Khóa luận: Hợp đồng BOT theo quy định của pháp luật Việt Nam

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Hợp đồng BOT theo quy định của pháp luật Việt Nam hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Hợp đồng BOT (xây dựng-kinh doanh-chuyển giao) theo quy định của pháp luật Việt Nam- thực trạng và giải pháp dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này. 

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong xu hướng toàn cầu hóa của nền kinh tế thế giới hiện nay, việc mở rộng các mối quan hệ kinh tế đối ngoại là một xu thế tất yếu và khách quan. Đây là quá trình khai thác các nguồn lực phát triển bên ngoài để phát huy nội lực của nền kinh tế quốc gia. Quá trình này đòi hỏi tất cả các nước phải nỗ lực xây dựng những nền tảng căn bản phục vụ cho quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực. Một trong những cơ sở căn bản đó là một hệ thống cơ sở hạ tầng tốt, không chỉ phục vụ cho hoạt động thương mại trong nước mà còn phục vụ cho quá trình tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế. Hệ thống cơ sở hạ tầng cơ bản bao gồm các lĩnh vực: viễn thông, năng lượng, giao thông vận tải và cấp nước…

Việc xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng đặt ra rất nhiều khó khăn đối với các quốc gia đang phát triển. Thứ nhất, việc huy động vốn gặp nhiều khó khăn vì trên thực tế các dự án cơ sở hạ tầng đòi hỏi một khối lượng vốn khổng lồ mà nguồn vốn ngân sách Nhà nước của các quốc gia thường không đủ để đáp ứng. Thứ hai, các quốc gia đang phát triển khó khăn về trình độ chuyên môn, năng lực xây dựng, vận hành, khai thác, bảo trì và quản lý hệ thống cơ sở hạ tầng. Để giải quyết những khó khăn này, cần phải có sự tham gia của khu vực tư nhân cả trong nước và quốc tế vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng. Thông qua sự tham gia này Nhà nước sẽ tận dụng nguồn tài chính khổng lồ cũng như năng lực quản lý trình độ chuyên môn kỹ thuật của khu vực tư nhân thông thường cao hơn của khu vực Nhà nước. Tuy nhiên, mục tiêu theo đuổi của khu vực tư nhân chủ yếu là lợi nhuận. Để đảm bảo sự quản lý của Nhà nước đối với các dự án cơ sở hạ tầng, để đảm bảo các cơ sở hạ tầng đó phục vụ cho lợi ích của cộng đồng, lợi ích kinh tế và đảm bảo chủ quyền quốc gia, đồng thời vẫn khuyến khích được khu vực tư nhân tham gia vào lĩnh vực này, Nhà nước đã có các quy định pháp luật về hợp đồng BOT, nhưng các văn bản pháp luật về hợp đồng BOT này liệu đã đi vào thực tiễn và áp dụng hiệu quả hay chưa thì đó vẫn là một dấu hỏi. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “hợp đồng BOT (xây dựng-kinh doanh-chuyển giao) theo quy định của pháp luật Việt Nam- thực trạng và giải pháplà hết sức cấp thiết trong bối cảnh hiện nay. Từ đó, khóa luận xin đề ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật hợp đồng BOT, tháo gỡ những khó khăn trong công tác áp dụng và triển khai hợp đồng BOT tại Việt Nam.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

2. Mục tiêu nghiên cứu

Khoá luận sẽ tìm hiểu những quy định pháp lý hiện hành về hợp đồng BOT và từ đó nêu lên những điểm còn hạn chế, tiến bộ của những quy định pháp lý này so với những quy định pháp lý trước đây về hợp đồng BOT. Đồng thời khóa luận cũng nghiên cứu thực trạng giao kết và thực hiện hợp đồng BOT theo quy định của pháp luật Việt Nam. Trên những cơ sở đó, khoá luận sẽ đề ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng BOT và tháo gỡ những khó khăn trong việc giao kết và thực hiện hợp đồng đồng BOT tại Việt Nam. Khóa luận: Hợp đồng BOT theo quy định của pháp luật Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1 Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những quy định pháp lý hiện hành về hợp đồng BOT tại Việt Nam.

3.2 Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của khóa luận dựa trên các văn bản pháp luật về hợp đồng BOT bao gồm: Luật Đầu tư năm 2005, Nghị định 108/2009/NĐCP, Thông tư số 03/2011/TT-BKH. Ngoài ra còn có một số văn bản pháp luật liên quan như: Bộ Luật Dân Sự năm 2005, Luật Thưong Mại năm 2005, Luật Đấu Thầu năm 2005. Để việc nghiên cứu được sâu sắc hơn, khoá luận có mở rộng phạm vi nghiên cứu trên cơ sở là có so sánh điểm tiến bộ với các văn bản pháp luật cũ về hợp đồng BOT như Nghị định 78/2007/NĐ-CP.

Vì thế trong khuôn khổ nghiên cứu, khóa luận chỉ giới hạn tập trung nghiên cứu pháp luật về hợp đồng BOT trong khoảng thời gian từ 2005 – 2011.

4. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong việc thực hiện khóa luận này là phương pháp nghiên cứu tổng hợp như phương pháp phân tích, phương pháp so sánh dựa trên các tài liệu sơ cấp bao gồm các văn bản pháp luật, các số liệu thống kê từ website của Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư…. và tài liệu thứ cấp thu thập được thông qua các bài báo điện tử, giáo trình, sách tham khảo…

5. Kết cấu của khóa luận

Ngoài các phần lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận gồm có 3 chương:

  • Chương 1: Tổng quan về hợp đồng BOT
  • Chương 2: Các quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng BOT
  • Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng BOT

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ HỢP ĐỒNG BOT

1.1 Khái niệm hợp đồng BOT

1.1.1 Khái niệm hợp đồng BOT trên thế giới

1.1.1.1 Nguồn gốc của hợp đồng BOT Khóa luận: Hợp đồng BOT theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Trên thế giới, hợp đồng đã xuất hiện từ rất lâu, ngay từ khi có sự phân công lao động và xuất hiện hình thức trao đổi hàng hóa. Nhờ hợp đồng mà loài người đã đảm bảo được quan hệ trao đổi, mua bán tài sản, đồng thời cổ xúy, thúc đẩy được sự vận động, lưu thông của hàng hóa, tiền tệ. Hợp đồng được coi là một cam kết thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên (pháp nhân) để làm hoặc không làm một việc nào đó trong khuôn khổ pháp luật. Cùng với thời gian thì pháp luật quy định về hợp đồng ngày càng phát triển một cách tích cực. Theo đó, sự ràng buộc các bên trong hợp đồng ngày càng chặt chẽ và cụ thể hơn. Trên thế giới hợp đồng được phân ra thành nhiều loại khác nhau như: hợp đồng lao động, hợp đồng thương mại, hợp đồng bảo hiểm…

Hợp đồng BOT (xây dựng-kinh doanh-chuyển giao) ra đời muộn hơn so với các loại hợp đồng khác. Hợp đồng BOT mang đầy đủ bản chất của một hợp đồng thông thường bên cạnh những đặc thù riêng của nó. Trên thế giới, hợp đồng BOT được sinh ra với mục đích huy động nguồn vốn từ khu vực tư nhân để tài trợ, xây dựng, kinh doanh cơ sở hạ tầng vốn thuộc trách nhiệm của Nhà nước như đường sá, cầu cống… Điều này làm giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, tạo ra cơ chế hữu hiệu trong việc đầu tư từ lĩnh vực tư nhân phục vụ lợi ích xã hội.

Hợp đồng BOT hình thành từ kết quả của quá trình phát triển kinh tế từ những năm cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Khi sự tích tụ tư bản tăng lên, nền kinh tế phát triển ở một mức độ nhất định thì nhu cầu xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng mới được đặt vào tình thế cấp thiết. Nhà nước với vai trò quản lý xã hội của mình, phải có nhiệm vụ thực hiện việc xây dựng cơ sở hạ tầng công cộng. Tuy nhiên, trong khi nhu cầu về cơ sở hạ tầng ngày càng đặt ra gay gắt để đáp ứng xu thế phát triển của toàn thế giới thì nguồn ngân sách Nhà nước lại hạn hẹp, không đủ đáp ứng. Hơn nữa, hiệu quả từ việc đầu tư của cơ quan Nhà nước vào cơ sở hạ tầng không cao. Chính vì vậy, khi chủ nghĩa tư bản phát triển, thế giới trải qua cuộc cách mạng công nghiệp cũng là lúc hợp đồng BOT ra đời, do đó hợp đồng BOT có thể được coi là đứa con của cuộc cách mạng công nghiệp. Đồng thời, sự phát triển kinh tế vượt bậc ở khu vực tư nhân, cùng sự tham gia ngày càng sâu rộng của khu vực tư nhân vào tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế, xã hội, trong đó có nhiều lĩnh vực trước đây chỉ có duy nhất Nhà nước mới có quyền tham gia đã chứng tỏ vai trò kinh tế của lĩnh vực tư nhân trong đời sống xã hội.

Trong những năm cuối thế kỷ 18 và nửa đầu thế kỷ 19, hợp đồng BOT đã ra đời tại Vương quốc Anh bắt nguồn từ việc xây dựng những con đường quốc lộ và đường ray xe lửa. Kế tiếp là tại Mỹ, khái niệm hợp đồng BOT xuất hiện từ các thỏa thuận nhằm xây dựng công trình 15000 dặm đường thu phí vào giữa thế kỷ 19 của những doanh nhân giàu có. Trong suốt 4 thập kỷ đầu thế kỷ 19 đã có khoảng 450 tuyến đường đã được xây dựng trên khắp nước Mỹ được thực hiện theo hình thức hợp đồng BOT giữa một bên là các bang nước Mỹ và một bên là các nhà đầu tư tư nhân. Còn tại Pháp, năm 1782 anh em nhà Perier đã trở thành những nhà đầu tư thực hiện theo hình thức BOT đầu tiên tại Pháp với hợp đồng xây dựng đường giao thông tại Paris. Tại Thổ Nhĩ Kỳ, năm 1844 dự án đầu tiên theo hình thức BOT cũng được thực hiện. Đặc biệt đối với Ai Cập, ý tưởng về hợp đồng BOT cũng xuất hiện từ khá sớm với việc xây dựng kênh đào Suez năm 1869 dựa trên nguồn vốn kết hợp giữa nhà đầu tư tư nhân Châu Âu và Chính Phủ Ai Cập nhằm thiết kế, xây dựng, vận hành và chuyển giao kênh đào Suez phía Đông Bắc Ai Cập, thuộc triều đại nhà vua Pasha Muhammad Ali. Khóa luận: Hợp đồng BOT theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Trong nửa sau của thế kỷ 19, hệ thống đường ray xe lửa, đường hầm, sân bay, nhà ga, bến cảng… tiếp tục được phát triển trên cơ sở hỗ trợ tài chính của khu vực kinh tế tư nhân. Công việc xây dựng cơ sở hạ tầng vốn thuộc về trách nhiệm của Nhà nước, nay với sự xuất hiện của hợp đồng BOT đã dần được chuyển giao sang khu vực tư nhân. Với lợi ích rất lớn từ hợp đồng BOT, cuối thế kỷ 19, các dự án theo hình thức hợp đồng BOT đã xuất hiện hầu hết ở tất cả các nước Châu Âu như Đức, Tây Ban Nha và Ý… rồi lan sang các nước Châu Á như Phi-lip-pin, Ma-lai-xi-a, Trung Quốc và Ấn Độ, chưa kể một số quốc gia ở Châu Mỹ-La tinh và Châu Phi cũng gia nhập vào phong trào này. Ở các quốc gia này, pháp luật đã được sửa đổi và ban hành nhằm kịp thời điều chỉnh một loại hợp đồng có nhiều đặc thù và mới mẻ như hợp đồng BOT mà cụ thể là Phi-lip-pin đã ban hành luật mới số 7718 cho phép việc xây dựng cơ sở hạ tầng tại Phi-lip-pin theo phương thức hợp đồng BOT.

Vào đầu thế kỷ 20, nhân loại đã chứng kiến sự phát triển ngày càng sâu rộng các cơ sở hạ tầng ký kết theo phương thức BOT rộng khắp trên thế giới. Nguyên nhân một phần do sự phát triển cơ sở hạ tầng này là do nhu cầu giải quyết ùn tắc giao thông, sự bùng nổ của các phương tiện đi lại, điều này thúc đẩy các nước tăng cường huy động các quỹ đầu tư tư nhân thông qua thỏa thuận BOT. Trên thực tế, đã có một số nước vẫn còn quan niệm truyền thống rằng các dự án cơ sở hạ tầng phải do Nhà nước thực hiện song từ những thập niên 1950 chính những quan niệm này cũng đã phải dần thay đổi, theo đó, nhà đầu tư thuộc khu vực tư nhân được phép xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ lợi ích công chúng. Cũng vào đầu thế kỷ 20, các nước Châu Á cũng đã trải qua cuộc cách mạng kinh tế, bắt nhịp với sự văn minh nhân loại, thúc đẩy các hình thức đầu tư mới với sự ra đời của hợp đồng BOT dựa trên xu hướng tư nhân hóa các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Các dự án BOT thành công đã xuất hiện ngày càng nhiều. Tại Hong Kong đã có nhiều dự án BOT thành công như đường hầm, cầu cảng Harbour-Crossing năm 1999. Còn tại Trung Quốc, các dự án năng lượng dựa trên hợp đồng BOT ngày càng trở thành hình thức phổ biến và là hình thức được Nhà nước và nhà đầu tư ưa thích.

1.1.1.2 Định nghĩa hợp đồng BOT

Hợp đồng BOT thường gắn liền với việc xây dựng cơ sở hạ tầng. Vì vậy, định nghĩa hợp đồng BOT trên thế giới cũng gắn liền với định nghĩa cơ sở hạ tầng. Liên quan đến định nghĩa cơ sở hạ tầng, trên thế giới, khái niệm cơ sở hạ tầng được coi là việc cung cấp các tiện ích, dịch vụ thiết yếu, phục vụ nhu cầu sinh hoạt và sản xuất hàng ngày của mọi người dân cũng như các nhà sản xuất, nhà kinh doanh. Các cơ sở hạ tầng có thể kể ra như nhà máy điện, nguồn cung cấp nước, việc xử lý nước thải… cũng như các công trình kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng như đường giao thông, cầu cống, sân bay…

BOT có thể hiểu là viết tắt của 3 từ build, operate, transfer (kinh doanh, xây dựng, chuyển giao) là một phương thức huy động vốn từ nhà đầu tư tư nhân. Trên thế giới, hợp đồng BOT được định nghĩa là hợp đồng với mô hình sử dụng vốn từ khu vực tư nhân để thực hiện việc xây dựng cơ sở hạ tầng vốn dĩ vẫn được dành riêng cho khu vực Nhà nước. Điều này làm giảm gánh nặng cho cán cân ngân sách quốc gia. BOT không phải là phương thức duy nhất để huy động vốn từ tư nhân nhằm xây dựng các cơ sở hạ tầng nhưng là mô hình thông dụng nhất thường được nhà đầu tư sử dụng trên thế giới.

Mặt khác, hợp đồng BOT được coi là một hình thức của hợp đồng PPP (private public partnership) – hợp đồng hợp tác công tư mà theo đó nhà nước cho phép tư nhân cùng tham gia đầu tư vào các dịch vụ hoặc công trình công cộng của nhà nước. Với mô hình PPP, Nhà nước sẽ thiết lập các tiêu chuẩn về cung cấp dịch vụ và tư nhân được khuyến khích tham gia bằng cơ chế thanh toán theo chất lượng dịch vụ. Đầu tư theo hình thức PPP chủ yếu dùng cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội như đường, cầu, hầm đường bộ, sân bay, các công trình về nước sạch, bệnh viện… Đầu tư theo hình thức PPP đồng nghĩa với việc rủi ro chính sẽ chuyển từ Nhà nước sang lĩnh vực tư nhân. Hình thức này sẽ mang lại lợi ích cho cả nhà nước và người dân vì tận dụng được nguồn lực tài chính và quản lý từ tư nhân, trong khi vẫn đảm bảo các lợi ích cho người dân. Trên thế giới, các hình thức đầu tư PPP đang được triển khai một cách rộng rãi. Khóa luận: Hợp đồng BOT theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Một số hình thức đầu tư tương tự hình thức hợp đồng BOT và đều được coi là một hình thức của hợp đồng PPP chẳng hạn như:

  • BOO, Built-Own-Operate (Xây dựng, sở hữu, kinh doanh).
  • BOOT, Built-Own-Operate-Transfer (Xây dựng, sở hữu, kinh doanh, chuyển giao).
  • BTO, Build-Transfer-Operate (Xây dựng, chuyển giao, kinh doanh).
  • BLT, Build-Lease-Transfer (Xây dựng, cho thuê, chuyển giao).
  • BRT, Build-Rent-Transfer (Xây dựng, cho thuê, chuyển giao).
  • ROT, Rehabilitate-Operate-Transfer (Cải tạo, hoạt động, chuyển giao).
  • ROO, Rehabilitate-Own-Operate (Cải tạo, sở hữu, kinh doanh).

1.1.2 Khái niệm hợp đồng BOT tại Việt Nam

1.1.2.1 Nguồn gốc hợp đồng BOT

Cũng giống như trên thế giới, hợp đồng tại Việt Nam xuất hiện ngay từ khi con người có sự phân công lao động, với hình thức sơ khai là bản giao kèo bằng miệng từ thời kỳ công xã nguyên thủy. Trải qua thời gian, pháp luật về hợp đồng ngày càng được hoàn thiện, hoà nhịp cùng sự phát triển với pháp luật về hợp đồng BOT trên thế giới.

Hợp đồng BOT dựa chủ yếu trên nguồn vốn tư nhân cho nên nhắc đến nguồn gốc hợp đồng BOT không thể không nhắc đến tiến trình lịch sử của Việt Nam trong việc công nhận lĩnh vực kinh tế tư nhân là một thành phần không thể tách rời trong nền kinh tế đất nước. Trở lại với lịch sử, năm 1945, nước Việt Nam mới được thành lập, với kế hoạch phát triển, với định hướng Xã hội chủ nghĩa. Khi đó, Việt Nam phải đối mặt với cả thù trong giặc ngoài, Nhà nước ta đã phải định hướng phát triển kinh tế theo hướng tập trung, bao cấp. Chính sách đó kéo dài đến những thập kỷ 80 của thế kỷ trước, ngay cả khi Việt Nam đã hòa bình, thống nhất đất nước. Nhận thấy, chính sách phát triển kinh tế theo định hướng tập trung, quy mô hợp tác xã, tự cung tự cấp không còn phù hợp với nền kinh tế Việt Nam, khiến cho đất nước ngày càng suy thoái và trì trệ. Năm 1986, Việt Nam chính thức thực hiện chính sách đổi mới một cách sâu rộng, và bắt đầu thực hiện giai đoạn công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước. Điều này đã giúp Việt Nam thoát khỏi nền kinh tế quan liêu bao cấp, đưa kinh tế đất nước phát triển theo nền kinh tế thị trường. Các thành phần kinh tế mới được mở rộng, các ngành kinh tế then chốt vẫn dưới sự điều hành của Nhà nước. Tới lúc đó, Nhà nước mới thừa nhận sự tồn tại của khu vực kinh tế tư nhân, và luôn coi trọng vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong công cuộc đổi mới đất nước. Với xu thế đó, Luật đầu tư nước ngoài đã ra đời năm 1987 để thu hút nguồn vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế khác nhau cho công cuộc phát triển nước nhà. Hợp đồng BOT mặc dù đã xuất hiện trên thế giới từ rất lâu rồi, nhưng sau mãi 6 năm khi Luật Đầu tư nước ngoài ra đời thì tại Việt Nam khái niệm hợp đồng BOT mới xuất hiện thông qua Nghị định 87/CP năm 1993. Điều này cho thấy Việt Nam đã đổi mới tư duy trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng, phục vụ lợi ích công cộng. Việt Nam sẵn sàng kêu gọi đầu tư tư nhân ở các nước tư bản, trung lập chứ không dừng ở các nước Xã hội chủ nghĩa anh em như trước kia. Việc Nhà nước ban hành Luật Đầu tư nước ngoài và các quy định pháp luật về hợp đồng BOT đã cho thấy nỗ lực bang giao của Việt Nam đối với thế giới, nỗ lực thu hút nguồn vốn thông qua các quy định ưu đãi đầu tư, các quy chế đảm bảo quyền và lợi ích cho nhà đầu tư tại Việt Nam.

1.1.2.2. Định nghĩa hợp đồng BOT

Nội dung hợp đồng BOT thể hiện rõ các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng trong suốt quá trình thực hiện dự án đến lúc chuyển giao, chấm dứt hợp đồng. Do vậy, hợp đồng BOT được nhìn nhận là một loại của hợp đồng dân sự. Liên quan đến định nghĩa hợp đồng dân sự, theo Bộ Luật Dân sự năm 2005, hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Cụ thể, nghĩa vụ dân sự là việc mà một hoặc nhiều chủ thể phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác. Có thể nói, nghĩa vụ của một bên trong hợp đồng sẽ là quyền của bên còn lại. Do đó, nội dung cơ bản trong hợp đồng BOT phải phù hợp với những quy định pháp luật về hợp đồng dân sự theo quy định của Bộ Luật Dân sự 2005. Khóa luận: Hợp đồng BOT theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Bên cạnh đó, hoạt động thương mại theo cách hiểu của Luật Thương mại 2005 là các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm các hoạt động mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Việc thực hiện đầu tư theo hình thức BOT được coi là một hình thức của hợp đồng thương mại. Vì vậy, trước khi đi vào định nghĩa hợp đồng BOT là gì, khoá luận muốn đi vào phân tích khái niệm hợp đồng thương mại. Theo GS.TS Nguyễn Thị Mơ, hợp đồng thương mại là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ đối với nhau trong việc thực hiện các hoạt động thương mại nhằm mục đích sinh lời. Theo đó, các bên tham gia hợp đồng thương mại đều có quyền và nghĩa vụ riêng của mình hay nói cách khác quyền của bên này sẽ là nghĩa vụ của bên kia, và ngược lại.

Tại Việt Nam, hợp đồng BOT được định nghĩa là hợp đồng đầu tư được ký kết giữa Nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất định, hết thời hạn, nhà đầu tư phải chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. Có được khái niệm này là sự kết hợp hai định nghĩa riêng biệt về hợp đồng BOT được quy định trong quy chế đầu tư theo hợp đồng BOT, BTO, BT áp dụng cho nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam tại khoản 1, Điều 1 Nghị định 62/1998/NĐ-CP, ngày 15/8/1998 và định nghĩa hợp đồng BOT áp dụng cho đầu tư trong nước, tại khoản 4 Điều 1, Nghị định 77-CP ngày 18/6/1997.

Định nghĩa này đã cho thấy Nhà nước nhìn nhận hợp đồng BOT trên hai khía cạnh. Khía cạnh thứ nhất cho thấy hợp đồng BOT được thực hiện dựa trên một quá trình đầu tư của nhà đầu tư, nhấn mạnh đến tiến trình từ việc nhà đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đến việc kinh doanh công trình đó và chuyển giao không bồi hoàn cho Nhà nước. Khía cạnh thứ hai là mối quan hệ chủ thể giữa các bên trong hợp đồng, trong đó Nhà nước giữ vai trò quản lý hành chính vĩ mô còn nhà đầu tư tiến hành các hoạt động đầu tư và kinh doanh đối với các công trình. Cụ thể, cơ quan Nhà nước tham gia vào hầu hết các quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng BOT như xây dựng danh mục dự án, lựa chọn nhà đầu tư, cấp giấy chứng nhận đầu tư, chuyển giao công trình dự án.

1.2. Đặc điểm của hợp đồng BOT Khóa luận: Hợp đồng BOT theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Hợp đồng BOT ở Việt Nam là hợp đồng vừa mang đặc điểm của hợp đồng thương mại nói chung, vừa có những đặc trưng riêng của nó.

1.2.1 Hợp đồng BOT mang các đặc điểm của hợp đồng thương mại

Hợp đồng BOT là một hình thức của hợp đồng thương mại. Vì vậy, tất cả các đặc điểm của hợp đồng thương mại cũng được hiểu là đặc điểm của hợp đồng BOT hay nói cách khác dù hợp đồng BOT có là một dạng đặc biệt của hợp đồng thương mại hay tồn tại một cách độc lập trong hệ thống pháp luật hợp đồng thì hợp đồng BOT vẫn mang toàn bộ đặc điểm thông thường mà trước hết nó là sự thể hiện ý chí tự do của các bên tham gia ký kết hợp đồng. Cụ thể, các đặc điểm chung của hợp đồng BOT so với hợp đồng thương mại khác là:

Thứ nhất, so với các hợp đồng thương mại khác với mục đích huy động vốn từ khu vực tư nhân như hợp đồng BT, BTO thì các hợp đồng này đều nhằm thực hiện xây dựng cơ sở hạ tầng vốn thuộc trách nhiệm của Nhà nước và Nhà nước tham gia vào các hợp đồng này với tư cách là một chủ thể đặc biệt tham gia hợp đồng, vừa với tư cách là một chủ thế kinh tế, vừa với tư cách là chủ thể công quyền.

Thứ hai, chủ thể của hợp đồng BOT giống như các hợp đồng thương mại khác, đó là các cá nhân, pháp nhân tham gia vào hợp đồng. Chủ thể của hợp đồng có thể là các thương nhân, các doanh nghiệp, hoặc các công ty trong nước, nước ngoài. Trong trường hợp chủ thể là các thương nhân, doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài thì hợp đồng thương mại sẽ coi là có yếu tố nước ngoài. Đồng thời chủ thể của hợp đồng này có thể là Nhà nước, với vai trò là chủ thể đặc biệt trong hợp đồng thương mại.

Thứ ba, hợp đồng BOT còn có điểm giống với các hợp đồng thương mại khác thể hiện ở mục đích của hợp đồng. Mục đích của hợp đồng BOT nói riêng và hợp đồng thương mại nói chung là tìm kiếm lợi nhuận, và đạt được các lợi ích kinh tế khác. Điều này phù hợp với quan điểm của Nhà nước trong việc khuyến khích các tổ chức, các cá nhân làm giàu một cách hợp pháp và cũng là động lực kích thích sự sáng tạo của các doanh nghiệp trong các hoạt động thương mại. Tuy nhiên, mục đích thu lợi nhuận của hợp đồng BOT nói riêng và hợp đồng thương mại nói chung không phải là mục đích duy nhất mà các chủ thể của hợp đồng theo đuổi khi kí kết và thực hiện hợp đồng. Thực tế có nhiều các doanh nghiệp, các công ty khi ký kết hợp đồng không chỉ chú ý đến lợi nhuận mà còn phải song song tiến hành nhiều hoạt động ngoài hoạt động sinh lời như các hoạt động mở rộng sản xuất, chuyển giao công nghệ… Khóa luận: Hợp đồng BOT theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Thứ tư, nguyên tắc cơ bản thực hiện hợp đồng BOT cũng giống như nguyên tắc thực hiện các hợp đồng thương mại khác. Cụ thể, các nguyên tắc cơ bản đó là:

  • Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của thương nhân trong hoạt động thương mại.
  • Nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận trong hoạt động thương mại.
  • Nguyên tắc áp dụng thói quen trong hoạt động thương mại được thiết lập giữa các bên.
  • Nguyên tắc áp dụng tập quán trong hoạt động thương mại.
  • Nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng.
  • Nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt động thương mại.

Như vậy, trong mối quan hệ với hợp đồng thương mại khác, hợp đồng BOT là một hợp đồng theo đúng nghĩa là hợp đồng thương mại. Nó hàm chứa tất cả các yếu tố, điều kiện và các nguyên tắc trong việc hình thành, giao kết, thực hiện, chấm dứt hợp đồng. Tuy nhiên với tư cách là một thỏa thuận đầu tư, hợp đồng BOT còn có những đặc thù riêng như được trình bày ở phần tiếp theo.

1.2.2 Điểm đặc thù của hợp đồng BOT Khóa luận: Hợp đồng BOT theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Hợp đồng BOT so với các hợp đồng khác có những điểm khác biệt rõ nét sau:

Nét khác biệt thứ nhất thể hiện ở đối tượng của hợp đồng BOT không bao giờ là động sản mà luôn là các công trình cơ sở hạ tầng như nhà máy, điện, nước, cầu hầm, cống, hệ thống cấp thoát nước… Tính đặc thù nữa về mặt đối tượng của hợp đồng BOT so với các hợp đồng khác còn thể hiện ở chỗ các cơ sở hạ tầng này thường do Nhà nước có trách nhiệm phải thực hiện.

Nét khác biệt thứ hai thể hiện ở chủ thể hợp đồng BOT. Chủ thể hợp đồng BOT luôn bao gồm một bên là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và bên kia là chủ đầu tư. Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tham gia hợp đồng BOT với tư cách là chủ thể đặc biệt của quan hệ pháp luật này. Tính đặc biệt này cần được chú ý bởi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền không chỉ tham gia với tư cách là chủ thể kinh tế mà còn tham gia với tư cách chủ thể công quyền, quản lý một số hoạt động đầu tư của nhà đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT. Trong khi, các hợp đồng thương mại khác không phải hợp đồng nào cũng có sự tham gia của Nhà nước với vai trò chủ thể.

Nét khác biệt thứ ba ở hợp đồng BOT so với các hợp đồng khác đó là quy định về vốn tài trợ để thực hiện hợp đồng. Các hợp đồng vay tài sản khác thường phải dựa vào cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh. Còn vấn đề vay để thực hiện dự án trong hợp đồng BOT lại ngược lại. Cụ thể trong hợp đồng BOT, bên cho vay không phải dựa vào tài sản hiện hữu hoặc hình thành trong tương lai của doanh nghiệp mà bên cho vay thường xem xét tới nguồn thu của dự án để hoàn trả lại vốn vay thay vì các nguồn bảo đảm truyền thống khác như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh tài sản của bản thân doanh nghiệp hoặc chủ đầu tư.

Nét khác biệt thứ tư ở việc thương lượng và ký kết hợp đồng BOT. So với các hợp đồng khác thì việc ký kết hợp đồng BOT rất phức tạp và chặt chẽ.

Điều này thể hiện qua việc lựa chọn nhà thầu tham gia đàm phán ký kết hợp đồng BOT. Quy trình chọn nhà thầu hết sức khắt khe cả về quy trình công nghệ, lẫn yêu cầu về nguồn vốn tài chính của nhà tư để thực hiện dự án BOT. Hơn thế nữa, việc thương lượng ký kết hợp đồng BOT luôn luôn gắn liền với các hợp đồng phụ khác như hợp đồng mua bán vật tư để thực hiện dự án, hợp đồng cung cấp điện cho dự án, hợp đồng thuê đất, hợp đồng bán các sản phẩm của dự án BOT…Vì vậy, việc ký kết hợp đồng BOT cũng thường đi kèm với việc thương lượng các điều khoản cơ bản của một số hợp đồng phụ phục vụ trực tiếp cho việc thực hiện dự án. Khóa luận: Hợp đồng BOT theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Nét khác biệt thứ năm thể hiện ở chỗ việc thực hiện hợp đồng BOT luôn gắn với doanh nghiệp dự án hay còn gọi là doanh nghiệp BOT. Trong quy định về hợp đồng BOT đã quy định rằng hợp đồng BOT phải có một chủ thể kinh doanh nhằm tiến hành các hoạt động kinh doanh trên cơ sở các thỏa thuận trong hợp đồng BOT. Với mục đích như vậy, nhà đầu tư có thể thành lập một doanh nghiệp mới hoặc sử dụng doanh nghiệp đang tồn tại để thực hiện dự án BOT. Doanh nghiệp BOT không tồn tại nếu không có hợp đồng dự án. Đồng thời, hợp đồng BOT sẽ không thể thực hiện được hoặc không có ý nghĩa gì nếu không có doanh nghiệp dự án để thực các quy định và cam kết trong hợp đồng BOT.

1.2.3 So sánh hợp đồng BOT với một số loại hợp đồng tương tự

Bên cạnh hợp đồng BOT còn có một số dạng hợp đồng tương tự khác theo hình thức PPP như hợp đồng xây dựng, chuyển giao, kinh doanh (hợp đồng BTO), hợp đồng xây dựng, chuyển giao (hợp đồng BT)…Về bản chất, phương thức của những hợp đồng này cũng giống với hợp đồng BOT ở điểm nhà đầu tư phải bỏ vốn xây dựng, hiện đại hóa hoặc khôi phục công trình cơ sở hạ tầng vốn dĩ do Nhà nước đảm nhiệm nhằm mục đích sinh lợi. Do vậy, chúng có đặc điểm chung về đối tượng và mục đích. Điểm khác nhau giữa hợp đồng BOT so với các hợp đồng tương tự đó là việc sở hữu đối với các công trình, vận hành công trình và thời điểm chuyển giao công trình cho Nhà nước. Sự khác nhau về tính chất sở hữu và thời điểm chuyển giao công trình này dẫn đến sự khác nhau về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong từng loại hợp đồng và việc bồi hoàn đối với vốn đầu tư của nhà đầu tư đã bỏ ra đối với công trình tùy thuộc vào thời điểm chuyển giao công trình. Cụ thể, thời điểm chuyển giao công trình là sau khi nhà đầu tư đã kinh doanh công trình trong một thời gian hợp lý đủ để thu hồi vốn và lãi. Đối với hợp đồng BTO, sau khi xây dựng xong nhà đầu tư chuyển giao ngay công trình cho Nhà nước,

Nhà nước sẽ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn và có lợi nhuận hợp lý. Đối với hợp đồng BT, sau khi xây dựng xong thì nhà đầu tư chuyển giao công trình cho Nhà nước, Nhà nước sẽ tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.

1.3 Ưu và nhược điểm của hợp đồng BOT Khóa luận: Hợp đồng BOT theo quy định của pháp luật Việt Nam.

1.3.1 Ưu điểm của hợp đồng BOT

Đối với các cá nhân, doanh nghiệp với vai trò là nhà đầu tư, khi ký kết hợp đồng BOT sẽ được hưởng rất nhiều sự ưu đãi của Nhà nước. Cụ thể, nhà đầu tư khi ký kết hợp đồng BOT sẽ được hưởng chính sách ưu đãi về thuế, ưu đãi về giá thuê đất… Bên cạnh đó, nhà đầu tư được Nhà nước đảm bảo đầu tư. Theo đó, tài sản của nhà đầu tư sẽ không bị quốc hữu hóa trừ trường hợp khẩn cấp, Nhà nước sẽ trưng dụng tài sản của nhà đầu tư nhưng Nhà nước vẫn bảo đảm thanh toán hoặc bồi thường tài sản và vốn của nhà đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư 2005 hoặc theo các điều kiện khác thỏa thuận tại hợp đồng dự án. Chính những ưu đãi này trở thành những nhân tố khích lệ, thúc đẩy nhà đầu tư tham gia ký kết thực hiện hợp đồng BOT.

Hợp đồng BOT thường là những hợp đồng xây dựng cầu cống, sân bay, đường hầm, các công trình về điện… Những công trình này cần số vốn rất lớn. Chính vì vậy, rủi ro của những dự án này cũng rất lớn. Hình thức hợp đồng BOT ra đời đã giúp Nhà nước không những giảm chi cho Ngân sách Nhà nước mà còn giúp hai bên thực hiện hợp đồng là Nhà nước và nhà đầu tư, giảm thiểu được rủi ro tài chính, tận dụng được nguồn tài chính từ khu vực tư nhân cho việc thực hiện dự án.

Ưu điểm nữa của hợp đồng BOT được thể hiện qua quá trình lựa chọn nhà đầu tư rất khắt khe. Theo đó, cơ quan Nhà nước phải lập, thẩm định và phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà đầu tư, phát hành hồ sơ mời thầu, đánh giá hồ sơ mời thầu, sau đó trình, thẩm định, phê duyệt và thông báo kết quả lựa chọn nhà đầu tư. Thông qua hồ sơ tham gia dự thầu, nhà đầu tư phải nêu rõ phương án kỹ thuật, phương án tài chính áp dụng, thực hiện dự án BOT. Quy trình đàm phán ký kết hợp đồng BOT giữa Nhà nước và nhà đầu tư cũng trải qua quy trình rất khắt khe, nhà đầu tư phải chứng minh khả năng tài chính của mình để thực hiện dự án. Chính vì vậy, khả năng thành công của dự án BOT, khả năng áp dụng vào thực tiễn luôn cao hơn so với các dự án thực hiện theo các hình thức hợp đồng khác.

Hợp đồng BOT ra đời còn có tác dụng giảm bớt vai trò độc quyền của Nhà nước trong một số lĩnh vực không cần thiết giữ độc quyền, đồng thời huy động tính hiệu quả của các thành phần kinh tế khác. Khai thác mọi tiềm năng kinh tế phục vụ xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, nhất là thành phần kinh tế tư nhân, thúc đẩy nền kinh tế phát triển toàn diện. Riêng đối với các nước đang phát triển thì giải quyết được những eo hẹp về nguồn vốn, kinh nghiệm và nguồn lực dồi dào.

Pháp luật về hợp đồng BOT đã trải qua gần 20 năm hình thành và phát triển. Nhà nước đã ban hành nhiều Nghị định điều chỉnh hợp đồng BOT như Nghị định 87/CP năm 1993, Nghị định 77/1997/NĐ-CP, Nghị định 62/1998/NĐ-CP, Nghị định 02/1999/NĐ-CP, Nghị định 78/2007/NĐ-CP, Nghị định 108/2009/NĐ-CP. Các quy định về pháp luật hợp đồng BOT ngày càng phát triển và cụ thể hơn. Có thể nói, hợp đồng BOT là một trong số ít các hợp đồng mà Nhà nước mất rất nhiều công sức để nghiên cứu, phát triển và hoàn thiện hóa. Sự phát triển của hợp đồng BOT đã cho thấy sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với việc phát triển cơ sở hạ tầng nói chung, hoàn thiện quy định pháp luật về hợp đồng BOT nói riêng. Chính vì vậy, khi tham gia vào hợp đồng BOT, các nhà đầu tư sẽ cảm thấy an tâm hơn so với các hợp đồng khác vì các quy định về hợp đồng BOT đã khá cụ thể và chi tiết.

1.3.2 Nhược điểm của hợp đồng BOT Khóa luận: Hợp đồng BOT theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Việc chuẩn bị hồ sơ dự thầu, quy trình chọn nhà thầu đối với dự án BOT rất khắt khe cả về quy trình kỹ thuật lẫn khả năng tài chính của nhà đầu tư tham gia dự thầu. Chính vì vậy, điều này ít nhiều trở thành trở ngại đối với nhà đầu tư.

Nhược điểm thứ hai của hợp đồng BOT thể hiện ở chỗ hợp đồng BOT có nguồn vốn rất lớn, trong khi việc xác định giá kinh doanh phải được dự trù ngay khi nhà đầu tư nộp hồ sơ dự thầu. Trong khi, tỉ lệ lạm phát, giá cả thị thường tại nước ta leo thang với tốc độ chóng mặt. Việc xác định trước phương án kinh doanh đối với nhà đầu tư đôi khi cũng trở thành rủi ro tài chính đối các nhà đầu tư trong các dự án BOT, đôi khi nó trở thành trở ngại cho nhà đầu tư khi tham gia đàm phán ký kết hợp đồng.

Các công trình, cơ sở hạ tầng vốn dựa chủ yếu vào ngân sách Nhà nước nay thực hiện theo hình thức hợp đồng BOT sẽ giám bớt chi tiêu của ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, việc giảm bớt chi của ngân sách Nhà nước lại đi kèm với việc giảm trách nhiệm của Nhà nước đối với việc thực hiện dự án, chất lượng công trình. Trong khi các dự án khác thực hiện toàn bộ trên nguồn vốn của Nhà nước thì sẽ có sự tham gia một cách sát sao từ phía Nhà nước. Điều này dẫn đến việc kiểm soát của Nhà nước đối với các dự án BOT phần nào bị hờ hững, thờ ơ.

Hợp đồng BOT rất phức tạp cả trên khía cạnh tài chính lẫn luật pháp.

Vì vậy, để thành công đối với dự án BOT đòi hỏi phải có sự ổn định, thống nhất của các quy định pháp luật về hợp đồng BOT. Thực tiễn cho thấy còn nhiều quy định chồng chéo giữa các văn bản pháp luật quy định về hợp đồng BOT, gây trở ngại, khó khăn cho nhà đầu tư.

Nhược điểm thứ năm đối với hợp đồng BOT nằm ở chỗ chi phí để nhà đầu tư bỏ ra để nghiên cứu dự án, hoàn thành hồ sơ tham gia dự thầu khá lớn. Chính vì vậy, khi nhà đầu tư không được lựa chọn làm đối tác đàm phán ký kết trong hợp đồng BOT thì họ phải mất hết số chi phí này, dẫn đến rủi ro tài chính cho nhà đầu tư.

1.4. Vai trò của hợp đồng BOT Khóa luận: Hợp đồng BOT theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Quan điểm chung của các nước trên thế giới đó là việc phát triển đất nước luôn phụ thuộc vào việc phát triển cơ sở hạ tầng của nước đó. Mặc dù nhu cầu về cơ sở hạ tầng của mỗi nước là khác nhau, chẳng hạn với những nước nghèo nhu cầu về cơ sở hạ tầng là việc xây dựng mới các tiện ích phục vụ lợi ích công cộng thì với những nước giàu nhu cầu đối với cơ sở hạ tầng là việc mở rộng, nâng cấp hoặc nâng cao chất lượng dịch vụ đối với các cơ sở hạ tầng, nhưng đối với mọi nền kinh tế phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì nhu cầu về cơ sở hạ tầng là tất yếu. Ngày nay, trên thế giới số dự án được đầu tư theo hình thức PPP nói chung và hình thức BOT nói riêng ngày càng phát triển về số lượng và chất lượng.

Qua hai biểu đồ ta thấy số lượng các hợp đồng BOT và giá trị của các hợp đồng BOT đã đạt được mức tăng trưởng cao tại các nước đang phát triển trên thế giới trong giai đoạn 1990-2006. Việt Nam cũng là một trong các nước đang phát triển, mặc dù hình thức hợp đồng BOT xuất hiện tại Việt Nam khá muộn nhưng từ khi xuất hiện, hình thức đầu tư theo hình thức BOT đã khẳng định được vai trò trên khía cạnh kinh tế, và khía cạnh xã hội.

1.4.1 Vai trò của hợp đồng BOT trên khía cạnh kinh tế

BOT có vai trò rất lớn trên khía cạnh kinh tế. Cụ thể, việc sử dụng nguồn tài chính từ khu vực tư nhân để tài trợ cho các dự án BOT đã cải thiện đáng kể hệ thống cơ sở hạ tầng cho Nhà nước, cải thiện an sinh xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Vai trò của hợp đồng BOT trên khía cạnh kinh tế có thể kể đến như: giảm sức ép về vốn đầu tư cho Ngân sách Nhà nước; phát huy năng lực của mọi thành phần kinh tế trong nước; xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng.

  • Giảm sức ép về vốn đầu tư cho Ngân sách Nhà nước

Có thể nói, phát triển cơ sở hạ tầng là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với bất cứ quốc gia nào trên thế giới, đặc biệt là đối với những nước có cơ sở hạ tầng kém như Việt Nam. Nhưng việc phát triển cơ sở hạ tầng này lại không hề đơn giản chút nào vì vốn đầu tư cho việc này thường là rất lớn và thời gian thu hồi vốn đối với các công trình lớn có thể lên đến hàng chục năm, đấy là chưa nói đến việc sinh lợi của dự án. Đối với một nước có nguồn vốn ngân sách luôn trong tình trạng khó khăn như nước ta, vốn cho việc bảo dưỡng, sửa chữa cơ sở hạ tầng vẫn thiếu chứ chưa nói gì đến vốn để xây dựng những công trình mới. Điều này khiến cho các dự án cơ sở hạ tầng có nguồn tài trợ từ Ngân sách Nhà nước phải xếp hàng chờ tới lượt. Giữa lúc đó, các dự án đầu tư theo hình thức BOT được xem là một trong những biện pháp hàng đầu nhằm huy động vốn xây dựng cơ sở hạ tầng, nếu không ngân sách Nhà nước không thể lấy đâu ra số vốn đầu tư khổng lồ cho những công trình đó. Trên thế giới, nguồn vốn tài trợ cho các siêu dự án cũng không thể tài trợ bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước, kể cả các nước phát triển như Anh,Úc,Mỹ… hay các nước đang phát triển như Việt Nam, Trung Quốc… Có thể lấy ví dụ các siêu dự án được thực hiện theo hình thức BOT như đường hầm Sydney (Úc) dài 2,3 km có tổng số vốn đầu tư khổng lồ 550 triệu USD, hay dự án đường cao tốc Bắc-Nam của Malaixia có tổng số vốn đầu tư là 1.8 tỷ USD và một trong những dự án lớn nhất là dự án đường hầm qua eo biển Anh-Pháp có tổng số vốn đầu tư lên tới 9.2 tỷ USD. Với hình thức đầu tư BOT, Chính Phủ có thể huy động được được vốn từ các thành phần kinh tế trong nước cũng như vốn từ các tổ chức nước ngoài, bù lại Chính Phủ có những chính sách ưu đãi dành cho chủ đầu tư để dự án có thể thu hồi vốn nhanh và thu lợi nhuận cao. Trong thực tế, nguồn vốn chủ yếu được sử dụng để thực hiện dự án là vốn vay ngân hàng (có thể chiếm 80 đến 90% vốn đầu tư dự án BOT. Ví dụ dự án đường hầm qua eo biển Anh-Pháp có tổng số vốn đầu tư 9.2 tỷ USD với vốn vay ngân hàng hơn 7.4 tỷ USD.

Như vậy thông qua hình thức đầu tư BOT, ngân sách Nhà nước sẽ được giảm áp lực về vốn đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng, dành vốn đầu tư vào các lĩnh vực cần thiết khác trong xã hội. Khóa luận: Hợp đồng BOT theo quy định của pháp luật Việt Nam.

  • Phát huy năng lực của mọi thành phần kinh tế trong nước

Mỗi thành phần kinh tế trong nước đều có những ưu thế nhất định về vốn, trình độ khoa học kỹ thuật, năng lực quản lý. Chính vì vậy Nhà nước cần quan tâm và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Bằng hình thức đầu tư BOT, các doanh nghiệp, cá nhân sẽ dựa trên khả năng vốn cũng như kinh nghiệm, kỹ thuật, quản lý của mình để tìm, lập và xin phép thực hiện dự án BOT. Điều này là hết sức cần thiết vì số vốn nhàn rỗi trong dân chúng ở nước ta là rất lớn. Nếu số vốn này được sử dụng vào việc phát triển kinh doanh thì nền kinh tế nước ta sẽ có những bước phát triển đáng kể. Hơn nữa, rất nhiều doanh nghiệp nước ta, đặc biệt là các Tổng công ty lớn, có đội ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ kỹ thuật cao, có nhiều kinh nghiệm cũng như các phương tiện máy móc, thiết bị hiện đại có khả năng tham gia thực hiện những dự án của đất nước. Và chỉ có thông qua việc thực hiện những dự án BOT, các doanh nghiệp trên mới tận dụng, phát huy được năng lực sẵn có của mình, đồng thời lại có thể nâng cao được trình độ kỹ thuật, trình độ tay nghề cũng như trình độ về quản lý của cán bộ công nhân viên doanh nghiệp mình.

  • Xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng

Mục tiêu đầu tiên của hình thức BOT chính là xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng, đồng thời giảm thiểu thâm hụt đối với ngân sách Nhà nước. Thực tế cho thấy tình trạng nguồn vốn Nhà nước chủ yếu từ nguồn thuế không đủ tài trợ cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng đã trì hoãn các dự án. Một số dự án của khu vực Nhà nước không thu được lợi ích mong muốn do chi phí cao quá mức và gặp phải các vấn đề chất lượng và bảo dưỡng. Các dự án BOT khi được hoàn thành sẽ đóng góp vào việc mở rộng và nâng cấp hệ thống đường bộ, sân bay, bến cảng, đường sắt cũng như hệ thống cấp thoát nước và cung cấp điện cho nền kinh tế. Đây là những lĩnh vực hết sức quan trọng đối với nền kinh tế vì nó thể hiện trình độ phát triển của mỗi quốc gia, thể hiện nỗ lực của quốc gia trong công cuộc hội nhập vào nền kinh tế khu vực cũng như toàn cầu. Thông qua hình thức BOT, Nhà nước vừa không phải cấp vồn đầu tư, mà vừa xây dựng được cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế và sau một khoảng thời gian nhất định thì được chuyển giao không bồi hoàn để tiếp tục quản lý và sử dụng.

1.4.2 Vai trò của hợp đồng BOT xét trên khía cạnh xã hội Khóa luận: Hợp đồng BOT theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Bên cạnh vai trò trên khía cạnh kinh tế, hợp đồng BOT còn có vai trò trên khía cạnh xã hội. Vai trò xã hội của hợp đồng BOT có thể kể ra là: nâng cao đời sống cho người dân, tạo công ăn việc làm cho người lao động, cải thiện môi trường sản xuất và đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương.

  • Nâng cao đời sống cho người dân

Việc ngày càng có nhiều hợp đồng BOT đồng nghĩa với việc cơ sở hạ tầng sẽ ngày càng được cải thiện. Điều này sẽ giúp nâng cao mức sống cho người dân, làm giảm chi phí cho người tiêu dùng, nâng cao khả năng tiếp cận của người dân đối với tiến bộ khoa học kỹ thuật, các cơ sở hạ tầng hiện đại với tiêu chuẩn thế giới. Đồng thời, việc tiếp cận các dịch vụ cơ sở hạ tầng hiện đại và tiên tiến đã trực tiếp cải thiện ngành y tế, giáo dục, giảm tỷ lệ tử vong của trẻ em đối với các dịch bệnh. Nhờ đó, chất lượng cuộc sống của người dân sẽ được nâng cao, nhất là với nước có tỷ lệ thu nhập bình quân đầu người thấp như nước ta hiện nay.

  • Tạo công ăn việc làm cho người lao động

Đối với những nước có lực lượng lao động dồi dào như nước ta thì làm sao để giải quyết được công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp luôn là vấn đề Nhà nước ưu tiên hàng đầu. Một trong những biện pháp có thể áp dụng để giải quyết vấn đề trên là khuyến khích, phát triển các dự án đầu tư theo hình thức BOT trong nước. Việc thực hiện dự án BOT không những giải quyết được vấn đề công ăn việc làm cho doanh nghiệp của chủ đầu tư mà còn tạo việc làm cho nhân dân địa phương nơi dự án được thực hiện. Như vậy, có thể nói hình thức đầu tư BOT là một hình thức đầu tư có ý nghĩa rất lớn trong việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động trong tình trạng dư thừa lao động như nước ta hiện nay

  • Cải thiện môi trường sản xuất và đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương

Một trong những nguyên nhân khiến các nhà đầu tư nước ngoài ít đầu tư vào Việt Nam là môi trường đầu tư ở Việt Nam không được hấp dẫn so với nhiều nước khác trong khu vực cũng như trên thế giới, đặc biệt là điều kiện về cơ sở hạ tầng. Chính vì vậy, việc thực hiện các dự án BOT sẽ giúp cho việc nâng cấp, mở rộng cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường sản xuất đầu tư, tạo điều kiện thu hút hơn nữa đầu tư trong nước cũng như đầu tư nước ngoài, góp phần thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển. Hơn nữa, các dự án BOT sẽ có những tác động tích cực tới sự phát triển kinh tế của địa phương nơi dự án được thực hiện, đặc biệt là những vùng sâu, vùng xa, vùng còn nhiều khó khăn so với các vùng khác, làm tăng thu nhập cho người dân địa phương, đồng thời còn góp phần làm tăng tổng giá trị sản xuất của địa phương, tạo điều kiện phát triển sản xuất cho các thành phần kinh tế địa phương. Khóa luận: Hợp đồng BOT theo quy định của pháp luật Việt Nam.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Khóa luận: Các quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng BOT

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x