Khóa luận: Giải pháp hoạt động của doanh nghiệp xã hội Việt Nam

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Giải pháp hoạt động của doanh nghiệp xã hội Việt Nam hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Một số kiến nghị, giải pháp để nâng cao hoạt động của Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này. 

3.1. Thực trạng Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam hiện nay

Ước tính mỗi năm Việt Nam có khoảng 18 triệu người khuyết tật, người già neo đơn, trẻ em cơ nhỡ và những người yếu thế khác cần sự trợ giúp của xã hội. Đây là đối tượng phục vụ, là sứ mệnh đặc thù của các doanh nghiệp xã hội [22].

Khảo sát sơ bộ tại ba thành phố Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh năm 2011 cho thấy doanh nghiệp xã hội hoạt động dưới nhiều hình thức tổ chức và địa vị pháp lý khác nhau như: Trung tâm (hình thức hoạt động của các tổ chức phi Chính phủ), Công ty cổ phần, Công ty TNHH, Hội, Câu lạc bộ, Hợp tác xã… doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam cũng hoạt động đa dạng trên các lĩnh vực như giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khỏe, thủ công mỹ nghệ, truyền thông cộng đồng, nông nghiệp, bảo vệ môi trường,… [23] Hình thức tổ chức kinh tế mới – doanh nghiệp xã hội được coi như một giải pháp tích cực trong việc hạn chế, giải quyết và xử lý các vấn đề xã hội hiện nay như: việc làm, thu nhập, bất bình đẳng, nghèo đói, các đối tượng khó khăn trong xã hội (người tàn tật, dân tộc, vùng sâu, vùng xa)… [9, tr.11]

Hiện nay, việc phát triển mô hình doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam đang có rất nhiều thuận lợi.

Việt Nam là nước phát triển nhanh, do đó có một khối doanh nhân ngày một trưởng thành, cung cấp nguồn lực vật chất và kinh nghiệm quý báu cho các doanh nghiệp xã hội [11]. Bản thân các doanh nghiệp này được dẫn dắt bởi những người có uy tín, có tầm nhìn, luôn đưa ra những giải pháp sáng tạo. Tuy nhiên, việc phát triển các doanh nghiệp xã hội vẫn gặp khá nhiều khó khăn, thách thức. Phần dưới đây sẽ phân tích một số khó khăn cơ bản từ cả nội tại và khách quan của các doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay. Khóa luận: Giải pháp hoạt động của doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

3.1.1. Nhận thức của xã hội về hoạt động và vai trò của doanh nghiệp xã hội còn hạn chế

Hiện nay, mặc dù đã có được sự thừa nhận chính thức của Nhà nước, nhưng mô hình doanh nghiệp xã hội vẫn là một khái niệm mới. Theo thống kê của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, cả nước có gần 300 doanh nghiệp đang hoạt động theo đúng mô hình doanh nghiệp xã hội, chưa kể, còn có hàng ngàn tổ chức, trung tâm có những đặc điểm có thể phát triển thành doanh nghiệp xã hội. Tuy nhiên, nhận thức của xã hội về loại hình doanh nghiệp này còn hạn chế, dẫn đến sự hoài nghi của các bên về bản chất và mục đích của các doanh nghiệp này. Từ lâu trong nhận thức của cộng đồng luôn tồn tại sự phân biệt rạch ròi giữa các hoạt động thương mại, vì mục đích lợi nhuận và các hoạt động xã hội, phi lợi nhuận. Nói cách khác, quan niệm hai loại hình hoạt động này không thể cùng tồn tại thống nhất trong cùng một tổ chức hoặc doanh nghiệp đã đi sâu vào trong nhận thức của xã hội [14]. Thậm chí, ngay cả các cơ quan quản lý cũng chưa ban hành, phổ biến những thông tin pháp luật một cách thấu đáo đến người dân.

Chia sẻ về vấn đề này, GS-TS. Trương Thị Nam Thắng cho biết: “Việt Nam hiện có hơn 1.000 doanh nghiệp xã hội nhưng chính các doanh nghiệp này cũng không biết tổ chức doanh nghiệp của mình là doanh nghiệp xã hội. Kể từ năm 2014, khi Luật Doanh nghiệp ra đời, đến nay mới có khoảng 10 doanh nghiệp xã hội đăng ký theo luật này” [23].

Việc cộng đồng chưa thật sự trao niềm tin đối với loại hình doanh nghiệp này đã vô tình tạo ra những trở ngại và rào cản nhất định cho doanh nghiệp xã hội khi phải làm việc với các bên liên quan, làm gia tăng các chi phí về thời gian, nguồn lực và chi phí cơ hội và hạn chế khả năng tạo tác động tích cực, bền vững [7, tr.50]. Tình trạng gặp khó khăn, thái độ thiếu nhiệt tình trong quá trình hợp tác với các cơ quan chính quyền địa phương là rất phổ biến đối với các doanh nghiệp xã hội. Bởi lẽ khi doanh nghiệp xã hội đặt vấn đề hợp tác (ví dụ như việc đào tạo và tuyển lao động là những người khuyết tật) với chính quyền địa phương thì chính quyền chủ yếu quan tâm đến khía cạnh kinh tế nhiều hơn là khía cạnh xã hội. Bởi lẽ trong quan niệm của họ, doanh nghiệp khi hoạt động tại địa phương thì mục đích chủ yếu là thu lợi nhuận và đem lại nguồn lợi ích vật chất nhất định cho địa phương đó. Nhưng trên thực tế, để đánh giá hiệu quả và tác động của một doanh nghiệp xã hội thì phải căn cứ trên cả tác động kinh tế và tác động xã hội. Khóa luận: Giải pháp hoạt động của doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

Một trường hợp nữa có thể xảy ra với doanh nghiệp xã hội chính là nhiều doanh nghiệp xã hội, sau khi đăng ký dưới hình thức công ty (chuyển đổi từ quỹ, trung tâm) thấy nguồn tài trợ sụt giảm, vì các nhà tài trợ cho rằng tổ chức lập công ty là đã có đủ tiền và bắt đầu chuyển hướng thương mại hóa, do đó không tài trợ nữa [11]. Nhưng trên thực tế, bên cạnh nguồn vốn sẵn có của doanh nghiệp xã hội và lợi nhuận thu được từ mô hình kinh doanh, hầu hết các doanh nghiệp xã hội đều gặp khó khăn trong vấn đề tài chính. Chính vì vậy, nguồn vốn tài trợ dù ít hay nhiều cũng sẽ phần nào giúp các doanh nghiệp xã hội giảm gánh nặng kinh tế để vừa có thể tập trung thực hiện mục tiêu xã hội, vừa tìm kiếm những giải pháp kinh doanh để đạt hiệu quả cao [7, tr.50].

Kinh nghiệm nước ngoài cho thấy, việc thiếu một định nghĩa chính thức với các qui định cụ thể về tiêu chí xem xét và công nhận các tổ chức, doanh nghiệp là doanh nghiệp xã hội đã ảnh hưởng đến sự phát triển của lĩnh vực này. Việc chưa có nhận thức đầy đủ cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thiếu hụt khung khổ pháp lý cho doanh nghiệp xã hội, tạo ra rào cản cho các doanh nghiệp xã hội trong việc thu hút và tiếp cận các nguồn đầu tư tài chính và hỗ trợ khác, các ưu đãi chính sách, thiếu hụt nguồn nhân lực phù hợp… [7, tr.50]

3.1.2. Chưa có khung pháp lý đầy đủ cho doanh nghiệp xã hội hoạt động

Ngày 26/11/2014, Quốc hội đã thông qua Luật Doanh nghiệp sửa đổi, trong đó lần đầu tiên đưa ra quy định về doanh nghiệp xã hội. Theo đó, doanh nghiệp xã hội là doanh nghiệp được đăng ký thành lập theo quy định của luật này, mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng, và sử dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận hàng năm của doanh nghiệp để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường như đã đăng ký [19]. Khi có Luật, các doanh nghiệp, tổ chức xã hội sẽ tự động chuyển đổi và vận hành theo Luật mới nhưng yếu tố cốt lõi là doanh nghiệp xã hội phải được kiểm soát và điều chỉnh với mục tiêu phân phối lợi nhuận phải được đặt trong mục tiêu bao trùm là lợi ích xã hội.

Ở Việt Nam, dù chưa chính thức xác nhận sự hiện hữu của doanh nghiệp xã hội nhưng trên thực tế đã tồn tại rất nhiều mô hình doanh nghiệp tương tự như doanh nghiệp xã hội bởi mục đích tồn tại của nó nghiêng về lợi ích kinh tế hơn [7, tr.22]. Tuy nhiên, nếu xét trong mối quan hệ với cộng đồng thì mục tiêu xã hội vẫn bao trùm lên mục tiêu kinh tế bởi nó góp phần tạo việc làm, bảo đảm ổn định an sinh xã hội.

Theo đánh giá của một số chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế và pháp luật, trong một thời gian dài, Việt Nam vẫn chưa có một khung khổ pháp lý dành riêng cho các doanh nghiệp xã hội nên các doanh nghiệp này được thành lập, hoạt động và chịu sự điều chỉnh bởi các khung khổ pháp luật tương ứng [23]. Một bộ phận không ít các doanh nghiệp xã hội khác được thành lập tự phát, thông qua chuyển đổi… bởi các tổ chức phi chính phủ. Vì vậy, định danh, xây dựng hành lang pháp lý, môi trường hoạt động cùng những giải pháp hỗ trợ là việc làm cần thiết để mô hình kinh tế này phát triển tương xứng với tiềm năng, đồng thời hạn chế được những mặt tiêu cực [15]. Khóa luận: Giải pháp hoạt động của doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

Dẫn chứng cho sự thiếu vắng khung khổ pháp luật và môi trường cho doanh nghiệp xã hội hoạt động đó là mặc dù doanh nghiệp xã hội ở nước ta được thành lập dưới nhiều hình thức như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, hộ kinh doanh hay các hội, hiệp hội…, nhưng bản thân các doanh nghiệp xã hội rất lúng túng và gặp nhiều vướng mắc trong việc vận hành một mô hình kết hợp giữa mục tiêu xã hội và hoạt động kinh doanh [16]. Điều này được thể hiện rõ nhất là ở các vấn đề liên quan tới tài chính: quy định nhận viện trợ, tài trợ, các chính sách quy định về thuế và quản lý tài chính, khả năng tiếp cận các ưu đãi và các quy định Quản lý Nhà nước đối với các đối tượng đặc biệt trong xã hội [25, tr.15].

Hiện nay Nhà nước không có quy định nào hạn chế việc các doanh nghiệp nhận các khoản tài trợ, viện trợ không hoàn lại nhưng những quy định của Nhà nước lại chỉ cho phép doanh nghiệp được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp khi sử dụng khoản tài trợ để thực hiện các hoạt động từ thiện, nhân đạo trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, nghiên cứu khoa học, nghệ thuật tại một số cơ sở nhân đạo, trường học… [6] được nhà nước cho phép. Điều này hạn chế tính linh hoạt và chủ động của doanh nghiệp khi sử dụng khoản viện trợ này để hợp tác với các cơ sở ngoài công lập, hoặc tự thực hiện các hoạt động phát triển cộng đồng. Nếu việc nhận tài trợ được ghi nhận là một khoản thu thông thường thì doanh nghiệp có thể phải chịu thuế, nhưng việc chịu thuế này là bất hợp lý cho doanh nghiệp vì đây không phải là một nguồn thu nhập từ hoạt động kinh doanh, mà xét về bản chất là một khoản đầu tư xã hội, phi lợi nhuận.

Cơ chế quản lý tài chính là một vấn đề phức tạp gây nhiều khó khăn. Tuy nhiên hiện nay, chưa có một khung pháp lý rõ ràng và nhất quán cho các loại hình tổ chức xã hội khác nhau [7, tr.51].

Nhận xét về điểm mới liên quan đến doanh nghiệp xã hội trong Luật Doanh nghiệp 2014, bà Cao Thị Ngọc Bảo, Giám đốc Chương trình phát triển giáo dục và xã hội, Hội đồng Anh tại Việt Nam, nhấn mạnh: đó là tiền đề quan trọng đặt nền tảng cho việc hình thành môi trường pháp lý cùng những chính sách phù hợp nhằm khuyến khích hoạt động và sự phát triển của doanh nghiệp xã hội như một thành phần kinh tế mới bên cạnh các khối kinh tế công và tư [14].

Các doanh nghiệp xã hội được chính thức công nhận cho thấy sự nhìn nhận của Nhà nước, các nhà làm luật với vai trò thúc đẩy các tác động xã hội tích cực dựa trên các mô hình kinh doanh bền vững của doanh nghiệp xã hội. Và khi “danh đã chính”, các doanh nghiệp xã hội mong muốn có thêm các quy định cụ thể, rõ ràng giúp họ có thể mở rộng quy mô hoạt động, tiếp cận đa dạng nguồn vốn đầu tư và nhiều chính sách ưu đãi để có thể đồng thời thực thiện được cả hai mục tiêu xã hội và cộng đồng một cách hiệu quả.

3.1.3. Thiếu vốn và khả năng tiếp cận các nguồn tài chính còn hạn chế Khóa luận: Giải pháp hoạt động của doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

Đối với mỗi doanh nghiệp, vốn là yếu tố quan trọng đầu tiên để có thể giúp doanh nghiệp triển khai, thực hiện và mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh. Vốn được đề cập trong trường hợp này bao gồm cả nguồn vốn khởi sự doanh nghiệp và cả nguồn vốn phát triển doanh nghiệp. Đối với một số doanh nghiệp xã hội nhu cầu về vốn càng cấp thiết hơn nữa. Bởi họ không những cần nguồn vốn để tạo ra các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, mà nguồn vốn còn được sử dụng để ‘giáo dục’ khách hàng, ‘xây dựng’ thói quen, thị hiếu mới do doanh nghiệp xã hội thường là người đi tiên phong, khai mở thị trường trong một lĩnh vực hoàn toàn mới đối với xã hội [7, tr.53].

Các doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam còn khá non trẻ, được thành lập chủ yếu từ những ý tưởng mang tính cá nhân có sứ mệnh phục vụ xã hội nên vốn đầu tư ban đầu đa phần là vốn tự đóng góp của các thành viên sáng lập với quy mô nhỏ [12]. doanh nghiệp xã hội có đặc thù là không vì mục tiêu lợi nhuận, lại kinh doanh trên các thị trường có rủi ro cao, lợi suất tài chính thấp nên không hấp dẫn đối với các nhà đầu tư thương mại, do đó khả năng tiếp cận huy động các nguồn vốn đầu tư thương mại kể cả nguồn vốn khởi sự hoặc vốn cho phát triển kinh doanh là rất hạn chế [20]. Nhận xét về vấn đề này, PGS.TS Dương Thị Liễu (ĐH Kinh tế Quốc dân Hà Nội) cho biết: “Hầu hết các doanh nghiệp và tổ chức xã hội phải tự thân vận động để tìm kiếm nguồn thu duy trì hoạt động. Huy động vốn cho doanh nghiệp xã hội thậm chí còn khó khăn hơn cả gây quỹ cho doanh nghiệp truyền thống” [20].

Các doanh nghiệp xã hội rất khó huy động nguồn vốn vay ngân hàng vì một số lý do như [7, tr.53]:

  • Không có tài sản, nhà xưởng thế chấp do phần lớn doanh nghiệp xã hội hoạt động ở quy mô nhỏ;
  • Lãi suất cho vay của ngân hàng cao hơn nhiều khả năng sinh lời của doanh nghiệp xã hội;
  • Thời gian hoàn vốn kéo dài hơn các dự án thông thường.

Kết quả điều tra cấu trúc tài sản của doanh nghiệp xã hội đã cho thấy phần lớn nguồn vốn của doanh nghiệp xã hội là vốn tự có (chiếm 20.3%) và vốn tích lũy từ các hoạt động sản xuất kinh doanh (45.5%), một phần nhỏ tới từ tài trợ (5.3%). Vốn vay thương mại chỉ là một phần trong số các nguồn vốn khác (vốn vay ngân hàng, vốn vay gia đình bạn bè) với tổng số chiếm 28.8% [9, tr.16]. Trong khi đối với các doanh nghiệp thương mại, vốn vay thương mại lại là nguồn vốn lưu động quan trọng thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh thì thực tế đối với doanh nghiệp xã hội, nguồn tài chính này lại không chiếm tỉ trọng chi phối [7, tr.54].

Kym Viet, một trong những doanh nghiệp xã hội dành cho người khiếm thính gặp khó khăn trong việc kêu gọi vốn đầu tư. Vốn của Kym Viet rất nhỏ, nên không sản xuất được nhiều sản phẩm, hơn nữa thời gian quay vòng vốn rất lâu, doanh thu thường không đủ bù vốn [23]. Khóa luận: Giải pháp hoạt động của doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

Bên cạnh đó, thị trường vốn cho doanh nghiệp xã hội Việt Nam còn non trẻ, chưa đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp xã hội, thể hiện ở việc thiếu vốn và thiếu các hình thức và kênh cấp vốn phù hợp với doanh nghiệp xã hội phát triển ở các giai đoạn khác nhau và trong các lĩnh vực khác nhau. Cho đến năm 2012 mới chỉ có hai tổ chức NGO là Trung tâm Hỗ trợ Sáng kiến phục vụ cộng đồng (CSIP) và Trung tâm phát triển doanh nghiệp xã hội Tia Sáng là hai nơi có chương trình đầu tư vốn cho doanh nghiệp xã hội với tổng vốn đầu tư bằng tiền mặt vào khoảng 200,000 USD/năm. Đây là khoản vốn quá nhỏ bé so với nhu cầu của các doanh nghiệp xã hội hiện nay và mới chỉ là những đầu tư mang tính chất tạo vốn hạt giống, nhằm kích hoạt các ý tưởng và nâng cao năng lực chứ không phải vốn đầu tư đủ đáp ứng cho phát triển kinh doanh [7, tr.54].

Một số bên liên quan hoặc tiềm năng có thể tham gia thị trường tài chính cho doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam có thể kể tới là các cơ quan chính phủ, các nhà tài trợ quốc tế, các doanh nghiệp (chủ yếu thông qua hoạt động CSR) cũng chưa cho thấy mối quan tâm rõ ràng hoặc chương trình hành động cụ thể dài hạn nhằm hỗ trợ tài chính hoặc đầu tư cho các doanh nghiệp xã hội. Có nhiều lý do giải thích tình trạng này, trong đó có một thực tế là Việt nam chưa có sự thừa nhận và không có văn bản pháp lý nào quy định và hỗ trợ cho hoạt động đầu tư xã hội. Đầu tư cho các doanh nghiệp xã hội hiện không được hưởng ưu đãi thuế của nhà nước[1]. Quy định về việc doanh nghiệp nhận tài trợ phi thương mại không rõ ràng, gây khúc mắc như phân tích ở phần trên. Các nhà tài trợ do đó thường tìm kiếm giải pháp đi qua một đơn vị trung gian, làm tăng chi phí, giảm hiệu quả vốn đầu tư [7, tr.54].

Khi thiếu vốn, doanh nghiệp xã hội không biết đi đến đâu, tìm kiếm nguồn đầu tư từ đâu cho phù hợp với đặc thù hoạt động của mình. Còn nhà đầu tư thì cũng mất nhiều thời gian để tìm kiếm những doanh nghiệp xã hội có nhu cầu và tiềm năng cho khoản đầu tư của mình. Bên cạnh đó, một vấn đề quan trọng là năng lực của doanh nghiệp xã hội trong nước hiện nay chưa đủ vững mạnh để tiếp nhận đầu tư từ các nhà đầu tư xã hội chuyên nghiệp [12]. Trên thực tế, có nhiều yếu tố để các quỹ đầu tư xem xét trước khi quyết định đầu tư, trong đó yêu cầu mức doanh thu tối thiểu mà doanh nghiệp phải đạt được hàng năm. Đây là một yêu cầu không dễ đối với các doanh nghiệp xã hội nhỏ và vừa. Ngoài ra, có doanh nghiệp có doanh thu tương đối cao nhưng tỷ suất sinh lợi lại rất thấp [10]. Đó là lý do cho đến nay, nhiều quỹ đầu tư nước ngoài vẫn chưa quyết định đầu tư vào doanh nghiệp xã hội nào tại Việt Nam. Hậu quả là nhiều doanh nghiệp xã hội, sau nhiều năm, vẫn phát triển ở mức độ trung bình, quy mô nhỏ với tầm tác động xã hội hạn chế trước rất nhiều biến động và khó khăn của thị trường và sức ép từ các vấn đề xã hội ngày một gia tăng [23].

3.1.4. Hạn chế trong năng lực quản lý điều hành doanh nghiệp Khóa luận: Giải pháp hoạt động của doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

Thực tế cho thấy hầu hết các doanh nghiệp xã hội Việt Nam là các tổ chức, doanh nghiệp trẻ; do đó, họ thiếu kinh nghiệm và năng lực tổ chức và quản lý để đáp ứng nhu cầu kết hợp giữa kỹ năng quản lý kinh doanh với kỹ năng quản lý sứ mệnh xã hội để tạo các tác động xã hội bền vững. Năng lực cạnh tranh đặc thù của doanh nghiệp xã hội xuất phát từ các mối quan hệ mật thiết của họ với cộng đồng nhóm người yếu thế tại các địa phương, từ động cơ phi lợi nhuận và cơ hội từ những thị trường còn đang bị bỏ ngỏ. Để tận dụng được tất cả những thế mạnh này thì doanh nghiệp xã hội cần có khả năng quản trị chiến lược, tầm nhìn dài hạn, năng lực nhận biết và khai thác cơ hội từ thị trường, những chiến lược marketing sáng tạo, năng lực tổ chức làm việc hiệu quả với cộng đồng và khả năng quản lý tài chính xuất sắc. Kinh doanh xã hội do đó thậm chí đòi hỏi năng lực quản lý kinh doanh phải tốt hơn so với điều hành kinh doanh thông thường [7, tr.55].

Đối với các doanh nghiệp xã hội được xây dừng từ những người làm công tác xã hội, hoặc từ các chương trình dự án xã hội chuyển đổi thì rào cản cơ bản là họ còn thiếu năng lực quản lý và chưa được trang bị đầy đù những kỹ năng cần thiết liên quan đến phát triển kinh doanh, thể hiện cụ thể ở các mặt như: phát triển sản phẩm dịch vụ xã hội có định hướng thị trường, năng lực marketing, năng lực quản lý tài chính, tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh… [12] Khó khăn dễ nhận thấy là việc phải chuyển đổi từ hệ tư duy quản lý các dự án xã hội truyền thống sang tư duy quản trị kinh doanh chiến lược, chấp nhận cạnh tranh và các rủi ro liên quan đến hoạt động kinh doanh [25]. Quá trình chuyển đổi này cần thời gian dài, sự cọ xát về kinh nghiệm, thậm chí là thất bại thực tiễn cũng như cần có những hỗ trợ và các dịch vụ nâng cao năng lực phù hợp. Ngoài ra, cơ hội được đào tạo và nâng cao năng lực, cơ hội được thử nghiệm và phát triển đối với họ là rất ít vì các doanh nghiệp xã hội nhỏ này không có đủ nguồn lực đầu tư cho hoạt động nâng cao năng lực [7, tr.55].

Đối với nhóm các doanh nghiệp xã hội mới, do những người trẻ tuổi với khao khát xã hội và năng lực quản lý điều hành được đào tạo bài bản hoặc kinh nghiệm thực tiễn, thì vấn đề lại là khả năng thấu hiểu và kết nối với cộng đồng để thiết kế ra những hệ thống tổ chức, tương tác và làm việc với cộng đồng một cách hiệu quả, gắn chặt với thực tiễn nhu cầu của nhóm cộng đồng hưởng lợi, có chiến lược dài hạn trong việc đạt được mục tiêu bền vững cả về kinh tế và tác động xã hội [7, tr.55].

Hơn nữa, nhiều doanh nghiệp xã hội dễ rơi vào vòng luẩn quẩn của bài toán giải quyết khó khăn tài chính ngắn hạn và đầu tư dài hạn cho phát triển doanh nghiệp. Doanh nghiệp lao vào giải quyết những vấn đề trước mắt của vận hành tổ chức, duy trì nguồn tài chính mà không nhận thức được tầm quan trọng và cũng không có đủ nguồn lực để đầu tư cho các hoạt động chiến lược cho phát triển tổ chức, phát triển kinh doanh, trong bối cảnh môi trường hoạt động của doanh nghiệp xã hội là rất phức tạp và nhiều rủi ro [25]. Khóa luận: Giải pháp hoạt động của doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

Bên cạnh đó, việc phát triển một thị trường các hoạt động hỗ trợ và dịch vụ nâng cao năng lực phù hợp cho doanh nghiệp xã hội là một yêu cầu cấp thiết để giải quyết các vấn đề trên.

Đây lại là một điểm đang thiếu tại Việt Nam. Tuy dịch vụ đào tạo, hỗ trợ, tư vấn đã được hình thành ở Việt Nam từ khá lâu, phục vụ cả lĩnh vực doanh nghiệp tư nhân và tổ chức NGO nhưng lại rất khan hiếm các nhà cung cấp có thể mang lại dịch vụ thiết kế riêng cho nhu cầu của doanh nghiệp xã hội.

Hiện nay, CSIP đang là đơn vị đầu tiên cung cấp một số khóa đào tạo tập huấn dành riêng cho các doanh nghiệp xã hội bao gồm các khóa tập huấn đào tạo về phát triển doanh nghiệp xã hội tổng quan, kỹ năng lập kế hoạch kinh doanh, lãnh đạo doanh nghiệp xã hội, chương trình cố vấn cá nhân và tư vấn phát triển doanh nghiệp xã hội… [7, tr.55]. Tuy nhiên khả năng đáp ứng nhu cầu tư vấn đặc thù cho từng doanh nghiệp xã hội còn ít. Đồng thời, có rất nhiều các tổ chức, doanh nghiệp đang có tiềm năng phát triển có nhu cầu chuyển đổi theo mô hình doanh nghiệp xã hội nhưng lại không có các đơn vị có khả năng cung cấp các dịch vụ đào tạo, hướng dẫn phù hợp.

3.1.5. Những khó khăn liên quan tới nguồn nhân lực

Doanh nghiệp xã hội thường xuyên làm việc với cộng đồng các nhóm yếu thế trong xã hội. Do vậy, đặc thù nguồn nhân lực của doanh nghiệp xã hội do đó dẫn tới một số thách thức cơ bản như sau:

Đầu tiên, chất lượng nguồn nhân lực của các doanh nghiệp xã hội tương đối thấp, thiếu ổn định, năng suất lao động thấp. Nguồn lao động của các doanh nghiệp xã hội làm việc với nhóm những người thiệt thòi, kém may mắn, vốn là những đối tượng đặc biệt của xã hội như người khuyết tật, phụ nữ nông thôn, trẻ em thiệt thòi, là những nguồn lao động có chất lượng thấp, tính ổn định kém do các điều kiện về nhận thức, tinh thần sức khỏe và bối cảnh sinh sống, cũng như tay nghề lao động rất thấp. Vì vậy, không thể đòi hỏi ở họ năng suất lao động cao trong thời gian đầu tuyển dụng. Ngoài ra phải dự phòng tính không ổn định, rủi ro về việc người lao động bỏ việc, không đáp ứng được yêu cầu công việc [7, tr.56].

Bên cạnh đó, do phải làm việc với lực lượng lao động chất lượng thấp và chưa được qua đào tạo, nên hầu hết các doanh nghiệp xã hội phải dành một khoản chi phí đầu tư tương đối lớn cho nhân sự. Các chi phí này thường dành cho các hoạt động nâng cao nhận thức, đào tạo huấn luyện, tổ chức làm việc cho nhân sự, chi phí chăm sóc, chi phí cơ hội… Đối với các doanh nghiệp xã hội làm việc với đối tượng xã hội đặc biệt như phụ nữ bị buôn bán trở về, người sống chung với HIV-AIDS, người khuyết tật… thì chi phí này còn gia tăng do doanh nghiệp xã hội cần rất quan tâm và đầu tư chăm sóc tới sức khỏe thể chất và tinh thần, điều kiện sống và sinh hoạt của họ. Bên cạnh đó, rủi ro về tính bất ổn định của nguồn nhân lực khiến doanh nghiệp có thể tốn chi phí cho phát triển nhân sự mới [7, tr.56]. Khóa luận: Giải pháp hoạt động của doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

Ngoài ra, các doanh nghiệp xã hội cũng gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm nhân sự phù hợp. Trong bối cảnh thị trường nguồn nhân lực hiện nay, việc tìm kiếm một nhân sự quản lý tốt là vấn đề đau đầu của các tổ chức, doanh nghiệp nói chung. Nhưng đối với doanh nghiệp xã hội thì vấn đề này còn khó khăn hơn nữa. Bởi nhân sự cho doanh nghiệp xã hội không những phải là người thấu hiểu và chia sẻ sứ mệnh và giá trị xã hội của doanh nghiệp, mà họ còn phải đáp ứng yêu cầu về năng lực lao động, và kết hợp được những kiến thức kỹ năng quản lý kinh doanh và công tác xã hội. Trong khi đó, nguồn tài chính để trang trải cho việc đầu tư nhân sự cấp cao của doanh nghiệp xã hội là hạn chế. Không có nhiều doanh nghiệp xã hội có khả năng chi trả cho những nhân sự có chuyên môn cao theo mức cạnh tranh của thị trường nguồn nhân lực [7, tr.56].

Bên cạnh đó, hiện nay nguồn nhân lực phổ thông được đào tạo ra từ các trường đại học đều là những nhân sự đào tạo chuyên biệt cho lĩnh vực thương mại, kinh doanh, tài chính hoặc phát triển xã hội. Các nội dung định hướng về doanh nghiệp xã hội chưa được đưa vào giáo dục tại các trường đại học, nhận thức của giới trẻ về doanh nghiệp xã hội còn hạn chế nên khả năng thu hút nguồn nhân lực trẻ có được nền tảng đào tạo tốt của Việt Nam hiện nay là chưa cao.

Như đã nói ở trên, doanh nghiệp xã hội hiện đang gặp rất nhiều khó khăn và thách thức liên quan đến nguồn nhân lực. Nhưng một thực tế cần phải đề cập là Nhà nước hiện nay chưa có các chính sách cụ thể và hiệu quả để khuyến khích sử dụng lao động là người khuyết tật.

Do đó, kể cả khi đã được các doanh nghiệp xã hội đào tạo nghề, họ vẫn rất khó tìm được việc làm phù hợp; cho dù xét về khả năng, nhiều loại khuyết tật không hề ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện công việc của họ. Khó khăn ở đầu ra tất yếu làm giảm mức độ hấp dẫn trong việc thu hút học viên đầu vào của các doanh nghiệp xã hội [23].

Ngoài ra, cũng không có chính sách hỗ trợ nào cho những người làm việc tại các doanh nghiệp xã hội. Nhiều doanh nghiệp xã hội rất khó khăn trong việc tìm giáo viên dạy trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em tự kỷ, người khuyết tật. Mặc dù họ không phải là tình nguyện viên, nhưng lĩnh vực họ hoạt động mang tính xã hội và thường không có nhiều những lợi ích hấp dẫn như trong các lĩnh vực thông thường. Do đó, để bù đắp cho những thiếu hụt này, khuyến khích nguồn nhân lực tham gia khu vực công tác xã hội, nhà nước hoàn toàn có thể khuyến khích các giáo viên tham gia khối doanh nghiệp xã hội bằng các chính sách hỗ trợ lương, thuê nhà, đào tạo…

Hơn nữa, một vấn đề nữa mà hầu hết các doanh nghiệp xã hội đều gặp phải chính là sự phụ thuộc quá lớn của doanh nghiệp xã hội vào doanh nhân xã hội. Có thể nói sự phát triển của hầu như tất cả doanh nghiệp xã hội đều gắn chặt với vai trò của người sáng lập là doanh nhân xã hội. Tuy nhiên sự phụ thuộc quá nhiều vào doanh nhân xã hội cũng có thể được coi là một trong những điểm yếu của doanh nghiệp xã hội. Đơn cử như vấn đề kế thừa. Liệu các thế hệ lãnh đạo sau này của doanh nghiệp xã hội có duy trì được tinh thần, sứ mệnh và ý chí của thế hệ sáng lập doanh nghiệp xã hội là một câu hỏi lớn cho không ít các doanh nghiệp xã hội [7, tr.56].

3.2. Phương hướng và động lực phát triển của Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam Khóa luận: Giải pháp hoạt động của doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

Hiện nay, trên thế giới phong trào doanh nghiệp xã hội phát triển mạnh mẽ và lan tỏa trên nhiều lĩnh vực. Ở Việt Nam, khái niệm doanh nghiệp xã hội xuất hiện lần đầu tiên vào cuối những năm 2000 nhưng hoạt động mang tinh thần của doanh nghiệp xã hội từ lâu đã được ghi nhận: Mô hình doanh nghiệp xã hội đầu tiên tại Việt Nam là hình thức hợp tác xã [7, tr.8]. Cho đến gần đây, có một làn sóng phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp xã hội khi xuất hiện nhiều động lực phát triển hơn.

Trước hết, theo xếp hạng của Ngân hàng Thế giới (WB), mặc dù Việt Nam đã trở thành một nước có thu nhập trung bình nhưng trên thực tế, Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều vấn đề xã hội như: tình trạng thất nghiệp; tội phạm thanh, thiếu niên; bất bình đẳng giới; HIV/AIDS; người cao tuổi; trẻ em đường phố; người khuyết tật; nạn buôn người… [20] Cơ hội tiếp cận với các dịch vụ xã hội của những người có hoàn cảnh khó khăn vẫn còn thấp do đại đa số các doanh nghiệp nhà nước hoạt động chưa đủ để đáp ứng, mang lại ích lợi cho tất cả những người khó khăn và thiệt thòi trong xã hội. Chính phủ không thể tự giải quyết tất cả những vấn đề này và các doanh nghiệp xã hội xuất hiện như một giải pháp bổ sung.

Động lực thứ hai là công cuộc mở cửa và cải cách kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, Việt Nam đã thừa nhận vai trò và địa vị pháp lý của khu vực tư nhân trong xã hội [10]. Các sáng kiến cá nhân ngày càng được khuyến khích không chỉ vì ích lợi của chính họ, mà còn vì toàn xã hội. Kết quả là các sáng kiến nhằm giúp tạo ra sự thay đổi tích cực cho xã hội xuất hiện ngày càng nhiều hơn. Ngoài ra, hội nhập kinh tế sâu rộng với thế giới tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội trong nước có nhiều cơ hội hợp tác phát triển, thu hút đầu tư xã hội trong các lĩnh vực xã hội, môi trường [10].

Động lực thứ ba là việc rất nhiều tổ chức phi chính phủ đang rút dần khỏi Việt Nam. Các tổ chức phi chính phủ như Oxfam, Care đã đóng một vai trò nhất định trong việc giúp Chính phủ Việt Nam giải quyết các vấn đề xóa đói, giảm nghèo, nâng cao năng lực của phụ nữ trong lực lượng lao động và giảm thiểu bạo lực gia đình trong một khoảng thời gian [22]. Tuy nhiên, khi Việt Nam đã trở thành một nước thu nhập trung bình, những tổ chức này đã lên kế hoạch giảm bớt vai trò của mình. Ngoài ra, nguồn viện trợ từ nước ngoài cũng giảm dần. Điều này đặt ra thách thức cho các tổ chức phi chính phủ trong nước và đòi hỏi chuyển đổi dần sang mô hình doanh nghiệp xã hội để có thể thực hiện được mục tiêu xã hội, nhưng vẫn tạo ra được nguồn lực để thực hiện mục tiêu đó [25].

Cuối cùng, cộng đồng doanh nghiệp hiện nay đã quan tâm hơn đến trách nhiệm xã hội. Điều này đặt nền tảng vững chắc cho sự phát triển của các doanh nghiệp xã hội. Một số công ty lớn đã tham gia hoặc tổ chức các chương trình xã hội để tạo cơ hội việc làm cho người khuyết tật, dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho vùng sâu vùng xa, tài trợ cho trẻ em nghèo trở lại trường học. Có thể nêu ví dụ về FrieslandCampina Việt Nam với Đèn đom đóm, Uniliver với Áo trắng ngời sáng tương lai, Ocean Bank với Nguồn Sáng, Vinamilk với Vươn cao Việt Nam và rất nhiều ví dụ khác. Một số công ty thậm chí còn lập cả một ngân quỹ riêng cho các hoạt động từ thiện [8, tr.14]. Khóa luận: Giải pháp hoạt động của doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

3.3. Một số đề xuất, kiến nghị về cơ chế, chính sách nhằm phát triển Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam

Từ thực tiễn doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam và trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế, để khu vực này tiếp tục phát triển đòi hỏi phải triển khai đồng bộ và hiệu quả một số giải pháp sau:

Thứ nhất, đẩy mạnh truyền thông dưới nhiều hình thức khác nhau để truyền tải, phổ biến và giải thích về mô hình doanh nghiệp xã hội và vai trò của doanh nghiệp xã hội trong phát triển bền vững. Sự tham gia tích cực của cộng đồng có thể giúp các doanh nghiệp xã hội phát triển mạnh hơn.

Thứ hai, để phát triển doanh nghiệp xã hội thì vai trò của Nhà nước rất quan trọng. Thực tiễn trên thế giới cho thấy, khi Nhà nước chuyển dần vai trò từ người cung cấp trực tiếp dịch vụ công sang vai trò là đảm bảo cung cấp dịch vụ công đến người dân một cách công bằng và hiệu quả, khắc phục thất bại thị trường thì khu vực doanh nghiệp xã hội mới thực sự được thúc đẩy và phát triển mạnh mẽ. Theo đó, Nhà nước cần thực hiện đấu thầu công khai, cạnh tranh để các doanh nghiệp xã hội có thể tham gia cung cấp các sản phẩm và dịch vụ công ích (như xử lý rác thải, bảo vệ môi trường, giáo dục, y tế cộng đồng, sinh kế bền vững…); ban hành các chính sách quy định các cơ quan nhà nước, tổ chức thuộc khu vực công; ưu tiên các sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp xã hội khi thực hiện mua sắm công hoặc thuê ngoài nhưng phải đảm bảo chất lượng dịch vụ cung ứng so với các doanh nghiệp khác.

Bên cạnh đó, với thực tế là hầu hết các doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam đều ở quy mô vừa và nhỏ, sự hỗ trợ của Chính phủ là rất cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp xã hội. Sự hỗ trợ tài chính trực tiếp có thể giúp cải thiện tình trạng tài chính của các tổ chức này. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ nên sử dụng tạm thời trong một thời gian ngắn, nếu không, các doanh nghiệp xã hội có thể phụ thuộc vào trợ cấp mà mất dần tính cạnh tranh.

Ngoài ra, có thể thành lập Quỹ phát triển doanh nghiệp xã hội. Quỹ sẽ được tài trợ một phần bằng phần ngân sách Nhà nước và nhận tài trợ từ các tổ chức thiện nguyện và nhà đầu tư xã hội. Ngoài ra, thị trường chứng khoán cũng là một kênh huy động vốn cho các doanh nghiệp xã hội. Một số nước trên thế giới (như Bangladesh) đã cho phép thành lập các Quỹ đầu tư xã hội được niêm yết trên thị trường chứng khoán để thu hút nguồn vốn đầu tư từ các nhà đầu tư xã hội và các nhà hảo tâm [7, tr.64].

Thứ ba, cần xây dựng một khung khổ pháp lý dành riêng cho doanh nghiệp xã hội và các hoạt động của doanh nghiệp xã hội. Việc Chính phủ ban hành Nghị định về doanh nghiệp xã hội là điều cần thiết cho quá trình thể chế hóa doanh nghiệp xã hội, chuẩn bị cho bước luật hóa lĩnh vực này ở giai đoạn sau. Xác định khái niệm, tiêu chí và những quy định về doanh nghiệp xã hội trong các văn bản luật chính là sự công nhận của Nhà nước, xã hội để doanh nghiệp xã hội có thể hoạt động một cách chính danh.   Để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp xã hội gia nhập thị trường và hoạt động, hiện nay, Nhà nước đã và đang xây dựng khung pháp lý hoạt động cho các doanh nghiệp xã hội, trong đó có các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp xã hội, bao gồm các chính sách tiếp nhận tài trợ, viện trợ. Các chính sách hỗ trợ cần phải đảm bảo nguyên tắc thông thoáng, tiếp cận thuận lợi và thủ tục hành chính đơn giản. Tuy nhiên ở đây, cũng cần đề cập đến một số quan điểm cho rằng các doanh nghiệp xã hội cần được đặt trong những khung khổ pháp lý chung, hoạt động trên những ‘sân chơi’ chung để đảm bảo cạnh tranh bình đẳng với các tổ chức, doanh nghiệp khác. Do đó, Nhà nước chỉ nên có chính sách ưu đãi cho một số lĩnh vực nhất định mà Nhà nước thấy cần khuyến khích phát triển hoặc lôi kéo sự tham gia của các tổ chức này [6]. Các doanh nghiệp xã hội sẽ hưởng các chính sách ưu đãi khi hoạt động trong lĩnh vực đó, đồng thời đây cũng là chính sách chung, không chỉ dành riêng cho các doanh nghiệp xã hội. Ý kiến này rất đáng tham khảo, bởi các doanh nghiệp xã hội cần được nhìn nhận gắn với tác động xã hội của mình. Các doanh nghiệp xã hội có quy mô khác nhau, hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau, và do đó không phải doanh nghiệp xã hội cũng đem lại những tác động xã hội mà Nhà nước thực sự thấy việc phải có chính sách ưu đãi là cần thiết [7, tr.64]. Khóa luận: Giải pháp hoạt động của doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

Ngoài ra, việc thành lập một bộ phận/cơ quan thực hiện Quản lý Nhà nước, thúc đẩy, hỗ trợ doanh nghiệp xã hội cũng là một vấn đề quan trọng. Về tổ chức quản lý hành chính, pháp luật có thể quy định về việc thành lập một bộ phận/cơ quan ở cấp phòng trong cơ cấu tổ chức của một bộ chịu trách nhiệm về Quản lý Nhà nước, khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp xã hội. Dựa trên tính chất đầu mối, đa ngành của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, người viết kiến nghị thành lập một Phòng chuyên trách về doanh nghiệp xã hội đặt trong cơ cấu của Cục Phát triển Doanh nghiệp, trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Và để nâng cao hiệu quả hoạt động của mình, Cơ quan chuyên trách về doanh nghiệp xã hội nên thực hiện các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp xã hội thông qua một bên thứ 3 là các tổ chức trung gian phát triển doanh nghiệp xã hội dưới hình thức đấu thầu cạnh tranh, thuê ngoài, hoặc đặt hàng, trong khi Cơ quan giữ vai trò giám sát, theo dõi và đánh giá.

Thứ tư, kiến nghị cuối cùng liên quan đến việc nâng cao chất lượng của lực lượng lao động cho các doanh nghiệp xã hội. Nhiệm vụ đầu tiên là phát triển chương trình chi tiết về doanh nghiệp xã hội. Về lâu dài, có thể xây dựng một chuyên ngành riêng dành cho doanh nghiệp xã hội nhằm cung cấp cho các sinh viên những kiến thức và kỹ năng chuyên biệt cần thiết. Đây là điều kiện tiên quyết để tạo nên những thế hệ doanh nhân xã hội tài năng trong tương lai. Ngoài ra, cần có các khóa đào tạo ngắn hạn nhằn bổ sung kiến thức và kỹ năng quản lý điều hành cho đội ngũ những người lãnh đạo các doanh nghiệp xã hội [21].

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy trong hơn 10 năm qua, tinh thần kinh doanh xã hội đã bắt đầu được lồng ghép vào hoạt động học thuật, tuy nhiên vẫn chưa được thành một lĩnh vực chính thống trong trường đại học [8, tr.20]. Một số trường đại học lớn trên thế giới đã thành lập các Trung tâm nghiên cứu về tinh thần kinh doanh xã hội hoặc sáng tạo xã hội như: Trung tâm sáng tạo xã hội Scholl, thuộc Trường kinh doanh Said, Đại học Tổng hợp Oxford; Vương quốc Anh; Trung tâm sáng tạo xã hội, Đại học Stanford; Trung tâm sáng tạo xã hội, Đại học Boston, Hoa Kỳ; Trung tâm đầu tư và sáng tạo xã hội, Trường kinh doanh Sauder, Đạo học British Columbia, Canada; Trung tâm Doanh nghiệp xã hội (RAISE), Singapore… [8, tr.20]

Tinh thần kinh doanh xã hội cần thiết được lan tỏa trong xã hội, hướng tới một xã hội công bằng hơn, tốt đẹp hơn [21]. Điều này đòi hỏi nỗ lực của nhiều bên, trong đó có vai trò của trường đại học trong việc nghiên cứ, đào tạo các nhà quản lý, doanh nhân, người tham gia thị trường lao động tương lai về trách nhiệm với cộng đồng và xã hội. Các trường đại học với vai trò về chia sẻ tri thức và đào tạo góp phần vào nỗ lực này thông qua các hoạt động như:

  • Nghiên cứu, kiến nghị chính sách thúc đẩy tinh thần kinh doanh xã hội;
  • Đưa nội dung đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội vào giảng dạy thành môn học cốt lõi trong các trường đại học;
  • Thành lập các vườn ươm tinh thần kinh doanh xã hội

Thứ năm, phong trào doanh nghiệp xã hội đang phát triển nhanh thế giới trong những năm gần đây, vì vậy tăng cường sự hợp tác và phối hợp giữa các bên có liên quan trên phạm vi quốc gia và trên thế giới về phát triển doanh nghiệp xã hội là điều cần thiết. Các hoạt động có thể bao gồm tổ chức các diễn đàn quốc gia và khu vực cung cấp thông tin, giao lưu giữa các doanh nhân xã hội, giữa doanh nhân xã hội và các doanh nhân, nhà tài trợ khác; giữa doanh nhân xã hội và các nhà nghiên cứu, nhà hoạch định chính sách; chia sẻ kinh nghiệm và thực tiễn tốt trong phát triển doanh nghiệp xã hội… Việc đẩy mạnh phong trào phát triển doanh nghiệp xã hội nhằm tạo cộng đồng lớn về doanh nghiệp xã hội, qua đó thu hút nguồn vốn từ các tổ chức đầu tư thiện doanh.

Với việc triển khai và thực hiện các đề xuất, kiến nghị nêu trên, người viết hy vọng loại hình doanh nghiệp xã hội sẽ phát triển, đóng vai trò hỗ trợ tích cực cho Nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề xã hội – môi trường vì lợi ích cộng đồng.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 Khóa luận: Giải pháp hoạt động của doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

Hiện nay, doanh nghiệp xã hội ở nước ta đang trong giai đoạn phát triển sơ khai với các cơ sở pháp lý ban đầu đã có và đang tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên, tiềm năng phát triển của doanh nghiệp xã hội còn rất lớn, không chỉ là các động lực sẽ được tạo ra từ cơ chế và chính sách của Nhà nước đang được trông đợi ở phía trước, mà còn là các điều kiện có tính tiền đề đang tồn tại hoặc đã được tạo ra từ quá khứ. Sự phát triển của doanh nghiệp xã hội sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội theo hướng văn minh, tiến bộ, phù hợp với định hướng XHCN ở nước ta, vì vậy đây không chỉ là xu thế chung của thế giới mà còn rất cần thiết ở Việt Nam.

Tuy nhiên, vẫn còn không ít khó khăn, rào cản cho sự phát triển doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam. Khác với các doanh nghiệp thông thường, doanh nghiệp xã hội hoạt động vì mục đích xã hội và môi trường chứ không vì lợi nhuận đơn thuần. Điều này đòi hỏi kỹ năng và kiến thức tổng hợp của cả khối kinh doanh lẫn xã hội của các nhà lãnh đạo. Các chủ doanh nghiệp xã hội vẫn phải tự mày mò, tự tìm lối đi riêng cho mình nên rất vất vả mà hiệu quả không cao. Hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp xã hội còn khá khiêm tốn. Đặc biệt, khó khăn lớn nhất là việc thiếu nguồn lực tài chính, thiếu vốn. Bên cạnh đó, sức ép từ chất lượng sản phẩm dịch vụ, nguồn nhân lực, hệ thống quản lý sản xuất kinh doanh, đầu ra sản phẩm, chi phí… cũng đang đặt lên vai các doanh nghiệp này.

Trước tình hình đó, việc tìm kiếm những giải pháp để hỗ trợ doanh nghiệp xã hội phát triển là một việc làm cần thiết. Cũng giống như các nước khác, doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam sẽ không phát triển và nở rộ nếu thiếu sự vào cuộc của các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương. Kinh nghiệm thế giới chỉ ra rằng vai trò của Nhà nước với hệ thống pháp luật và chính sách là những điều kiện thiết yếu để các doanh nghiệp xã hội phát triển. Vì vậy, Nhà nước cần sớm hoàn thiện pháp luật và chính sách để gia tăng tác động xã hội của các doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam.

KẾT LUẬN Khóa luận: Giải pháp hoạt động của doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

Doanh nghiệp xã hội là một mô hình đặc biệt thông qua việc sử dụng hoạt động kinh doanh để đạt được các mục tiêu xã hội. doanh nghiệp xã hội hoạt động không vì mục đích lợi nhuận mà ưu tiên hàng đầu của họ là giải quyết các vấn đề xã hội đang nảy sinh trong quá trình tăng trưởng kinh tế của đất nước. Trên thực tế, các doanh nghiệp xã hội là những nhân tố thúc đẩy đổi mới, sáng kiến cho xã hội. Bởi họ không những là người trực tiếp phát hiện ra vấn đề xã hội, mà còn tìm kiếm giải pháp kinh doanh phù hợp, sẵn sàng đi vào những thị trường ngách chưa ai đi, thậm chí sáng tạo nên sản phẩm mới, tạo lập một thị trường mới, hoặc đáp ứng nhu cầu của những nhóm đối tượng thường bị bỏ quên trong xã hội. Các doanh nhân xã hội là những doanh nhân có mối quan tâm xã hội cao; đặc biệt họ phải vượt lên rất nhiều khó khăn, trở ngại để có thể duy trì được mô hình doanh nghiệp xã hội dung hòa giữa các mục tiêu xã hội bền vững và thử thách khắc nghiệt của thị trường. 

Ngày 26-11-2014, Quốc hội thông qua Luật Doanh nghiệp sửa đổi, trong đó lần đầu tiên đưa ra quy định về doanh nghiệp xã hội. Tuy còn nhiều điều cần hoàn thiện để tạo khung pháp lý cho các doanh nghiệp xã hội hoạt động nhưng đây được xem là một tín hiệu tích cực khuyến khích sự hình thành một cộng đồng doanh nghiệp xã hội phát triển hơn tại Việt Nam. Các doanh nghiệp xã hội được chính thức công nhận cho thấy sự nhìn nhận của Chính phủ, các nhà làm luật với vai trò thúc đẩy các tác động xã hội tích cực dựa trên các mô hình kinh doanh bền vững của doanh nghiệp xã hội.

Hiện nay, Việt Nam đang có đến hàng ngàn doanh nghiệp mà hoạt động của họ có đặc điểm là chia sẻ gánh nặng với Nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Điển hình nhất là trường hợp của doanh nghiệp xã hội KOTO. Trải qua 17 năm thành lập và phát triển, KOTO lớn mạnh dần, trở thành một doanh nghiệp xã hội phi lợi nhuận được trao tặng nhiều giải thưởng, không chỉ góp phần thay đổi cuộc sống của hàng trăm bạn trẻ thiệt thòi, dễ bị tổn thương, mà còn góp phần thay đổi nhận thức của Việt Nam về doanh nghiệp xã hội. KOTO được xem là “người anh cả của doanh nghiệp xã hội Việt Nam” và là một dẫn chứng sinh động về những doanh nghiệp xã hội thành công. Những thăng trầm mà KOTO đã trải qua sẽ trở thành bài học kinh nghiệm sâu sắc cho những doanh nghiệp xã hội mới tại Việt Nam.

Có thể thấy tiềm năng phát triển của doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam còn rất lớn, không chỉ là các động lực sẽ được tạo ra từ cơ chế và chính sách của Nhà nước đang được trông đợi ở phía trước, mà còn là các điều kiện có tính tiền đề đang tồn tại hoặc đã được tạo ra từ quá khứ. Sự phát triển của doanh nghiệp xã hội sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội theo hướng văn minh, tiến bộ, phù hợp với định hướng XHCN ở nước ta, vì vậy đây không chỉ là xu thế chung của thế giới mà còn rất cần thiết ở Việt Nam [22]. Điều này cũng đặt ra một yêu cầu cấp thiết đối với Nhà nước, đó là việc cần xây dựng các cơ chế, chính sách để tạo lập khung khổ pháp lý ổn định cho hoạt động của các doanh nghiệp xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho các sáng kiến xã hội dễ dàng được triển khai hơn trong thực tế, khuyến khích và thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ tinh thần doanh nhân xã hội ở Việt Nam [7, tr.67]. Khóa luận: Giải pháp hoạt động của doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Khóa luận: Doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x