Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Thực trạng khai thác du lịch về nghệ thuật Ca trù hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Tìm hiểu về nghệ thuật Ca trù Đông Môn – Thủy Nguyên – Hải Phòng dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.1. Vài nét về huyện Thủy Nguyên – Hải Phòng
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
2.1.1.1. Vị trí địa lý
Thủy Nguyên là huyện thuộc miền duyên hải Hải Phòng, nằm trong tọa độ 20º55’ vĩ độ bắc, 106º45’ kinh đông, có diện tích 242 km². Hiện nay huyện Thủy Nguyên có 37 đơn vị hành chính gồm 2 thị trấn: Minh Đức, Núi Đèo và 35 xã.
Vùng đất nơi đây đã được hình thành từ rất lâu, xưa được gọi là Nam Triệu Giang, nằm trong vùng An Biên do nữ tướng Lê Chân cai quản, sau gọi là huyện Thủy Đường thuộc phủ Tân An Châu – Đông Triều. Đến triều vua Duy Tân thời Nguyễn (1908) đổi tên là huyện Thủy Nguyên thuộc tỉnh Kiến An, sau đó sát nhập vào Hải Phòng.
Từ lịch sử xa xưa, Thủy Nguyên là nơi trung gian quá cảnh đi nhiều vùng miền khác nhau bằng cả đường bộ lẫn đường thủy. Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh, phía Tây giáp với huyện Kinh Môn (Hải Dương), phía Nam giáp với quận Hải An và nội thành Hải Phòng, phía Đông nhìn ra cửa biển và cửa Nam Triệu. Chiều dài của huyện từ Bến Đụm (đập Phi Liệt) đến Bến Rừng (Tam Hưng) là 31 km, chiều rộng từ Bến Bính đến Cầu Đá Bạc dài khoảng 17 km.
2.1.1.2. Địa hình Khóa luận: Thực trạng khai thác du lịch về nghệ thuật Ca trù.
Thủy Nguyên là huyện ven biển ở vào vị trí chuyển tiếp của 2 vùng địa lí tự nhiên lớn là châu thổ sông Hồng và vùng đồi núi Đông Bắc. Địa hình Thủy Nguyên gồm các dạng:
Địa hình có núi đá vôi xen kẽ: Dạng địa hình này nằm ở phía Bắc huyện gồm địa hình núi đá vôi, đồi núi đất chạy từ An Sơn qua xã Lại Xuân, Liên khê, Lưu Kiếm, Minh Tân, Gia Minh, Gia Đức và Minh Đức.
Địa hình đồng bằng: Đồng bằng trung tâm huyện gồm các xã Kiền Bái, Mỹ Đồng, Thủy Sơn… có lượng phù sa lớn thích hợp cho việc trồng lúa, hoa màu và cây ăn quả, độ cao trung bình của bề mặt thường từ 0, 2- 0, 8m.
Đồng bằng ven sông: Đây là vùng đồng bằng mới được bồi tụ, thường bị ngập nước của các xã Hoàng Động, Hoa Động, Lâm Động, Tân Dương, Phục Lễ, Phả Lễ, An Lư, Thủy Triều thuận lợi cho nền nông nghiệp phát triển.
Vùng cửa sông ven biển: Nét khác biệt đặc trưng cho dải đất ven biển huyện Thủy Nguyên là các bãi lầy được tạo thành từ một lớp phù sa và bùn nhão, ở bề mặt thường có màu phớt hồng. Đây là môi trường thuận lợi cho việc phát triển hệ động thực vật phong phú và rừng ngập mặn.
2.1.1.3. Khí hậu
Khí hậu Thủy Nguyên mang tính chất nhiệt đới nóng ẩm gió mùa, do sự chi phối của hoàn lưu gió mùa Đông Nam Á, đặc biệt là không khí cực đới nên khí hậu ở đây chia làm 2 mùa rõ rệt, nhiệt độ trung bình năm là 23ºC, độ ẩm 82- 85%.
2.1.1.4. Tài nguyên nước
Trên bản đồ Hải Phòng, huyện Thủy Nguyên như một ốc đảo bao bọc xung quanh và cả trong lòng huyện là mạng lưới sông ngòi dày đặc, có sông nước ngọt, sông nước lợ, sông nước mặn ngay sát biển. Toàn bộ huyện nằm trong vòng ôm của những dòng sông, phía Tây là sông Hàn, phía Bắc là sông Đá Bạc, phía Đông là sông Bạch Đằng (sông Rừng), phía Nam là Sông Cấm, nằm ngang huyện là hồ Sông Giá thơ mộng.
2.1.1.5. Tài nguyên động thực vật
Động vật : cho tới nay, trên vùng đất của Thủy Nguyên gần như vắng bóng động thực vật hoang dã. Đây là hậu quả của quá trình khai phá rừng hoang để mở rộng địa bàn cư trú và sản xuất của con người. Tuy nhiên, hiện nay ở Thủy Nguyên vẫn còn một số động vật tồn tại và phát triển, chúng thường xuất hiện ở các dãy núi đá vôi như khỉ, dê, sơn dương, trăn, rắn, tắc kè và các loại chim. Khóa luận: Thực trạng khai thác du lịch về nghệ thuật Ca trù.
Hiện nay huyện Thủy Nguyên đang triển khai kế hoạch phủ xanh đối trọc bằng cách trồng các loại cây có ích và thả các loài động vật hoang dã để giữ cân bằng sinh thái.
Thực vật: Thủy Nguyên có khí hậu nhiệt đới gió mùa, bị chi phối mạnh bởi khí hậu của biển nên thực vật xanh tốt và sinh trưởng mạnh mẽ quanh năm cùng với tính chất đa dạng của địa hình và cấu tạo địa chất đã tạo nên tính đa dạng các kiểu thực bì và phong phú về nguồn gen.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
2.1.2. Điều kiện dân cư – kinh tế – xã hội
Vùng đất Thủy Nguyên được hình thành từ rất sớm, dân cư sống tại vùng đất này đã xuất hiện từ rất xa xưa. Theo điều tra dân số của huyện Thủy Nguyên đến năm 2010 có khoảng trên 30 vạn người. Thủy Nguyên là một trong những huyện có mật độ dân số cao của Hải Phòng với tỉ lệ 1, 70 người/km2.
Từ xưa tới nay khi nói tới con người Thủy Nguyên, người ta thường nói tới trai tài gái sắc, thông minh duyên dáng nổi tiếng khắp vùng. Sự phong phú, đa dạng của địa hình tạo cho con người Thủy Nguyên có khả năng phát triển về mọi mặt, có thể khắc phục những khó khăn trong cuộc sống cũng như nhanh chóng thích nghi được với môi trường sống hiện đại.
Điều kiện đất đai, khí hậu đã giúp con người Thủy Nguyên không chỉ giỏi về làm nông nghiệp, nghề làm rừng, làm vườn, nghề chài lưới mà còn thông thạo các nghề thủ công, thương mại và máy móc công nghiệp.
Nằm ở phía bắc của thành phố Hải Phòng, Thủy Nguyên được đánh giá là huyện có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế, an ninh, quốc phòng.
Với diện tích 242, 7 km² lớn nhất so với các quận huyện khác của thành phố, với 37 đơn vị hành chính. Thủy Nguyên là đầu mối giao thông quan trọng về đường bộ, đường sông, đường biển.
Trong phát triển kinh tế, Thủy Nguyên có tiềm năng lớn về phát triển ngành công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu biển, khai thác chế biến, sản xuất vật liệu xây dựng, nhiệt điện, phát triển đô thị hiện đại và dịch vụ thương mại, du lịch nuôi trồng và khai thác thủy sản. Khóa luận: Thực trạng khai thác du lịch về nghệ thuật Ca trù.
Trong những năm qua, đảng bộ, quân và dân huyện Thủy Nguyên đã nỗ lực phấn đấu đạt được những kết quả quan trọng và khá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, giảm dần tỉ trọng nhóm ngành nông nghiệp, tăng tỉ trọng nhóm ngành công nghiệp, xây dựng, thương mại và dịch vụ. Kinh tế tăng trưởng liên tục và luôn ở mức khá cao. Kinh tế – xã hội, nhất là hệ thống giao thông và cơ sở hạ tầng nông thôn, các công trình phục vụ sản xuất được quan tâm đầu tư, việc quản lí đất đai, xây dựng có chuyển biến tích cực, tốc độ đô thị hóa khá nhanh.
Các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa thông tin, thể dục thể thao từng bước xã hội hóa, phát triển khá nhanh cả về quy mô, chất lượng đạt nhiều thành tựu xuất sắc. Những vấn đề xã hội như xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, đảm bảo các chính sách xã hội được chú trọng.
Thủy Nguyên hôm nay đang từng bước thay da đổi thịt nhờ những chính sách đổi mới phù hợp với đội ngũ lãnh đạo năng động, dám nghĩ dám làm. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện và nâng cao, tư tưởng quần chúng ổn định, tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng và sự lãnh đạo của huyện.
2.1.3. Tài nguyên du lịch huyện Thủy Nguyên
2.1.3.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên
Tài nguyên du lịch tự nhiên của Thủy Nguyên phong phú, đa dạng và hấp dẫn, được hình thành bởi đặc điểm tổng hòa của các yếu tố địa chất- địa hình, khí hậu, thủy văn, thảm thực vật và thế giới động thực vật. Với sự phong phú về tài nguyên này, huyện Thủy Nguyên có khả năng phát triển nhiều loại hình du lịch như: du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, tham quan danh lam thắng cảnh, du lịch leo núi, du khảo đồng quê… Có thể kể tên một số tài nguyên du lịch tự nhiên tiêu biểu của Thủy Nguyên như:
- Khu du lịch sinh thái Hồ Sông Giá:
Đẹp nhất và có tiềm năng du lịch lớn nhất là sông Giá. Sông Giá là một vùng cảnh quan thiên nhiên đẹp, không phải ngẫu nhiên người ta gọi con sông Giá là con sông giàu huyền thoại. Khóa luận: Thực trạng khai thác du lịch về nghệ thuật Ca trù.
Sông Giá là một chi lưu của hệ thống sông Bạch Đằng, bắt nguồn từ sông Đá Bạc tại thôn Giao Dương, xã Lại Xuân chảy qua các xã phía đông bắc huyện Thủy Nguyên rồi đổ ra sông Bạch Đằng ở khu Đầm De thị trấn Minh Đức. Sông Giá nằm giữa miền châu thổ ven Biển Đông, nơi tạo tác nền văn minh sớm của cư dân Lạc Việt. Ngàn năm trước sông Giá hiền hòa góp phần hình thành “Hành lang văn hóa” của vùng đất Thủy Nguyên cổ kính, đỉnh cao là văn hóa Tràng Kênh, văn minh Đông Sơn. Đôi bờ sông Giá còn là một kho tàng văn hóa phong phú, là quê hương của nhiều nhân tài, mặc khách, nơi gìn giữ phong tục tập quán lâu đời của quê hương đất nước.
Hồ Sông Giá là vùng du lịch cảnh quan sinh thái bao gồm 3 khu vực chính, có mối quan hệ với nhau trong khai thác. Đó là:
- Vùng lòng hồ Sông Giá có chiều dài 16, 5km từ đập Minh Đức đến đập Phi Liệt, chiều rộng trung bình từ 250-400m, diện tích mặt hồ là 6, 6km².
- Vùng bờ phía Bắc hồ bao gồm các xã Minh Tân, Lưu Kiếm, Liên Khê và thị trấn Minh Đức. Nơi đây có nhiều núi đá, hang động và danh thắng đẹp như Hang Vua, đền thờ Trần Quốc Bảo…
- Vùng phía nam hồ gồm các xã Ngũ Lão, Thủy Triều, Trung Hà, Hòa Bình… với những đồi thấp ven hồ, những vườn cây ăn quả trù phú, có những địa danh nổi tiếng như Quán Đá, Bến Hà Tê, Chợ Giá, Chợ Chính Mỹ… đã đi vào lịch sử địa phương, từ đây có những tuyến đường liên tỉnh, liên huyện, liên xã thuận tiện cho việc di chuyển và phát triển du lịch của huyện Thủy Nguyên.
Núi U Bò:
“Tràng Kênh có núi U Bò
Có sông Quán Giá, có đò sang ngang”.
Đây là ngọn núi cao chừng 400m, nằm gần đền thờ Trần Quốc Bảo. Hình dáng của núi giống cái u của con bò nên được gọi là núi U Bò. Núi U Bò đứng sừng sững ngay bên bờ sông Bạch Đằng lịch sử. Tương truyền đây là nơi Trần Hưng Đạo đã đứng để chỉ huy trận thủy chiến chống quân xâm lược thế kỉ XIII. Dưới chân núi Hoàng Tôn, gần núi U Bò còn phần mộ và đền thờ Trần Quốc Bảo cách đây trên 700 năm. Đứng trên núi U Bò có thể nhìn bao quát toàn cảnh sông Bạch Đằng. Cách đây 4000 năm, nơi đây là xưởng chế tác đồ trang sức của người xưa.
- Hang động:
Trong quá trình hoạt động của vỏ trái đất đã ban tặng cho Thủy Nguyên một địa hình Karst trên cạn với nhiều hang động hấp dẫn và kỳ thú. Các hang động chủ yếu tập trung ở phía bắc huyện, trong đó còn rất nhiều hang động vẫn giữ được vẻ hoang sơ như thời kỳ ban đầu. Khóa luận: Thực trạng khai thác du lịch về nghệ thuật Ca trù.
Ở đây có nhiều hang động nổi tiếng như: hang Vua, hang Vải, hang Ma, hang Sộp, hang Sơn, hang Lương, hang Đốc Tít… Hầu hết các hang động ở đây đều có độ dài dưới 200m, các hang động có độ dài lớn nhất cũng không vượt quá 500m. Vị trí của hang động thường tập trung ở mức cao 4-6m, 15-20m, hoặc 30m, chiều rộng từ 5-10m, chiều cao từ 10-18m. Tuy kích thước hang động không lớn nhưng các hang động ở Thủy Nguyên lại có địa hình đẹp, nhiều thành tạo địa chất hấp dẫn, nhiều thạch nhũ. Bên cạnh đó các hang động ở đây thường gắn liền với tên tuổi của các vị anh hùng dân tộc qua các cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
- Sông Bạch Đằng:
Nói đến Thủy Nguyên trước hết phải nói đến sông Bạch Đằng lịch sử, một tuyến đầu chống giặc ngoại xâm từ biển ở phía đông bắc của đất nước ta. Sông Bạch Đằng ở phía Bắc của Hải Phòng, cách trung tâm thành phố 20 km. Dòng sông dài nhưng tiếp giáp với biển nên cảnh sắc ở đây mênh mông hùng vĩ. Sông có tên là Vân Cừ hay sông Rừng, sông có địa thế thiên hiểm. Nơi đây Ngô Quyền (938), Lê Hoàn (981), Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (1288) đã đánh tan các đạo thủy binh lớn của giặc ngoại xâm bằng các bãi cọc đóng trên sông. Cọc lim – chiến tích của những chiến công lẫy lừng đó hiện còn lưu giữ ở một bãi cọc tại bờ sông Chanh, thị xã Quảng Yên (tỉnh Quảng Ninh) cách bến Rừng 1km về phía Đông và một số đang được trưng bày ở nhà bảo tàng thành phố Hải Phòng. Vùng quanh đó còn có những cái tên làng như Lưu Kiếm (nơi giữ kiếm), Lưu Kỳ (nơi giữ cờ), chùa Vẽ (nơi vẽ bản đồ quân sự), đền thờ Ngô Quyền, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Bảo… và nhiều truyền thuyết lịch sử về các danh tướng lưu truyền từ đời trước sang đời sau, đều gợi nhắc về chiến công và quá khứ hào hùng của cha ông.
Bên cạnh những tài nguyên du lịch tự nhiên, Thủy Nguyên còn là mảnh đất lưu giữ nhiều chứng tích lịch sử của dân tộc với nguồn tài nguyên du lịch nhân văn không kém phần phong phú.
2.1.3.2. Tài nguyên du lịch nhân văn
Tính đến nay, Thủy Nguyên có 5 Đền, 8 Chùa, 34 Đình, 2 Miếu và 1 Nghè, trong đó có 21 di tích lịch sử – văn hóa được nhà nước công nhận, nhiều trong số đó là những nơi có thắng cảnh đẹp hấp dẫn, có thể khai thác phục vụ tham quan du lịch. Bên cạnh đó, Thủy Nguyên còn có một hệ thống lễ hội đặc sắc và làng nghề thủ công có truyền thống lâu đời, góp phần làm nên sự phong phú của tài nguyên du lịch nơi đây. Có thể kể đến một số tài nguyên du lịch nhân văn tiêu biểu của huyện như sau:
a). Khu di tích lịch sử và danh thắng Tràng Kênh với các điểm du lịch: núi U Bò, hang Vua, sông Bạch Đằng, đền thờ Trần Quốc Bảo. Khóa luận: Thực trạng khai thác du lịch về nghệ thuật Ca trù.
Tràng Kênh thuộc huyện Thủy Nguyên, cách nội thành Hải Phòng 20km về phía Đông Bắc. Đây là quần thể đồi, núi đá vôi, hang động sông nước, áng, hồ, muôn hình ngàn vẻ cảnh trí thiên nhiên giống như Vịnh Hạ Long nên người ta gọi là vùng “Hạ Long cạn”.
Tại địa điểm Tràng Kênh, người ta phát hiện ra 3 ngôi mộ của người Tràng Kênh cổ. Trong 3 ngôi mộ kể trên thì có 2 ngôi mộ là mộ của người lớn và một mộ là trẻ em.
Tràng Kênh có nhiều hang động kì thú, nổi tiếng là Hang Vua ở xã Minh Tân. Hang rộng 5 đến 18m, trần hang như nóc chuông nhà thờ, hang thông với nhiều ngách, có ngách tới 4 tầng, tầng hầm, tầng giữa cao từ 4 đến 6m, tầng tiếp theo cao từ 8 đến 10m cà tầng trên cùng cao từ 12 đến 15m. Trong hang có suối nước quanh năm trong mát, gọi là Hang Vua vì theo tương truyền cách đây trên 4000 năm vua Hùng thứ 18 đã lập mê cung ở đây. Hang Vua đầu thế kỉ XX được nghĩa quân Đốc Tít dùng làm căn cứ chiến đấu. Năm 1930, các đảng viên quốc dân Đảng của Nguyễn Thái Học đã hội họp ở đây. Năm 1940, chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên xã Minh Tân ra đời trong hang này và từ đó trong suốt 2 cuộc chiến tranh vệ quốc luôn là căn cứ kháng chiến của ta.
Bao bọc phía đông Tràng Kênh là sông Bạch Đằng, còn dưới chân núi Hoàng Tôn, gần núi U Bò, cách sông Bạch Đằng không xa là đền thờ tướng quân Trần Quốc Bảo.
Đền thờ Trần Quốc Bảo là công trình tưởng niệm về vị tướng của vương triều Trần, cháu gọi vua Trần Nhân Tông (1279-1293) bằng ông. – người có công trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông của dân tộc ta ở thế kỷ XIII. Đền nằm ở phía nam chân núi Hoàng Tôn, thôn Tràng Kênh thị trấn Minh Đức, huyện Thủy Nguyên. Trong trận chiến Bạch Đằng năm 1288, Trần Quốc Bảo đã hy sinh anh dũng. Do vậy sau khi ông mất triều đình nhà Trần đã truyền cho nhân dân địa phương vùng Tràng Kênh (nơi ông đóng quân và hy sinh) lập miếu thờ và truy phong làm thái tử. Các triều đại phong kiến tiếp theo đã thừa nhận công lao của Trần Quốc Bảo và suy tôn là “thượng đẳng phúc thần”, phong sắc “thành hoàng làng Tràng Kênh”.
Lễ hội Trần Quốc Bảo (hay lễ hội Tràng Kênh) bắt đầu vào mồng 6 tháng giêng âm lịch và kéo dài đến 11 tháng giêng âm lịch. Đây là một lễ hội có quy mô lớn nhất ở huyện Thủy Nguyên, được duy trì và tổ chức đều đặn hàng năm, có sức lôi cuốn sự tham gia đông đảo của nhân dân địa phương và các vùng lân cận.
- b) Lễ hội Khóa luận: Thực trạng khai thác du lịch về nghệ thuật Ca trù.
Lễ hội truyền thống có một vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân. Các lễ hội cũng là một tiềm năng du lịch rất quan trọng, vì vậy cần chú ý đầu tư khôi phục và phát triển. Hầu hết các làng xã ở Thủy Nguyên đều có các ngày lễ hội riêng của mình. Xã Minh Đức có ngày lễ hội mồng 6 tháng giêng âm lịch cúng Trần Quốc Bảo, Xã Kiền Bái có lễ hội mồng 10 tháng 11 cúng thần làng, xã Lâm Động có hội chùa 17 tháng giêng, xã Thủy Đường, Phà Ninh thường làm cỗ đem lên đình, chùa, miếu để cúng.
Đáng chú ý ở huyện Thủy Nguyên là một số lễ hội mang tính chất lớn tiêu biểu và có nhiều chất sinh hoạt văn hóa là Hội hát đúm và Hội mở mặt vào 4 – 10/ tháng giêng tại xã Lập Lễ, Phả Lễ, Phục Lễ (Hát đúm là Hát đối đáp Nam – Nữ); Hội Chùa Mĩ Cụ – xã Chính Mỹ vào 6/tháng giêng; hội Ca trù Ở Đông Môn, Hòa Bình vào 23 – 24/ tháng 9 âm lịch; hội hát trống quân vào ngày 10/11 âm lịch ở xã Kiền Bái; hội đền Lê Ích Mộc, hội du xuân ở nhiều làng xã…
- Nghề và làng nghề thủ công
Thủy Nguyên có một số nghề truyền thống như: đúc đồng, đúc gang, mây tre đan, nghề cói, thêu ren…, mỗi nghề đều có lịch sử phát triển lâu dài và khá độc đáo.
- Nghề đúc
Nghề đúc ở xã Mỹ Đồng đã có cách đây 200 năm, bắt đầu ở thôn Phương Mỹ. Vào năm 1918 – 1920, ở thôn Phương Mỹ đã có tới hơn 20 lò đúc, những năm kháng chiến chống Pháp nghe theo tiếng gọi của Đảng, người dân Phương Mỹ đã bí mật rèn vũ khí, các chi tiết máy in cho cách mạng. Dưới sự chỉ đạo và quan tâm chặt chẽ của Nhà nước, nghề đúc Thủy Nguyên đang phát triển mạnh.
- Nghề gốm sứ
Nghề này tập trung ở xã Minh Tân, qua các di chỉ khảo cổ Tràng Kênh người ta đã thu lượm hàng vạn mảnh gốm với nhiều hình thức trang trí chứng tỏ đây là một công xưởng chế tác nhiều loại gốm với chất lượng cao.
Ngoài các sản phẩm chủ yếu như nồi, bình, bát, ấm, chén… thì người dân nơi đây còn làm cả ngói lẫn phù điêu. Trải qua nhiều năm nhưng sản phẩm gốm Minh Tân vẫn được nhiều người yêu thích.
- Nghề mây tre đan Khóa luận: Thực trạng khai thác du lịch về nghệ thuật Ca trù.
Đây là một nghề cổ truyền của xã Chính Mỹ. Theo các cụ trong làng kể lại, khi xưa đây là vùng núi rừng, tre vầu mọc rất nhiều, để phục vụ cho nhà nông, người dân trong làng đã tận dụng nguồn nguyên liệu này làm ra các sản phẩm như thúng, nong, nia theo các mẫu đan hình tròn, hình chữ nhật, xương cá. Ngày nay nghề này vẫn được duy trì.
Như vậy có thể thấy, huyện Thủy Nguyên có tài nguyên nhân văn khá phong phú và có giá trị du lịch cao. Đây là mảnh đất địa linh nhân kiệt đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc và đồng thời cũng là nơi lưu giữ dấu vết của người cổ đại qua các di chỉ khảo cổ Tràng Kênh. Hơn nữa, Thủy Nguyên còn là vùng đất có nhiều lễ hội dân gian đặc sắc, là nơi tập trung của nhiều làng nghề thủ công truyền thống có sức thu hút khách du lịch. Tuy nhiên việc khai thác tiềm năng trên phục vụ du lịch còn rất hạn chế, các di tích lịch sử được khai thác phục vụ du lịch còn quá ít. Lí do chủ yếu là cơ sở hạ tầng kém, giao thông chưa thuận tiện, mặt khác các di tích đang bị xuống cấp nghiêm trọng, có nơi còn bị đổ nát, một số đình chùa được tôn tạo nhưng chưa đảm bảo được tính chân thực của lịch sử và phong cách kiến trúc cổ…
Tuy nhiên với sự đa dạng và phong phú của cả tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn, đồng thời với tình hình kinh tế – xã hội, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện rõ nét đang từng bước đưa Thủy Nguyên trở thành một huyện phát triển nhất của thành phố Hải Phòng. Vấn đề đặt ra hiện nay là cần phải có sự quan tâm và đầu tư đúng hướng để du lịch của huyện ngày càng phát triển, xứng đáng với tài nguyên sẵn có của huyện.
2.2. Khái quát về nghệ thuật ca trù Đông Môn – Thủy Nguyên- Hải Phòng Khóa luận: Thực trạng khai thác du lịch về nghệ thuật Ca trù.
2.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của ca trù Đông Môn
Người dân Đông Môn, xã Hòa Bình, huyện Thủy Nguyên (trước là huyện Thủy Đường, phủ Kinh Môn, lộ Hải Dương) ngoài các sinh hoạt văn hóa, lễ hội như các làng quê khác còn có loại hình sinh hoạt văn hóa Ca trù tiêu biểu, khá phát triển với nhiều nghệ nhân nổi tiếng trong Tam phủ Bát huyện. Theo các tài liệu còn để lại và qua lời kể của các cụ xưa thì ca trù Đông Môn ra đời từ thời Lê.
Theo người dân địa phương kể lại rằng: Các cụ xưa có nói, ca trù ở đây đã bắt nguồn từ bốn anh em nhà họ Phạm ở trang Thủy Đường, phủ Kinh Môn, lộ Hải Dương, xưa là Phạm Quang, Phạm Nghiêm, Phạm Huấn, và Phạm Thị Cúc Nương. Cả bốn anh em đều theo Vua Lê Đại Hành đánh giặc. Sau khi chết dân làng đều lập đền thờ – Làng Ngọc Phương (nay là thôn Thủy Tú, xã Thủy Đường ) thờ Phạm Quang và Phạm Thị Cúc Nương. Làng Nương Kệ và Chiếm Phương (nay thuộc xã Hòa Bình) thờ Phạm Nghiêm – làng Thường Sơn (nay thuộc thị trấn Núi Đèo) thờ Phạm Huấn, là những người đầu tiên mang nghề ca trù về truyền bá ở khu vực này. Đó chỉ là truyền miệng, cũng có thể lối hát ca trù đã bắt đầu từ thời Tiền Lê, nhưng thời kỳ này, ca trù có lẽ còn hòa lẫn với các hình thức ca nhạc dân gian khác chứ chưa trở thành một bộ môn nghệ thuật độc lập và có âm luật riêng như từ thời Hậu Lê trở đi.
Tuy nhiên, căn cứ trên những di tích còn lại có thể khẳng định rằng, làng Đông Môn, huyện Thủy Nguyên cũng là một trong những cái nôi phát tích của nghệ thuật Ca trù. Bằng chứng là ở làng Đông Môn, xã Hòa Bình, huyện Thủy Nguyên hiện nay còn có đền thờ nhị vị tổ nghề Ca trù Đông Môn dựng từ thời Hậu Lê. Ngôi đền này thờ Đinh Dự hiệu Thanh Xà Đại Vương (có người còn gọi là Đinh Lễ) cùng vợ là Bạch Hoa công chúa (Mãn Đường Hoa công chúa, con gái ông Bạch Đình Sa, là quan châu phủ Thường Xuân, Thanh Hóa). Có hai giả thuyết về hai vị Tổ nghề này. Giả thuyết thứ nhất, ông Đinh Dự và vợ đã tiếp thu nghệ thuật hát ca trù về Đông Môn lập giáo phường và tổ chức truyền nghề cho con em trong làng cùng các làng, phủ lân cận. Chi tiết này có lẽ khó có thể kiểm chứng, nhưng thông qua câu chuyện truyền thuyết về vị Tổ nghề Ca trù cùng hệ thống những di tích thờ họ còn lại đến ngày nay trên khắp cả nước đã được khảo sát trong phần đầu của chương 1, có thể thấy rằng, chưa chắc vợ chồng Đinh Dự đã từng đến Đông Môn và truyền nghề cho dân chúng địa phương, nhưng cũng như nhiều làng nghề ca trù và giáo phường khác, người dân Đông Môn vẫn lập đền thờ họ để tri ân những vị Tổ nghề đã có công truyền lại câu ca tiếng phách tiếng đàn cho hậu thế. Và như thế, giả thuyết thứ hai nghe chừng có vẻ hợp lý hơn, nghe đồn hai vợ chồng họ Đinh ở Thanh Hóa khai sinh ra lối hát mới rất hay, người dân ở Đông Môn đã cử người vào đây học đàn, hát và về làng truyền lại cho con cháu. Nghề ca trù Đông Môn chính thức có từ thời đó. Khóa luận: Thực trạng khai thác du lịch về nghệ thuật Ca trù.
Tiếp theo hai ông bà Tổ nghề Đinh Dự và Bạch Hoa công chúa được cho là 2 người có công đặt nền móng đầu tiên cho nghệ thuật ca trù Đông Môn, thì sử sách và trí nhớ của các thế hệ nghệ nhân đời sau còn truyền tụng lại vai trò của người đã có công tiếp tục duy trì, phát triển và mở rộng loại hình nghệ thuật này ở Đông Môn là bà Chúa Sang (Phạm Thị Sang). Bà vốn là một đào hát nổi danh, nhờ tài sắc vẹn toàn đã được Chúa Trịnh Giang (1729 – 1790) phong làm Thứ Phi và cấp cho 10 mẫu ruộng lộc ở Đông Môn. Sau khi bà mất, do công lao của bà, giáo phường đã tạc tượng và đưa bà vào phối thờ trong ban thờ Mẫu chùa Đông Môn, tuy nhiên vào năm 1968, tượng bà được chuyển sang chùa làng Hà Phú bên cạnh.
Sau bà Chúa Sang, có thể kể tên thế hệ nghệ nhân tiêu biểu tiếp theo của Đông Môn là ông Tô Tiến. Ông nổi tiếng đã tham gia các chầu sát hạch do Nhà nước bấy giờ tổ chức và đều đạt bằng cấp cao, tiếp tục nối nghề và phát triển nghệ thuật ca trù, được giáo phường phong làm Trùm trưởng. Hiện còn bài vị, sắc phong (có niên đại cách đây khoảng 200 năm) cùng rất nhiều câu đối, hoành phi của giáo phường đương thời cũng như của các thế hệ giáo phường nối tiếp ca ngợi công đức của ông, đang được lưu giữ tại đền thờ ông của một trong hai chi họ giáo phường của làng Đông Môn.
Đặc biệt trong thời Nguyễn, Ca trù ở Đông Môn đã được triều đại vua Gia Long (1802 – 1819) phong tặng một bản Thần sắc bằng giấy sợi dầy màu vàng in hoa chữ “Thọ” tròn. Qua nội dung của bản Thần phả cho thấy Ca trù ở đây đã được triều Gia Long 2 lần sắc phong, ghi nhận công lao vào các năm 1804, 1810, chứng tỏ đây cũng là một trong những cái nôi của nghệ thuật ca trù ở miền Bắc. Chỉ riêng đọc qua Thần sắc nơi đây, đủ nói lên Phủ Từ thờ Tổ công này đã có trên 200 năm. Cụ thể là “Phủ Từ” thờ Tổ Ca công ở đây do con em của Tam phủ bát huyện góp tiền xây dựng. Gọi là Phủ Từ có nghĩa là nhà thờ hàng Phủ, theo hình chữ Tam, có hậu cung 2 gian, trung sảnh 3 gian, tiền đường 5 gian với đồ trang trí nghi trượng tế tự đẹp vào loại nhất huyện, còn có thêm những hình nộm Long, Ly, Qui, Phượng để đồ vũ đạo và các loại nhạc khí truyền thống khác. Sắc phong cũng xác nhận đây là tổ chức giáo phường thuộc quyền quản lý của Ty giáo phường Bắc thành, hai vị Tổ Ca công được thờ tự là Chính thần thuộc hệ Bắc Thành thờ. Nội dung của sắc phong cũng thể hiện đây không chỉ là đền thờ riêng cho những giáo phường của huyện Thủy Đường, phủ Kinh Môn, mà còn của cả khu vực Duyên hải. Những người già ở địa phương còn kể lại rằng: “Ngày xưa ở hội giỗ Tổ ca công hàng năm, con cháu nhà Thánh ở các nơi như Hà Nam, Kinh Môn, Kim Thành, Ninh Giang, Kiến An, Kiến Thụy, có khi cả Bắc Ninh, Thái Bình… cũng đều về làm lễ, ca múa cúng tế Tổ và kiểm tra tay nghề đàn hát, xét kết nạp Hội viên mới, cùng phân công kèm cặp bồi dưỡng thêm, còn nghệ nhân ở Đông Môn thì không phải đi tế lễ Tổ ở nơi khác”2. [7 ; 20-27]
Như vậy, qua hệ thống thờ tự, thần phả, sắc phong hiện còn lưu giữ lại làng Đông Môn cũng như các tài liệu lưu giữ rải rác ở Viện nghiên cứu Hán Nôm, Viện Thông tin Khoa học xã hội, chúng ta có thể khẳng định loại hình sinh hoạt ca trù nói chung, nghệ thuật ca trù nói riêng đã được hình thành tại làng Đông Môn, xã Hòa Bình, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng từ rất lâu (muộn nhất cũng đã có từ thời Hậu Lê), phát triển mạnh và trở thành một giáo phường có tính chất là một tổ chức nghề nghiệp với quy mô tổ chức chặt chẽ, có sức chi phối mạnh trong một số vùng rộng lớn mà ít nhất là vùng Duyên Hải Bắc bộ, được các triều đại phong kiến ghi nhận công lao và ít nhất (theo tài liệu còn lưu giữ được) đã 2 lần tấn phong vào những năm 1804 và 1810. Khóa luận: Thực trạng khai thác du lịch về nghệ thuật Ca trù.
Cũng giống như nhiều giáo phường khác, Phủ từ thờ tổ Ca công ở đây xưa kia có một tổ chức gọi là Hội đồng giáo phường, thường mấy năm bầu trùm trưởng một lần, để điều phối công vụ hành nghề quản lí phủ Từ, lo việc tổ chức ngày Hội thánh hàng năm. Sau khi đất nước rơi vào ách đô hộ của thực dân Pháp, tổ chức giáo phường cũng không còn hoạt động chuyên nghiệp như trước, nhưng Ca trù Đông Môn không vì thế mà mất đi thanh thế của mình. Vùng đất này nhiều đời sống bằng nghề ca trù là chủ yếu, nhà nào cũng có kép đàn và đào hát. Những tao nhân mặc khách thường tới đây nghe hát Ả đào, vào bất cứ nhà nào, hay muốn thưởng thức giọng ai hát, ngón đàn ai vê, tay phách ai gõ tha hồ lựa chọn, như nhà cụ Tô Văn Mô, cụ Nguyễn văn Tọa hay cụ Tô Văn Toại… là những nhà có tiếng đàn hát nổi tiếng ở Đông Môn hồi những năm 20 – 40 của thế kỉ XX.
Không chỉ có thế, lịch sử phát triển Ca trù Việt Nam ghi nhận: “tới năm 1940, một nghệ nhân ca trù làng Đồng Môn, Thủy Nguyên, Hải Phòng mới 16 tuổi đã dám vào Phú Nhuận, Sài Gòn dẫn theo một số đào kép ở quê nhà vào mở Ca quán hát Ả Đào tại thành phố phương Nam này. Vậy là ca trù đã loang ra khắp Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX”. [14]
Như thế, đủ thấy sức sống của Ca trù Đông Môn mạnh mẽ như thế nào và nghề hát Ca trù có ý nghĩa như thế nào trong đời sống thường nhật của người dân Đông Môn?
Dân làng Đông Môn và đôi ba dòng họ ở các làng phụ cận trước năm 1945 cũng hầu hết sống bằng nghề hát ca trù. Qua nhiều đợt sưu tra từ năm 1985 tới nay đã khẳng định, nghệ thuật ca trù Đông Môn đã hình thành lâu đời, trải qua nhiều đời, lâu nhất là họ Phạm, tiếp đó là họ Tô, rồi họ Nguyễn, họ Trần, họ Lưu. Ai cũng nói tất cả con cháu các dòng họ này đều đã có mười mấy đời liên tục sống với nghề, dần dần phát triển trở thành làng nghề chuyên nghiệp. Cách đây 200 năm, cụ trùm trưởng Tô Tiến là nghệ sĩ đàn đã cùng với vợ là Lại Thị Nhị một đào nương có giọng hát giỏi đã cùng dạy đàn hát cho cả làng. Xưa kia ai qua huyện Thủy Đường, nhất là qua làng Đông Môn đều được nghe và thấy vang vọng tiếng đàn, tiếng trống, tiếng phách, điệu múa, tiếng hát từ sáng sớm tới đêm khuya, ở tất cả mọi nhà. Cụ kị truyền cho ông bà, ông bà truyền cho cha mẹ, cha mẹ truyền cho con cháu. Nam thì học đàn nhạc, trống phách, nữ thì học cách lấy giọng, cách rung ngân luyến láy, cách nhả chữ, buông chữ và nhấn nhá cùng gõ nhịp, phải vừa sao đủ khổ đúng nhịp cùng với đàn và nghe tiếng trống chầu điểu khiển. Như vậy, rõ ràng ở đây xưa kia đã có một làng nghề ca trù hay làng nghề hát ả đào, khác hẳn với những vùng khác có phường hát. Tuy nhiên, sau nạn đói tháng 3 năm Ất Dậu – 1945, riêng miền Bắc chết đói trên 2 triệu người, những người làm nghệ thuật truyền thống ở đây cũng cùng chung số phận. Những ai còn sống sót trong nạn đói ấy cũng gặp nhiều khó khăn. Cảnh tiêu điều ấy ít nhiều đã làm làng nghề mai một. Khóa luận: Thực trạng khai thác du lịch về nghệ thuật Ca trù.
Những người hoạt động nghệ thuật hồi đó và trước đó, có còn sống thì lại cùng cả nước đánh giặc ngoại xâm, rồi cùng nhau chung lưng đấu cật hàn gắn phục hồi, môn nghệ thuật ca trù từ đời cha ông truyền lại dần bị lãng quên, suốt trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, tiếng hát tiếng nhạc ở đây đã hầu như bặt vô âm tín. Theo một khảo sát gần đây do địa phương tiến hành, vào cuối những năm 90 của thế kỷ XX, những người còn nhớ nghề tổ chỉ đếm trên đầu ngón tay, và hầu như ai cũng đã già yếu, ít nhất cũng từ 70 tuổi trở lên, như bà Tô Thị Chè là trẻ hơn cả3. Một số ca nương khác như bà Thoa, bà Xuyến, bà Nhận thì cũng đã rời đi nơi khác cùng con cháu. Có người xưa kia là nghệ nhân nổi tiếng nay cũng đã bị mất trí, hoặc bệnh hoạn, lại bỏ nghề lâu nên cũng chỉ bập bõm nhớ câu được câu chăng. Đáng chú ý nhất trong thế hệ này có lẽ phải kể đến nghệ nhân Nguyễn Thị Chín. Xuất thân từ giáo phường ca trù Đông Môn – Thủy Nguyên, nghệ nhân Nguyễn Thị Chín thời trẻ là đào nương tài sắc, từng tự mình mở ca quán ở Hải Phòng và Sài Gòn. Khi ấy, không ít người dám “chết” vì tiếng phách tre của bà. Dù đã 84 tuổi nhưng giọng bà còn rất khỏe, nảy hạt, nhuần nhuyễn và hát được nhiều làn điệu khó như: nhịp ba cung bắc, ba mươi sáu giọng… Tuy không còn ở Đông Môn, nhưng bà là một trong những người có công khôi phục lại nghệ thuật ca trù ở Hải Phòng. Năm 1994, 1995, bà đã cùng kép đàn danh tiếng Trần Trọng Quế, người đã từng có thời gian đệm đàn cho NSND Quách Thị Hồ, đạp xe khắp thành phố để tìm những đào nương, kép đàn năm xưa từng “một thời vang bóng”4, vận động họ tới tập luyện và truyền nghề cho những ca nương, kép đàn trẻ. Hai người sau này là những người có công sáng lập nên Câu lạc bộ Ca trù Hải Phòng, vẫn hoạt động thường xuyên liên tục, đều đặn từ đó cho đến nay.
Trở lại với Ca trù làng Đông Môn, hòa trong xu thế chung của Ca trù cả nước, đầu thế kỷ XXI, ca trù ở làng Đông Môn sau nhiều năm bị lãng quên nay đã và đang được phục hồi. Chủ nhiệm đầu tiên của Câu lạc bộ Ca trù Đông Môn là bác Tô Văn Thiệp và hiện nay là Ca nương Tô Thị Linh (kế tục từ năm 2011). Câu lạc bộ ca trù Đông Môn khi mới thành lập có 7 thành viên, trong đó có 3 ca nương, 2 nhạc công, 2 nghệ nhân với tư cách khách mời danh dự là bà Nguyễn Thị Chè (dạy hát) và ông Trần Văn Sự. Cụ bà Nguyễn Thị Chè ngoài 70 tuổi, còn ông Trần Văn Sự quá lứa tuổi trung niên, là những người của thế hệ trước, những nghệ nhân đã gìn giữ và truyền bá bộ môn nghệ thuật truyền thống này cho lớp trẻ. Họ là những người góp phần làm nên nét riêng của nghệ thuật ca trù Hải Phòng. Hiện nay lớp kế tiếp sau thời các cụ, ở làng còn có cô Tô Thị Linh (ca nương), Trịnh Thị Ngát (ca nương) và anh Tô Văn Tuyền (đánh đàn), anh Phạm Văn Cường (đánh trống). Lớp trẻ kế tiếp đang được đào tạo hát ca trù có 3 em: Nguyễn Thị Duyên, Tô Thị Liên, Tô Thị Huyền. Trong đó em Duyên vừa qua đã dành được huy chương bạc trong cuộc thi ca trù toàn quốc (2009). Nhìn chung, đội ngũ hát ca trù của làng Đông Môn hiện nay còn rất hạn chế và việc giữ gìn nghề hát ca trù của làng còn đang gặp rất nhiều khó khăn và thách thức. Một thực trạng đáng buồn là hiện nay ở thôn Đông Môn, lớp trẻ rời làng đi làm ăn xa khá nhiều, còn người ở lại thì công việc đồng áng cũng tất bật, cho nên số thành viên tham gia Câu lạc bộ Ca trù không thấy tăng lên. Hơn nữa, Ca trù vốn là một môn nghệ thuật khó, đòi hỏi phải có sự kiên trì và khổ luyện, nên nhiều người trong thôn không tha thiết lắm với việc kế tục vốn cổ của ông cha. Vì vậy, để Ca trù Đông Môn tiếp tục được duy trì và phát huy, ngoài sự nỗ lực của các thành viên Câu lạc bộ, cùng cần có sự quan tâm sâu sát của chính quyền địa phương cũng như của nhiều ban ngành đoàn thể có liên quan.
2.2.2. Đặc trưng của nghệ thuật ca trù Đông Môn Khóa luận: Thực trạng khai thác du lịch về nghệ thuật Ca trù.
Cũng giống như nghệ thuật Ca trù cả nước, Ca trù Đông Môn từ xưa tới nay có nhiều tên gọi. Song bên cạnh những tên gọi chung, người dân ở đây còn dùng một cái tên hết sức dân dã để hình dung về nghề hát của mình, đó là “hát Gõ” và đôi khi hát Cô đầu hay hát Ả đào còn được gọi chệch đi là hát Cô đào (Đào nương).
Về hình thức tổ chức giáo phường ở đây cũng có một số điểm khác biệt. Ban đầu giáo phường được đặt ở Phủ lị Kinh Môn, gần 400 năm trước (đầu thế kỉ XVII), được di chuyển về xây dựng và tu tạo tại Phủ từ ở làng Đông Môn với ông trùm trưởng giáo phường là người địa phương vì huyện Thủy Đường khi đó thuộc Phủ Kinh Môn có nhiều nghệ nhân điêu luyện và cũng nhân gặp thời bấy giờ là thời phát triển thịnh vượng nhất của ca trù.
Ở thời ấy, các giáo phường ca trù, với tổ chức có hệ thống từ trên xuống dưới và có quy định luật lệ hẳn hoi nên Phủ từ Đông Môn ở đây do Tam Phủ Bát Huyện tu tạo, đã được coi như của cả vùng. Ngay từ đầu tổ chức đã lập ra Hội đồng giáo phường với nhiều nghệ nhân của các dòng họ có mặt, Hội đồng giáo phường bầu ra trùm tưởng, tiếp nối những lần sau, tùy theo nhu cầu khả năng để đoàn kết củng cố phát triển nghề nghiệp, có thể năm đó không hạn định bầu ra trùm trưởng và không nhất thiết trùm trưởng chỉ trong một dòng họ. Với nhiệm vụ của trùm trưởng là theo dõi quản lí các công việc của hội, điều hành thực thi điều lệ và trông nom phủ từ thờ Tổ Ca Công, đặc quyền của trùm trưởng là được lập thêm bàn thờ, thờ tổ nghề ở tại nhà mình.
Những ngày hội Thánh theo định kì là 23 tháng 3 và 23 tháng 9 Âm lịch hàng năm. Mỗi định kì tổ chức 3 ngày, 3 đêm ấy ở hội, con cháu nhà thánh đi hành nghề ở các nơi đều về lễ hội. Nhưng được vào chiếu tế phải là người có cấp bậc trong Hội, người ngoài hội dù có chức sắc cao tới mấy cũng không được vào dự tế. Trong mấy ngày hội, đều có tổ chức đàn nhạc và múa hát thờ Tổ hay tế Tổ. Những người được vào múa hát trước ban thờ Tổ cũng đều phải là những nghệ nhân có tay nghề sành sỏi. Hội viên mới chỉ được tham gia phụ giúp bên ngoài hoặc biểu diễn giúp vui trong khoảng thời gian không phải là giờ chính thức trong lịch định của hội. Ngoài ra, quan hệ thầy trò, quan hệ sinh hoạt tập thể trong hội cũng rất mực có tôn ti trật tự, có cấp bậc trên dưới. Những luật lệ này luôn luôn được lưu giữ truyền lại từ xa xưa tới đầu thế kỉ XX này.
Về tục lệ gia nhập giáo phường ở đây: Ai muốn vào hội phải có người là một trong những phụ huynh trong Hội nhận làm đỡ đầu, hay nhận làm con nuôi. Nhưng dù là con đẻ của hội viên hay con đỡ đầu thì người bố hay người mẹ phải đứng ra giới thiệu và trình trước với ông thủ bạ của hội, tiếp đó người xin vào hội phải nộp một khoản lệ phí nhỏ.
Đến ngày Lễ hội Tổ nghề hàng năm, người muốn xin vào hội phải có mặt trước cửa nhà Thánh, trình diễn tiếng hát, tay phách, điệu múa và ngón đàn của mình để Hội đồng giáo phường cùng đông đảo dân chúng, đều là những nghệ nhân sành sỏi trong nghề, có trình độ thẩm âm cao, nhận biết năng khiếu tốt, lại giàu uy tín nghề nghiệp và cũng là để bảo đảm công minh, thành kính, tin tưởng một cách trang nghiêm, theo dõi, nhận xét. Nếu người xin vào hội nhận được nhiều ý kiến phản hồi chưa tốt, giáo phường sẽ phân công hội viên sành nghề gần gũi, kèm cặp, đào tạo với thời gian đàn tối thiểu là 2 năm, hát múa và phách nhịp tối thiểu là 3 năm, để ngày hội giỗ Tổ những năm sau sát hạch lại, nếu đạt sẽ được kết nạp vào hội, không đạt lại phải tiếp tục rèn luyện thêm chờ Hội sau. Chỉ sau khi được kết nạp là hội viên chính thức, mới được hành nghề và được tham dự các kỳ thi tuyển lai Kinh từ giáo phường trở lên. Xem thế, đủ biết việc đào tạo, truyền nghề ở Đông Môn cũng nhiều tiêu chuẩn khắt khe và đòi hỏi lắm công phu. Nhưng có nhờ thế, giáo phường ở đây mới phát triển mạnh mẽ, góp phần quan trọng trong việc truyền nghề cũng như bảo lưu được nhiều sắc thái riêng. Khóa luận: Thực trạng khai thác du lịch về nghệ thuật Ca trù.
Về bài bản và làn điệu, ca trù Đông Môn không có khác biệt nhiều so với ca trù của cả nước. Ca trù có 80 làn điệu. Trong hơn 80 làn điệu ca trù thực tế không phải nghệ nhân nào cũng biết và sử dụng thành thạo các làn điệu.
Sự khác biệt có lẽ chủ yếu đến từ cách thức trình diễn. Chẳng hạn như, ngày xưa hát ca trù ở cửa đình, tế Tiên thần hay thờ tiên thánh hầu hết là hát những bài thơ, bài kinh, bài truyện có sẵn, vừa múa vừa hát theo các tiết mục hành lễ, như hát dâng rượu, đến cáo biệt Thần, hay hát thờ có Giáo trống, giáo hương, thét nhạc, hát giai, ngâm thơ, hát múa “bỏ bộ”… Ở Đông Môn, trong những buổi hát thờ thần theo như cụ Pham Quang Thanh, một nghệ nhân già kể lại thì đôi khi còn có thêm một số bài thơ bằng chữ Hán, hoặc nửa Nôm, nửa hán, của những Nho sĩ văn nhân ở địa phương, hoặc quan lại và chức sắc nơi sở tại sáng tác, ca tụng công đức phò nước cứu dân của vị Thành Hoàng ở làng mình.
Hay như các điệu múa trong Ca trù, theo như khảo sát của Viện Âm nhạc – là đơn vị được Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch giao nhiệm vụ lập hồ sơ về Ca trù trình UNESCO, thì các nhà nghiên cứu tìm hiểu được rằng (cả trong sách Hán Nôm và lời kể của nghệ nhân), ngoài yếu tố chưa thống nhất được có bao nhiêu loại hình múa trong ca trù, thì mỗi điệu múa tại mỗi giáo phường cũng được trình diễn khác nhau, mang sắc thái khác nhau. Ví như ở Bắc Ninh, ca trù cửa đình được mô tả: Đào tay cầm hai cái sinh đứng một mình hát thờ; trong lễ cửa đình có nhiều cặp (kép/đào) tham gia hát múa; phần bỏ bộ được múa vào lúc gần sáng do cô đào thể hiện; còn múa bài bông thường múa vào dịp giã đám…
Còn ca trù cửa đình ở Đông Môn, Hải Phòng lại được diễn theo cách cứ tế xong là đi ba tuần rượu, ba tuần múa và khi múa thờ quay mặt vào đình, khi múa không quy lưng vào cửa đình; đội hình múa lúc thì 4 người, lúc 6 người… Từ những thông tin nhiều chiều về múa ca trù và so sánh nhỏ nêu trên, cho thấy tính dị bản của múa dân gian (ở từng địa phương, từng phường ca trù) là tất yếu đặc trưng của văn hóa nghệ thuật dân gian. Chính nhờ tính dị bản đó tạo nên sự phong phú, đa dạng và sức sống mãnh liệt của nghệ thuật diễn xướng ca trù.
Một nét độc đáo nữa của Ca trù Đông Môn là đã đem vào lối hát khuôn của nghệ thuật Ca trù một sự phá cách rất mới mẻ. Chẳng hạn như, yêu cầu của Ca trù nói chung đối với tiếng hát của Ca nương là phải đạt được những tiêu chí sau:
- Tiếng hát phải mịn màng trong sáng, ngọt mượt một cách tự nhiên.
- Tiếng hát phải đều đặn, tròn vành, rõ chữ và bằng phẳng đúng khuôn nhạc.
- Tiếng hát phải thể hiện tự nhiên, thật linh hoạt, có sáng tạo, đảm bảo ý thơ tình thơ.
- Tiếng hát khi vút cao phải trong suốt. Khóa luận: Thực trạng khai thác du lịch về nghệ thuật Ca trù.
- Với giọng hát không sai cung bậc Nam hay Bắc, Pha hay nao, hoặc Huỳnh, không sai âm từ bằng trắc làm méo mó cả chữ trong câu thơ, lời thơ. Đó là tiêu chuẩn của nghệ thuật hát nói chung.
Nhưng riêng ở Hải Phòng, đầu thế kỷ XX, do sự phát triển của nhiều ngành nghề và loại hình văn hóa đã hình thành nhiều ca quán hát ả đào. Do giao lưu nhiều, phải tranh tài tranh khách nên từ lối “Hát khuôn” đã phát triển rộng thành lối “Hát hàng hoa”, tiếng hát có linh hoạt bay bướm, ngọt ngào hơn, thoáng đạt hơn, tự do hơn, gây được cảm xúc hơn, hay còn gọi là lối hát tài tử, nên tiếng hát Đào nương ở Hải Phòng, đặc biệt là nghệ nhân ở Đông Môn đã nổi tiếng khắp miền.
Tóm lại, nghệ thuật hát Ca trù Đông Môn đã có một lịch sử lâu đời và một bản sắc rất riêng. Nhưng trải qua thời gian, những nét hào hoa đặc trưng đó đang dần dần bị phai nhạt. Làm thế nào để khôi phục lại một trong những vẻ đẹp truyền thống của dân tộc quả thực là một bài toàn không dễ có lời giải với Ca trù của Đông Môn nói riêng và nghệ thuật Ca trù của cả nước nói riêng.
2.3. Thực trạng khai thác ca trù Đông Môn trong đời sống và hoạt động du lịch
2.3.1. Biểu diễn ca trù trong các lễ hội làng, tiệc mừng
Các phường hát ca trù ở Đông Môn trước đây và ngay cả bây giờ đều đi biểu diễn trong các tiệc mừng cưới xin, hoặc lễ chúc thọ, mừng nhà mới hay phục vụ những buổi có văn nhân sĩ tử tới nhà yêu cầu nghe hát, nghe nhạc, thưởng thơ, theo lời mời của hàng tỉnh, hàng huyện hay hàng tổng, hàng xã khác. Ca trù còn được biểu diễn ở các lễ hội, phục vụ cúng tế Tiên hiền Tiên thánh, Tiên Vương, Tiên hầu hay Thành hoàng làng nào đó ở các đình làng hay phục vụ cả những vị thần linh khác, được cả vùng tôn sùng trong các ngôi đền lớn với nhiều khách thập phương cùng đến lễ hội.
Mặt khác, những phường hát này không chỉ hát ả đào, mà còn thành thạo các điệu hát văn ca tụng những Đức ông hay chúa Mẫu nơi Tam Hoàng Tứ phủ, như Hoàng Bảy, Hoàng Ba, Cô Bơ, Cô Chín, Chúa Liễu, Chúa Thoải, với tâm linh tưởng tượng nào đấy, có công trị quốc an dân, hoặc có tiếng linh thiêng, với nội dung bài hát được thỉnh cầu, được phù trì cho an khang, thịnh vượng, trường sinh.
Đông Môn hiện nay cứ vào ngày 24/3 và 24/9 âm lịch hàng năm đều tổ chức lễ hội làng nghề hát ca trù để tưởng nhớ ngày sinh và ngày mất của vị Tổ nghề. Vào ngày hội, ca nương ở nhiều nơi đều về dự giao lưu và hát thờ đêm trước diễn ra hội. Khi tổ chức hội đều có rước sắc phong. Ban tổ chức hội và các hội viên đều là những người tự nguyện đóng góp kinh phí để hoạt động.
Ngoài ra, khi có lời mời, Câu lạc bộ Ca trù Đông Môn hiện nay đều sẵn sàng đi hát phục vụ, chẳng hạn như tham gia hát thờ tại Đền Phò Mã, thị trấn Núi Đèo huyện Thủy Nguyên những năm gần đây.
2.3.2. Biểu diễn ca trù tại nhà của các nghệ nhân hay ca quán Khóa luận: Thực trạng khai thác du lịch về nghệ thuật Ca trù.
Đông môn xưa kia hầu hết người dân trong làng đều theo nghề hát ca trù. Bởi vậy nơi đây nghề ca trù phát triển rất rầm rộ và sôi nổi. Nhà nào cũng có kép đàn và đào hát, chồng đàn vợ hát, hay bố đàn con gái, con dâu hoặc cháu hát. Những tao nhân mặc khách thường tới đây nghe hát ả đào, vào bất cứ nhà nào, hay muốn thưởng thức giọng ai hát, ngón đàn ai vê, tay phách ai gõ tha hồ lựa chọn.
Nhiều nghệ nhân Đông Môn còn đi mở các ca quán hát ả đào ở các thị trấn hay đô thành nơi xa như Hà Nội, Quảng Yên, Hải Phòng, Kiến An… Cụ thể như cụ Phạm Cửu Tuế là một tay đàn tài cùng vợ là Linh Thoa một đào hát giỏi lên Hà Nội mở ca quán ở Khâm Thiên. Hay ở Hải Phòng đầu thế kỷ XX, người ta còn nhắc đến hàng loạt ca quán ở cánh gà ngoài (khu Dư Hàng Kênh ngày nay), cánh gà trong (khu Quán Bà Mau, Lạch Tray) hay Cam Lộ (Thượng Lý) đều do những người có nguồn gốc xuất thân từ làng Ca trù Đông Môn làm chủ. Thậm chí, cả đất Sài Thành những năm 40 của thế kỷ XX cũng bị thu hút bởi lối hát hàng hoa tài tử bay bướm của các nghệ nhân Đông Môn đã mạnh dạn vào đây khai phá và lập nghiệp.
Chỉ tiếc rằng, hiện nay những ca quán này không còn được người Đông Môn duy trì nữa. Đó cũng là xu thế mất mát chung của Ca trù cả nước.
2.3.3. Khai thác tại câu lạc bộ Ca trù
Tại Đông Môn hiện nay có câu lạc bộ ca trù Đông Môn do ông Tô Văn Thiệp làm chủ nhiệm. Câu lạc bộ vẫn thường xuyên hoạt động, biểu diễn theo định kì. Câu lạc bộ vẫn tiếp tục việc truyền dạy cho lớp trẻ những làn điệu ca trù, để ca trù luôn được bảo tồn và phát triển. Tuy nhiên, từ khi cụ Tô Thị Chè mất thì hoạt động của câu lạc bộ có phần giảm sút, phần vì không có người dạy, phần vì thiếu kinh phí hoạt động. Song nếu du khách nào còn nuối tiếc cái không gian tài tử thuở xưa, có thể đến nhà bác Tô Văn Thiệp, chủ nhiệm Câu lạc bộ Ca trù Đông Môn hiện nay để thưởng thức tay đàn điệu hát. Các thành viên của Câu lạc bộ vẫn luôn nhiệt tình đáp ứng yêu cầu của mọi đối tượng khách và trong mọi trường hợp. Tính lợi nhuận ở đây không tính đến mà chủ yếu những người làm nghệ thuật này đều có chung một tâm huyết cố gắng truyền tải cái hồn của cha ông đã được gìn giữ từ bao đời nay.
Dưới đây là danh sách các thành viên tham gia Câu lạc bộ và vị trí, vai trò của họ trong Câu lạc bộ:
Ngoài những người tham gia thường xuyên trong Câu lạc bộ thì còn có một số thành viên tham gia không thường xuyên như: Cô Khánh, cô Sắn, cụ Trang, cụ Tô Nhường (trống chầu+ sáng tác thơ). Họ đều là những người dân trong làng, ít nhiều có lòng say mê với một trong những bộ môn nghệ thuật truyền thống của dân tộc, nhưng do điều kiện gia đình không cho phep nên chỉ khi có thời gian rảnh rỗi hoặc khi câu lạc bộ thiếu người biểu diễn, họ mới tham gia.
2.3.4. Khai thác trong các dịp đi lưu diễn, biểu diễn Khóa luận: Thực trạng khai thác du lịch về nghệ thuật Ca trù.
Ca trù Đông Môn thường xuyên đi lưu diễn, biểu diễn, giao lưu với các câu lạc bộ khác trong thành phố và với các vùng khác trên toàn quốc nhằm tăng cường khả năng học hỏi. Câu lạc bộ thường giao lưu với câu lạc bộ ca trù Hải Phòng, CLB hội văn nghệ dân gian Việt Nam, CLB UNESCO, CLB Hà Nội, CLB Thái Hà, CLB Hải Dương… Câu lạc bộ ca trù Đông Môn còn thường xuyên đi tham gia biểu diễn trong các cuộc thi, liên hoan và đã đạt được nhiều giải cao như:
Tại Liên hoan ca trù toàn quốc 2005. Đây là lần đầu tiên một cuộc Liên hoan Ca trù có qui mô cả nước được tổ chức. Ban tổ chức liên hoan đã chọn hai địa điểm là Nghi Xuân (Hà Tĩnh) và Văn Miếu Quốc Tử Giám (Hà Nội) làm nơi tổ chức liên hoan bởi vì Ca trù có hai dòng khác nhau: ca trù cửa đình và ca trù cửa quyền với nghi thức và không gian khác nhau. Một nơi là dòng ca trù của thị thành nghìn năm văn hiến sẽ diễn ra ở Văn Miếu Quốc Tử Giám. Đây là hoạt động nhằm khôi phục dòng ca trù của chốn kinh kỳ nổi tiếng tại phố Khâm Thiên, đất Thăng Long xưa. Không gian ở đây được sắp đặt theo nghi thức hát cửa đình vừa trang trọng, vừa tôn nghiêm, có nhiều hình thức nghệ thuật gắn liền với đời sống ca trù như xướng vịnh, thơ phú… Còn tại Nghi Xuân (Hà Tĩnh) sẽ diễn ra phần thi của dòng ca trù thôn quê. Theo các nhà nghiên cứu, địa phương này là một cái nôi của nghệ thuật ca trù Việt Nam. Tại Nghi Xuân, Ban tổ chức tạo dựng không gian văn hoá dân gian như những quán hàng cổ, các ông đồ viết câu đối, chữ nho, một số quầy hàng thủ công mỹ nghệ để tăng giá trị phục cổ cho cuộc liên hoan. Và hai câu lạc bộ ca trù của Hải Phòng là Câu lạc bộ Ca trù Đông Môn và Câu lạch bộ Ca trù Hải Phòng thuộc Hội văn nghệ dan gian tham gia liên hoan ở huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh). Ngay lần tham dự thứ nhất này, Ca nương Trịnh Thị Ngát đã đạt Huy chương Bạc do Bộ VH-TT trao tặng5.
- Liên hoan Ca trù toàn quốc 2006 được tổ chức tại Hà Nội, Trịnh Thị Ngát là một trong những đại diện cho TP Hải Phòng về tham dự.
- Liên hoan ca trù toàn quốc 2007 tại Hải Dương.
- Liên hoan ca trù toàn quốc 2009 tại Hà Nội: Ca nương Nguyễn Thị Duyên cũng đã dành được Huy chương bạc.
Với việc tham gia đều đặn các cuộc Liên hoan qui mô lớn do nhà nước tổ chức, Ca trù Đông Môn đã dần khẳng định được tên tuổi của mình trong tổng số 22 Câu lạc bộ ca trù hiện đang hoạt động. Việc tham gia đó không chỉ giúp cho Ca trù Đông Môn duy trì được sức sống của một làng nghề cổ, mà còn là cơ hội cho các nghệ nhân trẻ được cọ xát và giao lưu, học hỏi với các câu lạc bộ khác, với các địa phương khác để trau dồi thêm ngón nghề của mình ngày càng sành sỏi hơn, nhuần nhuyễn hơn. Đó là một phần thưởng tinh thần vô giá mà không một giải thưởng vật chất nào thay thế được.
Bên cạnh việc tham gia các Liên hoan ca trù toàn quốc, Câu lạc bộ Ca trù Đông Môn còn tham gia biểu diễn ở nhiều nơi. Một trong những địa điểm quen thuộc là không gian văn hóa sống động của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam tại Hà Nội. Dưới đây là một trong những Chương trình biểu diễn nghệ thuật Ca trù do Trung tâm UNESCO Ca trù và Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam phối hợp thực hiện có sự tham gia của Câu lạc bộ Ca trù Đông Môn:
Chương trình ca trù 6 tháng đầu năm 2008 (chủ nhật thứ 4 hàng tháng)
- Tháng 1: ngày 13, Tưởng niệm cố nghệ sỹ Quách Thị Hồ. Khóa luận: Thực trạng khai thác du lịch về nghệ thuật Ca trù.
- Tháng 2: ngày 24, Chương trình chào mừng xuân Mậu Tý, với sự tham gia của câu lạc bộ ca trù Lỗ Khê (Đông Anh, Hà Nội).
- Tháng 3: ngày 23, Với sự tham gia của câu lạc bộ ca trù Đông Môn (Hải Phòng).
- Tháng 4: ngày 27, Về thi sỹ Tản Đà.
- Tháng 5: ngày 25, Hát nói, Gửi thư, Hát ru-hát giai, Bắc phản, Thơ cổ, Chừ khi.
- Tháng 6: ngày 22, Với sự tham gia của câu lạc bộ Hải Dương và Hải Phòng.
Mặc dù nằm trong phạm vi của một chương trình giao lưu văn hóa, nhưng Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam vốn dĩ là một trong những điểm đến du lịch hấp dẫn du khách khi đến với thủ đô Hà Nội với hai khu trưng bày bên trong và đặc biệt là khu trưng bày ngoài trời – nơi thường xuyên diễn ra các hoạt động triển lãm, giao lưu văn hóa nghệ thuật. Lượng du khách quốc tế đến với Bảo tàng rất đông, vì thế có thể xem những chuyến tham gia biểu diễn như thế này là một cơ hội cho Ca trù Đông Môn tự quảng bá tên tuổi của mình. Rất có thể vì yêu mến tiếng hát của các nghệ nhân Đông Môn mà biết đâu sẽ có thêm nhiều du khách tìm đến với du lịch Hải Phòng để được tự mình tìm hiểu về mảnh đất gốc – nơi đã sản sinh ra những tay đàn, tiếng phách, tiếng hát ngọt lịm, làm say đắm lòng người ấy?
- Tham gia phục vụ chương trình lên lão của Hội người Cao tuổi xã Thủy Đường vào tháng 1 năm 2010.
- Tham gia Hội diễn Ca múa nhạc Văn hóa.
- Tham gia trong chương trình kỉ niệm 62 năm Quốc Khánh, 1000 năm Thăng Long, “Chương trình nghệ thuật dân gian còn mãi với thời gian do Hội Liên hiệp văn nghệ Hải phòng tổ chức vào ngày 28/8/2010.
2.3.5. Khai thác trong hoạt động du lịch
Chính vì có giá trị nhiều mặt như thế, nên trong những năm gần đây, không chỉ có chính quyền địa phương xã Hòa Bình và huyện Thủy Nguyên quan tâm hỗ trợ phục hồi nghề hát Ca trù tại Đông Môn mà ngay cả chính quyền thành phố cũng vào cuộc. Nhiều cuộc khảo sát đã được tiến hành, nhiều nhà nghiên cứu đã tìm về Đông Môn để tìm hiểu và mong muốn phục dựng lại diện mạo huy hoàng xưa kia của Ca trù nơi đây. Thậm chí, nhằm mang lại cho nghệ thuật Ca trù Đông Môn sức sống hơn nữa và cũng nhằm mục đích quảng bá sâu rộng nghệ thuật này đến với du khách, Sở văn hóa thể thao và du lịch Hải Phòng đã đưa việc thưởng thức Ca trù Đông Môn vào một trong những tour du lịch trọng điểm của thành phố, đó là chương trình du lịch Bắc sông Cấm – Thủy Nguyên – Hải Phòng. Nội dung của tour du lịch là xuất phát từ nội thành đi Thủy Nguyên, tham quan chùa Lâm Động, thăm Đình Kiền Bái có tuổi trên 300 năm, qua xã Chính Mỹ thăm chùa Mỹ Cụ và hợp tác xã đan song mây xuất khẩu, sau đó đến dâng hương tại đền thờ trạng nguyên Lê Ích Mộc, thăm làng cau Cao Nhân, thăm đền thờ tướng quân Trần Quốc Bảo dưới chân núi U Bò. Tiếp theo, du khách sẽ được xuống thuyền xuôi dòng sông Giá thơ mộng với hai bên bờ sông vút ngàn màu xanh của Chuối, Cau, Nhãn trong các trang trại hoặc gia đình, kết hợp nghe ca trù Đông Môn trên thuyền, thuyền cập nhà hàng nổi Sông Giá. Cuối cùng, đoàn lên xe về nội thành Hải Phòng qua lối Cầu Kiền.
Xem qua nội dung và lịch trình của tour du lịch trên, có thể nhận thấy đây là một tour du lịch được thiết kế khá nặng, với nhiều điểm đến và điểm dừng chân. Khi tham gia tour du lịch này, gần như du khách đã được thưởng thức và trải nghiệm hết những tài nguyên du lịch tiêu biểu hiện có trên địa bàn huyện Thủy Nguyên. Hiện chưa có thống kê cụ thể về con số khách du lịch tham gia mua tour du lịch này, nhưng thiết nghĩ để Ca trù Đông Môn thực sự có chỗ đứng hơn nữa trong lòng của du khách bốn phương khi đến với Hải Phòng có lẽ cần đến sự phối kết hợp của nhiều ban ngành đoàn thể và những định hướng đề xuất giải pháp thiết thực và hiệu quả hơn. Khóa luận: Thực trạng khai thác du lịch về nghệ thuật Ca trù.
Tiểu kết chương 2
Trong chương 2, đề tài đã giới thiệu tổng quan về huyện Thủy Nguyên – quê hương của nghệ thuật Ca trù Đông Môn trên các bình diện từ điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế – xã hội đến tiềm năng du lịch của huyện, mục đích muốn khẳng định rằng Ca trù Đông Môn được sản sinh ra tại một trong những huyện có tài nguyên du lịch vô cùng phong phú, có nhiều tiềm năng để phát triển nhiều loại hình du lịch, do đó nếu đưa Ca trù vào khai thác trong du lịch chắc chắn sẽ có nhiều thuận lợi, góp phần vào việc vừa bảo tồn vừa phát huy nghệ thuật ca trù Đông Môn nói riêng và nghệ thuật ca trù của cả nước nói chung. Bên cạnh đó, đề tài cũng đi sâu làm rõ lịch sử hình thành và phát triển của nghệ thuật Ca trù Đông Môn, những đặc trưng và giá trị nổi bật của nghệ thuật ca trù nơi đây cũng như việc khai thác loại hình nghệ thuật này trong những năm gần đây, trên cơ sở đó sẽ đề xuất ra những định hướng và giải pháp cụ thể trong chương 3 để việc khai thác Ca trù Đông Môn thực sự có hiệu quả hơn nữa. Khóa luận: Thực trạng khai thác du lịch về nghệ thuật Ca trù.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Khóa luận: Giải pháp khai thác du lịch hiệu quả Ca trù Đông Môn