Khóa luận: Phát triển du lịch văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Phát triển du lịch văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Tìm hiểu không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên. Thực trạng và giải pháp phục vụ phát triển du lịch ở địa phương dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này. 

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:

Trong thời đại ngày nay, du lịch không còn là một khái niệm xa lạ đối với người dân. Đời sống được nâng cao, nhu cầu cũng được nâng lên. Và một trong những nhu cầu không thể thiếu đó chính là du lịch. Du lịch giúp con người thoát khỏi những căng thẳng mệt mỏi của cuộc sống hàng ngày, đáp ứng được nhu cầu vui chơi giải trí, nâng cao sự hiểu biết và làm phong phú thêm đời sống tinh thần của con người.

Trong những năm gần đây, cũng giống như nhiều quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam coi du lịch là một ngành kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước. Tuy nhiên, để việc phát triển du lịch ngày một hiệu quả hơn nữa, cần phải tìm hiểu và khai thác những tiềm năng của đất nước. Một trong những tiềm năng quan trọng cho sự phát triển du lịch tại Việt Nam chính là hệ thống các di sản của Việt Nam đã được thế giới công nhận. Nằm trong số đó, phải nhắc đến “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên”- Kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.

Nhắc đến Tây Nguyên là nhắc đến vùng cao nguyên đầy nắng và gió, nhắc đến núi rừng hùng vĩ mà thơ mộng, nhắc đến tiếng chim, tiếng thú vang vọng cả đất trời. Tây Nguyên không chỉ đẹp về cảnh vật thiên nhiên, mà đặc biệt hơn là vẻ đẹp của con người, vẻ đẹp của cả một nền văn hóa lâu đời, đậm đà bản sắc dân tộc. Và không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là một trong số những vẻ đẹp đáng tự hào đó. Khóa luận: Phát triển du lịch văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên.

Theo PGS.TS Nguyễn Chí Bền đã từng nhận xét: Cồng chiêng chính là một trong những biểu tượng độc đáo của Tây Nguyên. Văn hóa cồng chiêng đã có thời kì phát triển rực rỡ và cũng có giai đoạn mai một. Tuy nhiên, với những giá trị to lớn, vượt qua nhiều thử thách, ngày 25 tháng 11 năm 2005, “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” đã được Unesco công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại. Đây vừa là niềm vui, vừa là niềm vinh dự hết sức lớn lao, nhưng đồng thời cũng là một trách nhiệm mà tổ chức UNESCO đã trao cho chúng ta, đó là: Phải bảo tồn và phát huy các giá trị của kiệt tác truyền miệng và di sản văn hóa phi vật thể này. Đây là công việc không chỉ riêng của Bộ văn hóa hay các cấp có thẩm quyền mà còn là trách nhiệm của mọi công dân Việt Nam. Tuy nhiên, để làm được việc đó thì chúng ta cần phải tìm hiểu, nghiên cứu và nói cho nhiều người hiểu biết hơn về không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên – một nét văn hóa đáng trân trọng của người Việt Nam nói riêng và của nhân loại nói chung.

Việc tìm hiểu, nghiên cứu không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên nhằm khơi dậy những giá trị văn hóa, nghệ thuật truyền thống của dân tộc, góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa của người Tây Nguyên nói riêng và của toàn dân tộc Việt Nam nói chung, nâng cao ý thức và lòng tự hào đối với di sản quý báu này.

Với tư cách là một sinh viên ngành văn hóa du lịch, việc tìm hiểu, nghiên cứu thực trạng của Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, từ đó đưa ra được một số giải pháp nhằm góp phần phục vụ cho việc phát triển du lịch của địa phương là một viêc làm hết sức cần thiết và hữu ích. Chính bởi vậy em đã chọn đề tài “Tìm hiểu không gian văn hóa cồng chiêng tây Nguyên. Thực trạng và giải pháp phục vụ phát triển du lịch ở địa phương” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp cử nhân ngành văn hóa du lịch của mình.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Du Lịch

2. Mục đích nghiên cứu:

Đề tài “Tìm hiểu không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. Thực trạng và giải pháp phục vụ phát triển ở địa phương” có mục đích chính là: Tìm hiểu, nghiên cứu về mảnh đất, con người, tập quán tín ngưỡng ở vùng văn hóa Tây Nguyên. Và vấn đề quan trọng hơn cả là tìm hiểu về đặc điểm cồng chiêng Tây Nguyên, lịch sử hình thành, phát triển và không gian văn hóa của cồng chiêng Tây Nguyên, để qua đó có định hướng bảo tồn, phát triển và đưa ra các giải pháp khai thác phục vụ phát triển du lịch ở địa phương.

3. Ý nghĩa của đề tài: Khóa luận: Phát triển du lịch văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên.

Đề tài có một ý nghĩa rất lớn, đó là không chỉ nhằm tôn vinh các giá trị của không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên – một biểu tượng độc đáo của Tây Nguyên, một kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể của thế giới mà còn nhằm bảo tồn, phát huy những giá trị cao quý này, đồng thời góp phần giáo dục truyền thống, giữ gìn bản sắc dân tộc không chỉ cho Tây Nguyên mà cho cả Việt Nam.

4. Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của khóa luận này chủ yếu là không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên mà bao gồm trong đó là các yếu tố như: loại hình cư trú, trang phục truyền thống, ẩm thực, phong tục tập quán, lễ hội, âm nhạc,… để qua đó có thể khai thác các yếu tố văn hóa này phục vụ cho hoạt động du lịch ở địa phương.

5. Phạm vi nghiên cứu:

  • Về mặt nội dung: Đề tài chủ yếu nghiên cứu các yếu tố văn hóa, đặc biệt là không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
  • Về không gian nghiên cứu: địa điểm nghiên cứu là khu vực Tây Nguyên, bao gồm 5 tỉnh KonTum, GiaLai, Đăklăc, Đăknông, Lâm Đồng.

6. Phương pháp nghiên cứu:

Để hoàn thành khóa luận này, em đã sử dụng các phương pháp sau:

  • Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu: Đây là phương pháp được sử dụng xuyên suốt và chủ yếu trong quá trình làm đề tài. Để có nguồn thông tin đầy đủ về không gian văn hóa công chiêng Tây Nguyên cùng các vấn đề có liên quan đến đề tài nghiên cứu, em đã tiến hành thu thập thông tin và các tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau như: các bài viết nghiên cứu của các giáo sư tiến sĩ, qua mạng internet, qua sách báo, qua hệ thống truyền thanh và truyền hình…Việc thu thập thông tin từ nhiều nguồn giúp ta có cái nhìn khái quát về vấn đề. Tiếp sau đó tiến hành nghiên cứu, xử lý, chọn lọc để có được những thông tin và tài liệu cần thiết.
  • Phương pháp tham vấn chuyên gia: Để thực hiện đề tài này, em đã tham khảo ý kiến của nhiều người trong nhiều lĩnh vực khác nhau trong ngành du lịch, văn hóa – xã hội, giảng viên giảng dạy, hướng dẫn nhằm đưa ra những đánh giá mang tính khoa học và chính xác cao nhất thông qua các bảng điều tra, các câu hỏi…
  • Phương pháp so sánh, đối chiếu
  • Phương pháp phân tích, tổng hợp.

7. Cấu trúc khóa luận : Khóa luận: Phát triển du lịch văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên.

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục thì phần nội dung chính của khóa luận được chia làm 3 chương:

  • Chương 1: Khái quát về không gian văn hóa Tây Nguyên
  • Chương 2: Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, lịch sử hình thành, phát triển và giá trị văn hóa nghệ thuật.
  • Chương 3: Một số giải pháp nhằm phục vụ phát triển du lịch ở địa phương.

CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ KHÔNG GIAN VĂN HÓA TÂY NGUYÊN

1.1.Giới thiệu chung:

Vùng Tây Nguyên, một thời gọi là Cao nguyên Trung phần Việt Nam, là khu vực cao nguyên bao gồm 5 tỉnh, xếp theo thứ tự vị trí địa lý từ bắc xuống nam gồm Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông và Lâm Đồng. Tây Nguyên là một tiểu vùng, cùng với vùng Duyên hải Nam Trung Bộ hợp thành vùng Nam Trung Bộ, thuộc Trung Bộ Việt Nam.

1.1.1. Vị trí địa lý – Điều kiện tự nhiên của Tây Nguyên:

  • Vị trí địa lý: Tây Nguyên bao gồm 5 tỉnh với vị trí địa lý như sau:

Tỉnh Kon Tum: Đây là tỉnh nằm ở phía Bắc cao nguyên Gia Lai – Kon Tum, một trong 3 cao nguyên lớn của Tây Nguyên. Kon Tum có chiều dài biên giới là 275km, tiếp giáp với hạ Lào và phía Bắc Campuchia. Về phía Tây và phía Bắc giáp với tỉnh Quảng Nam, phía Đông giáp tỉnh Quảng Ngãi, phía Nam giáp tỉnh Gia Lai.

Tỉnh Gia Lai: Đây là một tỉnh miền núi biên giới phía Bắc Tây Nguyên, trên độ cao 600-800m so với mặt nước biển. Phía Bắc Gia Lai giáp tỉnh Kon Tum, phía Nam giáp tỉnh Đăk Lăk, phía Tây giáp Campuchia với 90km đường biên giới quốc gia, phía Đông giáp tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên.

Tỉnh Đăk Lăk: Nằm trên cao nguyên Đăk Lăk, một trong 3 cao nguyên lớn của Tây Nguyên, có độ cao trung bình 400-800m so với mực nước biển. Phía Bắc và phía Đông Bắc giáp với Gia Lai, phía Nam giáp với Lâm Đồng, phía Tây giáp với Campuchia và tỉnh Đăk Nông, phía Đông giáp với Phú Yên và Khánh Hòa.

Tỉnh Đăk Nông: Tỉnh Đăk Nông nằm ở phía Tây Nam Trung Bộ, đoạn cuối của dãy Trường Sơn, trên một vùng cao nguyên, có độ cao trung bình 500m so với mực nước biển. Phía Bắc và Đông Bắc của tỉnh Đăk Nông giáp Đăk Lăk, phía Đông và Đông Nam giáp tỉnh Lâm Đồng, phía Nam giáp tỉnh Bình Phước, và phía Tây giáp nước bạn Campuchia.

Tỉnh Lâm Đồng: Lâm Đồng là tỉnh miền núi phía Nam Tây Nguyên có độ cao trung bình từ 800-1000 m so với mặt nước biển với diện tích tự nhiên 9.772,19 km2; địa hình tương đối phức tạp chủ yếu, là bình sơn nguyên, núi cao đồng thời cũng có những thung lũng nhỏ bằng phẳng đã tạo nên những yếu tố tự nhiên khác nhau về khí hậu, thổ nhưỡng, thực động vật … và những cảnh quan kỳ thú cho Lâm Đồng. Khóa luận: Phát triển du lịch văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên.

  • Phía đông giáp các tỉnh Khánh Hoà và Ninh Thuận
  • Phía tây nam giáp tỉnh Đồng Nai
  • Phía nam – đông nam giáp tỉnh Bình Thuận
  • Phía bắc giáp tỉnh Đắc Lắc
  • Tỉnh Lâm Đồng gồm hai cao nguyên: Lâm Viên và Di Linh..
  • Lâm Đồng nằm trên 3 cao nguyên và là khu vực đầu nguồn của 7 hệ thống sông lớn.

Điều kiện tự nhiên của Tây Nguyên:

Tây Nguyên là các cao nguyên xếp tầng với diện tích đất feralit hình thành trên đá badan chiếm diện tích 66% diện tích đất badan của cả nước. Vùng còn gần 3 triệu ha rừng, chiếm 21% sản lượng thủy năng của cả nước. Khoáng sản boxit với trữ lượng trên 3 tỉ tấn. Đặc biệt ở Tây Nguyên có khí hậu rất đặc biệt. Khí hậu Tây Nguyên chủ yếu là khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên, chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Riêng ở thành phố Đà Lạt (tỉnh Lâm Đồng) đã được các nhà khí hậu học gọi là “thành phố của mùa xuân” vì nhiệt độ trung bình cao nhất trong ngày là 240C và nhiệt độ trung bình trong ngày thấp nhất là 150C. Lượng mưa trung bình là 1755mm. Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau, mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 11, có nắng trong tất cả các mùa. Nhờ khí hậu đó mà ở đây có rất nhiều các loài hoa. Đến với Tây Nguyên, du khách có dịp đi tham quan nhiều thác nước đẹp, những hồ nước thơ mộng trên cao nguyên, các khu rừng nguyên sinh, các di tích lịch sử, các lễ hội độc đáo, ngắm nhìn cảnh sắc vừa nên thơ, vừa hùng vĩ của vùng đất đầy nắng và gió này.Và hơn thế nữa, du khách còn có dịp hòa mình vào một không gian văn hóa đậm chất Tây Nguyên.

1.1.2. Điều kiện dân cư của Tây Nguyên:

Ở Tây Nguyên tập trung hơn 20 dân tộc cùng sinh sống như: Việt (Kinh), Êđê, Nùng, M’Nông, Gia Rai, Bana, Cờ Ho, Mạ, Xơ Đăng, Giẻ Triêng,…Đây là các dân tộc chính ở Tây Nguyên.

Năm 1976, dân số Tây Nguyên là 1.225.000 người, gồm 18 dân tộc, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số là 853.820 người (chiếm 69,7% dân số). Năm 1993 dân số Tây Nguyên là 2.376.854 người, gồm 35 dân tộc, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số là 1.050.569 người (chiếm 44,2% dân số). Năm 2004 dân số Tây Nguyên là 4.668.142 người, gồm 46 dân tộc, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số là 1.181.337 người (chiếm 25,3% dân số) . Riêng tỉnh Đắc Lắc, từ 350.000 người (1995) tăng lên 1.776.331 người (1999), trong 4 năm tăng 485%. Kết quả này, một phần do gia tăng dân số tự nhiên và phần lớn do gia tăng cơ học: di dân đến Tây nguyên theo 2 luồng di dân kế hoạch và di dân tự do. Người dân tộc đang trở thành thiểu số trên chính quê hương của họ. Sự gia tăng gấp 4 lần dân số và nạn nghèo đói, kém phát triển và hủy diệt tài nguyên thiên nhiên (gần đây, mỗi năm vẫn có tới gần một nghìn héc-ta rừng tiếp tục bị phá ) đang là những vấn nạn tại Tây Nguyên và thường xuyên dẫn đến xung đột. Theo kết quả điều tra dân số 01/04/2009 dân số Tây Nguyên (gồm 05 tỉnh) là 5.107.437 người, như thế so với năm 1976 đã tăng 4,17 lần , chủ yếu lả tăng cơ học. Hiện nay, nếu tính cả những di dân tự do không đăng ký cư trú với cơ quan chính quyền ước lượng dân số Tây Nguyên thực tế vào khoảng 5,5 đến 6 triệu người. Khóa luận: Phát triển du lịch văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên.

Cho dù có khá nhiều các dân tộc cùng chung sống và mỗi dân tộc đều có những nét văn hóa riêng. Song tất cả các dân tộc đều có những điểm chung hòa đồng, cùng tồn tại và phát triển. Trải qua bao thăng trầm của cuộc sống, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên hầu như vẫn giữ được bản sắc văn hóa sơ nguyên của chính mình.

Đặc trưng lớn nhất của văn hóa các dân tộc nơi đây là các loại hình văn hóa luôn gắn kết với cộng đồng. Mỗi cá nhân đều chứng tỏ một khả năng sáng tạo văn hóa rất lớn. Cho đến nay họ vẫn còn lưu giữ nhiều loại hình văn hóa mang bản sắc riêng của từng dân tộc. Đó là nghệ thuật chế tạo và sử dụng nhạc khí, kho tàng văn học dân gian, điêu khắc và kiến trúc, các loại lễ hội, hệ thống phong tục tập quán,…đang là niềm say mê, lôi cuốn với các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước.

1.2. Bản sắc văn hóa Tây Nguyên:

Vùng văn hóa Tây Nguyên là nơi cư trú của rất nhiều đồng bào các dân tộc sinh sống. Qua năm tháng với nhiều thay đổi và biến động, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên vẫn giữ được bản sắc văn hóa riêng của dân tộc mình. Thể hiện ở các mặt sau:

1.2.1. Loại hình cư trú:

Loại hình cư trú của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên có thể kể đến các kiến trúc nhà tiêu biểu sau:

Nhà Rông: Nhà Rông được coi là biểu tượng văn hóa cộng đồng của các dân tộc Tây Nguyên.

Tương tự như ngôi đình làng Việt, nhà Rông là nơi diễn ra toàn bộ sinh hoạt cộng đồng của dân tộc thiểu số Tây Nguyên, là trụ sở của bộ máy quản trị buôn làng, nơi sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng, nhà khách… ; là nơi thể hiện các lễ hội tâm linh cộng đồng và là nơi các thế hệ nghệ nhân già truyền đạt lại cho thế hệ trẻ những giá trị văn hóa truyền thống …, nơi lưu giữ các hiện vật truyền thống: cồng, chiêng, trống, vũ khí, đầu các con vật hiến sinh trong các ngày lễ, và là nơi đứa trẻ, từ tấm bé đã được quây quần quanh bếp lửa nghe người già kể khan; nơi người lớn được tụ họp hằng đêm, nói cho nhau nghe chuyện của núi rừng…

Người Tây Nguyên quan niệm nhà Rông, tức nhà sàn là nơi khí thiêng của đất trời tụ lại để bảo trợ cho dân làng, vì thế trong mỗi nhà rông đều có một nơi thiêng liêng để thờ các vật thiêng, nhiều khi chỉ là một con dao, hòn đá, chiếc sừng trâu… Người ta thường đánh giá sự hùng mạnh trù phú của một làng Tây Nguyên qua nhà Rông. Nhà Rông chỉ gắn với làng, không có nhà Rông cấp tỉnh cấp huyện hoặc nhà rông liên làng, là bởi nó gắn với sinh hoạt và tín ngưỡng của một cộng đồng cư dân nhất định. Khóa luận: Phát triển du lịch văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên.

Nhà Rông Tây Nguyên không khác biệt nhiều so với nhà rông của các dân tộc thiểu số dải Trường Sơn. Nóc nhà có 2 mái, nơi chỏm đầu dốc có một đôi sừng. Quan sát thật kỹ mới thấy những chi tiết khác với nhà ở: Chạy dọc trên sóng nóc nhà là một dải trang trí đặc biệt. Sàn nhà thường được ghép bằng những tấm đan bằng tre lồ ô, nứa hoặc cây giang. Giữa nhà có một hàng lan can chạy dọc. Hàng lan can này chính là chỗ dựa của những ché rượu cần khi làng tổ chức lễ hội. Hoa văn trang trí trên vách có 2 màu đỏ và xanh. Người Bana thường sử dụng cặp sừng trâu, cây cột ở gian chính giữa được chạm khắc tinh vi (s’drang mặt nar-mặt Trời) sao tám cánh, hình thoi, chim, người… Đây là công trình kiến trúc và nghệ thuật tập thể của cả cộng đồng dân làng.

Nhà Rông thường dài khoảng 10m, rộng hơn 4m, cao 15-16m, nhưng có những ngôi chỉ cao 7-8m… Tính đa dạng trong kiến trúc của mỗi dân tộc ở Tây Nguyên còn là ở kết cấu của ngôi nhà. Nhà Rông của người Tây Nguyên không dùng đến sắt thép. Các chỗ nối, chắp đều được chặt, đẽo cẩn thận rồi dùng mây, lạt tre để buộc. Từng mối buộc của các dân tộc cũng khác nhau. Cầu thang lên nhà Rông, các dân tộc thường đẽo 7 đến 9 bậc. Trên đầu cầu thang của mỗi dân tộc khác nhau. Người Ba Na là hình ngọn cây rau dớn, người Ja Rai là hình quả bầu đựng nước, người Xê Đăng, Giẻ Triêng là hình núm chiêng hay mũi thuyền, có Nhà Rông trên nút đầu của cầu thang lại tạo dáng hình ngực thiếu nữ…Hai loại nhà Rông xuất hiện ở Tây Nguyên gồm nhà Rông trống (đực) và nhà Rông mái (cái).

Nổi bật trong trang trí nhà Rông là hình ảnh thần mặt trời chói sáng. Nhà Rông càng to đẹp thì càng chứng tỏ buôn làng giàu có, mạnh mẽ.

Nhà Rông là một thiết chế văn hóa tiêu biểu, độc đáo có ý nghĩa quan trọng trong văn hóa tinh thần, trong đời sống xã hội và trong tín ngưỡng, tâm linh của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Nó là một di sản quí cho hôm nay và mai sau.

  • Nhà Dài: Khóa luận: Phát triển du lịch văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên.

Có kết cấu kiểu nhà sàn thấp, dài thường từ 15m đến hơn 100m tùy theo gia đình nhiều người hay ít người. Nó là ngôi nhà lớn của nhiều thế hệ sống chung như một đại gia đình và là nét đặc trưng của chế độ mẫu hệ.

Đặc điểm chính là thưòng rất dài vì là nơi ở chung có khi của cả một dòng họ và thường xuyên được nối dài thêm mỗi khi một thành viên nữ trong gia đình xây dựng gia thất. Nhà dài truyền thống thường được xây dựng bằng vật liệu gỗ, tre, nứa lợp mái tranh. Nhà có kết cấu cột kèo bằng gỗ tốt có sức chịu đựng dãi dầu cùng năm tháng.

Nhà dài theo hướng Bắc Nam. Chỗ ngủ được ngăn đơn giản bằng những thành tre làm nhiều ngăn. Ngăn đầu tiên là ngăn của vợ chồng chủ nhà, tiếp theo là ngăn người con gái chưa lấy chồng, sau đó đến các ngăn của vợ chống những người con gái đã lấy chồng, cuối cùng là ngăn dành cho khách.

Nhà sàn: Mỗi một dân tộc ở Tây Nguyên có một kiểu kiến trúc nhà sàn riêng, nhưng chủ yếu là 2 kiểu nhà sàn chính: hình vuông và hình chữ nhật. Sàn nhà cách mặt đất 1,5 đến 2 thước, dựa trên những cột gỗ và trụ vững chắc. Dưới sàn nuôi gia súc và cũng là chỗ chứa củi và các dụng cụ lặt vặt hay vài cái quan tài làm sẵn dành để chôn người chết. Nhà sàn cổ có phong cách kiến trúc Lào, hai đầu hồi mái nhọn thon vút ba gian, có thể tháo rời ra từng chi tiết. Nét độc đáo của ngôi nhà là được làm toàn bằng gỗ từ mái, vách cột, kèo đến đinh vít, chốt…

1.2.2. Trang phục truyền thống:

Về trang phục truyền thống của người Tây Nguyên, cả nam giới và phụ nữ đều có những trang phục hết độc đáo và mang đặc trưng riêng.

Trang phục phụ nữ Tây Nguyên rất đẹp vì có nhiều hoa văn và làm nổi bật đường nét kín đáo của cơ thể người phụ nữ.

Với váy của phụ nữ Tây Nguyên mặc trong ngày hội:Váy của người phụ nữ thường là 2 khổ vải. Khổ vải rộng hay hẹp tùy theo cách dệt của từng người. Các khổ vải thường rộng từ 45-60cm. Khi mặc gấu váy gần mắt cá chân. Váy là một mảnh chăn quấn được một vòng rưỡi quanh thân, khi đi chân bước vừa độ không bị lộ ra ngoài. Váy thường được trang trí chủ yếu ở mép trên và ở gấu. Toàn bộ váy chàm sẫm hay đen, phần trang trí ở gấu thường chỉ từ 10-12cm, có chia làm nhiều rạng: rạng thứ nhất nhỏ gồm các đường chỉ màu xanh lá cây, đen, vàng và đỏ. Rạng thứ hai có nhiều rạng nhỏ (rạng này rộng xấp xỉ 8cm hay hơn) gồm các dải trang trí dọc đứng và hai hoặc ba dải hoa. Rạng thứ ba lặp lại hình thức rạng thứ nhất. Cách thức này áp dụng nhưng còn tùy theo tính cách của từng người. Thân váy có vài đường chỉ màu sọc ngang. Cáp váy không được lặp lại theo hình thức ở gấu mà chỉ trang trí có một đường chỉ nhiều màu, ở mép trên thường có tua ngắn với một đường hạt đứng trụ nhỏ, viền cho hàng hoa văn hình kỷ hà hay dây leo tay mướp. Khóa luận: Phát triển du lịch văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên.

Hoa văn trang trí trên váy cũng phổ biến chủ yếu tập trung vào các hình tam giác đều đỏ trắng xếp xen nhau tạo thành các lớp răng cưa, các hoa tám cánh, các ô trám đơn, các ô trám lồng, đường dích dắc kỷ hà, các cánh tay thần cách điệu.

Áo phụ nữ được làm bằng một khổ vải may sợi ngang mặc theo lối chui, áo ngắn vừa chấm tới cạp nên được một khổ vải khoảng 50cm. Với lối may theo sợi ngang như váy, cho nên trang trí trên áo thường được thể hiện ở gấu và cổ áo, ở cổ tay và cánh tay sát vai. Trang trí trên áo thường đơn giản hơn váy, bằng những rạng nhỏ và nổi bật lên là màu đỏ điểm xuyết màu trắng, các hoa văn cũng tương tự như trên váy nhưng ít hơn.

Có lẽ nét đặc sắc nhất của dân tộc Tây Nguyên là ở trang phục nam giới. Họ đóng khố, mặc áo, quấn khăn có cài lông chim quý nhiều màu. Đó là cả một công trình dệt và thêu và là cả một nghệ thuật trang trí phục sức. Ngoài các phần để che, khố áo có vạt trước, vạt sau và những hoa văn, diềm khố có tua bông và dài gần đến giữa ống chân. Vạt trước dài, vạt sau ngắn xúng xính theo nhịp chân đi, làm tôn lên rất nhiều cái phần cơ thể rắn chắc, khỏe mạnh của người đàn ông. Nếu trời lạnh, họ khoác thêm một tấm vải choàng rộng trên cổ, buông xuống tận đầu gối, mở ra trước ngực. Ngày nay nhiều thanh niên vẫn thích mặc khố, có điều họ mặc thêm bên trong khố một cái quần nịt màu da người.

Trong những dịp hội hè, hầu hết đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên đều có một loại lễ phục đặc biệt. Họ quấn thêm hai dải vải màu sặc sỡ chéo nhau trên ngực, đầu vắn khăn cắm nhiều lông chim, lá, hoa,…Cổ đeo rất nhiều chuỗi hạt cườm, nhiều vòng đồng, vàng, bạc,…

1.2.3. Ẩm thực:

Ngày thường, đồng bào Tây Nguyên ăn cơm tẻ với thức ăn nấu từ các loại rau rừng, mộc nhĩ, các loại củ, măng le,…Đôi khi kiếm được con cá dưới sông, con thú từ trong rừng để cải thiện thêm bữa ăn. Còn các loại gia súc, gia cầm nhà nào cũng có. Họ nuôi bằng cách thả rông vào rừng, ra bờ sông, bờ suối, và chỉ làm thịt để dùng vào việc cúng tế thần linh hay để thiết đãi khách quý đến nhà thăm làng.

Vào các ngày lễ tết, cơm nếp được thay cho cơm tẻ và được nấu theo cách thức của tổ tiên. Đó là cơm lam. Họ vào rừng chặt những ống lồ ô còn non, giữ lại mấu ở một đầu ống rồi cho gạo nếp và nước vào, xong nút lại đem đốt bằng lửa và than cho thật khéo. Thịt là thực phẩm chủ yếu trong các món ăn ngày tết của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Người Tây Nguyên làm lông con vật bằng cách thui đốt. Họ không chế biến được các món ăn đặc biệt như ở miền xuôi. Đáng chú ý là món nướng và làm món như tiết canh, nem sống ở dạng thô sơ. Các món ăn này dùng để khoản đãi hay để dâng cúng thần linh.

Có thể kể tên một số món ăn đặc trưng của đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên như: cà đắng, măng chua, cá lăng nướng than hồng, cơm lam, gà nướng, cá chua,…

Đồ uống đặc trưng nhất của đồng bào dân tộc Tây Nguyên là rượu cần. Không một dịp lễ quan trọng nào hay một dịp vui nào của đồng bào dân tộc Tây Nguyên lại thiếu rượu cần. Nó làm cho không khí của buổi lễ như thiêng liêng hơn, làm cho ngày hội thêm vui hơn, khiến cho con người thêm đoàn kết gắn bó với nhau hơn.

Các dân tộc rất hiếu khách, họ đốt bếp ngay giữa chính nhà. Bất kì khách lạ hay quen cũng được chủ nhân mời ngồi bên bếp lửa, mời hút thuốc và uống rượu cần, cùng trò chuyện.

1.2.4. Phong tục tập quán: Khóa luận: Phát triển du lịch văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên.

Cũng giống như nhiều đồng bào các dân tộc trên đất nước ta, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên cũng có rất nhiều những phong tục tập quán đặc trưng riêng của dân tộc mình;

1.2.4.1. Tục cà răng căng tai:

Theo quan niệm của các dân tộc Tây Nguyên, việc cà răng căng tai là để gái trai đến tuổi cập kê tiến đến hôn nhân một cách thuận lợi. Theo phong tục của đồng bào Tây Nguyên, một người đẹp không phải là có hàm răng đều đặn, trắng ngà mà là hàm răng phải được mài nhẵn cho đến tận lợi. Thông thường họ chỉ làm cụt ở hàm trên thôi, còn hàm dưới không cần mài cả hàm mà chỉ mài bốn hay sáu cái là đủ.

Thanh, thiếu niên Tây Nguyên, dù là dân tộc Ba Na, Xơ Đăng, Mơ Nông, Ê Đê, Gia Rai, Kơ Hơ… từ khoảng 14, 15 tuổi đều phải cưa răng. Việc cưa, cà răng là để chứng tỏ cho mọi người trong buôn làng biết là người con trai hay con gái đó đã trưởng thành, vừa là để biểu lộ lòng can đảm, chịu đựng mọi gian khổ ở đời. Cô cậu nào lớn mà còn để răng dài sẽ là một đề tài cho chúng bạn đàm tiếu, châm chọc. Cho nên, đã biết việc cà răng là một cực hình, rất đớn đau, khổ sở nhưng vẫn chấp nhận, vẫn xin làng cho được cà răng để hội nhập vào xã hội buôn làng và được mọi người công nhận là đẹp, là đã trưởng thành.

Người ta cưa răng bằng một lưỡi cưa nhỏ rất bén. Cưa xong họ lấy đá mài cho nhẵn thín. Có khi không có cưa họ chỉ dùng viên đá núi sắc cạnh mà mài dần dần. Chỉ cần mài 6 cái răng cửa ở hàm trên là đủ! Tuy nhiên, ở mỗi dân tộc có sự thay đổi chút ít. Chẳng hạn, người Xơ Đăng ở Kontum và người Ba Na ở Gia Lai thường cà hết 6 chiếc răng cửa, còn người Gia Rai chỉ mài có 4 răng. Khóa luận: Phát triển du lịch văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên.

Khi một chàng trai hay cô gái lấy đủ can đảm và quyết định cưa răng thì họ sẽ chọn ngày lành tháng tốt để xin già làng đứng ra coi sóc việc này. Muốn cho mọi việc trôi chảy, an toàn, gia chủ phải nhờ thầy mo làm lễ cúng Dàng.

Ngày nay, tục cà răng ở một số đồng bào vẫn còn, nhưng vì sống gần gũi với người Việt, đồng bào đã bỏ dần một số phong tục có hại đó. Đồng bào nhiều nơi đã biết cà răng là không đẹp, họ làm những chiếc răng để thế vào hàm răng mài nhẵn hồi trước. Song song với cà răng, người Tây Nguyên còn làm đẹp bằng cách căng tai. Họ quan niệm rằng, lỗ tai càng căng rộng càng được người bạn tình ưa thích và dễ có người yêu. Ban đầu, người ta chỉ dùi vào dái tai một lỗ nhỏ xíu rồi luồn vào đó một cọng tre hay một thẻ gỗ nhỏ. Thế rồi mỗi ngày, họ lại thay dần vào lỗ thủng đó một cọng tre lớn hơn, cứ thế, lỗ ở dái tai cứ rộng dần. Đến tuổi trưởng thành, lỗ thủng đó có thể xuyên qua một khúc ngà. Người giàu thì đeo ngà voi, còn người nghèo thì chỉ đeo khúc cây hoặc đeo đôi bông ngà voi giả làm bằng củ sắn phơi khô.Khuyên tai của người Cơtu thường được làm bằng đồng và nhiều chất liệu khác như tre, nứa, gỗ… Theo quan niệm của đồng bào, lỗ tai to, rộng, trái tai dài thì mới được coi là đẹp.

1.2.4.2. Tục đeo vòng ở người Gia Rai:

Theo tục lệ, khi đứa trẻ đầy năm thì cha mẹ làm lễ đeo vòng cho nó. Thường thì làm thịt một con gà để cúng thầy. Người thầy cúng dùng dao khắc một vòng nhỏ trên chiếc vòng đeo cho đứa trẻ. Năm sau họ lại khắc lên một vòng nữa. Cứ mỗi năm lại khắc một vòng cho đến khi con trai hay con gái được 20 tuổi thì họ sẽ làm lễ lớn. Gia đình nào giáu có thì giết trâu, giết heo, nghèo thì làm gà để cúng thầy. Từ đó người con không còn nhỏ nữa mà đã thành thanh niên. Và cũng từ đó chấm dứt việc khắc dấu trên vòng đồng. Mỗi khi đi đâu xa mà bị bệnh bất ngờ, họ lấy lễ vật cúng thần linh rồi dùng dao khắc một vạch trên vòng đeo tay để cầu mong thần linh phù hộ cho chóng khỏi bệnh.

1.2.4.3. Tục cưới xin:

Các thiếu nữ người Giẻ Triêng đến tuổi lấy chồng được cha mẹ làm cho những cái lều xung quanh làng làm nơi hẹn hò. Khi ưng ý người bạn trai nào đó, nàng mời chàng tối đến, ở cùng. Sau nǎm đêm tâm sự nếu chàng trai chưa thổ lộ tình cảm, thì phải nộp phạt cho nhà gái một con gà và một ché rượu. Thông thường, sau khi hai bên trai gái đồng ý, họ thưa với cha mẹ nhờ người mối đi hỏi. Qua ông mối, các thiếu nữ Gia rai và Ê đê nhắn ngỏ tình cảm và đưa tặng người yêu chiếc vòng tay. Nếu người bạn trai nhận vòng, hôn lễ sẽ được tiến hành. Trong lễ hỏi của người M’nông, người mối đem hai ống lồ ô trong đựng mǎng chua và da trâu thái nhỏ sang nhà gái cầu hôn. Nếu nhà gái đồng ý thì nhận hai ống lồ ô làm vật giao ước. Nếu việc cầu hôn bị từ chối, ông mối mang bát gạo do nhà gái đưa cho để báo lại việc từ hôn. Khóa luận: Phát triển du lịch văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên.

Sau lễ ǎn hỏi, người Êđê thường có tục “gửi dâu”, họ hàng nhà gái dẫn cháu gái đến nhà chồng chưa cưới ở như con trong gia đình. Thời gian “gửi dâu” càng lâu thì sính lễ nhà gái phải nộp cho nhà trai càng giảm.

Đám cưới thường được tổ chức vào cuối nǎm, lúc rỗi rãi và no đủ. Lễ cưới của người M’nông mở đầu bằng việc nhà gái mang biếu họ hàng nhà trai mỗi người một bát gạo đầy. Mỗi bát gạo này sẽ tương ứng với một cái ché mà nhà trai phải tặng lại nhà gái. Hôm cưới, hai người làm chứng đại diện cho hai họ xúc cho cặp tân hôn mỗi người ba miếng cơm và ngược lại, đôi tân hôn cũng xúc trả lại cho hai người làm chứng ǎn.

Sau đó đôi vợ chồng mới cưới uống rượu chung trước tiên để mở đầu cho bữa tiệc kéo dài vài ba ngày. Sau khi cưới phải cữ 7 ngày, đôi tân hôn tránh gặp người lạ và không ra khỏi nhà.

Lễ đính ước của người Gia rai được tổ chức qua bữa tiệc rượu cần ở nhà gái. Hôm đó, đôi trai gái cùng vít cần rượu uống chung. Sau đấy trao đổi vòng đeo tay cho nhau biểu hiện sự cam kết thuỷ chung. Tiếp theo là “đoán số phận qua giấc mơ lành, dữ”. Trong đêm tân hôn, nếu đôi vợ chồng thấy giấc mơ xấu thì lập tức phải đến nhờ ông mối cầu thần linh cho chung sống trong một nǎm để hoãn mộng. Đúng vào hẹn đó, nếu vợ chồng vẫn gặp mộng xấu, có thể phải bỏ nhau. Trong đám cưới của người Cà dong có tổ chức lễ ǎn thề không bỏ nhau của đôi vợ chồng. Hai vợ chồng trao cho nhau 9 miếng trầu, 9 miếng cau, ý chúc nhau sức khỏe và xum họp mãi mãi. Tiếp đó chồng trao cho vợ chuỗi cườm, và ngược lại, vợ trao cho chồng vòng đồng. Cặp vợ chồng trẻ còn lấy cơm nắm bôi lên đầu nhau, muốn hồn hai người nhập vào nhau, và bôi máu gà lên trán, ý muốn xua đuổi hồn dữ ra khỏi thể xác.

Với người Mạ, hôm cưới người ta phủ một cái chǎn lớn thêu đẹp lên đôi trai gái không mặc quần áo và cụng đầu hai người vào nhau bảy lần. Sau một lúc tượng trưng cho thời gian của một đêm hoa chúc, hai người thức dậy, lấy một bát thịt gà, rượu và vòng đeo tay. Chồng đeo vòng cho vợ và ngược lại. Vợ chồng uống chung rượu và cùng ǎn thịt gà. Sau một thời gian, nhà gái mang củi sang nhà trai để làm “lễ củi”. Số lượng gùi củi tương ứng với số khǎn mà nhà gái tặng họ nhà trai. Người Giẻ Triêng quan niệm lễ cưới được tổ chức bất ngờ bao nhiêu thì đôi vợ chồng trẻ càng hạnh phúc bấy nhiêu. Hôm cưới, người ta làm lễ hợp cẩn, đôi trai gái trao nắm cơm với ít gan gà cho nhau ǎn, tiếp đó uống rượu chung. Có nơi, trong buổi lễ này, người ta đánh chiêng tập hợp dân làng, bắt đôi nam nữ nằm trên chõng tre để giữa nhà, cùng đắp chung tấm chǎn. Lại có nơi, người chủ trì buổi lễ dứt mấy sợi tóc của đôi trai gái bỏ lẫn lên đầu nhau với ngụ ý hợp hai hồn của họ làm một.

Trong đám cưới của người Ê đê có tục “té nước” vào chú rể như tục “mở cửa nhà” ở người Thái. Khi rước rể về nhà vợ, bạn bè của chàng rể chạy trước đón đường té nước vào người cô dâu chú rể, mỗi lần như vậy nhà gái phải nộp cho họ một số lễ vật. Người Ê đê cho rằng đám cưới nào có nhiều người chặn đường té nước thì đôi trai gái sau này cuộc sống sẽ hạnh phúc và khi chết sẽ có nhiều người thương, kẻ khóc. Khóa luận: Phát triển du lịch văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên.

Sau ngày cưới, chồng ở nhà vợ (Gia rai, M’nông, Ê đê, Cơ ho), hoặc ở nhà chồng (Mạ), hoặc luân phiên ở nhà chồng từ ba đến nǎm nǎm rồi lại chuyển sang ở nhà vợ bằng thời gian ấy (Xơ đǎng, Ba na, Giê Tnêng).

1.2.4.4. Tục sinh đẻ:

Một số dân tộc Tây Nguyên có tục sinh đẻ ở ngoài rừng. Khi gần đến ngày sinh nở, người phụ nữ phải vào rừng để sinh con . Chồng làm cho vợ một chiếc lều tạm trong những ngày sinh nở mà dân làng chưa cho phép về nhà. Sau khi sinh được 10 ngày, mẹ đưa con về. Gia đình tổ chức lễ Viên chính thức công nhận đứa trẻ vào cộng đồng.

Tuy nhiên, tục sinh đẻ của một số đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên vẫn tồn tại những hủ tục. Người dân tộc M’Nông có tập tục đẻ ngồi, nhiều đứa trẻ sinh ra, đầu đã đụng xuống đất. Mỗi gia đình có một bộ “đồ nghề” cắt rốn gia truyền gồm một con dao và một cái ché từ đời này qua đời khác”. Người dân tộc Chơ Ro cho hay: “Từ xa xưa, khi phụ nữ sinh đẻ thì nhờ bà mụ vườn đến đỡ. Bà mụ lấy khúc cây dài khoảng hai gang tay to như cái bắp chân quấn cái rốn em bé lại rồi lấy dao sinh hoạt trong nhà cắt dây rốn quấn quanh khúc gỗ, sau đó lấy sợi dây buộc rốn em bé lại. Sản phụ và cả em bé nằm cạnh một đống lửa to đốt ở giữa nhà. Người mẹ chỉ ăn cơm với muối hột to như ngón tay cái và bốc bằng tay. Sợ nhất là những đứa trẻ mới sinh ra đều phải cho lên suối tắm vào lúc 5 giờ sáng, mùa nóng còn đỡ, mùa mưa lạnh thì không những nhiều đứa trẻ bị tử vong mà cả sản phụ cũng kiệt sức sau cuộc vượt cạn.

Một số trường hợp người mẹ bị chết sau khi sinh thì những đứa con xấu số cũng bị chôn theo.

Người Dao Đỏ trước đây cấm bà đẻ không được ăn rau quả, xương động vật, em bé khi sinh ra được cắt rốn bằng những cái nan nứa sắc hay cây vót nhọn, rốn trẻ thì buộc bằng chỉ. Người M’Nông thì quan niệm, trẻ sinh ra phải để nguyên dãi nhớt, tắm nước lạnh, để trần cúng thần linh.

1.2.5. Lễ hội:

Vùng văn hóa Tây Nguyên là vùng văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, nên có thể khẳng định đây là nơi diễn ra rất nhiều lễ hội truyền thống tiêu biểu mang đậm bản sắc riêng của các dân tộc ở 5 tỉnh Tây Nguyên như: Lễ bỏ mả (lễ Pơ thi), lễ đâm trâu, lễ cúng đất làng, lễ mừng lúa mới, hội đua voi, hội xuân,…

1.2.5.1. Lễ bỏ mả ( lễ Pơ thi): Khóa luận: Phát triển du lịch văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên.

Dân tộc Gia Rai và một số dân tộc khác ở Tây Nguyên như Bana, Êđê,… không có tục thờ tổ tiên. Thương tiếc người chết, họ chỉ giữ gìn mồ mả một thời gian, sau đó sẽ tiễn đưa vĩnh viễn người chết bằng lễ bỏ mả. Lễ được tiến hành vài ba năm sau khi người thân qua đời. Đây là lần cuối cùng để tiễn đưa người chết về thế giới bên kia và là phần quan trọng nhất trong tang lễ. Lễ bỏ mả được tổ chức rất trọng thể từ 2 đến 5 ngày tại nghĩa địa, xung quanh nhà mồ vào sau mùa thu hoạch, lúc có trăng sáng.

Đặc sắc hơn cả là lễ bỏ mả của người Gia Rai. Trong dịp này, người già cũng như người trẻ ra múa hát xung quanh nhà mồ theo nhịp chiêng và cùng nhau ăn uống. Sau lễ này, những người thân trong gia đình của người chết được giải phóng. Đây là một lễ nghi không thể thiếu trong đời sống tinh thần của đồng bào Gia Rai, Bana, Êđê,…

Như vậy, có thể nói lễ bỏ mả là một lễ hội không chỉ mang tính nghệ thuật cao mà còn đầy chất nhân văn: tái sinh cho người chết và giải phóng cho người sống. Chất nhân văn còn được thể hiện rất linh động trong những trường hợp, do chôn chung nên phải sau nhiều năm mới làm lễ bỏ mả được (chủ yếu ở người Gia Rai). Trong những trường hợp này, theo phong tục, từng gia đình vẫn có thể làm lễ bỏ mả riêng (lễ bỏ mả nhỏ) trước khi có lễ bỏ mả chung để được giải phóng khỏi mọi ràng buộc với người chết.

1.2.5.2. Lễ ăn trâu ( lễ đâm trâu):

Lễ đâm trâu rất phổ biến ở nhiều dân tộc Tây Nguyên và là một sinh hoạt văn hoá dân gian nổi bật nhất, mang tính tổng hợp cao. Nhiều loại hình nghệ thuật dân gian được huy động tham gia vào lễ hội như: âm nhạc, cồng chiêng, múa hát, múa kiếm, nghệ thuật tạo hình.

Lễ đâm trâu được tổ chức vào dịp mừng chiến thắng, mừng được mùa của cộng đồng, khánh thành nhà rông, lễ cầu an, mừng năm mới, lễ phá điềm xấu, điềm gở cho cả buôn làng… Cũng có khi chỉ do một gia đình trong bản đứng ra tổ chức để tạ ơn thần nhưng tham gia vào lễ hội là cả cộng đồng.

1.2.5.3. Lễ cơm mới:

Năm nào cũng thế, cứ sau khi thu hoạch mùa màng, người Tây Nguyên lại tổ chức lễ ăn cơm mới. Ý nghĩa của lễ hội này chủ yếu để tạ ơn thần linh (Yang), đặc biệt là thần lúa. Đây cũng là dịp để bà con cùng nhau họp mặt, chung vui với nhau sau một mùa làm rẫy vất vả, nhọc nhằn nhưng đạt kết quả tốt

Điều đặc biệt, mùa thu hoạch lúa của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, cũng trùng với dịp cuối năm âm lịch. Cách thức tổ chức của bà con: không diễn ra đồng loạt mà tuần tự từ nhà này sang nhà khác. Việc tổ chức lễ ăn mừng lớn hay nhỏ tuỳ thuộc vào vụ thu hoạch (nhiều hay ít) của từng gia đình; cũng tuỳ theo đó mà thời gian có thể kéo dài một hay nhiều ngày. Đây cũng là dịp gia chủ mời bà con, họ hàng, bạn bè các buôn lân cận cùng vui chơi, ăn uống. Nhà nào có đông khách coi như là niềm vinh dự. Vì thế, ngoài việc cúng thần, hồn lúa và tổ tiên cùng với việc cầu mong sức khoẻ cho gia đình, người ta đánh cồng, chiêng, trống, vui chơi ca hát suốt nhiều ngày đêm liền. Lễ ăn cơm mới kéo dài, suốt tháng chạp sang tháng giêng – nó được ví như Tết nguyên đán của người Kinh. Khóa luận: Phát triển du lịch văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên.

1.2.5.4. Lễ cúng đất làng:

Lễ cúng đất làng là lễ hội của người Ba Na sống ở Kon Tum và Gia Lai. Dân làng Ba Na làm lễ cúng đất làng vào cuối tháng 2 đầu tháng 3 âm lịch khi chuẩn bị vào vụ sản xuất hoặc khi dọn đến vùng đất mới.

Trước hôm dựng làng đồng bào Ba Na làm lễ kéo dài 2 ngày. Họ khấn các thần linh phù hộ cho công việc làm ăn thuận lợi, và thông báo cho thần linh biết công việc làm ăn trong năm mới.

1.2.5.5. Lễ cúng lúa của người M’nông:

Lễ cúng lúa là một nghi lễ truyên thống, thiêng liêng của người đồng bào dân tộc M’Nông, Tây Nguyên. Được xem là không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người M’Nông. Lễ cúng lúa được tổ chức ba lần trong một năm, xuất phát từ tín ngưỡng thờ thần mẹ lúa. Phản ánh ước mơ về một cuộc sống đủ ăn, đủ mặc, xua đi cái nghèo cái đói.

Theo truyền thuyết xưa, đây là vị thần bảo vệ mùa màng được bà con M’Nông đặc biệt tôn sùng, thành kính. Khởi đầu là lễ xuống lúa (BưBraBa lần 1) hay còn gọi là lễ khia mùa. Chuẩn bị cho ngày gieo tỉa, từ đầu tháng ba đến hết tháng tư, bà con trong buôn làng đều chuẩn bị lễ cúng: 1 ché rượu cần, 1 cặp gà trống. Người chủ gia đình thành tâm khẩn cầu Giàng (thần) cho cây cối xanh tươi nảy nở, mưa thuận gió hòa. Sang đến tháng năm, tháng sáu bà con lại tổ chức lễ mừng cây lúa sắp trổ bông. Giữa tháng mười hai là lúc thu hoạch, buôn làng lại tổ chức lễ đón mừng hạt lúa trên rẫy sắp về nhà. Nhà nào cũng chuẩn bị hai, ba ché rượu cần, nấu xôi nếp, thổi cơm mới, rồi cùng nhau quây quần bên đống lửa, uống rượu cần, nghe già làng kể chuyện.

1.2.5.6. Lễ lớn khôn ( lễ Mpú):

Trong vòng đời của người Ê Đê, từ cậu bé trở thành chàng trai, thành người đàn ông biết gánh vác mọi công việc của buôn làng, nhất định phải thực hiện một lễ thức trọng đại, đó là Lễ khôn lớn hay Lễ trưởng thành, tiếng Ê Đê gọi là lễ MPú.

Lễ được tiến hành khi chàng trai Êđê đã biết dùng rìu đẵn gỗ, ngã cây dùng rựa phát rẫy trồng lúa, lại biết cầm khiên múa kiếm, giương nỏ bắn gục con thú hoang dại của rừng về phá hoại nương rẫy, và cao hơn nữa là biết phóng lao đâm chết cả hổ, heo rừng.

Lễ kéo dài hai ngày hai đêm để xác nhận chàng trai Êđê đã đến tuổi trưởng thành. Lễ tổ chức ở các suối nước, trên đường và tại nhà của chàng trai.

Nhiều nghi lễ dân tộc được tiến hành cùng với sinh hoạt văn hóa kể chuyện dân gian.

1.2.5.7. Hội đua voi ở Buôn Đôn: Khóa luận: Phát triển du lịch văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên.

Hội đua voi thường được tổ chức hàng năm vào tháng 3 âm lịch tại Buôn Đôn hoặc cánh rừng thưa ven sông Sêrêpốk (Đắk Lắk).

Ngày hội đua voi ở Tây Nguyên phản ánh tinh thần thượng võ của người M’Nông, một dân tộc giàu đức tính dũng cảm, có kinh nghiệm trong những cuộc săn bắt voi rừng.

Bãi đua là một dải đất tương đối bằng phẳng (thường là khu rừng ít cây to) đủ để 10 con voi giăng hàng đi cùng một lúc, bề dài từ 1-2km.

Một hồi tù và rúc lên, theo lệnh điều khiển, từng tốp voi đứng vào vị trí xuất phát. Khi có lệnh xuất phát thì những chu voi bật lên như chiếc lò xo, phóng về phía trước, tiếng chiêng, trống, tiếng hò reo cổ vũ ầm vang cả núi rừng.

Cuộc đua kết thúc, những chú voi được giải, giơ cao chiếc vòi vẫy chào mọi người rồi ngoan ngoãn bước đi ung dung, đôi tai phe phẩy, mắt lim dim đón nhận những ống đường hoặc khúc mía của những người dự hội.

Ngày hội đua voi là ngày vui lớn ở Tây Nguyên, nó phản ánh tinh thần thượng võ của người M’Nông, một dân tộc giàu đức tính dũng cảm, từng đối mặt với những tình huống hiểm nguy, căng thẳng trong những cuộc săn bắt voi rừng. Khung cảnh hùng vĩ của thiên nhiên Tây Nguyên – nơi diễn ra cuộc đua voi đặc sắc đã làm tăng lên bội phần chất hùng tráng trong ngày hội cổ truyền của họ.

1.2.5.8. Hội xuân:

Hội kéo dài chừng 2 đến 3 tháng, từ ngày đưa lúa vào kho đến ngày sấm ran đầu mùa. Đó là thời gian tạm dừng việc sản xuất để tham gia hội hè, thăm bạn bè… Buôn làng được sửa sang khang trang. Buôn sóc nọ nối tiếp buôn sóc kia, mở hội đâm trâu. Đâm trâu cúng thần làng, đâm trâu xin thần phù hộ cho từng sóc, đâm trâu nhân lễ bỏ mả để hồn trâu theo người đã khuất về thế giới bên kia. Du khách có dịp hòa mình vào không khí hội hè, với những trò vui, diễn lại tích xưa từ thời Đông Sơn, được tham dự những điệu múa lời ca quyện với tiếng cồng chiêng hào hùng của những cư dân nơi miền núi. Người dân Tây Nguyên rất hiếu khách, đón tiếp ân cần, nồng hậu, đầy tình thân ái. Hội kéo dài từ tháng 10, tháng 11 đến tháng giêng, tháng 2 âm lịch.

1.2.6. Âm nhạc: Khóa luận: Phát triển du lịch văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên.

Trải qua quá trình vật lộn với thiên nhiên để tồn tại, các cư dân ở Tây Nguyên đã sáng tạo ra nhiều loại nhạc khí phục vụ cuộc sống. Bên cạnh việc sáng chế là việc du nhập những loại nhạc cụ mà họ chưa có điều kiện để làm ra. Tùy theo chức năng và phong tục, họ cải tiến dần cho phù hợp.

Cho đến nay, các dân tộc ở Tây Nguyên còn bảo lưu được một kho tàng nhạc khí rất phong phú, đa dạng cả về chất liệu chế tạo và phương pháp sử dụng. Nhạc khí của cư dân nơi đây còn thấy chủ yếu là 3 loại chính sau đây:

1.2.6.1. Loại nhạc khí có chất liệu thiên nhiên:

Loại này được chế tác hoàn toàn bằng chất liệu thiên nhiên như: Tre, nứa, gỗ, đá, vỏ bầu, dây rừng, sừng trâu, bò…Các loại nhạc khí được chế tác bằng chất liệu của thiên nhiên chắc chắn đã có lịch sử lâu đời, bởi khi con người còn sống phụ thuộc vào thiên nhiên hoang sơ, các nhạc khí thô sơ ấy cũng có thể lấy từ thiên nhiên. Những nhạc khí này bắt nguồn từ lao động nguyên thủy như: săn bắt, đào củ rừng, mò tôm cá ở sông suối… nói cách khác, do nhu cầu của cuộc sống phải lao động để sinh tồn, đã ra đời một số nhạc cụ để phục vụ lao động. Những dụng cụ ấy dần dần trở thành nhạc khí, ví dụ: Khi đi gieo hạt, hạt giống được bỏ vào ống nứa khi hạt giống hết người ta dốc ngược ống đổ xuống đất để các hạt còn sót lại rơi ra. Động tác tự nhiên này tạo nên một âm thanh ấm áp và dần dần trở thành nhạc khí như: Goong tốc lốc, Goong teng leng; nhiều loại nhạc khí khác như: T’rưng, Klông Pút… cũng nhờ vào kinh nghiệm tương tự mà ra đời. Khi đi săn thú rừng, người thợ săn cần những tiếng động lạ để làm tín hiệu thúc giục chó săn tấn công vào đối phương, đồng bào đã dùng sừng bò, sừng dê rừng để làm kèn phục vụ cho việc săn bắt. Ngày nay gọi là kèn sừng bò, kèn kêu thú… Đặc biệt, hiện nay đàn Khinh Khung là một thứ nhạc cụ cổ sơ nhất còn bảo lưu được đầy đủ những yếu tố của nhạc rừng. Đàn Khing Khung ban đầu là những mảnh đá hay ống tre, nứa, lò ô…

treo lơ lửng trên nương rẫy, bên bờ suối để đuổi chim thú phá hoại mùa màng, nhờ vào sức nước. Những âm thanh phát ra từ những vật treo lơ lửng nói trên là cha đẻ của đàn Khing Khung, mà các nhà nghiên cứu âm nhạc đã gọi là “Dàn nhạc nước”. Chính đàn Khing Khung là cơ sở cho việc ra đời đàn “Thạch cầm” (đàn đá) và được các nhà nghiên cứu nhạc học xếp vào loại các nhạc cụ thời khuyết sử. Nó là khởi sự của loài người khi biết biểu lộ tình cảm bằng âm thanh (âm nhạc). Các loại nhạc khí có chất liệu thiên nhiên có nhiều loại và nhiều nhóm khác nhau, căn cứ vào chất lượng chế tác, màu âm, hình thức và phương pháp diễn tấu… có thể phân chia các loại nhạc khí Tây Nguyên được chế tác bằng chất liệu thiên nhiên làm các nhóm sau:

  • Nhóm nhạc khí gõ: Goong teng leng, Goong tốc lốc, Tol Alao, T’rưng, Khing Khung, Trống (đùng đong, đăng…)
  • Nhóm nhạc khí thổi hơi: Kèn lá, Kèn kêu thú, Sáo Ala, Kèn Tơ nốt, Kèn Tơdiép, Kèn Alát, Klông Pút, Sáo Hol, Đinh Pi, Đinh Năm, Đinh Tút, Kèn Avơng, Sáo Pi, Tơ Pơl…
  • Nhóm nhạc khí dây: Goong Đe. Khóa luận: Phát triển du lịch văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên.

1.2.6.2. Loại nhạc khí có chất liệu thiên nhiên kết hợp kim loại:

Sau loại nhạc khí được chế tác hoàn toàn bằng chất liệu thiên nhiên, ở các cư dân bản địa Tây Nguyên xuất hiện một số nhạc khí được kết hợp giữa chất liệu thiên nhiên với kim loại như đàn Broh, Kơni, Tinh ning.

Các loại nhạc khí này, kim loại tham gia với chức năng là dây đàn (bằng sắt), còn phần lớn các bộ phận khác cũng làm bằng gỗ, nứa, vỏ bầu… So sánh với một số cây đàn trong các dân tộc bản địa cho đến ngày nay vẫn dung dây đàn bằng nứa. Do điều kiện giao lưu, kỹ nghệ ngày càng phát triển cho nên việc thay thế dây nứa, dây rừng bằng dây sắt để đạt hiệu quả cao hơn là lẽ đương nhiên. Những loại nhạc khí này đã có những bước tiến đáng kể so với loại chế tác hoàn toàn bằng chất liệu thiên nhiên như dùng dây sắt, có bộ phận khuyếch đại âm thanh, âm thanh dày (có hòa âm), có nhiều phím (cung bậc), song vẫn giữ được đặc trưng của nó khi mới ra đời.

1.2.6.3. Loại nhạc khí có chất liệu kim loại:

Loại này chủ yếu làm bằng đồng, đồng thau, có loại pha thêm gang, chì và có thể có cả vàng, bạc. Nói đến nhạc khí có chất liệu hoàn toàn bằng kim loại, có lẽ không ở đâu trên đất nước ta có nhiều và đa dạng như ở Tây Nguyên. Các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đăk Lăk là những vùng văn hóa còn lưu lại một kho tàng nhạc khí được chế tác hoàn toàn bằng kim loại rất đồ sộ, đó là cồng chiêng. Bên cạnh cồng chiêng còn có lục lạc, chập chõa (Rang rai, Ha kam). Mỗi vùng mỗi dân tộc đều có các loại nhạc chiêng của dân tộc mình và đặc biệt khác nhau ở biên chế, phương pháp, mục đích và phạm vi sử dụng. Đó là các bộ chiêng: T’Rum, M’Nhum, So, Avơng, L Náring, Vang, Vâm, Hơđứk, Kaná, Lào, Mong meng, Tuk, K’Đo, Sa…

Kho tàng nhạc khí nói trên đã ra đời và tồn tại vượt xa điều kiện của cơ sử kinh tế xã hội đương thời. Ngoài chức năng là nhạc khí, cồng chiêng còn biểu hiện sự giàu có và niềm tự hào của mỗi gia đình và cộng đồng. Bởi âm thanh của chúng không đơn thuần chỉ là tín hiệu âm nhạc mà còn là “ngôn ngữ” của con người dùng để giao tiếp với thế giới siêu nhiên. Thực tế cho thấy trong xã hội đương đại, các dân tộc Tây Nguyên thông qua nghệ thuật sử dụng cồng chiêng, qua độ vang tiết tấu và âm sắc của từng loại mà mọi người thêm hiểu biết lẫn nhau, đoàn kết thương yêu nhau, cùng vượt qua những thử thách gian nan. Cồng chiêng biểu hiện niềm vui, nỗi buồn, lòng yêu thương, căm giận, tinh thần đoàn kết, bất khuất kiên cường và thượng võ, đồng thời còn biểu hiện cho sự giàu có, sự hùng mạnh và chiến thắng của các dân tộc Tây Nguyên.

1.3. Tiềm năng phát triển du lịch ở Tây Nguyên: Khóa luận: Phát triển du lịch văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên.

Nói đến Tây Nguyên là nói đến vùng đất có truyền thống văn hóa đa dạng của nhiều dân tộc và mỗi dân tộc mang một bản sắc riêng. Nơi đây lưu giữ hàng ngàn kho sử thi truyền miệng rất độc đáo như sử thi Đam San dài hàng ngàn câu. Các luật tục cổ, kiến trúc nhà sàn, nhà rông và tượng nhà mồ hàm chứa bao điều bí ẩn, hấp dẫn. Nơi đây còn nhiều thắng cảnh đẹp vào loại bậc nhất vô cùng lãng mạn và thơ mộng. Đó là những hồ thơ mộng trên cao nguyên, các thác nước, các khu rừng nguyên sinh, vườn quốc gia, các di tích lịch sử… Chính vì lẽ đó mà không thể không khẳng định nơi đây có một tiềm năng phát triển du lịch rất lớn. Du lịch ở Tây Nguyên đã, đang và sẽ phát triển hơn nữa theo nhịp độ phát triển du lịch trong nước và thế giới. Mỗi tỉnh ở Tây Nguyên có những nét đẹp chung nhưng cũng có những nét rất riêng tạo nên một vùng văn hóa Tây Nguyên vô cùng hấp dẫn du khách.

1.3.1. Đến với Kon Tum:

Du khách đến với Kon Tum sẽ có dịp đi thăm nhiều cảnh đẹp của núi rừng Tây Nguyên như: núi Ngọc Lĩnh, các khu rừng nguyên sinh Chư Mô Rang, Sa Thầy, khu du lịch Đăk Tre ở huyện Kon Tum, ngục Đăk Lei, đường mòn Hồ Chí Minh, chiến trường Đăk Tô, Tâm Cảnh nơi ghi lại chiến tích hào hung và vẻ vang của dân tộc. Ta có thể kể đến một số di tích, thắng cảnh tiêu biểu sau:

  • Chùa Bác Ái: Chùa tọa lạc ở góc đường Trần Phú và Phan Chu Trinh thuộc thị xã Kon Tum. Chùa được xây dựng vào năm 1932 do ông Võ Chuẩn – quảng đạo tỉnh Kon Tum thiết kế. Chùa được vua Bảo Đại ban tấm biểu: “Sắc tự Bác Ái tự”.
  • Ngục Kon Tum: Nhà ngục nằm ở phía Tây thị xã Kon Tum do người Pháp xây dựng để giam giữ tù chính trị, người tham gia cách mạng. Đến năm 1975 khi chiến tranh kết thúc, nhà ngục Kon Tum trở thành di tích lịch sử của miền Nam Việt Nam. Sau bao nhiêu năm hư hại, nay chỉ còn bia tưởng niệm và mộ của 8 liệt sĩ cách mạng.
  • Nhà mồ Tây Nguyên: Đây là một đặc trưng độc đáo của người Tây Nguyên.

Theo phong tục tang lễ của người Tây Nguyên, sau khi chôn cất người chết, người ta làm ngay một chòi nhỏ sơ sài trên nấm mộ để che mưa, che nắng cho người đã khuất. Trong chòi thường đặt một số đồ dùng của người đã khuất. Rồi sau một, hai hoặc ba năm, họ phải đi dựng một nhà mồ đẹp hơn và trang trí tượng gỗ, hàng rào xung quanh nhà. Theo quan niệm của người Bana thì tượng nhà mồ để đưa người chết sang thế giới bên kia. Khi chết đi con người vẫn tiếp tục sống một thế giới khác. Họ có kiếp sống của tinh thần, giao hoan, có giải trí và có cả súc vật mang theo. Tượng nhà mồ hiện lên sống động quanh những nhà mồ, nó thể hiện một nền nghệ thuật cổ. Có thể xếp vào 3 nhóm tượng: thế giới con người, những con vật gần gũi với con người như voi, chó, trâu, bò,…và những sinh hoạt cộng đồng như thể thao, săn bắt.

Lễ phá chòi, dựng nhà được làm vào mùa xuân và được coi là một lễ hội (lễ bỏ mả). Mọi người tập trung ngoài nghĩa địa cùng với rượu thịt và các đồ cúng lễ. Họ vui chơi, múa hát với ý nghĩa cùng hưởng thụ và chia biệt người đã khuất.

Ngoài ra đến với Kon Tum, du khách còn được thăm thác Yaly và tham dự các lễ hội, cũng như hòa nhập vào cuộc sống của đồng bào dân tộc Bana – một trong ba dân tộc đông nhất ở Tây Nguyên.

1.3.2. Đến với Gia Lai: Khóa luận: Phát triển du lịch văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên.

Đây là vùng đất có nhiều suối, hồ, ghềnh thác, đèo và những cánh rừng nguyên sinh tạo nên những cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng, mang đậm nét hoang sơ nguyên thủy của núi rừng Tây Nguyên. Đó là rừng nhiệt đới Kon Ka King và Kon Cha Răng, nơi có nhiều động vật quí hiếm, thác Yaly hùng vĩ, thác Xung Khoeng hoang dã ở huyện Chư Prông, thác Phú Cường thơ mộng ở huyện Chư Sê. Nhiều con suối đẹp như suối Đá Trắng, suối Mơ và các danh thắng khác như bến đò “Mộng” trên sông Pa, biển Hồ (hồ Tơ Nưng) trên núi mênh mông và phẳng lặng, núi Hàm Rồng cao 1092 mà đỉnh là miệng núi lửa đã tắt.

Các lễ hội đặc sắc ở Gia Lai như: lễ Pơ Thi (lễ bỏ mả), lễ hội đâm trâu, múa xoang…Trang phục ngày hội được trang trí hoa văn nhiều màu sắc thần bí, các điệu múa dân gian và âm thanh vang vọng của các loại nhạc cụ riêng của từng dân tộc như tù và, đàn đá, cồng chiêng…Đến Gia Lai còn có cơ hội được xem những khu nhà mồ dân tộc với những bức tường đủ loại và những nghi lễ còn rất hoang sơ với tôn giáo đa thần (Tô Tem). Gia Lai có truyền thống cách mạng hào hùng, có khu Tây Sơn Thượng căn cứ địa của vua Quang Trung, là quê hương của anh hùng Núp.

1.3.3. Đến với Đăk Lăk:

Đến Đăk Lăk, du khách có dịp thăm nhiều thác nước đẹp như: thác Thủy Tiên, Krông Kmar, Bảy Nhánh…Những hồ nước thơ mộng trên cao nguyên như: hồ Lăk, hồ Buôn Triết, hồ Ea Kao, các khu rừng nguyên sinh, vườn quốc gia Yok Dar, khu lâm viên Ea Kao, thăm Buôn Đôn nổi tiếng với những chú voi đã thuần dưỡng; các di tích lịch sử như tháp Chàm thế kỉ 13, biệt điện của cựu hoàng Bảo Đại, nhà đày Buôn Ma Thuột và tìm hiểu đời sống văn hóa của các dân tộc ít người.

Nếu đến đúng dịp, du khách sẽ được tham dự những lễ hội độc đáo còn đậm chất dân gian. Trong lễ hội, cả buôn làng cầm tay nhau múa xung quanh đống lửa theo nhịp của cồng chiêng.

1.3.4.Đến với Đăk Nông:

Đăk Nông có một hệ thống các thác nước cao, hùng vĩ như:

  • Thác Dray Sáp cao 20m, dài khoảng 100m, chặn ngang dòng sông Sêrêpôk;
  • Thác Diệu Thanh; Khóa luận: Phát triển du lịch văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên.
  • Thác Ba Tầng: gọi là thác ba tầng vì khi nước chảy đến đây phải qua 3 tầng thác mới đến lòng suối ở phía dưới. Đến đây, du khách có thể cắm trại, thư giãn khi đến thăm thắng cảnh vùng này.
  • Thác Gia Long: có tên là thác Gia Long vì xưa kia vua Gia Long lên xứ này và có dịp đến nghỉ bên thác. Ông đã cho xẻ núi, phá rừng làm một con đường rất đẹp dẫn vào thác. Khu rừng xanh xung quanh thác ôm gọn hồ tắm Tiên có làn nước mạch trong xanh chảy từ trong núi. Hồ rộng khoảng 80m2, yên ả, thoáng mát.
  • Thắng cảnh này hội tụ cả thác và hồ nước, khung cảnh thơ mộng, cùng tiếng chim ríu rít gọi bầy. Đây là điểm du lịch sinh thái khá hấp dẫn khách du lịch;
  • Thác Dray Nur: Cách thác Gia Long chừng 3km. Đến đây du khách được chiêm ngưỡng một dòng thác hùng vĩ không kém các ngọn thác khác ở Tây Nguyên;
  • Thác Trinh Nữ: Nơi đây ngập chìm trong không gian của núi rừng, âm thanh của thác đổ, của tiếng chim ríu rít gọi bầy. Hiện nay, bên cạnh việc giữ nguyên dáng vẻ hoang sơ vốn có của dòng thác, bằng trí tưởng tượng phong phú của mình, con người đã tô điểm thêm, biến nơi đây là điểm du lịch sinh thái hấp dẫn;
  • Thác Gâu – Thác Ngầm: thác được hình thành từ một hòn đá tảng, có dòng suối chảy qua. Dòng thác tạo nên sự kì bí riêng hấp dẫn du khách.

Ngoài những địa điểm nêu trên, khi đến với Đăk Nông, du khách còn được thăm các khu du lịch sinh thái, văn hóa, các khu bảo tồn thiên nhiên như: Liêng Nung, Nâm Nung, tham dự các lễ hội vô cùng độc đáo và đặc sắc.

1.3.5. Đến với Lâm Đồng:

Nhắc đến Lâm Đồng, có lẽ không một ai không biết đến Đà Lạt – thành phố của mùa xuân, thành phố của ngàn hoa. Đến với Đà Lạt, điều tuyệt vời đầu tiên là ta như được chìm đắm trong một thế giới tuyệt vời của vườn hoa trăm hương ngàn sắc suốt quanh năm.

Thành phố Đà Lạt, với hơn 100 năm tuổi đang trở thành một trong những địa danh du lịch hấp dẫn nhất đối với du khách trong và ngoài nước, một thành phố nghỉ mát lâu đời ở nước ta.

Đà Lạt còn nổi tiếng về hồ, về các thác nước và rừng thông. Các hồ đẹp ở Đà Lạt như: Hồ Xuân Hương, hồ Than Thở, hồ Đa Thiện, hồ Vạn Kiếp, hồ Mê Linh…Những hồ này nằm ngay trong thành phố, tên thơ mộng như cảnh hồ thơ mộng, mỗi hồ gắn với một truyền thuyết xa xưa. Khóa luận: Phát triển du lịch văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên.

Cộng đồng dân cư Đà Lạt là một sự hòa nhập hết sức độc đáo của các dân tộc từ Bắc, Trung, Nam. Cả tỉnh có trên 20 dân tộc. Thiên nhiên tươi đẹp đã tạo nên những mẫu người Đà Lạt có phong cách đáng yêu, hiền hòa, thanh lịch và mến khách.

Đến với Đà Lạt, du khách còn được viếng thăm các ngôi chùa lớn ở đây như: chùa Linh Sơn, chùa Linh Quang, chùa Thiên Vương Cổ Sát và Thiền Viện Trúc Lâm.

Vẻ đẹp của Đà Lạt còn quyến rũ và hấp dẫn du khách bởi hàng trăm, hàng ngàn loài hoa. Các loại phong lan độc đáo hoạc được sản sinh trên mảnh đất này, hoặc lấy giống từ nhiều nơi như: Pháp, Anh, Hà Lan, Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông, Ấn Độ… như: hoa hồng, hoa bất tử, hoa đỗ quyên, hoa xác pháo, hoa tư tưởng, hoa trà mi, hoa mi mô da, thủy tiên trắng…

Khách sạn du lịch đầu tiên ở Đà Lạt được xây dựng từ năm 1907. Đó là ngôi nhà gỗ mang tên khách sạn Hồ (hotel Du Lạc). Ngày nay, đến Đà Lạt, du khách sẽ cảm nhận một nét kiến trúc rất nên thơ, lộng lẫy mà kín đáo qua từng ngôi biệt thự ẩn mình trong cây lá, hoặc rực rỡ bởi được phủ lên cả một rừng hoa.

Tất cả những điều trên có thể cho ta một khẳng định chắc chắn rằng vùng văn hóa Tây Nguyên có tiềm năng phát triển du lịch rất lớn.

Kết luận:

Thông qua việc nghiên cứu khái quát về Tây Nguyên, ta thấy được rằng Tây Nguyên không chỉ đặc trưng bởi nắng, bởi gió, bởi các cao nguyên, mà Tây Nguyên còn mang trong mình nhiều nét đặc trưng độc đáo, riêng biệt khác nữa.

Tây Nguyên bao gồm 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng và nằm gọn trên 20 dân tộc. Nếu không kể mấy dân tộc phía Bắc và người Kinh di cư đến thì các dân tộc lâu đời ở đây thuộc về 2 nhóm ngôn ngữ chủ yếu là nhóm Môn – Khơme và nhóm Mã Lai – Đa Đác. Văn hóa Tây Nguyên như vẫn quen gọi bao gồm văn hóa các dân tộc thuộc hai nhóm này. Nhưng thực ra những đặc trưng của văn hóa Tây Nguyên còn ở nhiều những dân tộc khác sống trên sườn phía Tây của dãy Trường Sơn, suốt một dải từ phía Tây Quảng Bình đến tận Phú Yên.

Tây Nguyên có lợi thế đặc biệt về khí hậu. Với khí hậu ôn hòa như vậy, có thể được coi là một nguồn tài nguyên quý báu của vùng.

Bên cạnh đó, Tây Nguyên còn có những bản sắc văn hóa riêng biệt.Trước hết phải kể đến các loại hình cư trú của đồng bào dân tộc nơi đây.Đó là những ngôi nhà rông, nhà dài, nhà sàn,…- nơi diễn ra các sinh hoạt hàng ngày của mỗi gia đình, buôn làng. Cùng với đó là đặc trưng trong các trang phục truyền thống, ẩm thực, các phong tục tập quán lâu đời có ảnh hưởng quan trọng đến cuộc sống của người dân nơi đây như: tục cà răng căng tai, tục đeo vòng, tục cưới xin, tục sinh đẻ,… Cùng với đó là các lễ hội gắn bó với cộng đồng nơi đây đã trở thành một nét văn hóa không thể thiếu được, đó là các lễ hội như: lễ bỏ mả, lễ đâm trâu, lễ cơm mới, lễ cúng đất làng, lễ lớn khôn, hội đua voi, hội xuân,…

Tây Nguyên đặc biệt bởi là một vùng đất gắn liền với truyền thống lịch sử đã có từ hàng ngàn năm nay, một vùng đất mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Và đặc biệt hơn là Tây Nguyên là một vùng đất gắn bó mật thiết với cồng chiêng. Cồng chiêng có mặt trong tất cả các lễ hội, các sự kiện của mỗi con người, của mỗi buôn làng nơi đây. Cồng chiêng là máu, là thịt, là linh hồn, là tình yêu của mảnh đất Tây Nguyên này. Tiếng cồng chiêng hòa quyện vào với đất trời, với con người, với những gì hiện hữu nơi đây, tạo nên một không gian văn hóa cồng chiêng mà chỉ ở Tây Nguyên mới có.

Chính những nét độc đáo và đặc sắc đó đã đưa không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trở thành kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, trở thành niềm tự hào của Việt Nam nói riêng và của thế giới nói chung. Khóa luận: Phát triển du lịch văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Khóa luận: Thực trạng phát triển du lịch văn hoá cồng chiêng

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x