Khóa luận: Giải pháp khai thác du lịch hiệu quả Ca trù Đông Môn

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Giải pháp khai thác du lịch hiệu quả Ca trù Đông Môn hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Một số đề xuất nhằm bảo tồn và khai thác hiệu quả Ca trù Đông Môn phục vụ phát triển du lịch Hải Phòng dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này. 

3.1. Định hướng bảo tồn và khai thác các giá trị của Ca trù

Việc định hướng bảo tồn và khai thác các giá trị của ca trù đã được Việt Nam đề cập tới trong hồ sơ đệ trình UNESCO công nhận ca trù là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Trong hồ sơ đã nêu các biện pháp bảo tồn loại hình nghệ thuật này – một loại hình nghệ thuật cần được bảo vệ khẩn cấp, đồng thời cũng nêu lên các hướng khai thác ca trù một cách có hiệu quả.

Trong 17 năm qua, 7 cuộc hội thảo về ca trù đã được diễn ra với tầm quy mô quốc gia, quốc tế; 5 năm nghiên cứu, xây dựng hồ sơ ca trù hoàn thiện và dày dặn; đi điền dã 14 tỉnh, thành nơi còn tồn tại di sản văn hóa phi vật thể ca trù, tìm ra tài liệu hơn 4. 000 trang Hán Nôm về ca trù, phát hiện ra 22 giáo phường còn hoạt động… đó là những sở cứ quan trọng để ban xây dựng hồ sơ ca trù thực hiện việc hoàn thiện hồ sơ.

Bộ hồ sơ do Viện Âm nhạc, Học viện quốc gia Việt Nam xây dựng trong năm qua đã xây dựng được khá hoàn chỉnh về các phương diện của loại hình ca nhạc dân tộc này để đưa ra 4 nguy cơ, khẳng định ca trù Việt đang bị thất truyền và cần phải bảo vệ. Khóa luận: Giải pháp khai thác du lịch hiệu quả Ca trù Đông Môn.

Trước hết, đó là sự mai một của tầng lớp nghệ nhân dân gian. Theo thống kê của nhà nghiên cứu Đặng Hoành Loan, hiện nay chỉ còn 21 nghệ nhân được sinh ra từ năm 1945 trở về trước. Trong số đó, chỉ còn 12 nghệ nhân có thể truyền dạy 30 bài/56 thể cách ca trù còn được giữ lại đến ngày nay.

Thêm nữa, Ca trù là một ngành nghệ thuật có 3 không gian trình diễn độc đáo: Hát thờ thánh ở đình làng, hát chơi ở tư gia và Hát chúc hỗ nơi cung vua phủ chúa. Sắp xếp bố cục nghe ca trù cũng khác so với bây giờ, họ chia theo thứ bậc, tuổi tác và trình độ hiểu biết về Hán Nôm để sắp đặt chỗ ngồi. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại, môi trường trình diễn đã phần nào vắng bóng hai hình thức: cung đình và hát ở đình làng. Ca trù hát chơi cũng không còn. Ca trù không phải hát chỉ để thưởng thức, mà còn là không gian để các nhà thơ, các nhà tri thức sáng tác thêm những vần thơ mới cho ca trù – hình thức này nay không còn tồn tại. Hiện nay chỉ còn duy nhất không gian ca trù là hình thức hát ca quán, chủ yếu du khách đến để nghe ca trù và uống trà.

Một nguy cơ cũng được các nhà nghiên cứu đưa ra trong hồ sơ là ca trù đã quá xa so với đời sống cộng đồng. Trong một nghiên cứu mới nhất của nhạc sĩ Đặng Hoành Loan, sau khi đi điền dã tại 14 tỉnh, thành với 22 giáo phường ca trù còn tồn tại, thì cộng đồng hiện nay không tiếp nhận ca trù như trước. Sau gần năm nghệ thuật này vắng bóng, ca trù đang không có lớp công chúng, nhất là các bạn trẻ.

Từ thực trạng trên, hồ sơ Ca trù đã nhận được báo cáo đánh giá từ Hội đồng Âm nhạc quốc tế là bà Gisa Janichen và ông Barley Norton, chuyên gia độc lập người Anh – những người đã từng đến Việt Nam nghiên cứu Ca trù trong nhiều năm. Bên cạnh những thẩm định khẳng định về giá trị của Ca trù, Hội đồng cũng đưa ra khuyến nghị rằng: mặc dù Việt Nam đã có nhiều cố gắng và có sự hỗ trợ của một số tổ chức quốc tế trong việc bảo vệ Ca trù song sức sống của Ca trù hiện nay vẫn chưa phải ở mức cao và vẫn cần phải được bảo vệ hơn nữa để phát triển khả năng tồn tại. Việc duy trì thường xuyên và chất lượng nghệ thuật là vấn đề đặt ra đối với công việc bảo vệ Ca trù. Do đó, cùng với việc ghi danh Hát Ca trù vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại cần bảo vệ khẩn cấp, UNESCO cũng đã đưa ra các khuyến nghị đối với Việt Nam để gìn giữ di sản này, trong đó đặc biệt nhấn mạnh việc đầu tư nguồn lực con người.

Theo quyết định của Ủy ban liên Chính phủ Công ước UNESCO, Ca trù đã đáp ứng các tiêu chí để được ghi danh vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp, đồng thời yêu cầu Việt Nam có các nguồn lực để hoạt động và phát huy Ca trù trong giới trẻ, khuyến khích các ca nương, kép đàn và các tổ chức hiện hành tìm kiếm các học trò tài năng nhằm đảm bảo sự tiếp tục tồn tại của nghệ thuật Ca trù; Khuyến nghị đưa thêm các nghệ sĩ và học trò trẻ vào mục các biện pháp bảo vệ cùng với những nghệ sĩ và người truyền dậy lớn tuổi để khuyến khích về tài chính cho các ca nương, kép đàn Ca trù.

UNESCO cũng lưu ý tầm quan trọng của các chương trình giáo dục nâng cao hiểu biết về tính thi ca sử dụng trong các bài bản của Ca trù cũng như các hình thức âm nhạc và thẩm mỹ của Ca trù, nhấn mạnh kỹ thuật “đổ hột” vốn là yếu tố kỹ thuật quan trọng của nghệ thuật trình diễn Ca trù cần phải được chú ý trong nỗ lực trao truyền. Ủy ban cũng khuyến nghị thêm việc bảo vệ bằng biện pháp ghi âm, kiểm kê và hệ thống hóa tài liệu về Hát Ca trù cần phải được thực hiện theo các chuẩn mực tương thích với việc bảo quản âm thanh và tiếp cận. Khóa luận: Giải pháp khai thác du lịch hiệu quả Ca trù Đông Môn.

Mặc dù công nhận việc phục hồi các điểm trình diễn theo tục lệ là quan trọng nhưng Ủy ban khuyến khích Việt Nam tập trung hơn nỗ lực bảo vệ vào việc đầu tư cho nguồn lực con người. Bên cạnh đó, UNESCO khuyến khích việc đảm bảo triển khai các biện pháp bảo vệ với sự kết hợp hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước và các tổ chức văn hóa cùng với các cộng đồng, nhóm, cá nhân có hiểu biết và thực hành văn hóa Ca trù.

Tại lễ trao bằng của UNESCO, Bộ trưởng Hoàng Tuấn Anh đã công bố Chương trình hành động quốc gia về bảo vệ hát Ca trù giai đoạn 2010-2015. Chương trình gồm 9 nội dung chính: nâng cao nhận thức và năng lực của các cộng đồng, chủ thể văn hóa nhằm giữ gìn và phát huy giá trị độc đáo của hát Ca trù; tạo điều kiện để cộng đồng giao lưu, trình diễn, học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm, với các cộng đồng khác trong nước và quốc tế nhằm tăng cường sự hiểu biết, góp phần bảo vệ và phát huy đa dạng văn hóa.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng dự kiến sẽ triển khai các biện pháp và kế hoạch cụ thể, ưu tiên kiểm kê, nghiên cứu và hệ thống hóa tư liệu với mục đích bảo tồn bền vững cho di sản này; xây dựng các chương trình văn hóa, giáo dục và truyền thông đa dạng, giới thiệu, phổ biến, quảng bá nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của xã hội đối với việc bảo vệ di sản.

Trong giai đoạn 2010-2015 sẽ ban hành chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân có tài năng xuất sắc, có công bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể vừa được công nhận và các chính sách khác nhằm tạo điều kiện và khuyến khích bảo tồn, truyền dạy di sản cho thế hệ trẻ; tổ chức xét phong tặng danh hiệu Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú cho các cá nhân có tài năng và có đóng góp quan trọng trong việc gìn giữ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể Dân ca Quan họ Bắc Ninh và hát Ca trù. Khóa luận: Giải pháp khai thác du lịch hiệu quả Ca trù Đông Môn.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch sẽ hỗ trợ cộng đồng truyền dạy và đào tạo thế hệ những người thực hành di sản trẻ tuổi để tiếp nối và duy trì truyền thống hát Ca trù trong cuộc sống đương đại; xây dựng các chương trình giáo dục thích ứng để giảng dạy hai loại hình nghệ thuật này trong các trường nghệ thuật và các trường phổ thông.

Nội dung thứ 9 trong Chương trình hành động quốc gia về bảo vệ Ca trù là việc tăng cường nguồn đầu tư của Nhà nước đi đôi với huy động các nguồn lực xã hội, góp phần bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể vừa được công nhận và phát triển du lịch văn hóa bền vững.

Trong hồ sơ đệ trình lên UNESCO, chúng ta đã cam kết với tổ chức này những giải pháp bảo vệ Ca trù. Một trong những điều quan trọng để bảo tồn và giữ gìn di sản là phải tạo môi trường sống và gắn kết với đời sống hôm nay. Sắp tới, chúng ta sẽ vực dậy những bài truyền dạy đã và đang có, với những bài đã bị mất thì sẽ tìm cách phục hồi, làm sao có được nhiều bài bản nhất, để Ca trù phục vụ đời sống tinh thần, thẩm mỹ của con người mới hôm nay mà vẫn giữ được bản sắc riêng.

Viện Âm nhạc cùng tất cả các nhà khoa học đã thống nhất xây dựng kế hoạch ngắn hạn và dài hạn. Đó là chiến lược dự kiến trong từng năm, 3 năm, 5 năm, 10 năm cho tới 50 năm. Nó sẽ gắn với mức độ đầu tư kinh phí của từng thời kỳ, chẳng hạn 1, 3, 5, hay 10 năm ta vẫn có thể tổ chức hình thức liên hoan, từ cấp cơ sở, làng xã cho đến huyện, tỉnh. Ở cấp TƯ có thể tổ chức 2 – 3 năm một lần liên hoan, như vậy cũng là một chất xúc tác cho phong trào Ca trù. Bên cạnh đó phải đưa Ca trù vào trong các trường học, các cơ sở đào tạo. Một việc phải làm nữa là phải biết liên kết với các ngành khác nhau như ngành giáo dục, du lịch, các cơ quan thông tin, báo chí… để bảo tồn Ca trù thành hành động chung của cộng đồng, của quốc gia.

Ngoài ra, chúng ta cần quảng bá ca trù trên các phương tiện thông tin đại chúng, qua những buổi nói chuyện, giảng giải của các chuyên gia. Phải có nhiều người nói, mỗi người nói một nét của ca trù. Công chúng từ chỗ chưa hiểu đến chỗ hiểu, từ chỗ hiểu ít đến chỗ hiểu nhiều, hiểu rồi thích, thích rồi yêu, yêu rồi đắm say, mà khi đã đắm say thì cứ muốn gìn giữ mãi, quảng bá rộng cho ca trù. Hiện nay, giới trẻ cũng đang quan tâm nhiều đến ca trù. Nhiều bạn tìm đến với ca trù bằng cách đến nghe ca trù ở các CLB, hoặc đọc các bài viết về ca trù trên mạng internet, hoặc tìm đến các liên hoan ca trù… Đối với một môn nghệ thuật như ca trù thì đó là những dấu hiệu thật sự đáng mừng.

Bên cạnh việc thực hiện tốt việc bảo tồn thì trong tương lai và về lâu dài việc khai thác di sản Ca trù sẽ thực hiện theo chủ trương của Chính Phủ là “lấy di sản nuôi di sản” nhằm giảm nhẹ đối với chính phủ trong việc chi phí cho công tác bảo tồn. Việc khai thác giá trị di sản cũng cần hiểu theo nghĩa là làm tăng thêm hiểu biết về giá trị di sản thông qua con đường đem di sản đến với công chúng. Khóa luận: Giải pháp khai thác du lịch hiệu quả Ca trù Đông Môn.

Với những nỗ lực trong việc bảo tồn, lưu giữ, trong công tác quản lí, khai thác, phát huy những giá trị của Ca trù chắc chắn ca trù sẽ là một tài sản quý giá không chỉ của dân tộc Việt Nam mà còn là tài sản có giá trị toàn cầu. Khai thác Ca trù có hiệu quả chính là góp phần quan trọng phục vụ cho sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế địa phương và đất nước.

Như vậy, việc xem xét những định hướng khai thác chung của UNESCO và của nhà nước Việt Nam đối với nghệ thuật Ca trù nói chung ở trên chính là những gợi mở quí báu cho việc khai thác nghệ thuật Ca trù của Đông Môn, Thủy Nguyên, Hải Phòng trong đời sống hiện đại hôm nay. Thủy Nguyên là một vùng đất có nhiều tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn có giá trị to lớn đang được sử dụng, khai thác phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và địa phương. Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của Ca trù, thời gian qua Đảng bộ và chính quyền huyện Thủy Nguyên đã hết sức coi trọng việc bảo vệ, giữ gìn, khai thác và phát huy giá trị của nghệ thuật Ca trù Đông Môn như hỗ trợ hoạt động của Câu lạc bộ Ca trù nơi đây. Đặc biệt sau khi Ca trù được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại cần được bảo vệ khẩn cấp, thì ca trù cả nước nói chung và ca trù Đông Môn, Thủy Nguyên nói riêng ngày càng được quan tâm sâu sắc và đang dần được khôi phục, khẳng định vị thế của mình trong đời sống văn hóa nghệ thuật. Việc khôi phục và phát triển loại hình nghệ thuật này sẽ tạo ra nhiều cơ hội lớn cho huyện Thủy Nguyên trong việc thu hút đầu tư nguồn vốn trong và ngoài nước để phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội của huyện.

Tuy nhiên, một tài nguyên du lịch dù có giá trị to lớn đến đâu nhưng nếu không biết bảo tồn và khai thác hợp lí thì chắc chắn tài nguyên đó sẽ bị mai một. Hơn nữa, với phạm vi một địa phương nhỏ, nghệ thuật Ca trù Đông Môn muốn tồn tại và phát triển cần phải có những định hướng bảo tồn và khai thác riêng. Nếu chỉ thuần túy áp đặt mô hình như đối với nghệ thuật Ca trù nói chung chưa chắc đã phát huy được giá trị nghệ thuật và hiệu quả khai thác của Ca trù nơi đây.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Du Lịch

3.2. Đề xuất một số giải pháp bảo tồn đối với nghệ thuật Ca trù Đông Môn

Để Ca trù được khôi phục và phát huy những giá trị to lớn của nó, chúng ta luôn phải đề ra những biện pháp để bảo tồn loại hình nghệ thuật này. Và những định hướng bảo tồn, khôi phục, phát huy những giá trị của Ca trù mà Viện Âm nhạc Việt Nam đưa ra trong hồ sơ đệ trình UNESCO là hoàn toàn đúng đắn. Song để thực hiện được điều đó cần phải có thời gian lâu dài, nguồn kinh phí khổng lồ, sự nỗ lực của các ban ngành chức năng và của toàn xã hội. Ca trù đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp. Chính vì vậy, đứng từ tư cách cá nhân, người viết nhận thấy rằng việc bảo tồn các giá trị của ca trù là vấn đề cấp thiết cần thực hiện ngay từ bây giờ.

Bên cạnh những định hướng của UNESCO, với tư cách là một cá nhân, người viết xin đề xuất một số ý kiến để công tác bảo tồn đối với Ca trù nói chung và Ca trù Đông Môn nói riêng được hiệu quả hơn.

3.2.1. Đào tạo theo mô hình chuyên biệt Khóa luận: Giải pháp khai thác du lịch hiệu quả Ca trù Đông Môn.

Để ca trù có thể lưu giữ và phát triển bền vững, cần thiết phải có những thế hệ kế thừa những thành tựu của cha ông. Muốn vậy phải mở ra những chương trình đào tạo nghề theo mô hình chuyên biệt. Đó là việc dạy và học ca trù phải được thể chế hóa để việc lưu truyền các giá trị không bị đứt đoạn theo thời gian. Đào tạo theo mô hình chuyên biệt có nghĩa là các sinh viên đến lớp chỉ học về âm nhạc nói chung và ca trù nói riêng mà không phải học những môn kiến thức không cần thiết khác. Cách đào tạo mũi nhọn như vậy chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả cao, đồng thời giảm thiểu tối đa kinh phí và thời gian đào tạo.

Về phương pháp truyền dạy, cần duy trì và coi trọng phương pháp truyền khẩu, truyền ngón nghề trực tiếp thông qua việc truyền dạy theo lối “bắt tay chỉ ngón” theo lối của các giáo phường ngày xưa. Có nghĩa là các nghệ nhân sẽ tự mình dạy từng cách đánh trống, đánh đàn, gõ từng nhịp phách, hát từng câu chữ cho các học viên, bắt tay các học viên sử dụng các nhạc cụ, chỉ từng cách đặt tay, cầm nhạc cụ như thế nào thì đúng cách. Có thể nói đây là cách dạy “tâm truyền tâm”, “nghề truyền nghề”. Với phương thức dạy đó, người học có thể dành hầu như toàn bộ tâm lực để cảm nhận, nắm bắt trực tiếp mọi sắc thái tinh tế của tác phẩm từ người thầy từ thang âm, phương thức vận hành giai điệu, phương thức trang điểm các chữ đàn cho đến bước đi của nhịp điệu. Theo đó, khả năng ngẫu hứng của người thầy cũng được chuyển giao và một nghệ nhân thực sự cũng được sinh ra với đầy đủ chức năng vốn có (một ca nương hay một kép đàn cũng có thể coi là một nhạc sĩ sáng tác tại chỗ với những sáng tạo riêng của tay phách, tay đàn tùy thuộc theo trình độ thẩm thấu).

Hiện nay, việc truyền dạy ca trù tại một số địa phương đang được áp dụng theo lối vay mượn hệ thống ký âm của âm nhạc phương Tây với hệ thống ký tự Đồ, rê, mi khiến cho người học bị lệ thuộc rất nhiều vào các kí tự, nhịp điệu như móc đơn, móc kép, chấm đôi… Họ sẽ không thể dành toàn bộ tâm lực tiếp thu các sắc thái tinh tế của tác phẩm từ người thầy, những sắc thái mà không thể kí hiệu hóa trên bản nhạc. Sự bó buộc đó tất yếu sẽ làm triệt tiêu tính ngẫu hứng và khả năng sáng tạo của người nghệ sĩ. Nghệ nhân ca trù không chỉ là những người ca hát một cách thuần túy mà họ còn phải là những người truyền tải được cái hồn của thi ca nhạc họa đến với công chúng, đồng thời là những dấu gạch nối – nối liền nguồn mạch truyền thống của ông cha tới thời đương đại. Khóa luận: Giải pháp khai thác du lịch hiệu quả Ca trù Đông Môn.

Ngoài ra, việc đào tạo phải luôn đi đôi với chất lượng. Không thể đào tạo ồ ạt, nhanh chóng, cho ra nghề những nghệ nhân chưa đạt tiêu chuẩn. Thời gian vừa qua, một số địa phương chỉ đào tạo Ca nương trong vòng 2 năm đã cho ra nghề, trong khi theo tiêu chuẩn nghiêm ngặt của Ca trù xưa, tối thiểu Ca nương phải mất tới 5 năm khổ công rèn luyện mới được phép làm lễ mở xiêm y. Theo ông Đặng Hoành Loan – chuyên viên nghiên cứu ca trù cho rằng, nên đào tạo theo kiểu “nhỏ mà tinh”, có nghĩa là mỗi năm chỉ cần cho ra nghề khoảng 5 – 6 người hoặc hơn một chút nhưng chất lượng cao, như vậy sẽ đảm bảo được chất lượng của ca trù.

Sau khi Ca trù được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại thì đã có nhiều người có chung một ý tưởng là nên thành lập một Học viện Ca trù. TS. Đặng Hoành Loan, người trực tiếp chỉ đạo xây dựng hồ sơ ca trù có nhận định rằng: “Đây là một nghệ thuật điêu luyện và hoàn chỉnh bậc nhất với đầy đủ niêm luật, phép tắc được ghi chép khoa học trong các văn bản Hán – Nôm”. Ông Loan cũng cho biết, kiểu học viện này có nhiều ở Nhật Bản. Việt Nam có Học viện Tỳ bà của nhạc sư Nguyễn Hữu Ba rất nổi tiếng hồi đầu thế kỷ.

Mô hình này xem ra khá đồng điệu với ý tưởng Hiệp hội những người yêu ca trù của ông Phạm Sanh Châu, Tổng thư ký Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam. [13]

Còn ca nương Bạch Vân, người lăn lộn nhiều năm với ca trù, tỏ ra vui mừng nếu ý tưởng được hiện thực hóa. Theo bà, “mỗi nghệ nhân ra đi đều là tổn thất lớn. Nếu có một nơi tập hợp được nghệ nhân về dạy thì rất nên”. [12] Với tư cách cá nhân, người viết thấy đây là một ý kiến rất hay. Việc thành lập học viện sẽ giúp Ca trù được truyền lại cho thế hệ sau một cách bài bản và đầy đủ hơn và việc truyền dạy này cần phải đặt chất lượng nên hàng đầu.

Ngoài ra, cần phải mở các lớp đào tạo ca trù một cách liên tục, tránh tình trạng đứt đoạn. Ca trù là một môn nghệ thuật khó, khó đối với cả người học và người dạy. Để tiếp thu những bài bản của ca trù đòi hỏi người học phải kiên trì và say mê với ca trù. Nhưng trước tình hình hiện nay, ca trù đã có một thời gian quá dài bị lãng quên, trong khi ảnh hưởng của âm nhạc phương Tây và tân nhạc Việt Nam lại đang lan tràn mạnh mẽ, giới trẻ ngày càng thờ ơ với nền âm nhạc truyền thống. Chính vì vậy để tìm được nghệ nhân dạy đã là một vấn đề khó, tìm lớp trẻ để truyền nghề lại càng khó hơn. Do đó, cần có chính sách tôn vinh, khuyến khích và có những ưu đãi cụ thể đối với cả người dạy và người học. Khóa luận: Giải pháp khai thác du lịch hiệu quả Ca trù Đông Môn.

Đối với người dạy, đặc biệt là các nghệ nhân, những người đóng vai trò là người “truyền lửa” cho ca trù, là những người được coi là linh hồn của bộ hồ sơ trình lên UNESCO công nhận ca trù là di sản văn hóa của nhân loại thì cần phải được tôn vinh trong nghề với việc phong tặng những danh hiệu cao quý như nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú. Song không nên chỉ dừng lại ở sự tôn vinh trên bình diện “tinh thần” thuần túy với những bằng khen, bằng công nhận, danh hiệu… mà điều quan trọng hơn là muốn bảo tồn ca trù, không có cách nào khác là phải trả lương cho các nghệ nhân, bảo đảm một mức sống trên trung bình cho họ, để họ yên tâm trong việc truyền nghề và dạy nghề. Chính sách nuôi dưỡng nghệ nhân là điều cần làm ngay trước khi các bậc cao niên về với tiên tổ. Công lao và tài năng của các nghệ nhân phải được tưởng thưởng xứng đáng để họ dốc hết tâm sức truyền đạt lại cho thế hệ kế cận, không vì tư lợi cá nhân mà giấu nghề hay truyền nghề sai. Có như thế ca trù mới được bảo tồn và phát huy được những giá trị nguyên bản và đích thực của nó.

Bên cạnh một chế độ có tính pháp lý nuôi dưỡng, ưu đãi người thầy nghệ nhân, nhất thiết phải có chế độ đãi ngộ tương xứng đối với lớp trẻ theo học nghề, để có thể bảo đảm sinh ra thế hệ trò nghệ nhân. Hiện nay việc theo học ca trù vẫn nằm ngoài môi trường tự do. Các đào kép học nghề với tư cách cá nhân, bám trụ với ca trù đơn thuần bằng tình yêu cổ nhạc. Nhiều người trong số họ lấy nghề khác để nuôi nghiệp tầm sư học đạo. Không phải ai cũng có điều kiện kinh tế vững để có thể bảo đảm việc học hành, phụng dưỡng thầy. Đa số họ đều có hoàn cảnh khó khăn, chỉ đến với nghệ nhân bằng cái tâm sáng. Một chế độ học bổng chuyên biệt ngoại ngạch trường lớp chính quy là điều cần làm ngay để tạo dựng một thế hệ tiếp nối. Nói cách khác, đối với người học, bên cạnh các suất học bổng như sinh viên bao trường đại học khác, thì cần có nhiều học bổng khác từ các dự án bảo tồn và phát huy các giá trị của ca trù để khuyến khích họ thi tuyển và học tập. Thêm nữa, cần có chính sách ưu đãi đặc biệt đối với những học viên tài năng để kịp thời đào tạo đội ngũ nghệ nhân kế cận. Sau khi tốt nghiệp và cấp bằng, những học viên này phải được tuyển dụng vào những nơi sử dụng ngành nghề của họ như các nhà hát nghệ thuật truyền thống, các trường dạy nhạc. Hay hình thức bao cấp kinh phí của Nhà nước kết hợp huy động sự bảo trợ của các doanh nghiệp cũng là một giải pháp để hỗ trợ các học viên yên tâm theo đuổi con đường nghệ thuật của mình. Nếu để tình trạng học viên sau này ra trường không tìm được chỗ làm hay làm việc trái ngành nghề thì cũng đồng nghĩa với việc ca trù sẽ mất đi những người thực sự tâm huyết và say mê với việc truyền thừa những giá trị của một loại hình nghệ thuật đặc sắc. Khóa luận: Giải pháp khai thác du lịch hiệu quả Ca trù Đông Môn.

Ở Câu lạc bộ Ca trù Đông Môn trước năm 2010, khi cụ Tô Thị Chè còn sống, lớp ca nương trẻ của CLB may mắn được chính cụ truyền nghề cũng theo lối “bắt tay chỉ ngón”, “tâm truyền tâm, nghề truyền nghề”. Ngoài ra, thỉnh thoảng họ còn được hai nghệ nhân lão thành khác của CLB Ca trù Hải Phòng trực tiếp giảng dạy là nghệ nhân Nguyễn Thị Chín (cũng xuất thân từ giáo phường Ca trù Đông Môn) và nghệ nhân Đào Thị Thẩm (xuất thân từ giáo phường Ngãi Cầu – Hà Tây nhưng đã có nhiều năm là đào nương có tiếng ở khu vực Quán Bà Mau, nay bà đã về Hà Tây để truyền nghề cho CLB ca trù ở địa phương). Về nghệ nhân chơi đàn, có ông Trần Văn Sự cũng không tiếc công đào tạo lớp trẻ Đông Môn để tạo nên những tay đàn tài hoa. Nhờ tâm huyết của những người thầy như vậy, mà Ca trù Đông Môn sau bao nhiêu năm vắng bóng, giờ lại được phục hồi và vinh danh cùng bao CLB Ca trù khác trong cả nước trong các cuộc Liên hoan Ca trù toàn quốc những năm gần đây.

Chỉ có điều, sau khi cụ Tô Thị Chè mất năm 2009, nghệ nhân Đào Thị Thẩm về Hà Tây, nghệ nhân Nguyễn thị Chín quá già yếu, hiện nay chỉ còn ca nương Tô Thị Linh – học trò của cụ Chè là có khả năng đảm trách việc truyền nghề cho lớp trẻ ở Đông Môn, tuy nhiên chắc chắn khả năng truyền dạy không thể bằng các nghệ nhân xưa được. Chính vì vậy, để Ca trù Đông Môn tiếp tục sống, tiếp tục được giữ lửa, chính quyền địa phương phải có chính sách quan tâm hỗ trợ như mời các nghệ nhân lão thành từ địa phương khác về để tham gia truyền dạy, hoặc hỗ trợ kinh phí để thành viên của CLB được tham gia các khóa huấn luyện bồi dưỡng do nhà nước tổ chức. Chẳng hạn như, để chuẩn bị cho Liên hoan Ca trù toàn quốc lần thứ nhất, từ năm 2000 đến năm 2002, Cục nghệ thuật biểu diễn (Bộ Văn hóa thông tin, nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) đã mở lớp bồi dưỡng cho 13 CLB Ca trù, trong đó có CLB Ca trù Đông Môn. Nếu được thường xuyên tham gia các khóa học như thế này, CLB Ca trù Đông Môn sẽ có thêm nhiều cơ hội giao lưu, học hỏi để hoàn thiện lời ca, tiếng phách, tiếng đàn của mình hơn. Ngoài ra, trong tương lai không xa, khi mô hình của Học viện Ca trù được thực thi, chính quyền huyện Thủy Nguyên nói riêng và chính quyền thành phố Hải Phòng nói chung rất nên tạo điều kiện để lớp trẻ Đông Môn được theo học tại Học viện, góp phần vào công cuộc bảo vệ và chấn hưng một trong những vốn cổ của dân tộc.

3.2.2. Tăng cường công tác nghiên cứu

Ca trù là một bộ môn nghệ thuât lâu đời, độc đáo và có ý nghĩa đặc biệt trong kho tàng âm nhạc của người Việt Nam. Ca trù gắn liền với lễ hội, phong tục, tín ngưỡng, văn chương, âm nhạc, tư tưởng, triết lý sống của người Việt. Do vậy nghiên cứu ca trù cũng là góp phần vào việc nghiên cứu các giá trị truyền thống trong văn hóa Việt Nam.

Hiện nay, nguy cơ mai một dần và vĩnh viễn mất đi ca trù là một nguy cơ có thực, đòi hỏi chúng ta phải nhanh chóng sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn ca trù như một vốn quý văn hóa của dân tộc. Do vậy việc cung cấp những hiểu biết sâu hơn và có căn cứ về một số vấn đề của ca trù, không những góp phần đáp ứng yêu cầu cấp thiết ấy mà còn góp phần vào việc phục hồi và chấn hưng nghệ thuật và sinh hoạt ca trù. Khóa luận: Giải pháp khai thác du lịch hiệu quả Ca trù Đông Môn.

Trước mắt, cần xây dựng một kế hoạch sưu tầm sách, vở, tranh, ảnh, phim, băng nhạc, đĩa hát… tiến tới việc tư liệu hóa các tác phẩm âm nhạc để dàn dựng các chương trình bảo tồn, đồng thời nhân bản tư liệu để cất giữ, đề phòng mất mát, thất lạc.

Để thực hiện được kế hoạch đó có hiệu quả, nhà nước nên xây dựng một trung tâm bảo tồn, nghiên cứu Ca trù và ở đó hội tụ những nhà khoa học hàng đầu và những nghệ nhân, những người say mê ca trù để thường xuyên kiểm chứng các khúc nhạc, lời ca nhằm kịp thời uốn nắn, chỉnh lí, thậm chí loại bỏ bớt những sai sót không đáng có, tránh sự cải biên nhằm làm giảm thiểu những giá trị của ca trù.

Bên cạnh việc sưu tầm, thu thập những bản nhạc, lời ca cũng cần phải biên soạn và xuất bản các ấn phẩm Ca trù trên cơ sở tiếp cận các nghệ nhân, các nhân chứng sống còn hiểu biết về thể loại âm nhạc này bằng cách chụp ảnh, quay phim những diễn xuất, ca từ mà họ trình bày. Bởi lẽ những nghệ nhân xưa, nay đã lần lượt ra đi về cõi vĩnh hằng, dó là một tổn thất lớn cho nền âm nhạc dân tộc của nước nhà. Những người biết ca trù và có thể truyền dạy và biểu diễn thì không còn nhiều, đa phần là đã già yếu và không còn được minh mẫn như xưa nữa. Chính vì vậy cần phải khẩn trương khai thác các kĩ năng, kĩ xảo, kinh nghiệm quý giá còn ở nơi họ. Nếu công tác này được thực thi sớm, thì ngay cả khi thế hệ nghệ nhân này đã qui tiên mà chưa kịp truyền dạy lại cho thế hệ kế cận, chúng ta vẫn còn lại nguồn tư liệu băng đĩa của họ để tiếp tục đào tạo cho các thế hệ mai sau.

Bên cạnh đó, cũng cần chú ý tới việc sưu tầm, phục dựng lại các trang phục biểu diễn và cần xác định rõ đâu là trang phục truyền thống của Ca trù để phục chế lại các trang phục đó. Trong những năm qua, trang phục biểu diễn của các nghệ sĩ trẻ đã được cải biên lại về màu sắc, kiểu thức cho phù hợp nhằm tạo ra sự lôi cuốn, hấp dẫn và quen thuộc hơn với khán thính giả đương đại. Chính vì thế, nếu chúng ta chủ trương khôi phục lại ca trù cổ truyền theo đúng nghĩa của nó, mọi việc cần bắt đầu từ những khâu nhỏ nhất như lựa chọn trang phục. Việc khôi phục lại ca trù cần tuân theo những quy tắc nghiêm ngặt là một việc làm vô cùng cần thiết. Nếu chúng ta dễ dãi trong một khâu nào đó của quá trình bảo tồn thì sẽ tạo ra một “truyền thống mới” mà không thực thi được mục đích ban đầu. Từ đó sẽ dẫn tới việc nhận thức sai lệch về bộ môn truyền thống này trong khâu hưởng thụ từ công chúng.

Việc giới thiệu ca trù đến với công chúng qua các ấn phẩm, các buổi thảo luận chuyên đề, các cuộc nói chuyện thường niên về âm nhạc dân tộc cũng rất quan trọng, vì nó làm nâng cao trình độ thưởng thức của công chúng, làm thức dậy tình yêu âm nhạc dân tộc của các tầng lớp nhân dân. Đặc biệt cần phải tiến hành các cuộc nói chuyện với lớp trẻ để tìm hiểu những suy nghĩ của họ về ca trù, lôi cuốn họ tìm đến với bộ môn nghệ thuật truyền thống này. Bởi lẽ họ sẽ là lớp người kế tục sự nghiệp giữ lửa ca trù và bảo vệ ca trù. Chính vì vậy cần lôi cuốn họ để họ yêu thích và đam mê rồi từ đó họ mới có ý thức tự giác học hỏi, rèn luyện nghề nghiệp truyền thống của cha ông, đồng thời nâng cao ý thức trách nhiệm của mình trong việc bảo tồn và phát huy những giá trị to lớn để bộ môn nghệ thuật này không bị mai một.

Cùng với việc nghiên cứu, sưu tầm, cần xúc tiến thành lập một bảo tàng lưu trữ những gì liên quan tới ca trù để giữ gìn những hiện vật giá trị của ca trù. Trong bảo tàng sẽ lưu trữ những nhạc cụ, trang phục, bài bản, làn điệu, những đĩa băng ghi âm, ghi hình, những tài liệu về ca trù xưa và nay, thậm chí là hình ảnh hay dấu tích về những địa điểm thường tổ chức ca trù xưa và nay… Có như thế công chúng mới có được một cái nhìn sâu sắc hơn về Ca trù, để từ đó có trách nhiệm giữ gìn vốn văn hóa cổ này không bị mai một. Đồng thời một bảo tàng chuyên biệt về Ca trù cũng sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo lưu các giá trị và truyền thống cổ cho các thế hệ sau. Khóa luận: Giải pháp khai thác du lịch hiệu quả Ca trù Đông Môn.

Đối với Ca trù làng Đông Môn, mặc dù có truyền thống lâu đời, nhưng đến nay những bài bản, những làn điệu và cả những cách thức biểu diễn cổ đã bị mai một, có chăng chỉ còn lại trong kí ức của một số bậc cao niên trong làng hay của những người đã từng được thưởng thức ngón đàn tay phách của các nghệ nhân Đông Môn đầu thế kỷ XX. Vì thế, chính quyền địa phương cần phải mời một số chuyên gia nghiên cứu có tâm huyết tìm cách phục dựng lại diện mạo đặc trưng của nghệ thuật Ca trù Đông Môn, cần sưu tầm lại những bài bản cổ, những cách thức trình diễn đặc trưng đã làm nên danh tiếng của giáo phường Ca trù xưa… Quá trình này đòi hỏi mất rất nhiều thời gian, công sức cũng như kinh phí thực hiện bởi phải tiến hành một cuộc điều tra, tìm kiếm trên qui mô rộng đối với thế hệ nghệ nhân cũng như tầng lớp quan viên có thói quen thưởng thức Ca trù Đông Môn xưa. Đó là những nhân chứng sống của thời đại, ngoài ra rất có thể họ còn lưu giữ được những văn bản, tài liệu nghiên cứu cổ về Ca trù cả nước nói chung, ca trù Đông Môn nói riêng. Có một điều chắc chắn là, trải qua thời gian, trong số đó có những người nay đã không còn, có những người đã chuyển địa điểm sống, việc tìm kiếm và qui tập họ không dễ. Nhưng nếu thực sự có tâm huyết, ngoài làng Đông Môn và khu vực lân cận, các nhà nghiên cứu có thể đến với những khu vực trước đây tập trung nhiều ca quán Ca trù ở Hải Phòng như Quán Bà Mau, Thượng Lý…; hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng để kêu gọi sự quan tâm của họ đối với việc bảo tồn và phục dựng một trong những thú chơi tao nhã của ông cha. Công tác điều tra, nghiên cứu nhằm phục dựng lại diện mạo của Ca trù Đông Môn chắc chắn là một việc làm không dễ nhưng thực sự cần thiết. Điều đó không chỉ góp phần làm sống lại truyền thống văn hóa địa phương mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng đưa Ca trù Đông Môn vào khai thác phục vụ trong du lịch. Bởi nếu Ca trù Đông Môn không tìm lại cho mình những đặc trưng riêng thì sẽ không tạo ra được sự hấp dẫn đối với du khách. Nếu chỉ để thưởng thức Ca trù, du khách có thể tìm đến với nhiều địa phương khác, thuận lợi cho họ hơn về khoảng cách địa lý hay có sức hấp dẫn hơn về nguồn tài nguyên du lịch…

3.2.3. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế Khóa luận: Giải pháp khai thác du lịch hiệu quả Ca trù Đông Môn.

Mở rộng quan hệ hợp quốc tế là một trong những biện pháp hữu hiệu để vừa bảo tồn vừa giới thiệu, truyền bá văn hóa dân tộc Việt Nam tới bạn bè quốc tế, đồng thời tăng cường sự hiểu biết và kiến thức về tổ quốc, quê hương đối với kiều bào nước ngoài. Nhất là trong điều kiện Việt Nam còn đang gặp nhiều khó khăn thì việc tranh thủ sự ủng hộ và viện trợ của quốc tế là vô cùng cần thiết. Việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế có thể được tiến hành bằng cách thường xuyên tham dự liên hoan âm nhạc truyền thống giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Việc làm này sẽ đem lại một hiệu quả tích cực đó là giúp cho người dân tại những quốc gia không có loại hình nghệ thuật này hiểu biết thêm về Ca trù, từ đó nảy sinh nhu cầu muốn được nghe và thưởng thức Ca trù ngay trên chính quê hương của loại hình nghệ thuật đó. Và điều chắc chắn rằng họ sẽ không phải thất vọng vì đây là một loại hình nghệ thuật độc nhất vô nhị không có quốc gia nào trên thế giới có được, là loại hình mà người dân nước Việt đã tự sáng tạo ra mà không phải vay mượn từ bất cứ nơi đâu.

Bên cạnh việc góp phần bảo tồn, quảng bá hình ảnh về đất nước và con người Việt Nam và phát huy giá trị truyền thống của dân tộc thì việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế sẽ kêu gọi được sự đóng góp của các bậc trí thức, kêu gọi được sự hỗ trợ của các nhà tổ chức, các nhà hảo tâm, những cá nhân yêu quý nghệ thuật này đóng góp kinh phí, phương tiện, kỹ thuật, tư liệu… để bảo tồn loại hình nghệ thuật Ca trù không bị mai một. Trước khi được công nhận là di sản phi vật thể của nhân loại, một điều đáng mừng là Ca trù đã được nhiều nhạc sĩ, nhạc gia, nhà nghiên cứu nước ngoài chuyên tâm tìm hiểu như: TS. Barley Norton (Anh), TS. Alienor Anisensel (Pháp), GS. Stephen Addiss (Mỹ). Một người con Việt Nam xa xứ nhưng luôn nặng lòng với nghệ thuật truyền thống của dân tộc là GS. Trần Văn Khê cũng đã thường xuyên thuyết giảng về nghệ thuật Ca trù của người Việt theo đề nghị của nhiều trường Đại học danh tiếng như Đại học Sorbonne Paris (Pháp), Đại học Hawaii, Đại học Honolulu (Mỹ).

Hẳn chúng ta cũng không thể quên, trước khi nhà nước Việt Nam có điều kiện quan tâm và phục dựng lại vốn cổ Ca trù, thì ngay từ thập niên 70 của thế kỷ XX, Ca trù đã được một số cơ quan, tổ chức quốc tế tôn vinh và góp phần lưu giữ, truyền bá, xuất bản dưới dạng đĩa hát. Tổng thư ký Hội đồng quốc tế Âm nhạc thuộc Unesco – Jack Bornoff, Giám đốc Viện quốc tế nghiên cứu Âm nhạc với phương pháp đối chiếu tại Berlin (Đức) – GS Alain Danielou đã tặng Bằng danh dự cho NSND Quách Thị Hồ, người đã tham gia vào việc thực hiện đĩa hát Ca trù do Unesco phát hành. Đĩa hát này sau đó đã được Unesco gửi tặng trên 400 trường Đại học và Nhà Văn hóa của nhiều nước Âu, Á, Mỹ, Úc, Phi. Năm 1985, Ca trù là 1 trong 9 tiết mục được tuyển lựa vào Diễn đàn âm nhạc châu Á do Unesco tổ chức tại Bình Nhưỡng (CHDCND Triều Tiên). Năm 1994 tại Paris, đĩa Ca trù do Nhà Văn hóa Thế giới phát hành với sự tham gia của nhóm Ca trù Thái Hà đã được Laurent Aubert, nhà phê bình báo Thế giới Âm nhạc (Le Monde de la Musique) xếp hạng “Choc” (chấn động), hạng cao nhất trên cả 4 sao. Quỹ Ford cũng đã hai lần tặng tiền tài trợ cho việc khôi phục Ca trù: lần thứ nhất vào năm 2002, tài trợ cho Cục nghệ thuật biểu diễn tổ chức một lớp học thể nghiệm Ca trù ngắn hạn cho hơn 200 học viên từ 14 tỉnh thành trong cả nước học trong hai tháng và dạy được ba bài hát; lần thứ hai đóng góp cho việc tổ chức Liên hoan Ca trù toàn quốc 2005 tại Hà Tĩnh và Hà Nội. Khóa luận: Giải pháp khai thác du lịch hiệu quả Ca trù Đông Môn.

Như vậy có thể khẳng định rằng sự ủng hộ, tài trợ của các tổ chức quốc tế cũng như của các cá nhân là vô cùng quan trọng đối với công cuộc khôi phục và bảo tồn vốn cổ Ca trù. Trong điều kiện Việt Nam còn là nước đang phát triển, kinh tế còn chưa lớn mạnh thì việc tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế là rất cần thiết, tuy nhiên chúng ta cần đẩy mạnh chiến lược này để thu hút nhiều hơn nữa các nhà tài trợ không chỉ của UNESCO, Nhật, Pháp, Anh… mà còn của nhiều quốc gia khác cũng muốn cùng Việt Nam chung vai gánh vác nhiệm vụ bảo tồn và phát triển loại hình nghệ thuật này. Một loại hình âm nhạc có bề dầy lịch sử (theo sử liệu và văn bia), chiều sâu nghệ thuật, tuy có nguy cơ bị quên lãng, nhưng đang chiếm được sự quan tâm của chính quyền, sự thiết tha gìn giữ của nghệ nhân, sự đón nhận nồng hậu của người trong nước và nước ngoài, sự tôn vinh và tài trợ của các tổ chức quốc tế, thì không thể nào không sống mãi với thời gian.

Đối với Ca trù Đông Môn cũng vậy, nếu chỉ có sự nỗ lực của số thành viên ít ỏi trong Câu lạc bộ hiện nay không thôi thì chưa đủ. Chính quyền thành phố Hải Phòng nên xem xét kêu gọi sự hợp tác, hỗ trợ của các tổ chức văn hóa quốc tế, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước cùng tham gia vào quá trình phục dựng lại diện mạo của giáo phường Ca trù Đông Môn xưa, hoặc hỗ trợ về mặt kinh phí để lớp nghệ nhân trẻ của Đông Môn ngày nay vừa đảm bảo được điều kiện cuộc sống vừa có thể tham gia vào các khóa học, các chương trình giao lưu, học tập để không ngừng hoàn thiện tay nghề, đem lời ca, tiếng hát, chữ đàn đến với quần chúng sâu rộng hơn nữa.

3.3. Giải pháp phát triển du lịch

Ca trù là một bộ môn nghệ thuật truyền thống của dân tộc. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, ca trù vẫn đứng vững và đang ngày càng thể hiện vị trí và giá trị của mình. Tuy nhiên, sau một thời gian dài bị quên lãng, ca trù đã và đang được phục hồi trong những năm gần đây. Để ca trù ngày càng phát triển và không bị mai một, một trong những giải pháp quan trọng là gắn ca trù với hoạt động du lịch, giúp cho ca trù được quảng bá tới đông đảo công chúng, đồng thời qua hoạt động du lịch, góp phần truyền tải tới du khách một cách trung thực, thuyết phục và hấp dẫn những giá trị chân thực của ca trù. Vì vậy, ngành du lịch cần có những biện pháp hữu hiệu để khai thác có hiệu quả ca trù trong hoạt động du lịch, vừa đóng góp vào ngân ách chung của nhà nước vừa góp phần bảo vệ và tôn vinh nghệ thuật Ca trù.

3.3.1. Xây dựng các chương trình biểu diễn nghệ thuật Khóa luận: Giải pháp khai thác du lịch hiệu quả Ca trù Đông Môn.

Trước khi Ca trù được công nhận là kiệt tác phi vật thể của nhân loại, sức sống của bộ môn nghệ thuật này đã được khôi phục và duy trì bởi sinh hoạt thường khóa của 22 CLB Ca trù tại 14 tỉnh thành trong cả nước. Một số Câu lạc bộ đã tham gia biểu diễn phục vụ cho đối tượng khách du lịch mỗi khi được yêu cầu, điển hình như một số CLB Ca trù của Hà Nội (CLB Thái Hà, CLB Thăng Long, CLB Lỗ Khê, CLB Bích Câu). Chỉ có điều, nội dung biểu diễn của các Câu lạc bộ còn tương đối giống nhau, đều trình bày những bải bản, làn điệu Ca trù từ lâu đã trở nên nổi tiếng và quen thuộc như “Tỳ bà hành” (thơ Bạch Cư Dị), “Đào hồng đào tuyết” (thơ Dương Khuê), “Hương sơn phong cảnh” (thơ Chu Mạnh Trinh), “Gặp xuân” (thơ Tản Đà), “Tự tình” (thơ Cao Bá Quát)… Đó cũng là những tiết mục biểu diễn tiêu biểu cho thể Hát nói, một thể cách thịnh hành vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX tại các ca quán ca trù. Trong khi đó, Ca trù cổ truyền thực sự có tới 99 thể cách (trong đó loại thể cách hát lên được, tức là làn điệu đã có tới 66 thể cách) và có không gian biểu diễn rộng rãi, từ nơi cung vua phủ chúa đến sân đình rồi đến nhà dân. Nhưng hiện nay, theo thống kê của Viện âm nhạc, chúng ta chỉ còn lưu giữ được tư liệu của 46 thể cách và 7 điệu múa, số người có thể hát được tới 5 bài bản, làn điệu chỉ đếm trên đầu ngón tay. Song cái khác lớn nhất giữa xưa và nay là không gian, không khí ca trù, hay còn gọi là văn hóa thưởng ngoạn ca trù đã không còn tồn tại nữa. Đó là cái không khí rộn rã linh thiêng của những đêm hội làng, các đào kép về hát thờ Thành hoàng theo lệ hằng năm; đó là những ca quán nhộn nhịp khách văn nhân; đó là những cuộc khao vọng, khai trương cửa hiệu có vời đến đào kép ca trù, để tùy việc tùy duyên mà thưởng ngoạn câu thơ khổ phách cung đàn ca trù…

Bên cạnh đó, người nghe cũng đã khác xưa nhiều. Từ phía công chúng, chúng ta thấy ngay cả đối với người Việt Nam nếu chưa được tiếp xúc một cách sâu sắc cũng khó có thể nghe và hiểu được ca trù. Cho nên có thể nói, ca trù hiện nay chỉ còn là những mảnh vỡ còn sót lại của một thể loại âm nhạc đặc sắc của dân tộc. Chính vì vậy để ca trù đến được với công chúng, quan trọng hơn cả để ca trù sống được trong lòng khán giả, điều cần làm đầu tiên là cần phải xây dựng các chương trình biểu diễn nghệ thuật đúng với những chuẩn mực của ca trù, không được làm biến tướng, hay cải biên loại hình nghệ thuật này, bởi nếu làm như vậy có khả năng sẽ tạo ra một xu hướng nghệ thuật mới không phải là ca trù nguyên bản, và khán giả sẽ không bao giờ biết được giá trị đích thực của ca trù dân tộc nguyên bản. Khóa luận: Giải pháp khai thác du lịch hiệu quả Ca trù Đông Môn.

Việc chúng ta cần làm bây giờ là hãy để ca trù về nguyên trạng của nó. Điều đó có nghĩa là phải đặt ca trù vào đúng bối cảnh biểu diễn của nó như ở sân đình, hay ở nhà dân… cùng với việc phục dựng lại một chầu hát với trang phục nguyên bản. Trong bối cảnh đó, ca trù sẽ xuất hiện đúng lúc, đúng chỗ căn cứ theo những gì mà các thư tịch cổ và các nghệ nhân lão thành ghi nhận. Làm được như thế chúng ta sẽ có một chương trình biểu diễn đúng quy chuẩn của ca trù truyền thống nhưng vẫn hấp dẫn, lôi cuốn khán giả. Ban đầu sẽ lôi cuốn khán giả bởi trí tò mò của họ, sau dần họ sẽ bị cuốn hút và trung thành với môn nghệ thuật này. Và nếu chúng ta kết hợp với các phương tiện thông tin đại chúng như đài, báo, truyền hình… thì hiệu quả của chương trình sẽ tăng lên nhiều lần. Số lượng khán giả sẽ ngày một tăng và từ đó chất lượng chương trình sẽ ngày càng được nâng cao.

Ca trù là một loại hình nghệ thuật bác học nên việc hiểu và có thể cảm thụ được cũng không phải là việc đơn giản trừ những người thực sự đam mê và hiểu sâu sắc về ca trù. Chính vì vậy, bên cạnh việc xây dựng chương trình biểu diễn đúng với đặc điểm và giá trị của Ca trù thì cũng cần phải chú ý xây dựng nội dung chương trình biểu diễn sao cho phù hợp với từng đối tượng khán giả để ca trù không trở nên cứng nhắc, khô khan, khó hiểu và đơn điệu. Hầu hết các chương trình biểu diễn của các CLB hiện nay thường dao động từ 30 đến 45 phút. Với thời lượng như thế thường chỉ có thể giới thiệu tổng quan về ca trù và các tiết mục được lựa chọn biểu diễn thường có xu hướng tập trung đánh vào thị hiếu thích lạ, trí tò mò của khán giả. Sau khi thưởng thức xong, sẽ hầu như không để lại ấn tượng sâu sắc với họ, còn với những người thực sự đam mê và muốn tìm hiểu sâu về ca trù thì lại sẽ cảm thấy hụt hẫng. Chính vì vậy mà các CLB Ca trù, trong đó có CLB Ca trù Đông Môn của Thủy Nguyên, Hải Phòng cần xây dựng một chương trình biểu diễn thật đa dạng, linh động, không nên cứng nhắc theo một khung chương trình duy nhất. Chẳng hạn như có thể lập ra một danh sách những tiết mục biểu diễn đã được khôi phục và tập luyện thuần thục. Du khách nhìn vào đó rồi tùy theo nhu cầu thưởng thức, khả năng thẩm thấu và khả năng chi trả để lựa chọn một chương trình biểu diễn cho chính mình. Sẽ có những khách chỉ mong muốn được thưởng thức thuần túy về âm điệu nhạc hay lời ca của ca trù; có khách muốn tìm hiểu kỹ hơn về các lối đánh của đàn đáy, lối thưởng trống chầu… và cũng có khách lại muốn đi chuyên sâu hơn, mong muốn được biết rõ về bài bản, làn điệu, điệu múa của ca trù… Nếu làm được như vậy, ca trù sẽ không còn cứng nhắc, khó hiểu nữa mà phù hợp với tất cả các đối tượng, sẽ thu hút được ngày càng đông người đến với ca trù. Dẫu biết rằng để xây dựng nhiều chương trình biểu diễn như vậy đòi hỏi phải có sự đầu tư lâu dài cả về kinh phí, thời gian, tâm huyết của các trung tâm văn hóa ca trù, các câu lạc bộ và các nghệ sĩ nhưng làm được như vậy thì ca trù mới thực sự để lại ấn tượng cho du khách và xứng đáng với danh hiệu kiệt tác phi vật thể của nhân loại mà UNESCO phong tặng.

Không chỉ có thế, với việc được biểu diễn tự do, chắc chắn sẽ góp phần làm tăng thêm nguồn cảm hứng và sáng tạo cho các nghệ nhân biểu diễn, và chính điều đó lại càng làm tăng thêm sự độc đáo và duy trì sức sống trường tồn cho loại hình nghệ thuật này.

3.3.2. Mở rộng không gian biểu diễn Khóa luận: Giải pháp khai thác du lịch hiệu quả Ca trù Đông Môn.

Trong nền âm nhạc cổ truyền dân tộc Việt Nam, nhìn chung mỗi thể loại đều có đời sống xã hội riêng của nó. Trong đó, môi trường trình diễn cũng như chức năng xã hội bao giờ cũng được coi như đặc trưng riêng của từng thể loại. Mối quan hệ hữu cơ đó khiến cho mỗi thể loại âm nhạc ở đây không phải là thứ âm nhạc của sân khấu mà là thứ âm nhạc của cuộc đời. Nghĩa là chúng không tồn tại như một nghệ thuật âm nhạc biểu diễn thuần túy mà bao giờ cũng gắn liền với một hoạt động cụ thể nào đó trong cuộc sống. Ca trù là một minh chứng cho điều đó. Ca trù sinh ra là để phục vụ cho con người. Có thể khẳng định đây là một trong số ít loại hình nghệ thuật có không gian biểu diễn rộng. Ca trù không chỉ được biểu diễn trong cung đình (gọi là hát trong cung đình, hay hát Cửa quyền) mà còn được biểu diễn ngay cả ở nông thôn phục vụ đời sống sinh hoạt của người dân (hát Cửa đình, hay hát chơi ở ca quán). Nhưng hiện nay, không gian dành cho biểu diễn ca trù ở đình làng, ở cung vua phủ chúa và tư gia đều không còn tồn tại. Ca trù chỉ còn một không gian biểu diễn duy nhất là tại các Câu lạc bộ Ca trù. Những năm gần đây, được sự quan tâm của Nhà nước, Ca trù đã có cơ hội đến được với công chúng nhiều hơn thông qua các cuộc liên hoan ca trù toàn quốc hay các chương trình biểu diễn nghệ thuật đầu năm nhân dịp tết đến xuân về (trong dịp Tết âm lịch, Ca trù thường được biểu diễn tại Văn miếu quốc tử giám Hà Nội). Song những dịp như vậy cũng không phải là thường xuyên, chẳng hạn như 2 năm mới có một cuộc liên hoan ca trù. Do đó, trong những dịp bình thường, công chúng hay du khách muốn thưởng thức Ca trù thì đôi khi không biết thưởng thức ở đâu. Do đó, ngoài việc biểu diễn tại các nhà hát, các câu lạc bộ, giao lưu giữa các câu lạc bộ, tham gia các kì liên hoan toàn quốc thì việc mở rộng hơn nữa không gian biểu diễn là một trong những việc làm cần thiết để đưa ca trù vào khai thác, phục vụ trong du lịch.

Đối với ca trù Đông Môn, giải pháp này có thể thực hiện bằng cách tăng cường biểu diễn tại các buổi liên hoan văn hóa nghệ thuật ở khắp nơi trong cả nước hay tích cực hơn trong việc tham dự các kì liên hoan nghệ thuật truyền thống giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Qua các cuộc giao lưu văn nghệ với các nước hay các cuộc lưu diễn, ca trù Đông Môn sẽ được nhiều người biết đến hơn, và rất có thể trong số đó sẽ có nhiều người tìm đến với Thủy Nguyên để được tìm hiểu sâu hơn về mảnh đất đã nuôi dưỡng câu lạc bộ nghệ thuật này.

Ngoài ra, Ca trù Đông Môn cũng nên tăng cường việc hợp tác biểu diễn tại các ngôi đình làng hay trong các lễ hội làng truyền thống hàng năm của các xã, quận, huyện lân cận trong địa bàn thành phố Hải Phòng. Các lễ hội truyền thống luôn là nơi thu hút một lượng lớn du khách trong và ngoài địa phương đến tham dự. Những năm gần đây, ngày càng nhiều lễ hội được phục hồi và gắn với mục tiêu phát triển du lịch. Ban tổ chức của các lễ hội này cũng thường tìm kiếm những nội dung hoạt động nghệ thuật hấp dẫn để đem lại nét mới cho chương trình nhằm phục vụ nhu cầu đa dạng của du khách, thu hút khách đến với lễ hội nhiều hơn. Vì thế, nếu Ca trù Đông Môn có thể tham gia trong những lễ hội như vậy chính là một cách góp phần vào sự nghiệp phát triển du lịch địa phương. Du khách có thể kết hợp giữa việc tham gia chơi hội với việc nghe hát ca trù và tìm hiểu thêm về những ngôi đình cổ kính – những di tích lịch sử văn hóa giá trị… Khóa luận: Giải pháp khai thác du lịch hiệu quả Ca trù Đông Môn.

Nhưng để Ca trù Đông Môn thực sự đóng góp hiệu quả trong chính sách phát triển du lịch của địa phương, có lẽ cần tới sự hợp tác hỗ trợ của chính quyền địa phương cũng như của các nhà đầu tư để nâng cấp ca trù Đông Môn từ một Câu lạc bộ nhỏ chỉ có 7 thành viên trở thành một trung tâm biểu diễn nghệ thuật ca trù của cả thành phố, xứng tầm với qui mô của tổ chức giáo phương xưa. Nếu mời gọi được nhà đầu tư, thiết nghĩ bài học làm du lịch một cách chuyên nghiệp của Trung tâm văn hóa ca trù Thăng Long tại Hà Nội thời gian vừa qua sẽ là một mô hình đáng để cho ca trù Đông Môn xem xét và học tập từ cách thức xây dựng cho đến qui chế và nguyên tắc vận hành.

Trung tâm văn hóa ca trù Thăng Long có chức năng như một nhà hát và là địa chỉ đầu tiên và duy nhất hiện nay tổ chức biểu diễn ca trù theo cách chuyên nghiệp ở Hà Nội, chính thức mở cửa vào ngày 31/3/2009. Giám đốc của trung tâm là Nguyễn Lan Hương, vốn là một người mẫu, từng đoạt ngôi Á hậu trong cuộc thi Người đẹp Việt – Trung. Nằm trong tòa nhà Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, đối tượng hướng tới sẽ là khách du lịch với ba suất diễn mỗi ngày.

Tính chuyên nghiệp của Trung tâm được thể hiện trước hết ở việc thiết kế phòng biểu diễn với trang bị âm thanh, ánh sáng, sân khấu hiện đại nhưng vẫn không làm mất đi nét truyền thống của ca trù. Phòng biểu diễn có sức chứa 100 chỗ ngồi cho khán giả, được bố trí sát sân khấu nhằm tạo ra sự giao lưu gần gũi giữa nghệ sĩ và khán giả. Mỗi ngày, Trung tâm tổ chức 3 ca diễn vào các buổi chiều từ 15-18 giờ; mỗi ca diễn kéo dài 45 phút và gồm 5 tiết mục (2 bài múa, 3 bài hát)… Các tiết mục biểu diễn là những bài hát, làn điệu đã được thời gian kiểm chứng, thuộc hàng kinh điển với ca trù. Hiện tại có khoảng 10 kịch bản biểu diễn được thay đổi theo từng buổi diễn để tạo sự mới mẻ cho khách nghe. Nghệ sĩ Bạch Vân, chủ nhiệm CLB Ca trù Hà Nội trước đây là người phụ trách chính nội dung nghệ thuật.

Để hoạt động biểu diễn đảm bảo tính chuyên nghiệp mà vẫn giữ được nét đặc trưng vốn có của ca trù, Trung tâm được sự hỗ trợ của đội ngũ cố vấn đặc biệt gồm 7 nghệ nhân cao tuổi, có uy tín trong làng ca trù Việt Nam như Kim Đức, Vũ Văn Hồng, Nguyễn Thị Tình… Nghệ sỹ biểu diễn (múa và hát) gồm 15 người trong đó có 6 đào nương, chủ yếu là các nghệ sỹ trẻ của CLB Ca trù Hà Nội và CLB Ca trù Lỗ Khê. Ngoài phòng biểu diễn, Trung tâm còn có không gian trưng bày hình ảnh, hiện vật về ca trù, không gian giới thiệu về làng nghề truyền thống và nghệ thuật thư pháp của Việt Nam.

Bên cạnh đó, Trung tâm còn có chương trình phối hợp với Tổng cục Du lịch, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Nội cùng nhiều công ty du lịch lữ hành để xây dựng tour đến Trung tâm như điểm tìm hiểu văn hoá Việt Nam cho du khách quốc tế. Trước giờ biểu diễn, Trung tâm sẽ có bài giới thiệu về ý nghĩa văn hóa, lịch sử, sự hình thành, phát triển của ca trù trong 1000 năm qua bằng tiếng Anh, Pháp… để du khách hiểu sơ lược về ca trù. Ý nghĩa của lời các bài hát cũng được dịch ra tiếng nước ngoài để du khách đọc tham khảo… Khóa luận: Giải pháp khai thác du lịch hiệu quả Ca trù Đông Môn.

Trung tâm còn hoạt động như một nhà hát chuyên nghiệp qua việc tổ chức đào tạo, hằng năm sẽ tuyển sinh và đào tạo những người theo học biểu diễn ca trù với một tiêu chí tuyển chọn khá khắt khe.

Một điểm đặc biệt nữa, địa chỉ của Trung tâm nằm trong khuôn viên của Bảo tàng Cách mạng Việt Nam. Đây là sự hợp tác giữa giám đốc trẻ Nguyễn Lan Hương và Bảo tàng Cách mạng Việt Nam trong một nỗ lực chung nhằm bảo vệ và phát huy vốn cổ của dân tộc. TS Triệu Văn Hiển – Giám đốc Bảo tàng Cách mạng Việt Nam nói: “Để không “đóng khung” các giá trị văn hóa truyền thống, chúng tôi có chủ trương gắn những hoạt động của bảo tàng với du lịch. Và mô hình biểu diễn ca trù tại Bảo tàng là một hình thức mới mở ra nhiều triển vọng. Trước hết, giới thiệu ca trù với những khách đến tham quan bảo tàng không chỉ là một cách để mở rộng tiếp cận văn hóa truyền thống cho người dân và du khách, mà còn làm phong phú, hấp dẫn hơn các hoạt động của bảo tàng. Sắp tới, chúng tôi sẽ tổ chức cho các em trong CLB Em yêu lịch sử của Bảo tàng Cách mạng tiếp cận với ca trù qua sinh họat của trung tâm. Đây là một hình thức thiết thực giúp giới trẻ nhận thức tốt hơn giá trị văn hóa truyền thống”. [17]

Xem qua mô hình làm du lịch một cách chuyên nghiệp đối với Ca trù ở Hà Nội nói trên, có thể nói rằng, Hải Phòng hoàn toàn có khả năng để thành lập một Trung tâm văn hóa Ca trù gần như vậy. Nói là gần như bởi vì nghệ thuật Ca trù của mỗi một vùng miền, mỗi một địa phương sẽ có những đặc trưng riêng biệt khác nhau; tiềm năng về tài nguyên du lịch, khả năng thu hút và giữ chân khách du lịch cũng không giống nhau nên cách làm du lịch cũng không thể áp dụng một cách máy móc như nhau. Nhưng xem xét những điều kiện vốn có, nếu kêu gọi được các nhà doanh nghiệp trên địa bàn thành phố mạnh dạn đầu tư thì việc xây dựng một Trung tâm văn hóa nghệ thuật Ca trù của riêng Hải Phòng không phải là điều không thể. Về nguồn nhân lực, có thể kết hợp thành viên của Câu lạc bộ Ca trù Hải Phòng với Câu lạc bộ Ca trù Đông Môn. Về địa điểm hoạt động của Trung tâm, có thể đặt trong chính khuôn viên của Bảo tàng Hải Phòng một tòa nhà có kiến trúc cổ từ thời thuộc Pháp. Sẽ càng ý nghĩa hơn khi du khách đến tham quan bảo tàng, bên cạnh những chứng tích về truyền thống lịch sử hào hùng, du khách còn có cơ hội tiếp cận với truyền thống văn hóa sâu sắc của mảnh đất và con người nơi đây thông qua một bộ môn nghệ thuật đặc sắc như Ca trù. Thậm chí, mô hình của Trung tâm nói trên có thể mở rộng và tiến xa hơn, trở thành Trung tâm văn hóa nghệ thuật truyền thống của Hải Phòng, nơi qui tụ cả nghệ thuật Ca trù Hải Phòng (trong đó có Ca trù Dông Môn), nghệ thuật Hát đúm (Thủy Nguyên), nghệ thuật múa rối nước (Vĩnh Bảo)… Khóa luận: Giải pháp khai thác du lịch hiệu quả Ca trù Đông Môn.

Như vậy, với mọi nỗ lực trong công tác bảo tồn và biểu diễn, mong muốn lớn nhất của những người làm du lịch là đem đến cho du khách những giá trị đích thực của ca trù khi thưởng thức nó, cảm nhận được cái hay, cái đẹp, đồng thời giữ mãi trong lòng một ấn tượng sâu sắc về một loại hình âm nhạc truyền thống đặc sắc. Có thể nói rằng, hệ quả lớn nhất của việc mở rộng không gian biểu diễn đem lại chính là đã giới thiệu hình ảnh ca trù đến với du khách bốn phương, làm thức dậy nhu cầu được thưởng thức ca trù trên chính quê hương của nó. Từ đó, lượng khách du lịch đến với ca trù ngày càng tăng, góp phần không nhỏ trong việc thúc đẩy du lich địa phương nói riêng và ngành du lịch trong cả nước nói chung.

3.3.3. Liên kết với các tuyến điểm du lịch khác trong địa bàn huyện Thủy Nguyên

Thủy Nguyên là mảnh đất có nhiều tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn phong phú và đa dạng. Trời phú cho thiên nhiên huyện Thủy Nguyên nhiều cảnh đẹp và có đủ các dạng địa hình, có sông dài, núi cao, đồng bằng rộng lớn và nằm ngay trên bờ biển mênh mông. Đây cũng là mảnh đất có lịch sử hào hùng với những chiến công lẫy lừng của các vị anh hùng có công bảo vệ Tổ quốc.

Ca trù làng Đông Môn, xã Hòa Bình, huyện Thủy Nguyên trước đây rất phát triển và được coi là một nghề kiếm sống của cả làng. Nhưng giờ đây, người hát ca trù không còn mấy. Tuy ca trù đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại nhưng việc bảo tồn vẫn đang gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy việc đưa ca trù vào phát triển du lịch là một giải pháp hữu hiệu để bảo tồn và phát huy các giá trị của ca trù nơi đây. Nhưng nếu chỉ chú trọng vào việc đưa ca trù vào du lịch, xây dựng một tour du lịch mà chỉ có nghe hát ca trù thì rất đơn điệu và dễ gây nhàm chán bởi không phải ai cũng thích nghe ca trù, hơn nữa đây cũng là một môn nghệ thuật rất khó cảm thụ nếu không thật sự đam mê và hiểu về nó. Chính vì vậy, cần xây dựng một chương trình du lịch dựa trên sự kết hợp ca trù với các tài nguyên du lịch của huyện Thủy Nguyên để tạo ra sự phát triển đồng đều và tránh sự lãng phí tài nguyên của vùng cũng như tạo nên được nét hấp dẫn của chương trình. Người viết xin được đề xuất một số chương trình du lịch kết hợp với các tài nguyên du lịch trên địa bàn huyện như sau:

Tour du lịch Thủy Nguyên 1:

  • Sáng: Điểm đầu tiên tham quan là chùa Lâm Động với cảnh quan chùa thoáng mát, rộng rãi, cấu trúc chùa đẹp.
  • Đoàn dời chùa Lâm Động đi thăm đình Kiền Bái có tuổi trên 300 năm. Đình có bức trướng “Thượng đẳng tối linh thần”.
  • Sau đó, đoàn tới tham quan làng cau Cao Nhân. Khóa luận: Giải pháp khai thác du lịch hiệu quả Ca trù Đông Môn.
  • Trưa: ăn trưa tại xã Cao Nhân
  • Chiều: Đoàn ghé thăm HTX đan song – mây xuất khẩu xã Chính Mỹ. Sau đó thăm đền Giá, mua sắm ở chợ Giá, qua làng Phục Lễ nghe Hát Đúm.
  • Tối: nghe hát ca trù tại đình Đông Môn.

Tour du lịch Thủy Nguyên 2:

  • Sáng: Đi tham quan hang Luồn. Sau đó tham quan hang Vua – hang động đẹp nhất ở Thủy Nguyên. Tiếp theo, đi thăm đền thờ Trần Quốc Bảo dưới chân núi U Bò – Minh Đức, tham quan bãi cọc Bạch Đằng, nghe kể về các chiến công của tướng lĩnh thời Trần với trận đánh lịch sử trên sông Bạch Đằng.
  • Trưa: ăn trưa tại thị trấn Minh Đức.
  • Chiều: Đi thăm Đền Giá, mua sắm tại Chợ Giá. Tiếp đến đi tham quan tại chùa Hàm Long – ngôi chùa được xây dựng từ thời nhà Lý.
  • Tối: nghe hát Ca trù tại đình Đông Môn.

Việc xây dựng tour du lịch là việc cần thiết nhưng để nâng cao chất lượng du lịch thì chính quyền địa phương cần quan tâm tới việc đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng, đường xá thuận tiện cho việc đi lại của khách du lịch, song song với quá trình tu bổ lại các công trình kiến trúc, chùa chiền, đình, đền; cấp kinh phí để phục dựng lại các làng nghề truyền thống, các lễ hội, các loại hình nghệ thuật truyền thống. Một tín hiệu đáng mừng cho ngành du lịch Thủy Nguyên, đó là với thế mạnh và tiềm năng sẵn có, trên địa bàn huyện hiện nay đang có hai dự án đầu tư lớn được triển khai. Thứ nhất là dự án khu đô thị Bắc Sông Cấm – là dự án khu đô thị, công nghiệp và dịch vụ hiện đại do Công ty cổ phần phát triển đô thị và khu công nghiệp Việt Nam – Singapore làm chủ đầu tư, khởi công từ tháng 9/2009, dự kiến hoàn thành năm 2015. Dự án lớn thứ hai là dự án Khu Resort Sông Giá tại xã Lưu Kiếm với tổng vốn đầu tư ban đầu là khoảng 600 triệu USD, bao gồm các hạng mục: sân gôn 27 lỗ, bệnh viện quốc tế, trung tâm vui chơi giải trí, khu triển lãm văn hóa Việt Nam và Hải Phòng, khu biệt thự và nhà nghỉ, khu thương mại và mua sắm, trường học quốc tế, nhiều khách sạn 5 sao. Dự kiến giai đoạn một sẽ hoàn thành vào năm 2010 và hoàn thành toàn bộ vào năm 2015. Đây là tổ hợp du lịch nghỉ dưỡng nước ngoài lớn nhất từ trước tới nay. Việc hoàn thành tổ hợp khu nghỉ dưỡng sông Giá Resort sẽ là nơi kết nối các khu du lịch trên thế giới, đồng thời là điểm nhấn trong quy hoạch phát triển của thành phố Cảng.

Nếu hai dự án trên được hoàn thành và đưa vào hoạt động thì chắc chắn du lịch huyện Thủy Nguyên sẽ có những bước nhảy vọt lớn. Trong xu thế chung đó, tin chắc rằng làng Đông Môn nhỏ bé, nơi còn lưu giữ nghệ thuật Ca trù cũng sẽ là điểm dừng chân hấp dẫn của du khách bốn phương.

Tiểu kết chương 3 Khóa luận: Giải pháp khai thác du lịch hiệu quả Ca trù Đông Môn.

Sau khi ca trù được tổ chức UNESO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại thì đã có nhiều biện pháp được đưa ra nhằm bảo tồn và phát triển loại hình nghệ thuật này. Tuy nhiên, đối với ca trù của từng địa phương, bên cạnh những giải pháp chung được trình bày trong hồ sơ thì cũng cần nghiên cứu kỹ những biện pháp cụ thể thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh của địa phương đó. Trong chương này, trên cơ sở những giải pháp và định hướng chung, người viết đã cố gắng đưa ra những ý tưởng và đề xuất những giải pháp riêng đối với việc bảo tồn và phát triển nghệ thuật Ca trù tại làng Đông Môn, xã Hòa Bình, huyện Thủy Nguyên – cái nôi của nghệ thuật ca trù Hải Phòng trước đây. Biện pháp còn có thể nhiều hơn nữa nhưng quan trọng là cần phải được áp dụng đúng nơi, đúng chỗ và khoa học. Ca trù Đông Môn hiện nay cũng đang được nhiều tổ chức, cơ quan quan tâm, tạo điều kiện phục hồi và phát triển. Tuy nhiên, bản thân chính quyền địa phương của huyện cần phải quan tâm tới di sản văn hóa của dịa phương mình hơn nữa như có thể hỗ trợ một phần kinh phí hoạt động cho Câu lạc bộ ca trù Đông môn, hay cầ phải đề ra những biện pháp cụ thể và những chính sách bảo tồn lâu dài đối với ca trù Đông Môn… Mặc dù, chỉ là những thiên kiến cá nhân, nhưng người viết hy vọng rằng những đề xuất nhỏ bé của mình cũng sẽ là một phần gợi ý cho chính quyền địa phương trong việc đề ra những quyết sách bảo tồn và phát triển đối với bộ môn nghệ thuật truyền thống đặc sắc này.

KẾT LUẬN

Ca trù là một loại hình nghệ thuật độc đáo của dân tộc, có lịch sử hình thành lâu đời và không ngừng phát triển qua các triều đại. Ca trù đặc trưng bởi nhiều yếu tố như tên gọi, nhạc cụ, bài bản và làn điêu, các giá trị nghệ thuật và lịch sử, tất cả tạo nên nét đôc đáo riêng của ca trù so với các loại hình nghệ thuật khác. Hiện nay ca trù đang được công chúng biết đến như một di sản văn hóa thế giới cần được bảo vệ khẩn cấp. Chính vì vậy mà ca trù đã được định hướng để bảo tồn và khai thác một cách có hiệu quả trong nhiều lĩnh vực và đặc biệt là trong hoạt động du lịch. Tuy nhiên, công tác bảo tồn, phát triển còn nhiều hạn chế và chưa thực sự được quan tâm đúng mức. Khóa luận: Giải pháp khai thác du lịch hiệu quả Ca trù Đông Môn.

Thủy Nguyên là một vùng đất được thiên nhiên ban tặng nhiều ưu đãi, có nhiều cảnh quan đẹp, hấp dẫn, với những hang động đẹp, nổi tiếng và nhiều di tích lịch sử văn hóa, lễ hội độc đáo, nhiều làng nghề truyền thống…; có nhiều thế mạnh để phát triển kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp và giao thông vận tải. Và hiện nay, khi ca trù được công nhận là di sản văn hóa thế giới thì Thủy Nguyên lại được nhiều người biết như là một trong những cái nôi ra đời sớm của nghệ thuật Ca trù. Tuy nhiên, không có gì khác so với ca trù cả nước, việc bảo tồn ca trù nơi đây cũng chưa được các cấp chính quyền thành phố, huyện, xã quan tâm đúng mức. Ca trù còn được giữ gìn và hoạt động đến ngày nay chỉ bởi tâm huyết của những người con yêu ca trù của đất Đông Môn. Với mọi cố gắng và nỗ lực của các cá nhân và tổ chức yêu ca trù thì ca trù Đông Môn đang dần được phục hồi. Tuy là không thể như xưa nhưng ca trù vẫn được quan tâm bảo tồn và chưa bị biến mất trong đời sống. Trong các ngày giỗ tổ nghề ca trù (23/3) và ngày lễ hội ca trù (23/9), tiếng hát tiếng đàn của các Ca nương, kép đàn vẫn được vang lên hàng năm. Ngoài ra, ca trù Đông Môn còn được đem đi biểu diễn tại nhiều nơi như giao lưu với các câu lạc bộ, tham gia các cuộc công diễn, liên hoan… Tuy nhiên, bao nhiêu hoạt động đó dường như vẫn là chưa đủ để phục dựng lại diện mạo của Ca trù nơi đây, nơi ngày xưa đã từng là giáo phường của cả khu vực xứ Đông, nơi mà mọi thế hệ thành viên của các gia đình trong làng đều coi Ca trù như một nghề nghiệp truyền thống của cha ông. Vì thế, vấn đề đặt ra là phải cấp thiết khôi phục và bảo tồn ca trù Đông Môn nhưng không phải chỉ do một vài cá nhân mà phải được sự chung vai gánh vác của toàn xã hội.

Vì vậy, ngay từ bây giờ, chính quyền địa phương cần xây dựng các phương án bảo tồn cụ thể và định hướng khai thác ca trù trong hoạt động du lịch, nhằm giúp ca trù Đông Môn được phục hồi nhanh chóng và tạo ra một bước tiến mới trong sự phát triển của nền kinh tế huyện Thủy Nguyên nói chung và hoạt động du lịch của huyện nói riêng.

Ca trù đang được các tổ chức trong và ngoài nước biết đến. Có nhiều tổ chức đã cấp kinh phí cho ca trù hoạt động và phát triển như tổ chức UNESCO, quỹ FORD, và nhiều tổ chức khác nữa. Với mọi sự nỗ lực và cố gắng của toàn xã hội thì trong tương lai không xa, ca trù Đông Môn cũng như ca trù của cả nước sẽ được phục hồi và trở về đúng vị trí của nó./. Khóa luận: Giải pháp khai thác du lịch hiệu quả Ca trù Đông Môn.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Khóa luận: Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn – Thủy Nguyên

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x