chức tại khoảng ruộng rộng 1ha trước trường Tiểu học, Trung học cơ sở xã Đọi Sơn, và trước núi Đọi uy nghiêm, linh thiêng. Tại thửa ruộng này, dựng một đàn tế Thần Nông, trong đó có linh vị Vua Đại Hành được phối thờ, đàn tế rộng 180m², chiều cao tính từ mặt ruộng lên đến đỉnh của các bức phướn trang trí là 10m. Sau khi hai đoàn rước được hợp nhất đã tiến về khu vực tiến hành lễ cày tịch điền. Kiệu Long đình sau khi được rước, được đặt trên một bục vải đỏ, hai bên bày bộ bát biểu, bộ nghi trượng (lỗ bộ). Phía sau kiệu treo bức trướng lớn đề hai chữ đại tự: Thần Nông, hai bên bức Thần Nông là các phướn to ghi các chữ đại tự sau: “Phi thương bất phú”, “Phi công bất thịnh”, “Phi trí bất tiến”, “ Phi nông bất ổn”, “Phong đăng hòa cốc”, “Thực túc binh cường” bằng chữ Hán. Trước kiệu vua đặt nhang án trên đặt mâm mũ quả, chè thuốc, đồ ngũ sự, bát hương. Cách nhang án 10m đặt các hàng ghế đại biểu Trung ương, tỉnh ở giữa.

Buổi lễ Tịch điền thêm hoành tráng và đặc sắc với sự xuất hiện của đội trống nữ gồm 50 người cùng 12 thanh niên nam chơi nhạc cụ phụ họa. Điểm nhấn là chiếc trống to nhất làng, đường kính lên tới 1,8 m. Góp phần tăng sự trang trọng cho lễ hội là sự xuất hiện của dàn lễ nhạc sống, cũng gồm hầu hết các thành viên nữ. Họ là đào nương, đào đàn của đoàn ca trù Thăng Long (Hà Nội). Những cô gái trong màu áo cánh kiến như trong tranh tố nữ bước ra, thành phần không thể thiếu trong các nghi lễ như buổi hát thờ đêm mồng 6 Tết tại đình Đọi Tam. Họ cũng là người đệm cho đàn tế cầu an tối mồng ngày mổng 7 Tết tại Long Đọi Sơn.

Tiến vào lễ hội, dẫn đầu là đội rước rồng, theo sau là đội cờ với 200 người, đoàn các già cầm phướn, Đại đức Thích Thanh Vũ cùng đoàn rước kiệu Long đình, tiếp đến là đội đội lễ và đoàn rước kiệu Thánh, cuối cùng là đoàn các cụ tế.

Mở đầu buổi lễ Tịch điền, là tiếng trống hòa tấu trầm hùng, rền vang của đội trống nữ làng Đọi Tam. Hòa chung tiếng trống rộn ràng là đội rồng của làng Đọi Tín rực rỡ uốn lượn, nhịp nhàng trong nắng xuân.

Lễ hội Tịch điền năm 2009, được vinh dự đón Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan, các đại biểu khách Trung ương và đại biểu các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Hồng: Bắc Ninh, Nam Định, Ninh Bình, Hải Dương, Hưng Yên, Quảng Ninh, Thái Bình, Vĩnh Phúc, thành phố Hà Nội, các tỉnh ngoài vùng, như Thanh Hóa, Hòa Bình cùng các chức sắc tôn giáo và đông đủ người dân địa phương và du khách thập phương về tham dự lễ hội.

Sau màn múa rồng, Chủ tịch UBND tỉnh Hà Nam Trần Xuân Lộc trịnh trọng đọc chúc văn trình Vua Lê Đại Hành, kính cáo tổ tiên xin phép khai hội. Chúc văn có đoạn :

Kính cẩn:

Cung thỉnh trời đất cùng chư vị quốc tổ Việt Nam và linh vị Hoàng đế Lê Hoàn

  • Cung thỉnh tiên linh chư vị danh nhân, anh hùng liệt sỹ, hào kiệt lưu danh thơm trong sử sách

Biết rằng: Khóa luận: Nghi lễ cày Tịch điền ở Đọi Sơn.

Vua Lê Đại Hành lần đầu tiên về cày Tịch điền ở Long Đội Sơn mùa xuân năm 987, mở đầu mỹ tục khuyến nông, làm sáng danh thơm muôn thưở.

Ấy là cái lẽ

Hưng nông nghiệp, khuyến nông tang, vun đắp nền thái bình bền vững.

Nhân dân no ấm, thuận ý thuận lòng, vun đắp quê hương đất nước.

Xây dựng nông thôn mới dân giàu, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.

Thế mới biết:

Nông nghiệp ngàn đời tạo nền ổn định, đất nước thái bình, thịnh trị.

Lương thực dồi dào, nông dân phấn khởi, tin tưởng đường đi đến tương lai.

Tạo thế chân kiềng, nông nghiệp góp phần cùng công thương xây nền kinh tế.

Giao lưu, hội nhập, sóng to, gió cả vẫn vững tay chèo.

Hôm nay:

Thái bình thịnh trị

Văn hiến Việt Nam rực rỡ

Hà Nam vươn mình cùng cả nước

Để mốc sáng ngàn xưa mãi mãi lưu danh

Lễ hội tịch điền

Lưu truyền mãi mãi!

Ban tổ chức

Xin kính cẩn dâng hương trời đất cùng các bậc tiên hiền.

Lễ chay hoa quả

Dâng tấm lòng thành

Nối đức sáng tổ trên

Tiếp mở nền nông nghiệp

Phong đăng hòa cốc

Thực túc binh cường

Quốc thái dân an

Cẩn cáo!

Sau đó, lễ dâng hương diễn ra trang trọng, uy nghi, Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan cùng Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Hà Nam Đinh Văn Cương, Phó Chủ tịch Trung ương giáo hội Phật giáo Việt Nam Hòa thượng Thích Thanh Tứ lên đàn tế dâng hương tưởng niệm Vua Lê Đại Hành. Đoàn đại biểu lãnh đạo các bộ, ngành, các địa phương và tỉnh Hà Nam, các vị bô lão và dân làng kính dâng nén hương thơm tưởng nhớ công lao của tiền nhân.

Theo các nghi thức cổ truyền, một vị bô lão của địa phương thực hiện diễn xướng, ứng nhâp linh khí quân vương, biểu tượng qua hình ảnh vị minh quân Lê Đại Hành. Vị bô lão thay vua cày những sá cày đầu tiên phải là người cao tuổi, khỏe mạnh, có tướng mạo, mặt mũi hồng hào, râu dài quắc thước, có uy tín trong dòng họ, địa phương, được mọi người kính nể .

Sau khi làm lễ nhập thế xin phép khoác áo long bào và đeo mặt nạ, vị bô lão này đã được xem là Vua Lê Đại Hành, bắt đầu nghi lễ Tịch điền. Khóa luận: Nghi lễ cày Tịch điền ở Đọi Sơn.

Để chuẩn bị cho nhà vua đi cày, trâu đã được chuẩn bị kỹ càng, là một trong 15 con trâu được các họa sỹ vẽ, trang trí đẹp mắt trong ngày mồng 6 tháng Giêng. Cày của nhà vua cũng đóng rất trang trọng.

Theo phong tục, lễ hội Tịch điền là ngày hội xuân, qua đó các vua quan đều lần lượt xuống ruộng để cày một vài luống đất, nhằm khích lệ nông dân phát triển nông nghiệp đặc biệt là nông nghiệp lúa nước. Sau khi đã làm lễ cúng Thần Nông, vua đích thân xuống cày ba luống, các vương tôn cày 7 luống, các công khanh cày 7 luống, sứ thu cày 9 luống. Sau đó các thửa ruộng này được chăm sóc và sản phẩm thu được sẽ dùng để tế lễ năm sau.

Lễ Tịch điền đầu xuân là nghi thức tái hiện cuộc giao ban giữa trời và đất theo tín ngưỡng của cư dân trồng lúa nước nên đích thân nhà vua phải cầm cày rạch luống cày đầu tiên để cầu mong mọi sự được hài hòa, may mắn.

Cứ mỗi đường cày lật lên, những thớ đất mới nâu sẫm, tinh khôi liền được các cô gái theo sau rắc những hạt giống ươm mầm trong đất mẹ, ước mơ muôn đời no ấm, sinh sôi.

Tương truyền Vua Lê Đại Hành khi cày ở núi Đọi đã phát hiện được một hũ vàng, năm sau nhà vua cày ở núi Bàn Hải lại được một hũ bạc. Vì thế hai thửa ruộng này được đặt tên là Kim Ngân Điền. Dụ ý sâu xa của vị vua giàu lòng thương dân là coi trọng nghề nông, mở đầu truyền thống khuyến nông tốt đẹp cho muôn dân chăm chỉ làm ăn vì sự cường thịnh của nước nhà.

Càng về sau, lễ Tịch điền được tổ chức long trọng hơn, có thêm lễ Tam sanh, các lễ nhạc và những bài ca về đồng áng, có đàn tế, có lễ đài cao để nhà vua quan sát lễ hội xuống đồng. Tất cả làm nên nét đặc sắc, độc đáo của một lễ hội truyền thống nghìn năm tuổi đã gắn bó với bao thăng trầm của đời sống nông nghiệp nước ta, đem lại cho du khách những cung bậc cảm xúc khó phai.

Sau khi nhà vua đã xong 3 sá đầu tiên, tiếp nối tay cày là ông Đinh Văn Cương – Bí thư Tỉnh ủy, ông Trần Xuân Lộc – Chủ tịch UBND tỉnh Hà Nam cùng các lão nông tri điền địa phương mở đường cày trên đồng đất quê hương mình, ươm trồng những mơ ước mùa màng bội thu.

Nghi trình cày Tịch điền kết thúc với màn múa Lả Lê, dâng hương bái tạ trước bàn thờ Thần nông và kiệu Vua Lê Đại Hành của đông đảo nhân dân địa phương cùng du khách thập phương. Sau đó, đoàn rước kiệu tiễn Vua lên chùa và đoàn rước kiệu làng Đọi Tam trở về làng.

Dưới sự điều hành của Ban tổ chức, lễ hội Tịch điền năm 2009 đã thành công tốt đẹp, đã để những ấn tượng tốt đẹp trong lòng mỗi người dân cùng du khách thập phương về tham dự lễ hội.

ĐẠI LỄ GIẢI HẠN – CẦU AN Ở CHÙA ĐỌI Khóa luận: Nghi lễ cày Tịch điền ở Đọi Sơn.

Buổi tối ngày mồng 7 tháng Giêng, sau khi nghi lễ Tịch điền đã tiến hành xong, Hòa thượng Thích Thanh Vũ cùng nhà sư và các tăng ni phật tử tiến hành nghi lễ Cầu an trên chùa Long Đọi Sơn.

Giữa chân chùa Long Đọi Sơn, trong không khí trang nghiêm, kính cẩn của hàng trăm tăng ni, phật tử, Đại lễ cầu an đem đến lời chúc phúc đầu năm cho chúng sinh. Đây là một phong tục cổ của chùa nhằm cầu cho quốc thái dân an. Thông thường, nghi lễ này được nhà sư chủ trì các chùa tiến hành.

Lễ cầu an Tịch điền có ý nghĩa khi một người đã vất vả trong một vụ mùa hay trong cả một năm thông qua lễ cầu an để cầu cho dân an, ấm no, hạnh phúc.

Ngay từ 19h, một đại trai đàn cầu siêu các vong linh đã được dựng lên uy nghiêm. Đàn tế biểu thị nét đẹp văn hóa tâm linh trong việc ứng nhân xử thế và giữ gìn giá trị truyền thống của dân tộc. Ảnh đức Phật đặt ở trên tầng cao, phù hộ độ trì cho chúng sinh lồng lộng giữa màn đêm thăm thẳm như sự linh thiêng ngàn đời của núi Long Đọi.

Ánh sáng lấp lánh, ấm áp của hàng trăm ngọn nến hòa với ánh phản quang của vòng tròn đồ mã đại xếp bao quanh sân chùa tạo nên một không khí linh thiêng, huyền ảo. Trong tiếng rì rầm tụng kinh niệm Phật của hàng ngàn người không quản mệt nhọc vượt qua hơn 300 bậc đá để lên dự Đại lễ này. Đại đức Thích Thanh Vũ trụ thực hiện các nghi lễ chiêu hồn, đọc sớ và hóa thân thành Phật.

Theo triết lý nhà Phật, cầu an nhằm cầu nguyên cho đất nước phồn vinh, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu,cây cối tươi tốt, nhân dân no ấm, dân sinh an lành và tri ân các bậc tiền nhân đã có công mở mang bờ cõi. Đây là đại lễ được Vua Trần Nhân Tông nghiên cứu, sáng tạo với mục đích quy tụ ý chí, sức mạnh của toàn dân tộc hướng về một thế giới tâm linh thuần thiện, thuần mỹ. Từ đó, đã được lưu hành trong dân gian và trở thành một nét đẹp văn hóa, tâm linh đậm chất nhân văn.

Từ đó đến nay, cầu an là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc, một tâm linh phải có cầu an. Cầu là cầu để có sức khỏe, gia đình giàu có đất nước thịnh vượng… An là cái tâm bình an, mọi việc đều an bình. Khi cầu an mọi người đều hướng về Phật, về Thánh, tin tưởng vào các bậc tối cao, tối thượng, là chỗ dựa tinh thần cho con người. Đạo Phật đến để mà thấy, thấy để mà tu, tu để được an lạc. Mỗi người đều hy vọng đầu năm lên chùa cầu an đều gặt hái được phước, chí đến với chính mình và mọi người trong gia đình. Và như vậy, lễ Cầu an không chỉ là một lễ hội tín ngưỡng mà còn là lễ hội văn hóa dân tộc kết nối sự yêu thương và hiểu biết.

Khi lễ giải hạn – cầu an được tiến hành xong, đoàn rước làng Đọi Tam rước Kiệu về cất tại Đình làng và làm lễ tạ. Tại chùa Long Đọi Sơn các nhà sư cũng làm lễ tạ.

2.2.3.2. Phần hội

Bên cạnh, phần lễ mang tính nghi thức thành kính, trong lễ Tịch điền Đọi Sơn 2009 còn có phần hội. Phần hội là cuộc vui chơi tổ chức cho đông đảo mọi

người tham gia để mọi người thỏa sức vui chơi, đem lại lợi ích tinh thần cho mọi thành viên trong cộng đồng. Các cuộc vui này được tổ chức xen kẽ với các nghi lễ nhằm thu hút đông đảo mọi người tham gia và tạo cho lễ hội Tịch điền một không khí vui tươi rộn ràng trong những ngày xuân. Khóa luận: Nghi lễ cày Tịch điền ở Đọi Sơn.

HỘI THI VẼ, TRANG TRÍ TRÂU

Song song với lễ rước nước, là hội thi vẽ trang trí cho 30 con trâu đã thu hút sự tò mò, quan tâm của khá nhiều du khách khi đến với lễ hội. Hội thi được tổ chức trên một cánh đồng rộng lớn ngay phía dưới chân núi Đọi. Hội thi này vừa mang tính chất một cuộc chơi vừa mang tính chất nghi lễ.

Ngay từ sáng sớm, 30 con trâu to khỏe được huấn luyện đặc biệt, tuyển chọn và thuần dưỡng theo chân người dân trong xã cùng tập trung tham dự hội thi. Từ những con trâu này, sau khi trang trí, Ban tổ chức chọn lựa 10 con trâu được vẽ đẹp nhất, độc đáo nhất để tham gia nghi lễ Tịch điền diễn ra vào sáng hôm sau.

Với những người nông dân huyện Duy Tiên, việc tham gia hội thi là một niềm vui, niềm vinh dự cũng là cách họ tri ân những chú trâu hiền lành ngày thường vẫn chăm chỉ cấy cày.

Những chú trâu được vẽ, trang trí nhiều màu sắc đã gây ấn tượng mạnh với người xem, trở thành một nét đặc trưng, độc đáo được mong chờ trong những ngày diễn ra lễ hội. Vì thế, hội thi vẽ, trang trí trâu đã nhận được sự hào hứng tham gia của nhiều họa sỹ đương đại trong nước và đặc biệt hội thi còn có sự tham gia của các họa sỹ đến từ khu vực Đông Nam Á như, Thái Lan, Malaysia, Singapore,… với những ý tưởng mới lạ thể hiện cảm nghĩ về đất nước và con người Việt Nam.

Xưa kia, vua chúa thực hiện nghi lễ Tịch điền, các con trâu cày được nghi thức hóa bằng cách trang trí vải đỏ lên lưng. Ngày nay, thay vì dùng vải những chú trâu tham gia nghi lễ được các họa sỹ miệt mài tô, vẽ, trang trí hoa văn, hình khối lên than thể.

Có thể nói, Hội thi vẽ trang trí trâu năm 2009 là nơi gặp gỡ giữa nghệ thuật truyền thống với nghệ thuật đương đại, nơi giao thoa giữa các màu sắc, gam màu mạnh mẽ nổi bật và những họa tiết tứ linh, tứ quý dân gian, với góc độ, cách nhìn đầy mới mẻ của người nghệ sỹ.

Cũng như bao lễ hội khác diễn ra khắp mọi miền đất nước mỗi độ xuân về, màu sắc chủ đạo được sử dụng trong lễ hội thi là đỏ và vàng. Màu đỏ thể hiện ước vọng may mắn, an lành trong năm mới. Màu vàng là màu của ấm no, hạnh phúc, của sự đủ đầy và cũng là màu của những cánh đồng lúa bội thu, trĩu nặng hạt ngọc đất trời khi kết thúc mùa vụ trong năm. Bên cạnh đó là một tông màu (nền màu) đối lập như đen, trắng mang đặc tính của thuyết âm dương với ý nghĩa cầu mong mưa thuận, gió hòa.

Dưới bàn tay tài hoa, điêu luyện và óc sáng tạo của mỗi nghệ sỹ đương đại, những hình khối, họa tiết dần được hiện lên mình những con trâu thân thuộc. Tất cả tạo nên bức tranh đa dạng, sặc sỡ sắc màu và đầy mới lạ cho hội thi vẽ, trang trí trâu. Hình ảnh vòng tròn âm dương, hình ảnh những chiếc cờ khởi nghĩa, những đồng tiền vàng thể hiện sự giàu sang, những ngọn lửa thể hiện sự ấm no hay những bông lúa biểu trưng cho mùa màng bội thu.

Mỗi họa sỹ là một phong cách riêng biệt với những gam màu, cách thức trang trí và nội dung hình vẽ khác nhau nhưng tất cả đều xuất phát từ tấm lòng, tình cảm đối với những giá trị văn hóa dân tộc, với sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của đất nước đang đà phát triển, để rồi người xem tranh trâu vừa có thể như đi ngược dòng thời gian, trở về thời điểm nhất định chất chứa bao nỗi niềm trong quá khứ cũng có thể lập tức hướng tới tương lai, mở ra một viễn cảnh tươi đẹp. Thông qua đó, mỗi họa sỹ đã gửi gắm những ước mơ, khát vọng, niềm tin tưởng vào sự cường thịnh, phát triển trong năm mới.

Trong một không gian rộng lớn, người dân và du khách được may mắn “mục sở thị” một đàn trâu rực rỡ sắc màu, những cơ nghiệp của nhà nông đã phần nào làm sống dậy những nét văn hóa tinh hoa của dân tộc. Hội thi vẽ, trang trí trâu góp phần trở thành sự kiện văn hóa đương đại nổi trội chưa từng có trong các lễ hội truyền thống của Việt Nam.

Nước ta có xuất phát điểm từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước nên hình tượng con trâu đã hiện diện rất sớm trong đời sống sinh hoạt cộng đồng của người dân Việt. Không chỉ gắn bó mật thiết với người nông dân trong sản xuất, là con vật quý, tài sản lớn của mỗi gia đình mà trong tín ngưỡng và truyền thống của người dân Việt Nam, con trâu còn là đại diện cho nông nghiệp lúa nước ngàn đời. Và như một lẽ thật tự nhiên, con trâu đã đi vào nghệ thuật, trở thành đề tài, nguồn cảm hứng phong phú của văn học, hội họa, điêu khắc, âm nhạc. Biểu tượng con trâu thích hợp với xu hướng chậm mà chắc, với sự coi trọng những giá trị tinh thần, là nền tảng của đạo đức, xã hội như hiền lành, hài hòa, chất phác, chăm chỉ, cần cù lao động, tình nghĩa thủy chung, kiên cường. Gốc có bền cây mới vươn cao, nền móng có chắc chắn thì ngôi nhà mới vững chãi, dân giàu nước mạnh, dân yên nước vững bền.

Ngày nay đất nước ta đang tiến bước mạnh mẽ trên con đường hội nhập và đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, nhưng luôn chú trọng phát triển một nền nông nghiệp bền vững, kế thừa và phát huy nền văn hóa bản địa và truyền thống vốn có của ông cha. Khóa luận: Nghi lễ cày Tịch điền ở Đọi Sơn.

Hình ảnh vị vua đích thân xuống ruộng cầm cày mở luống đã đi vào lịch sử nước nhà. Tuy nhiên lễ tịch điền không thể diễn ra nếu thiếu chú trâu hiền lành kéo cày đi trước. Vì thế, hội thi vẽ trang trí trâu cũng là cách mà người đời tôn vinh loài vật gắn bó mật thiết với làng quê Việt.

ĐẤU VẬT

Lễ hội Tịch điền phục dựng được lồng ghép trong lễ hội Long Đọi Sơn, một loạt các nghi lễ cùng các hoạt động văn hóa thể thao đặc sắc thu hút đông đảo người dân trong vùng và khách thập phương đến tham gia, thưởng ngoạn.

Chiều ngày mồng 7, giải vật mùa xuân năm 2009 lần đầu tiên cũng được diễn ra trong không khí tưng bừng của 60 đô vật đến từ 6 huyện, thành phố trong tỉnh với đủ mọi hạng cân giao đấu để lọt vào vòng chung kết.

Tham dự đấu vật là những đô vật khỏe mạnh, họ vừa dẻo, vừa dai sức, không dễ chấp nhận thua cuộc. Theo quy định của Ban tổ chức lễ hội, khi đấu vật, muốn được công nhận thắng cuộc, phải làm cho đối thủ “ngã trắng bụng”, hoặc phải dùng sức, dùng mẹo nâng bổng đối thủ lên khỏi xới vật. Các “đô” phải tiếp tục đấu cho đến khi phân biệt rõ thắng, bại. Cũng theo quy định của

Ban tổ chức, giải vật có ba loại chính gồm nhất, nhì, ba. Ngoài ba giải chính còn có các giải loại. Nói cụ thể, cuộc đấu phải trải qua bốn bước chính: bước thức nhất, trọng tài cho các “đô” đấu loại theo từng cặp; bước thứ hai, cho các “đô” đấu để tranh giải ba; bước thứ ba, trọng tài cho các “đô” đấu tranh giải nhì; bước thứ tư, trọng tài cho các “đô” đấu tranh giải nhất.

Không gian diễn ra đấu vật trong lễ hội Tịch điền là không gian mở, vừa trần tục lại vừa thiêng liêng. Đấy là một xới vật hình tròn có trang trí hai nửa âm dương, ở ngay chân núi Đọi. Trên bề mặt xới vật, người ta bố trí đệm mềm bằng cát hoặc bằng rơm vụn, có phủ vải bạt, mục đích để các đô vật ngã khỏi đau. Xung quanh xới vật, dân chúng đủ các thành phần, lứa tuổi, giới tính, đứng xem rất đông; cổ vũ cho các “đô” thêm phấn chấn, hăng hái cũng để thỏa mãn tính hiếu kỳ.

Không gian đấu vật trong lễ hội là không gian vừa trần tục vừa thiêng liêng, bởi xới vật được đặt ngay trước chân núi Đọi linh thiêng. Xới vật còn là không gian “mở‟, vì trong khi hai đô quần vật, khán giả đứng xung quanh có thể khen ngợi, bình phẩm, mà cũng có thể chê bai, hay “mách nước” thoải mái. Tính “trần tục” của cuộc đấu vật còn thể hiện ở chỗ cả người xem lẫn người trực tiếp đấu sức, đấu trí đều muốn làm vui lòng thần linh, qua đó cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu.

Ban tổ chức hội vật có ít nhất ba người. Một điều hành chung, một làm trọng tài, một chuyên đánh trống cầm nhịp cho trận đấu. Các đô vật tham gia thi đấu phải đóng khố, cởi trần, nhằm cho đôi bên không túm được quần áo của nhau. Khố thường may bằng vải lụa, đủ độ kín đáo, tạo cho các “đô” dáng vẻ khỏe mạnh, oai phong cần thiết.

Trước khi đấu vật, các cặp “đô” cúi chào ban tổ chức, các đại biểu, trọng tài và khán giả. Trọng tài ra hiệu cuộc thi đấu bắt đầu, trống nổi vang dội, hàm ý thúc giục. Các đô vật vào xới, se đài, khua chân múa tay theo bài bản, mềm dẻo, uyển chuyển, đẹp mắt. Sau vài phút, hai đô vật mới xông vào vờn nhau. Họ dùng tay chân, mắt để lừa miếng. Tất cả các thế vật đều được tận dụng tối đa. Bên thì toan dùng miếng bốc sườn, bên thì muốn dùng mẹo đội bổng, bên định vít cổ, bên có ý khóa tay. Trống thúc liên hồi, tiếng hò reo vang dội cả một vùng. Khi cuộc đấu đi vào thế giằng co, gay cấn, chính khán giả cũng hồi hộp như người đang thi đấu. Khóa luận: Nghi lễ cày Tịch điền ở Đọi Sơn.

Cùng với hội thi vẽ trang trí trâu, hội vật mùa xuân thượng võ năm 2009 tạo ra không khí vui chơi sôi động cho du khách dự hội. Đây là giải thi đấu truyền thống và là một trong những môn thi đấu thể thao mũi nhọn của tỉnh nhà được quan tâm đầu tư. Kết hợp với các trò chơi dân gian như đánh đu, kéo co, cờ người, bịt mắt bắt dê, bịt mắt đánh trống, đi cầu khỉ… đã để lại ấn tượng tốt đẹp và thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia.

CHỌI GÀ

Trò chơi chọi gà đã có từ xa xưa, là thú tiêu khiển của tầng lớp quý tộc giàu có, sau trở thành trò chơi dân gian, phổ biến trong các lễ hội.

Để có một chú gà khỏe mạnh, đá hay, phải chuẩn bị rất công phu.

Thứ nhất là chọn giống, theo những người chơi gà có nghề, để có một con gà chọi tốt, việc đầu tiên phải biết chọn giống. Gà mẹ phải xuất thân từ dòng gà có sức chịu đòn tốt, gan dạ và nhất là không có thói xấu “trả độ”. Gà bố phải thuộc dòng chân đá hiểm hóc, nhiều đòn thế hay. Hội tụ những yếu tố trên gà con sinh ra sễ được ít nhất một con gà tài.

Chọn gà tài phải bắt đầu từ khi gà vừa mới nở, chọn con gà tách bầy đi bắt sâu kiếm ăn một mình, hoặc đêm về không “rúc” vào nách gà mẹ ngủ mà nằm đối mặt với gà mẹ (gọi là chầu mỏ). Nếu không chọn được con như vậy, thì dựa vào các tiêu chuẩn cơ bản như cựa thật nguyệt (cựa đen, cựa trắng), gà lưỡng nhãn (hai con mắt khác màu), gà có bớt trong mũi hoặc gà tử mị (tối nằm ngủ sải chân, sải cánh, duỗi cổ như chết).

Thứ hai, để có được gà chọi, phải nuôi đúng cách, huấn luyện bài bản. Mỗi ngày chỉ cho ăn hai diều lúa, trưa cho ăn xen kẽ rau xanh, vài ngày mới cho ăn một ít mồi tươi. Tối cho gà ngủ màn để khỏi muỗi cắn. Nuôi gà quá kỹ sẽ bị “nục” (mập quá) cũng không tốt. Khi gà đến tuổi phải được “luyện võ”, cho đá với gà cùng giống và dùng một con gà khác nhử trên không để tập thế đá. Nếu có được một con gà chuyên cắn lửng, đá ngược hoặc đâm đùi, xỏ đĩa thì chẳng còn gì bằng.

Muốn gà dày da để có sức chịu đòn, dùng nghệ tươi, lá ngũ trảo với một chút phèn chua, giã nát ngâm rượu để xoa gà mỗi ngày và cho phơi nắng thường xuyên vào buổi sáng. Ngày xưa “gà chấm niên” – được một tuổi mới cho tập chuẩn bị tham chiến. Ngày nay thường lạm dụng thuốc, cho gà nhập cuộc chơi sớm hơn nên tuổi thọ chiến đấu của gà cũng ngắn hơn.

Những con gà đến tuổi “tham chiến” được người chủ cho tham dự hội. Theo quy định, mỗi “hồ” đấu dài 20 phút, nghỉ cho uống nước 5 phút, sau đó tiếp tục chọi cho đến khi phân thắng bại. Nếu gà dựa vào nhau để nghỉ, người chơi nắm đuôi của chúng để kéo ra rồi thả vào để giục chúng mau chóng tiếp tục cuộc đấu. Gà trong lúc chọi chỉ được ăn cơm, uống nước của trường gà ; không được đưa thuốc từ bên ngoài vào nhằm trợ sức cho gà.

Ngày xưa, chọi gà mang đậm chất giải trí, nghệ thuật; được coi là một nét đẹp văn hóa ở làng quê Việt, là hình thức nuôi dưỡng tinh thần thượng võ. Trò chơi này là sợi dây gắn kết tinh thần cộng đồng.

Còn ngày nay lại nặng tính ăn thua. Ngày xưa theo từng loại gà mà ấn định thời gian chọi (hồ chọi) ngắn hoặc dài để gà có điều kiện dưỡng sức ; còn ngày nay lại không thời gian cho từng hồi đấu. Ngày xưa, khi gà mệt quá thì có thể dựa vào nhau nghỉ thoải mái hoặc sau đó được xử huề thì ngày nay thúc cho gà đấu đến hết trận thì thôi. Chính vì vậy, chuyện thắng bại của trận đấu không còn phụ thuộc vào tài năng của gà mà phụ thuộc vào người chủ.

CỜ NGƯỜI Khóa luận: Nghi lễ cày Tịch điền ở Đọi Sơn.

Đây là trò chơi của làng nên 32 quân cờ thường được chọn từ các nam thanh, nữ tú là con cháu trong làng. Tiếng chuông, tiếng trống khua liên hồi. Cờ xí, võng lọng bay phấp phới trong nắng xuân hồng, cùng với áo mão của “ba quân tướng sỹ” đã làm sống dậy hình ảnh của triều đình vua quan thời phong kiến. Các quân cờ đều được mặc áo rực rỡ có thêu biểu tượng quân cờ mình thủ vai ở trước ngực và sau áo để người xem theo dõi diễn biến ván đấu. Cứ mỗi bước đi, các quân cờ thường múa các điệu múa dân gian truyền thống kèm theo các bài vè đặc trưng quen thuộc.

Bên cạnh sự náo động của các trò chơi khác như chọi gà, đấu vật, cái đẹp của sân cờ người là sự tinh tế, trầm tĩnh, có giá trị dung dưỡng tinh thần và như muốn tạo sự cân bằng ; đồng thời, bổ sung và nâng cao giá trị văn hóa truyền thống của các lễ hội qua nhiều thế kỷ.

MỘT SỐ TRÕ CHƠI KHÁC

  • Kéo co: các làng trong xã Đọi Sơn bốc thăm thi đấu loại. Mỗi đội có 10 người (5 nam, 5 nữ). Hai đội đứng sau mức 2 ở hai bên mức 0. Lá cờ đỏ trên dây mức 0. Khi hiệu lệnh phất ra, cuộc đấu diễn ra trong sự giằng co của hai đội và trong tiếng hò reo, cổ vũ của người xem. Đội thắng cuộc là đội kéo được lá cờ chạm mức 1 về phía mình. Các đội chỉ thi đấu một lần duy nhất.
  • Trò bịt mắt đánh trống: trò chơi này cần sự cảm nhận nhạy bén của các giác quan và sự chỉ dẫn của khán giả. Sau mỗi lần chơi, mỗi cuộc chơi, cho dù là thắng hay không nhưng khán giả tại đó đều dành cho người chơi những tràng vỗ tay động viên. Không khí của hội vì thế vui tươi hơn, cởi mở hơn và thắm tình hơn.

Bên cạnh các trò chơi kể trên còn có các trò như giao lưu rồng lân giữa các huyện, trò đi cầu khỉ, ném bóng vào chậu… Mỗi trò mang đến một lý thú riêng ; cùng góp phần làm cho hội phong phú hơn, sinh động hơn.

2.3. LỄ HỘI TỊCH ĐIỀN NĂM 2010, 2011

Năm 2009, lễ hội Tịch điền được tổ chức sau gần 100 năm thất truyền để lại nhiều ấn tượng tốt cho khách thập phương về dự và tạo được tiếng vang lớn cả trong và ngoài nước thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.

Năm 2010 diễn ra nhiều sự kiện trọng đại của đất nước, đặc biệt là Đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội. Nhiều hoạt động văn hóa được diễn ra, nhiều lễ hội lớn mang ý nghĩa lịch sử gắn liền với sự kiện trọng đại đó được tổ chức trên phạm vi cả nước. Vì vậy, lễ hội Tịch điền Đọi Sơn tiếp tục được tổ chức với quy mô lớn và hoành tráng hơn, mở đầu cho các hoạt động văn hóa hướng tới đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Đặc biệt, lễ hội vinh dự đón tiếp Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết về dự.

Về cơ bản, lễ hội Tịch điền Đọi Sơn năm 2010 được tổ chức giống với lễ hội Tịch điền phục dựng vào năm 2009.

Về kịch bản, vẫn giữ nguyên như kịch bản tổ chức năm 2009, chỉ có một số thay đổi nhỏ :

  • Đại lễ cầu an được chuyển sang tổ chức vào tối mồng 6 tháng Giêng – trước hôm diễn ra lễ cày Tịch điền.
  • Lễ cầu an không mời Pháp sư và dàn nhạc về làm lễ. Sau khi đại lễ kết thúc chỉ đốt pháo bông, không thả đèn trời.
  • Năm 2010, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết về dự lễ hội và trực tiếp tham gia cày tịch điền.
  • Về số lượng trâu được chọn để phục vụ cho lễ tịch điền: chọn 9 con trâu đoạt giải.
  • Nghi trình lễ cày Tịch điền có một số thay đổi: mở đầu là màn trống khai hội và màn múa rồng mừng hội. Tiếp theo là tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu, diễn văn khai mạc; lãnh đạo tỉnh đọc văn trình ; lãnh đạo Đảng, Nhà nước phát biểu, khai mạc lễ Tịch điền ; lễ dâng hương và cuối cùng là lễ cày Tịch điền của các lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lãnh đạo tỉnh, dân làng.
  • Lễ dâng hương có thêm một số chi tiết : lễ dâng hương bái tạ trước bàn thờ Thần Nông và kiệu Vua ; màn múa hát “Lải lèn” mừng được mùa.

Về công tác chuẩn bị, tổ chức : đây là năm thứ hai lễ hội Tịch điền được tổ chức. Do vậy, công tác tổ chức, chuẩn bị cho hội có nhiều thuận lợi như trang phục, đạo cụ, đường sá đi lại, nơi đón tiếp khách …Tuy nhiên, lễ hội mới được phục dựng lại, thời gian chuẩn bị cho lễ hội ngắn, lại vào các ngày giáp Tết Nguyên đán nên sự tập trung chưa cao độ, sự phối hợp giữa các cơ quan chưa ăn khớp, việc chuyển tải ý đồ của tổng đạo diễn, Ban tổ chức xuống ban điều hành, tiểu ban giúp việc và những người thực hiện chưa kịp thời.

Cơ sở vật chất phục vụ cho lễ hội như các cơ sở lưu trú, dịch vụ phục vụ ăn uống, điểm vui chơi… hầu như chưa có, không thu hút được du khách thập phương lưu trú qua đêm trong thời gian diễn ra lễ hội.

Công tác tuyên truyền quảng bá cho lễ hội được thực hiện tốt hơn so với năm 2009, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên tiếng vang lớn cho hội. Khóa luận: Nghi lễ cày Tịch điền ở Đọi Sơn.

Sau lễ hội năm 2010, Viện Văn hóa Nghệ thuật đề nghị lễ hội Tịch điền Đọi Sơn được tổ chức hàng năm với mục đích để người dân thấy được ý nghĩa quan trọng của hội, nhận thức rõ về vai trò chủ thể văn hóa của mình; để lễ hội thực sự trở thành hội của người dân, từ đó tự nguyện tham gia ; 5 năm/ 1 lần, lễ hội do tỉnh Hà Nam đứng ra tổ chức, các năm khác do huyện Duy Tiên đảm nhiệm. Đề nghị này được chấp thuận nên năm 2011, UBND huyện Duy Tiên trực tiếp tổ chức lễ hội Tịch điền Đọi Sơn.

Mặc dù thời gian và quy mô tổ chức có điều chỉnh, rút gọn một số nội dung trong kịch bản ; kinh phí tổ chức cho lễ hội không lớn; song được sự chỉ đạo sát sao của Thường trực Huyện ủy, lãnh đạo UBND huyện Duy Tiên, với sự cố gắng của ban tổ chức, sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan của huyện, cán bộ và nhân dân xã Đọi Sơn, lễ hội Tịch điền Đọi Sơn năm 2011 được tổ chức thành công. Khóa luận: Nghi lễ cày Tịch điền ở Đọi Sơn.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Khóa luận: Đánh giá về lễ hội Tịch điền Đọi Sơn

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x