Khóa luận: Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp xã hội Việt Nam

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp xã hội Việt Nam hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Thực trạng pháp luật về Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam và trường hợp của Doanh nghiệp xã hội KOTO dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này. 

2.1. Vài nét về quá trình phát triển của Doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam

Ở Việt Nam, mặc dù chưa bao giờ được công nhận chính thức, nhưng các hoạt động sử dụng kinh doanh như một công cụ để phục vụ cho lợi ích cộng đồng, đặc biệt là các cộng đồng yếu thế đã xuất hiện từ khá lâu. Một nghiên cứu gần đây của CSIP, Hội đồng Anh và Spark đã phát hiện trong số 167 tổ chức được nhận diện với đầy đủ các đặc điểm của doanh nghiệp xã hội, tổ chức có lịch sử lâu đời nhất là HTX Nhân Đạo thuộc Hội Người khuyết tật Hà Nội, thành lập năm 1973 [9, tr.15]

Có thể chia quá trình phát triển của các doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam thành ba giai đoạn chính như sau [7, tr.19]:

  • Trước Đổi mới (1986), doanh nghiệp xã hội gắn với sở hữu tập thể, hoạt động dưới hình thức các HTX phục vụ nhu cầu của nhóm cộng đồng yếu thế;
  • Từ 1986-2010, doanh nghiệp xã hội gắn với các NGO và nguồn vốn tài trợ chủ yếu từ các tổ chức nước ngoài;
  • Hiện nay, từ khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình thấp. doanh nghiệp xã hội hoạt động theo nguyên tắc thị trường; nguồn vốn chuyển dịch từ tài trợ bên ngoài sang nguồn thu từ các hoạt động kinh doanh.

2.1.1. Trước Đổi mới (1986)

Trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, Nhà nước là chủ thể duy nhất có trách nhiệm đảm bảo các dịch vụ xã hội được phân phối tới người dân. Sự hình thành và hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội như Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên… luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, gắn chặt với hệ thống quản lý nhà nước (QLNN) và là nơi duy nhất qua đó cá nhân có thể tham gia vào hoạt động cộng đồng. Trong thời kỳ này, các loại hình tổ chức xã hội độc lập với nhà nước như các tổ chức NGO không được phép hoạt động ở Việt Nam. Bên cạnh đó, chỉ có kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể được công nhận là hai thành phần kinh tế chủ đạo của đất nước [7, tr.19]. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

Trong bối cảnh ấy, hợp tác xã (HTX) là hình thức tổ chức kinh tế-xã hội phù hợp duy nhất được thành lập để đáp ứng một số nhu cầu đặc biệt của xã viên theo tinh thần cộng đồng: hợp tác, chia sẻ và cùng hưởng lợi. HTX được coi là một tổ chức thuộc sở hữu cộng đồng, đồng thời là một đơn vị kinh tế độc lập [7, tr.19]. Chính vì vậy, HTX có thể được coi là mô hình doanh nghiệp xã hội sớm nhất ở Việt Nam. Về mặt chính sách, nhà nước cũng có nhiều chính sách khuyến khích sự phát triển của HTX ngay từ những năm đầu xây dựng CNXH ở Miền Bắc. Đến năm 1987, số lượng các HTX trên cả nước lên tới gần 74,000, hoạt động trên nhiều lĩnh vực, góp phần đáp ứng nhu cầu cấp thiết của cộng đồng.

Trong số các HTX ra đời trong giai đoạn này, một số không nhỏ được thành lập để tạo việc làm, hỗ trợ cuộc sống cho những đối tượng yếu thế của xã hội, chủ yếu là người khuyết tật. Hầu hết các HTX của người khuyết tật hoạt động trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, như mây tre, đan thêu, may mặc… bởi đây được coi là những việc làm phù hợp với sức khỏe và điều kiện lao động của họ [7, tr.19].

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Bảng Giá Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

2.1.2. Giai đoạn từ năm 1986 – 2010

Mặc dù doanh nghiệp xã hội đã manh nha xuất hiện dưới hình thức HTX từ lâu, nhưng các hoat động kinh doanh vì mục tiêu xã hội với đầy đủ các đặc điểm cơ bản của mô hình doanh nghiệp xã hội chỉ bắt đầu phát triển kể từ khi chính sách Đổi Mới được thực hiện vào năm 1986. Đây là cột mốc đánh dấu sự thừa nhận các thành phần kinh tế mới là kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể tiểu chủ. Nhờ đó, vai trò chủ động của cá nhân và cộng đồng trong việc cung cấp và trao đổi các dịch vụ đáp ứng nhu cầu của người dân đã được công nhận và phát triển [7, tr.20].

Chính sách mở cửa cũng dẫn đến sự tăng trưởng ngoạn mục của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và trợ giúp phát triển quốc tế (ODA) [23]. Các hoạt động này không những đem lại nguồn vốn lớn phục vụ cho công cuộc phát triển, mà việc giao lưu và chia sẻ kinh nghiệm và tri thức phát triển xã hội cũng đã mang lại những mô hình và cách làm mới mà Việt Nam có thể tiếp thu. Sau khi lệnh cấm vận của Mỹ được dỡ bỏ vào năm 1994, hàng trăm các tổ chức nhân đạo phát triển quốc tế đã vào Việt Nam, mang theo một nguồn viện trợ nhân đạo không hoàn lại và vốn ODA rất lớn. Chỉ tính riêng giai đoạn 2005-2010, tổng số vốn ODA cam kết cho Việt Nam là 31 tỷ đô la Mỹ [10]. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

Đây là giai đoạn nhà nước có nhiều chính sách cởi mở, tạo lập khung khổ pháp lý cho sự phát triển các tổ chức kinh tế và xã hội ngoài nhà nước. Nghị định số 71/1998/NĐ- CP về quy chế dân chủ ở cơ sở và các văn bản pháp qui ra đời năm 1998 lần đầu tiên chính thức khuyến khích sự tham gia của các tổ chức xã hội và công dân trong quá trình xây dựng, thực hiện và giám sát thực hiện chính sách tại cộng đồng. Để thúc đẩy sự tham gia của người dân vào quá trình xây dựng và phát triển cộng đồng, nhà nước đã có những bước đi tích cực thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa các tổ chức khác nhau, đặc biệt thông qua việc tăng cường sức mạnh các tổ chức chính trị xã hội [7, tr.20]. Nghị định 35-HĐBT (1992) đã đưa ra một số giải pháp thúc đẩy việc cá nhân thành lập các tổ chức khoa học và công nghệ. Nghị định 177/1999/NĐ-CP và sau đó là Nghị định 148/2007/NĐ-CP đã đưa ra các cơ sở cho việc thành lập các quĩ xã hội, quỹ từ thiện… Vai trò của các tổ chức cộng đồng được đặc biệt chú trọng trong việc cung cấp các dịch vụ cơ bản cho cộng đồng như quản lý tài nguyên nước, xóa đói giảm nghèo, chăm sóc y tế ban đầu, giáo dục phổ cập, bảo vệ môi trường. Nhà nước đặc biệt chú trọng và khuyến khích sự hợp tác giữa các tổ chức NGO trong nước, nước ngoài và chính quyền địa phương [10].

Các chính sách trên đã giúp các tổ chức và doanh nghiệp phát triển cộng đồng thực sự nở rộ. Số liệu thống kê cho thấy có tới hơn 1,000 tổ chức NGO, 320 hiệp hội hoạt động cấp quốc gia và 2,150 hội hoạt động trên nguyên tắc tự nguyện và tự chủ ở trung ương và địa phương. Hầu hết tất cả các tổ chức này nhận hỗ trợ tài chính từ các tổ chức NGO quốc tế và nhà tài trợ để duy trì hoạt động và cung cấp dịch vụ cho cộng đồng. Ngoài ra, ở Việt Nam còn có hàng nghìn tổ chức có tính cộng đồng như nhà văn hóa, câu lạc bộ và mảng phụ trách hoạt động kinh doanh thuộc các tổ chức chính trị – xã hội quần chúng (ví dụ: hội phụ nữ, hội cựu chiến binh, hội người tàn tật, v.v.) và hàng nghìn đơn vị sự nghiệp đang thực hiện chức năng cung cấp phúc lợi xã hội của nhà nước (mang lại các dịch vụ công cộng như quản lý chất thải, nguồn nước, v.v.). Các tổ chức này đều có một số đặc điểm của doanh nghiệp xã hội và có khả năng chuyển thành doanh nghiệp xã hội trong tương lai [7, tr.20].

Cùng với quá trình mở cửa và đổi mới toàn diện, nhà nước cũng thực hiện cải cách trong lĩnh vực dịch vụ công theo hướng xã hội hóa, kêu gọi sự đầu tư và tham gia của các thành phần kinh tế, các cá nhân và tập thể vào việc chia sẻ gánh nặng cung cấp các dịch vụ công, đặc biệt trong lĩnh vực giảm nghèo, giáo dục và chăm sóc y tế. Số lượng lớn các cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa nghệ thuật ngoài công lập ra đời theo định hướng chính sách này đã phần nào giải quyết các vấn đề xã hội và đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người dân. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

Nhìn chung, giai đoạn đổi mới là mảnh đất màu mỡ cho sự phát triển của các doanh nghiệp và tổ chức xã hội ngoài nhà nước, trong đó có doanh nghiệp xã hội. Tuy nhiên, sự tách biệt hai lĩnh vực hoạt động kinh tế và xã hội cả trong tư duy lẫn hoạt động thực tế đã hạn chế sự ra đời của mô hình hỗn hợp như doanh nghiệp xã hội. Khi nói đến doanh nghiệp người ta chỉ nói đến lợi nhuận tài chính thuần túy, còn các hoạt động cộng đồng của doanh nghiệp thường chỉ mang dấu ấn cá nhân và được hiểu với ý nghĩa từ thiện đơn thuần. Trong khi đó, các tổ chức xã hội thường được xếp cùng loại với các tổ chức từ thiện nhân đạo, dựa vào nguồn lực huy động từ các nhà hảo tâm bên ngoài. điều này không những kìm hãm nãng lực sáng kiến xã hội mà khiến cho các doanh nhân xã hội có rất ít sự lựa chọn: hoặc hoạt động như tổ chức xã hội từ thiện, hoặc như một doanh nghiệp thông thường. Trong bối cảnh nguồn tài trợ bên ngoài cho các hoạt động phát triển cộng đồng, xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam khá dồi dào, đa phần các tổ chức lựa chọn hình thức hoạt động là các tổ chức NGO. Chỉ có một số không lớn các tổ chức, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, đã dũng cảm quyết định đi lên bằng chính nguồn lực của mình. Họ tin tưởng vào sự bền vững và hiệu quả của việc áp dụng mô hình kinh doanh để giải quyết vấn đề xã hội và giúp đỡ cộng đồng [7, tr.21].

Giai đoạn này đã xuất hiện những doanh nghiệp xã hội khá điển hình, hoạt động dưới nhiều hình thức đa dạng như Trường Hoa Sữa, Nhà hàng KOTO tại Hà Nội, Công ty TNHH Mai Handicrafts tại TP. Hồ Chí Minh…

Tuy chưa nở rộ về số lượng và chưa phát huy được hết tiềm năng của mình, sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp xã hội tiêu biểu này trong hơn 10 năm qua đã minh chứng cho khả năng kết hợp thành công mô hình kinh doanh vì mục tiêu phát triển xã hội, xóa bỏ hố sâu ngăn cách giữa hai khu vực kinh tế và xã hội, mở ra một khu vực thứ ba cho các doanh nghiệp xã hội.

2.1.3. Từ 2010 – nay

Việc Việt Nam bắt đầu bước vào ngưỡng nước có thu nhập trung bình thấp là một cơ hội phát triển mới cho dân tộc. Điều đó có nghĩa nguồn vốn trong nền kinh tế Việt Nam đã dồi dào và chủ động hơn trước, tình trạng nghèo đói đã được cải thiện đáng kể trong số đông dân cư. Tuy nhiên, điều này cũng dẫn đến việc thay đổi chính sách hỗ trợ nhân đạo và phát triển xã hội của các quốc gia và tổ chức quốc tế tại Việt Nam. Chúng ta đã chứng kiến sự ra đi của một số tổ chức phát triển song phương như SIDA, Ford Foundation; hoặc việc giảm dần nguồn tài trợ ODA từ Việt Nam để chuyển sang các nước nghèo hơn [7, tr.20]. Nếu chúng ta tiếp tục phụ thuộc vào các nguồn vốn viện trợ bên ngoài, Việt Nam sẽ phải đối mặt với nguy cơ thiếu hụt vốn nghiêm trọng cho các hoạt động phát triển cộng đồng trong thời gian tới. Trong khi đó, việc huy động tài trợ và vốn từ cộng đồng ở Việt Nam còn khá hạn chế. Một nghiên cứu gần đây của Quĩ Châu Á (2011) về đóng góp từ thiện ở Việt Nam cho thấy tiềm lực đóng góp của người dân và doanh nghiệp khá lớn, tuy nhiên do thiếu những kênh từ thiện chính thức và thiếu những chính sách phù hợp, đa phần hoạt động từ thiện có tính tự phát, qui mô nhỏ và phạm vi hạn chế trong cộng đồng nhỏ [7, tr.21].Thiếu nguồn vốn cho hoạt động là một áp lực lớn tới hàng ngàn tổ chức NGO Việt Nam và các dự án phát triển cộng đồng trong thời gian không xa. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

Trong bối cảnh đó, Trung tâm Hỗ trợ Sáng kiến Phục vụ Cộng đồng (CSIP) cùng các đối tác như Hội đồng Anh (British Council), Trung tâm Spark đã tích cực tuyên truyền, giới thiệu doanh nghiệp xã hội như một hướng giải quyết mới, một mô hình tổ chức thay thế phù hợp với bối cảnh chuyển đổi hiện nay [8, tr.18]. Thế mạnh của doanh nghiệp xã hội là áp dụng mô hình kinh doanh dựa trên những nguyên tắc và động lực của thị trường để giải quyết chính những thất bại của thị trường và các vấn đề xã hội. Nói cách khác, doanh nghiệp xã hội giải quyết được cả hai mục đích xã hội và kinh tế, trong đó mục tiêu xã hội là mục tiêu chủ đạo, đạt được mục tiêu kinh tế là phương tiện để đạt được mục tiêu xã hội ở qui mô lớn hơn một cách bền vững [7, tr.21].

Đặc biệt, Luật Doanh nghiệp sửa đổi ban hành tháng 11/2014 đã mở ra một chương mới cho cộng đồng doanh nghiệp Việt khi lần đầu tiên khai sinh khái niệm doanh nghiệp xã hội trong hệ thống pháp lý.

2.2. Pháp luật Việt Nam về Doanh nghiệp xã hội

Doanh nghiệp xã hội là một thuật ngữ pháp lý mới xuất hiện ở Việt Nam và trong thời gian gần đây thì doanh nghiệp xã hội đang nhận được sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách, cũng như các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý. Hiện nay, địa vị pháp lý của doanh nghiệp xã hội được quy định tại Điều 10 Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Nghị định số 96/2015/NĐ-CP. Nhìn chung hành lang pháp lý về doanh nghiệp xã hội ở nước ta còn rất sơ khai và cần được tiếp tục hoàn thiện.

2.2.1. Định nghĩa Doanh nghiệp xã hội theo Luật Doanh nghiệp 2014

Luật Doanh nghiệp năm 2014 không đưa ra định nghĩa về doanh nghiệp xã hội nhưng có các tiêu chí để xác định doanh nghiệp xã hội tại Điều 10.

Doanh nghiệp xã hội phải đáp ứng các tiêu chí sau đây:

  1. Là doanh nghiệp được đăng ký thành lập theo quy định của Luật này;
  2. Mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng;
  3. Sử dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận hằng năm của doanh nghiệp để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường như đã đăng ký.” Khóa luận: Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

Từ quy định này, chúng ta có thể hiểu, doanh nghiệp xã hội phải đảm bảo các tiêu chí sau:

Doanh nghiệp xã hội là doanh nghiệp được đăng ký thành lập theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014

Thông qua quy định này, có thể thấy Luật Doanh nghiệp năm 2014 không coi doanh nghiệp xã hội là một loại hình doanh nghiệp đặc thù mà cũng giống như doanh nghiệp thông thường. doanh nghiệp xã hội vẫn tổ chức và hoạt động theo một trong các loại hình doanh nghiệp: Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân.

Vì cũng là một doanh nghiệp nên để thành lập doanh nghiệp xã hội, doanh nhân xã hội phải thực hiện các thủ tục pháp lý thông thường để thành lập một doanh nghiệp trong số các loại hình doanh nghiệp đã được Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định. Tiêu chí này thể hiện một trong những đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp xã hội, tương tự doanh nghiệp thông thường, đó là có hoạt động kinh doanh. Theo đó, kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Từ định nghĩa doanh nghiệp, kinh doanh của pháp luật doanh nghiệp và theo quan niệm truyền thống trong khoa học pháp lý ở nước ta, chính yếu tố “nhằm mục đích sinh lợi” là yếu tố căn bản, quyết định đến sự ra đời và hoạt động của doanh nghiệp, “một thuộc tính không thể tách rời của doanh nghiệp” [27, tr.26] và là “đích cuối cùng của các nhà kinh doanh [26, tr.29]. Từ đó có thể hiểu, mục đích chính khi thành lập doanh nghiệp là tạo ra lợi nhuận cho các nhà đầu tư vào doanh nghiệp, còn việc giải quyết các vấn đề xã hội vì lợi ích của cộng đồng không phải là mục tiêu chủ yếu của kinh doanh. Vì thế mà có quan điểm cho rằng, định nghĩa kinh doanh ở nước ta quá nhấn mạnh chủ nghĩa duy lợi, người soạn luật đã không khái quát được những doanh nghiệp không vì mục đích tìm kiếm lợi nhuận [4, tr.29].

Hiện nay, thủ tục thành lập doanh nghiệp xã hội được quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Nghị định số 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp (Nghị định số 96/2015/NĐ-CP). Giống như mọi doanh nghiệp khác, doanh nghiệp xã hội cũng có tên riêng của mình. Dựa trên các chuẩn mực về tên doanh nghiệp được pháp luật quy định, doanh nhân xã hội sẽ chủ động quyết định đặt tên cho DNXH. Theo các quy định từ Điều 38 đến Điều 42 Luật Doanh nghiệp năm 2014, thì không có quy định riêng trong việc đặt tên cho doanh nghiệp xã hội. Theo khoản 2 Điều 4 Nghị định số 96/2015/NĐ-CP thì có thể bổ sung thêm cụm từ “xã hội” vào tên riêng của doanh nghiệp xã hội [29]. Quy định có thể bổ sung thêm cụm từ “xã hội” vào tên riêng của doanh nghiệp xã hội là một quy phạm tùy nghi, do người thành lập doanh nghiệp xã hội tự quyết định. Tuy nhiên, cả Luật Doanh nghiệp năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành không có quy định cấm hay hạn chế các nhà đầu tư sử dụng cụm từ “doanh nghiệp xã hội” hay từ viết tắt “DNXH” trong tên của doanh nghiệp thông thường. Hệ quả là thực tế có thể sẽ tồn tại những nhà đầu tư lợi dụng các cụm từ này trong việc đặt tên cho doanh nghiệp của mình để Nhà nước, công chúng và đối tác nhầm lẫn về chủ thể nhằm kinh doanh không lành mạnh [16]. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

  • DNXH có mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng

Các vấn đề xã hội, môi trường và cộng đồng có thể kế đến như bảo vệ môi trường, bảo vệ và đáp ứng các quyền cơ bản của con người thông qua các hoạt động tạo công ăn việc làm cho những nhóm người khó hòa nhập, dễ bị tổn thương, cung cấp các dịch vụ y tế, giáo dục, cung cấp nước sạch, xử lý rác thải, ô nhiễm… Chính các mục tiêu xã hội này trở thành động lực thôi thúc các doanh nhân xã hội thành lập doanh nghiệp xã hội và sử dụng phương án kinh doanh để giải quyết các vấn đề xã h i [7, tr.9]. Về mặt pháp lý, khoản 1 Điều 5 Nghị định số 96/2015/NĐ-CP quy định doanh nghiệp xã hội phải thông báo cam kết thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường cho cơ quan đăng ký kinh doanh, để công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp khi thành lập doanh nghiệp hoặc trong quá trình hoạt động [16]. Thông qua hành vi pháp lý này, một doanh nghiệp thông thường sẽ khoác lên mình chiếc áo doanh nghiệp xã hội, từ đó Nhà nước và xã hội có thể nhận biết được địa vị pháp lý của doanh nghiệp xã hội, kèm theo đó là các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp xã hội.

Tiêu chí này góp phần giúp chúng ta có cơ sở để phân biệt doanh nghiệp xã hội với các doanh nghiệp thông thường khác. Nếu các doanh nghiệp truyền thống sử dụng việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng hay tìm đến các giải pháp xã hội như một công cụ nhằm đạt được lợi nhuận cho chủ sở hữu của doanh nghiệp, thì ngược lại doanh nghiệp xã hội sử dụng hình thức kinh doanh như một công cụ để đạt được các mục tiêu xã hội của mình [22]. Như vậy, doanh nghiệp thông thường và doanh nghiệp xã hội là các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường, nghĩa là phải có doanh thu và lợi nhuận, tuy nhiên chúng khác nhau về bản chất và đích đến, cho nên có quan điểm cho rằng: “DNXH có thể có lợi nhuận, thậm chí cần lợi nhuận để phục vụ mục tiêu xã hội nhưng không “vì lợi nhuận” mà “vì xã hội”” [13, tr.50].

  • DNXH sử dụng phần lớn lợi nhuận để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường

Doanh nghiệp xã hội khi hoạt động kinh doanh phát sinh lợi nhuận không phân phối như các doanh nghiệp thông thường. Lợi nhuận mà doanh nghiệp có được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh được dùng để tái đầu tư vào doanh nghiệp với mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội mà doanh nghiệp xã hội đang theo đuổi. Tiêu chí sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư phục vụ các mục tiêu xã hội là điểm phân biệt doanh nghiệp xã hội với các doanh nghiệp thông thường, thể hiện rõ nét tiêu chí “vì xã hội” [7, tr.10]. Theo điểm c khoản 1 Điều 10 Luật Doanh nghiệp năm 2014, thì doanh nghiệp xã hội phải sử dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận hằng năm để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường như đã đăng ký. Con số 51% là nhằm mục đích tạo điều kiện, cơ hội cho doanh nghiệp xã hội huy động vốn kinh doanh từ các nhà đầu tư, thành viên, cổ đông khác bằng việc bảo đảm có phần cổ tức nhất định cho các nhà đầu tư này, qua đó góp phần phát triển bền vững cho doanh nghiệp xã hội [29]. Tiêu chí này góp phần định lượng rõ ràng, cụ thể mục tiêu vì xã hội của doanh nghiệp xã hội. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

Mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường và đem lại lợi ích cho cộng đồng là sứ mệnh cao cả của doanh nghiệp xã hội, đã làm cho doanh nghiệp xã hội khác hẳn với các doanh nghiệp thông thường và cũng không giống với các tổ chức từ thiện. doanh nghiệp xã hội mang đặc tính “lai” giữa doanh nghiệp thông thường và các tổ chức từ thiện [3, tr.10]. Một bên là các doanh nghiệp hoạt động vì mục đích tối đa hóa lợi nhuận tài chính, còn một bên là các tổ chức phi Chính phủ được thành lập nhằm theo đuổi lợi ích xã hội thuần túy. Vì vậy, doanh nghiệp xã hội là mô hình kết hợp hài hòa cả hình thức và nội dung của hai chủ thể này để lấy kinh doanh làm lĩnh vực hoạt động chính, nhưng không vì mục tiêu lợi nhuận mà nhằm giải quyết các vấn đề xã hội cụ thể, vì thế mà phần lớn lợi nhuận được dùng để phục vụ cho xã hội, môi trường.

Ngoài ra, doanh nghiệp xã hội cũng có một số nét tương đồng với các doanh nghiệp công ích, cả hai đều hướng tới mục tiêu phục vụ nhu cầu của xã hội, có thể đều cung cấp sản phẩm là các dịch vụ mang tính chất phục vụ lợi ích chung của xã hội như cung cấp nước sạch, dọn rác thải, bảo vệ môi trường… [24, tr.26]. Ở một chừng mực nhất định, các doanh nghiệp này có thể được xếp chung vào nhóm doanh nghiệp có cùng mục đích hoạt động chủ yếu [27, tr.31]. Tuy nhiên, về bản chất doanh nghiệp xã hội được thành lập tự nguyện bởi các doanh nhân xã hội, doanh nghiệp xã hội mang tính ổn định, nhất quán, được quyết định bởi mục tiêu xã hội, không phụ thuộc vào tính chất của sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp. Trong khi đó, doanh nghiệp công ích được Nhà nước thành lập nên để sản xuất, cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích theo phương thức giao nhiệm vụ và được hưởng các ưu đãi đặc biệt [24, tr.26].

2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của Doanh nghiệp xã hội Khóa luận: Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

Doanh nghiệp xã hội khác với các doanh nghiệp thông thường trước hết ở việc lựa chọn giải quyết các vấn đề xã hội thông qua hoạt động kinh doanh; tiếp theo là ở mục đích phân phối và sử dụng lợi nhuận có được sau quá trình kinh doanh. Vì vậy, ngoài các quyền và nghĩa của doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp xã hội còn các quyền và nghĩa vụ đặc thù tương ứng với mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội theo khoản 2 Điều 10 Luật Doanh nghiệp năm 2014 [19].

 “a) Duy trì mục tiêu và điều kiện quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này trong suốt quá trình hoạt động; trường hợp doanh nghiệp đang hoạt động muốn chuyển thành doanh nghiệp xã hội hoặc doanh nghiệp xã hội muốn từ bỏ mục tiêu xã hội, môi trường, không sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư thì doanh nghiệp phải thông báo với cơ quan có thẩm quyền để tiến hành các thủ tục theo quy định của pháp luật;

  1. Chủ sở hữu doanh nghiệp, người quản lý doanh nghiệp xã hội được xem xét, tạo thuận lợi và hỗ trợ trong việc cấp giấy phép, chứng chỉ và giấy chứng nhận có liên quan theo quy định của pháp luật;
  2. Được huy động và nhận tài trợ dưới các hình thức khác nhau từ các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ và các tổ chức khác của Việt Nam và nước ngoài để bù đắp chi phí quản lý và chi phí hoạt động của doanh nghiệp;
  3. Không được sử dụng các khoản tài trợ huy động được cho mục đích khác ngoài bù đắp chi phí quản lý và chi phí hoạt động để giải quyết vấn đề xã hội, môi trường mà doanh nghiệp đã đăng ký;

 đ) Trường hợp được nhận các ưu đãi, hỗ trợ, doanh nghiệp xã hội phải định kỳ hằng năm báo cáo cơ quan có thẩm quyền về tình hình hoạt động của doanh nghiệp.”

 Như vậy, có thể tóm gọn các quyền và nghĩa cụ quan trọng của doanh nghiệp xã hội bao gồm:

  • DNXH phải duy trì mục tiêu và điều kiện phân phối lợi nhuận trong suốt quá trình hoạt động.

Như đã phân tích ở trên, một trong những đặc trưng pháp lý để phân biệt doanh nghiệp xã hội với các doanh nghiệp thông thường là ở mục tiêu và điều kiện phân phối lợi nhuận, vì vậy doanh nghiệp xã hội phải duy trì các tiêu chí này trong suốt quá trình hoạt động của mình. Pháp luật doanh nghiệp quy định các cơ chế để đảm bảo việc tuân thủ mục tiêu xã hội, môi trường của doanh nghiệp xã hội [23]. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

  • DNXH được huy động và nhận tài trợ.

Theo tìm hiểu và đánh giá của Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, các doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam còn khá non trẻ, được thành lập chủ yếu từ những ý tưởng mang tính cá nhân, có vốn đầu tư ban đầu đa phần là vốn tự đóng góp của các thành viên sáng lập với quy mô nhỏ. doanh nghiệp xã hội có đặc thù là không vì mục tiêu lợi nhuận, lại kinh doanh trên các thị trường có rủi ro cao, lợi suất tài chính thấp nên không hấp dẫn các nhà đầu tư thương mại, cùng với đó là chi phí đầu tư cho nhân sự, quản lý của doanh nghiệp xã hội lại lớn hơn so với mức trung bình [3, tr.53-60]. Vì vậy, doanh nghiệp xã hội đang gặp nhiều khó khăn trong vấn đề tài chính, vì vậy những khoản đóng góp, tài trợ từ các tổ chức, cá nhân khác để phần nào bù đắp chi phí quản lý và chi phí hoạt động của doanh nghiệp xã hội là rất cần thiết [16].

  • DNXH không được sử dụng các khoản tài trợ huy động được cho mục đích khác ngoài bù đắp chi phí quản lý và chi phí hoạt động để giải quyết vấn đề xã hội, môi trường mà doanh nghiệp đã đăng ký. 

Trên cơ sở mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích của cộng đồng mà các doanh nghiệp xã hội mới có thể huy động được các nguồn tài trợ, còn các nhà tài trợ khi tài trợ vào doanh nghiệp xã hội thì mong muốn khoản tài trợ ấy được sử dụng đúng mục đích và hiệu quả. Xét về bản chất, khoản tài trợ do doanh nghiệp xã hội huy động được không phải là tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp xã hội, nên việc quyết định sử dụng khoản tài trợ ấy như thế nào bị giới hạn.

Do đó, điểm d khoản 2 Điều 10 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định doanh nghiệp xã hội chỉ được sử dụng các khoản tài trợ để trang trải chi phí quản lý và chi phí hoạt động để giải quyết vấn đề xã hội, môi trường mà doanh nghiệp đã đăng ký. Trường hợp doanh nghiệp xã hội vi phạm nghĩa vụ này thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo Nghị định số 50/2016/NĐ-CP ngày 01/6/2016 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư [16].

  • Nhà nước có chính sách khuyến khích, hỗ trợ và thúc đẩy phát triển doanh nghiệp xã hội. 

Với khả năng phát hiện và giải quyết các vấn đề về nhu cầu an sinh xã hội, phục vụ nhu cầu của những người nghèo, yếu thế nhất và đông nhất trong xã hội. Đây là nhóm người lâu nay vẫn được bảo trợ từ các chính sách của nhà nước, hay nói cách khác, đây là “gánh nặng” của ngân sách nhà nước [30, tr.73]. doanh nghiệp xã hội chia sẻ trách nhiệm với Nhà nước, góp phần rất lớn trong việc tạo công ăn việc làm, thu nhập và cơ hội để nhóm tầng lớp này tự tin, hòa nhập, từ đó giúp họ có cuộc sống ổn định hơn [20]. doanh nghiệp xã hội đang ra sức giải quyết những vấn đề trong xã hội mà Nhà nước không làm xuể, giá trị mà các doanh nghiệp xã hội mang lại cho xã hội là rất lớn. Do đó, Nhà nước cần xem doanh nghiệp xã hội là người bạn đồng hành cùng với mình trong việc giải quyết các vấn đề xã hội và xây dựng các chính sách tạo điều kiện để doanh nghiệp xã hội phát triển [23].

2.2.3. Chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với Doanh nghiệp xã hội Khóa luận: Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

Theo quy định tại Điều 2 về chính sách phát triển đối với doanh nghiệp xã hội được ghi nhận tại Nghị định số 96/2015/NĐ-CP:

  1. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân thành lập doanh nghiệp xã hội có mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng.
  2. Doanh nghiệp xã hội được hưởng các ưu đãi và hỗ trợ đầu tư theo quy định của pháp luật;
  3. Doanh nghiệp xã hội thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tương ứng đối với từng loại hình doanh nghiệp và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Nghị định này.”

Nhìn chung, mặc dù Luật Doanh nghiệp năm 2014 phân công Chính phủ quy định cụ thể Điều 10 Luật Doanh nghiệp năm 2014, trong đó có các chính sách ưu đãi, hỗ trợ dành cho doanh nghiệp xã hội, nhưng Nghị định số 96/2015/NĐ-CP chưa có các quy định cụ thể về vấn đề này. Điều này có thể được lý giải vì Nghị định số 96/2015/NĐ-CP là văn bản hướng dẫn thi hành của Luật Doanh nghiệp năm 2014 nên những vấn đề về ưu đãi dành cho doanh nghiệp xã hội cần được quy định ở pháp luật chuyên ngành (như pháp luật về đầu tư, thuế, giáo dục, y tế…), qua đó góp phần tạo nên sự thống nhất trong hệ thống pháp luật.

Tuy nhiên, cần nhấn mạnh một điều doanh nghiệp xã hội hiện đã, đang và sẽ nhận được nhiều sự quan tâm, đầu tư, khuyến khích của nhà nước bởi lẽ: Sự tồn tại của doanh nghiệp xã hội gắn liền với các vấn đề xã hội và mục tiêu cơ bản của nó không phải là lợi nhuận mà là để bảo vệ và phát triển những giá trị xã hội, làm sâu sắc thêm hệ số giá trị xã hội cũng như giải quyết các vấn đề phức tạp về mặt xã hội.

Song cũng do lợi ích kinh tế không phải mục tiêu hàng đầu, do đó doanh nghiệp xã hội gặp nhiều khó khăn trong quá trình thành lập, hoạt động và phát triển. Hiện nay, Nhà nước đã có nhiều ưu đãi cho doanh nghiệp xã hội, cụ thể:

Thứ nhất, chủ sở hữu doanh nghiệp, người quản lý doanh nghiệp xã hội được xem xét, tạo thuận lợi và hỗ trỡ trong việc cấp giấy phép, chứng chỉ và giấy chứng nhận có liên quan theo quy định pháp luật (điểm b Khoản 2 Điều 10 Luật Doanh nghiệp 2014). Khóa luận: Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

Thứ hai, doanh nghiệp xã hội được tiếp nhận viện trợ phi chính phủ nước ngoài để thực hiện mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường theo quy định của pháp luật về tiếp nhận viện trợ phi chính phủ nước ngoài. Ngoài khoản viện trợ này, doanh nghiệp xã hội được tiếp nhận bằng tài sản, tài chính hoặc hỗ trợ kỹ thuật từ các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong nước và tổ chức nước ngoài đã đăng ký hoạt động tại Việt Nam để thực hiện mục tiêu giải quyết vấn đề xã hội, môi trường (điểm c Khoản 2 Điều 10 Luật Doanh nghiệp 2014; Khoản 1, Khoản 2 Điều 3 Nghị định 96/2015/NĐ-CP). Trình tự, thủ tục tiếp nhận các khoản tài trợ này được quy định cụ thể tại Khoản 3 Điều 3 Nghị định 96/2015/NĐCP).

Thứ ba, Bộ tài chính nói riêng và Nhà nước nói chung đã đưa ra nhiều chính sách: Miễn thuế cho doanh nghiệp xã hội hoặc giảm thuế cho doanh nghiệp xã hội [1].

1, Hưởng thuế suất ưu đãi 10% trong thời hạn mười lăm năm (15 năm) áp dụng đối với:

  • Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới tại: địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn.
  • Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới thuộc lĩnh vực bảo vệ môi trường, bao gồm: sản xuất thiết bị xử lý ô nhiễm môi trường, thiết bị quan trắc và phân tích môi trường; xử lý ô nhiễm và bảo vệ môi trường; thu gom, xử lý nước thải, khí thải, chất thải rắn; tái chế, tái sử dụng chất thải.
  • Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới thuộc các lĩnh vực: nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; ứng dụng công nghệ cao thuộc danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển theo quy định của Luật Công nghệ cao; đầu tư phát triển nhà máy nước, nhà máy điện, hệ thống cấp thoát nước; cầu,… và công trình cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng khác do Thủ tướng Chính phủ quyết định.
  • Dự án đầu tư phát triển nhà máy nước, nhà máy điện, hệ thống cấp thoát nước; cầu, đường bộ, đường sắt; … phải phát sinh doanh thu, thu nhập từ quá trình hoạt động của các dự án đầu tư nêu trên thì mới thuộc diện được hưởng ưu đãi thuế.
  • Doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo quy định của Luật công nghệ cao được hưởng ưu đãi về thuế suất. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp xã hội Việt Nam.
  • Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới trong lĩnh vực sản xuất (trừ dự án sản xuất mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, dự án khai thác khoáng sản) đáp ứng một trong hai tiêu chí của quy định pháp luật.
  • Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư trong lĩnh vực sản xuất, trừ dự án sản xuất mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và dự án khai thác khoáng sản, có quy mô vốn đầu tư tối thiểu 12 (mười hai) nghìn tỷ đồng, sử dụng công nghệ phải được thẩm định theo quy định của Luật công nghệ cao, Luật khoa học và công nghệ, thực hiện giải ngân tổng vốn đầu tư đăng ký không quá 5 năm kể từ thời ngày được phép đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư .
  • Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới sản xuất sản phẩm thuộc Danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển đáp ứng một trong các tiêu chí được quy định pháp luật.

2. Hưởng thuế suất ưu đãi 10% trong suốt thời gian hoạt động áp dụng đối với thu nhập của doanh nghiệp từ:

  • Hoạt động xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao và môi trường.
  • Thực hiện dự án đầu tư – kinh doanh nhà ở xã hội để bán, cho thuê, cho thuê mua đối với các đối tượng quy định pháp luật.
  • Thực hiện trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng; nuôi trồng nông, lâm, thủy sản ở địa bàn kinh tế – xã hội khó khăn; sản xuất, nhân và lai tạo giống cây trồng, vật nuôi; sản xuất, khai thác và tinh chế muối trừ sản xuất muối, đầu tư bảo quản nông sản sau thu hoạch, bảo quản nông, thủy sản và thực phẩm.
  • Hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp không thuộc địa bàn kinh tế – xã hội khó khăn và địa bàn kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn.

3. Được kéo dài thời gian áp dụng thuế suất ưu đãi thêm không quá 15 năm đối với dự án đầu tư có quy mô lớn và công nghệ cao hoặc mới cần đặc biệt thu hút đầu tư. Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 4 năm, giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo và được giảm thuế trong một số trường hợp như: Doanh nghiệp sử dụng lao động là người dân tộc thiểu số, doanh nghiệp thực hiện linh vực ưu tiên chuyển giao cho các tổ chức, cá nhân thuộc địa bàn có điều kiện inh tế khó khăn, doanh nghiệp có lao động nữ. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

4. Các doanh nghiệp cam kết thực hiện các mục tiêu xã hội, môi trường phù hợp quy định của pháp luật về khuyến khích xã hội hóa thì cũng có khả năng nhận được các ưu đãi đặc biệt về thuế như:

  • Thu nhập từ hoạt động xã hội hóa được áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 10% trong suốt thời gian hoạt động. Nếu thành lập mới trước 06/2008 thì được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 4 năm, kể từ khi có thu nhập chịu thuế và giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp trong 5 năm tiếp theo.
  • Trường hợp thành lập mới kể từ 06/2008 tại các địa bàn ưu đãi đầu tư thì được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 4 năm, kể từ khi có thu nhập chịu thuế, giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp trong 9 năm tiếp theo và được áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 10% trong suốt thời gian hoạt động.

Thứ tư, các doanh nghiệp xã hội hoạt động trong lĩnh vực xã hội và môi trường, có thể được hưởng các chính sách ưu đãi về xã hội hóa theo quy định của pháp luật, cụ thể:

  • Chính sách ưu đãi về cơ sở hạ tầng và đất đai:
  • Cơ sở thực hiện xã hội hóa được thuê dài hạn với giá ưu đãi (không bao gồm tiền thuê đất, tiền đền bù giải phóng mặt bằng và tiền lãi của cơ sở kinh doanh nhà, cơ sở hạ tầng).
  • Được Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất đã hoàn thành giải phóng mặt bằng theo các hình thức: (a) Giao đất không thu tiền sử dụng đất; (b) Cho thuê đất và miễn tiền thuê đất; (c) Giao đất có thu tiền sử dụng đất và được miễn tiền sử dụng đất.
  • Cơ sở thực hiện xã hội hóa được miễn lệ phí trước bạ khi đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn với đất; được miễn các khoản phí, lệ phí khác liên quan đến quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất.

Chính sách ưu đãi về tín dụng: Được vay vốn tín dụng đầu tư hoặc hỗ trợ sau đầu tư theo quy định về tín dụng đầu tư của Nhà nước.

Có thể khẳng định doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam là một chủ thể đặc biệt, một doanh nghiệp hoạt động nhưng không vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận cho các nhà đầu tư mà phần lớn lợi nhuận của doanh nghiệp xã hội được phục vụ cho cộng đồng. Như vậy, việc điều chỉnh pháp luật đối với doanh nghiệp xã hội cần xét đến các yếu tố đặc thù của mô hình này, để góp phần tạo nên “hệ sinh thái” tốt, tạo điều kiện cho doanh nghiệp xã hội phát triển như nhiều quốc gia trên thế giới.

2.3. Trường hợp của Doanh nghiệp xã hội KOTO Khóa luận: Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

KOTO được thành lập vào năm 1999, bắt đầu từ một tiệm bánh mỳ kẹp, tạo công ăn việc làm cho chín trẻ lang thang cơ nhỡ. Từ đó, KOTO lớn mạnh dần, trở thành một doanh nghiệp xã hội phi lợi nhuận được trao tặng nhiều giải thưởng, không chỉ góp phần thay đổi cuộc sống của hàng trăm bạn trẻ thiệt thòi, dễ bị tổn thương, mà còn góp phần thay đổi nhận thức của Việt Nam về doanh nghiệp xã hội. KOTO được xem là “người anh cả của doanh nghiệp xã hội Việt Nam” và là một dẫn chứng sinh động về những doanh nghiệp xã hội thành công [8, tr.28].

2.3.1. Vài nét về Doanh nghiệp xã hội KOTO

Thành lập năm 1999 bởi Jimmy Phạm, một Việt kiều Úc, KOTO (viết tắt từ Know One, Teach One) là một doanh nghiệp xã hội hoạt động dưới mô hình một nhà hàng kinh doanh và trung tâm dạy nghề với hi vọng làm thay đổi cuộc sống của những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn tại Việt Nam. Phương châm của KOTO là “Know one, Teach one – Biết một, dạy một”, được bắt nguồn từ ý tưởng học viên đã tốt nghiệp tại KOTO sẽ không chỉ dìu dắt những học viên mới của KOTO, mà còn có trách nhiệm giúp đỡ những bạn trẻ có hoàn cảnh khó khăn khác ngoài cộng đồng [8, tr.29].

Mặc dù số liệu thống kê cho thầy tỉ lệ thất nghiệp của Việt Nam ở mức thấp, chỉ hai đến bốn phần trăm, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) khẳng định thanh niên là độ tuổi rất dễ rơi vào tình trạng không có việc làm, với một nửa lượng người thất nghiệp nằm ở độ tuổi từ 15 đến 24 [22]. Hơn nữa, có khoảng bốn triệu thanh niên nằm trong diện “có việc làm không ổn định”, có nghĩa họ tự làm chủ hay tham gia các công việc có năng suất không cao, lương thấp, điều kiện làm việc không tốt hoặc không có bảo hiểm xã hội.

Trong khi đó, ngành du lịch và nhà hàng – khách sạn là hai lĩnh vực hết sức phát triển trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, lại đang đối diện với tình trạng thiếu nhân lực bởi thiếu các hoạt động đào tạo nghề cho giới trẻ. Chính thực tế này đã hối thúc Jimmy Phạm bắt tay vào xây dựng mô hình đào tạo, mà sau này trở thành KOTO, đạt được vị thế là một doanh nghiệp xã hội bền vững và đi đầu tại Việt Nam  [8, tr.29].

Trung tâm dạy nghề KOTO là trung tâm phi lợi nhuận (NGO) được thành lập để hỗ trợ dạy nghề cho trẻ em lang thang và trẻ có hoàn cảnh khó khăn. Trong 24 tháng, học viên sẽ được học các kỹ năng để phục vụ trong lĩnh vực nhà hàng – khách sạn (bếp, phục vụ bàn – bar), tiếng Anh chuyên ngành và các kỹ năng sống. Ngoài ra, các em cũng được kiểm tra sức khỏe định kỳ, được tiêm chủng, được cung cấp đồng phục, giặt giũ, ăn trưa, nhà ở, dịch vụ y tế và tiền trợ cấp huấn luyện hằng tháng tại nhà hàng đào tạo. Cho đến nay, KOTO đã đào tạo được 20 khóa (mỗi năm tuyển sinh 2 khóa), với số học viên tốt nghiệp có bằng đạt gần 350 em [8, tr.28]. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

Nhà hàng KOTO là nhà hàng đào tạo (training restaurant), tại đó các em được thực hành nghề trong một môi trường kinh doanh thực sự. Hiện tại, hơn một nửa chi phí hoạt động của Trung tâm đã được tài trợ từ lợi nhuận của nhà hàng. Phục vụ mục tiêu xã hội của Trung tâm, tuy nhiên, nhà hàng KOTO vẫn phải cạnh tranh bình đẳng với các nhà hàng khác cùng dãy phố, thậm chí nộp thuế nhiều hơn, bởi việc quản lý sổ sách kế toán của tổ chức phải minh bạch công khai, trước yêu cầu của nhà tài trợ.

Trong suốt quá trình thành lập và phát triển, KOTO đã đạt những thành tựu lớn và có nhiều dấu mốc quan trọng, cụ thể [8, tr.35]:

  • Cửa hàng bánh kẹp KOTO được mở ra tại Hà Nội với nhân lực là chín trẻ em đường phố và một kế toán vào năm 1999. Thành lập trung tâm đào tạo KOTO đầu tiên vào năm 2001.
  • Hợp tác với Học viện Box Hill để phát triển chương trình đào tạo năm 2011; Cùng với Học viện Box Hill nâng cấp chương trình dạy nghề của KOTO lên thành Chứng chỉ cấp ba về đào tạo nhà hàng khách sạn năm 2013.
  • Nhà hàng đầu tiên được mở tại Hà Nội ngay đối diện Văn Miếu – Quốc Tử Giám năm 2007; kỷ niệm khách hàng thứ 100.000 vào năm 2008; khánh thành trung tâm đào tạo tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2010 và một nhà hàng ở thành phố Hồ Chí Minh năm 2011.
  • Năm 2012, thành lập nhà hàng cao cấp và doanh nghiệp xã hội tại HÀ Nội, Pots ‘n Pans, cùng sự giúp sức của Hội Cựu học viên KOTO (KAA) và Small Giants, một doanh nghiệp đầu tư xã hội năm 2012.
  • Năm 2014, khai trương Dịch vụ ăn uống văn phòng KOTO tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, do cựu học viên thực hiện, trong quan hệ hợp tác với Quỹ đầu tư xã hội Lotus Impact.
  • Năm 2002, KOTO đăng ký kinh doanh là công ty TNHH tại Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội. Năm 2016, KOTO trở thành doanh nghiệp xã hội được công nhận đầu tiên tại Việt Nam, theo tinh thần của Điều 10 Luật Doanh nghiệp và Nghị định 96 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Sự kiện KOTO chính thức được cấp giấy phép công nhận là doanh nghiệp xã hội đầu tiên theo Luật Doanh nghiệp 2014 không chỉ đối với KOTO mà còn đánh dấu một chặng đường mới trong lịch sử phát triển của phong trào doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam.

2.3.2. Phân tích trường hợp của Doanh nghiệp xã hội KOTO Khóa luận: Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

Trước khi loại hình doanh nghiệp xã hội được thừa nhận chính danh trong điều 10 của Luật Doanh nghiệp năm 2014, đã có những doanh nhân dấn thân vào con đường kinh doanh đầy chông gai thử thách này, mà một trong những điển hình là Jimmy Phạm với doanh nghiệp xã hội KOTO. KOTO có thể được xem là một trong những doanh nghiệp xã hội tiên phong tại Việt Nam.  Trước hết, cần phải khẳng định việc áp dụng mô hình doanh nghiệp xã hội hiện nay ở Việt Nam vẫn còn là điều mới mẻ và gặp khá nhiều khó khăn khi thực hiện. So sánh với doanh nghiệp thông thường, doanh nghiệp xã hội là những doanh nghiệp thực hiện mục tiêu tối cao là phát triển xã hội hay bảo vệ môi trường thông qua việc sử dụng phương thức hoạt động như một doanh nghiệp. Các doanh nghiệp xã hội hướng đến ba mục đích: cung cấp các sản phẩm, dịch vụ mang tình sáng tạo phù hợp với nhu cầu của cộng đồng có hoàn cảnh đặc biệt; tạo cơ hội hòa nhập xã hội cho các cá nhân và cộng đồng yếu thế thông qua các chương trình đào tạo phù hợp, tạo cơ hội việc làm; đưa ra các giải pháp mới cho những vấn đề xã hội chưa được đầu tư rộng rãi như biến đổi khí hậu, năng lượng thay thế, tái chế… Như vậy, có thể thấy doanh nghiệp xã hội phải mang trên mình hai gánh nặng lớn: gánh nặng xã hội và gánh nặng lợi nhuận. Gánh nặng xã hội chính là việc phải giải quyết được các vấn đề xã hội mà doanh nghiệp đã xác định ngay từ khi thành lập. Song để giải quyết vấn đề đó, doanh nghiệp xã hội cần phải có đầy đủ các nguồn lực cần thiết. Điều này đã đặt ra một yêu cầu đối với các doanh nghiệp xã hội là phải xây dựng được một mô hình doanh nghiệp linh hoạt, sáng tạo, phù hợp cộng đồng, chủ động, đa dạng và kiểm soát được nguồn thu giúp tăng khả năng đảm bảo tính bền vững.

Tuy có nhiều thách thức và khó khăn, nhưng Jimmy Phạm đã lựa chọn và áp dụng mô hình doanh nghiệp xã hội cho KOTO ngay từ những ngày đầu hoạt động. Mục đích ban đầu khi thành lập KOTO là trang bị những kiến thức và kỹ năng cần thiết để những trẻ em kém may mắn có thể tự tin bước vào đời. Đây là một mục tiêu xã hội cao cả và đáng ghi nhận. Nhưng trên thực tế, nếu như chỉ phụ thuộc vào nguồn tài trợ thì hoạt động của KOTO sẽ luôn rơi vào thế bị động. Tài chính và nguồn nhân lực ổn định là bài toán khó mà KOTO cần lời giải, chính vì vậy, người sáng lập KOTO phải tự tìm cách tạo ra nguồn vốn để chủ động trong mọi hoạt động của mình.

Hơn nữa, cần nhấn mạnh tại thời điểm thành lập, nhận thức xã hội vẫn in đậm về hai loại hình: hoặc doanh nghiệp hoạt động vì lợi nhuận, hoặc tổ chức phi chính phủ (NGO). Do vậy, một doanh nghiệp xã hội hoạt động phi lợi nhuận như KOTO còn lạ lẫm, bị nhìn nhận một cách dè dặt. Đặc biệt, vào thời điểm đó, doanh nghiệp xã hội vẫn còn là một khái niệm mới, chưa được pháp luật thừa nhận. Chính vì vậy, KOTO đã tồn tại trong một khoảng thời gian dài và phải chịu rất nhiều thiệt thòi.

Thành lập vào thời điểm doanh nghiệp xã hội chưa được ghi nhận trong các quy định của pháp luật, KOTO vẫn phải thực hiện và gánh vác các trách nhiệm của một doanh nghiệp thông thường theo quy định của Luật Doanh nghiệp như các quy định về thuế doanh nghiệp và trách nhiệm xã hội khác. Ngoài ra, đối với một doanh nghiệp xác định mục tiêu giúp đỡ những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn như KOTO, việc nhận hỗ trợ và ưu đãi từ các chính sách của Nhà nước là một điều rất đáng hoan nghênh. Song trao đổi với TBKTSG, Jimmy Phạm cho biết, suốt 15 qua, KOTO hoạt động trong “cô đơn”, không nhận được sự hỗ trợ từ các quỹ đầu tư xã hội cũng như cơ quan Nhà nước [20]. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

Đối với một doanh nghiệp xã hội như KOTO, một trong những khó khăn lớn nhất chính là thiếu vốn hoạt động và yếu kém trong khả năng tiếp cận các nguồn tài chính. Bởi lẽ đa phần các doanh nghiệp xã hội chủ yếu hoạt động ở quy mô nhỏ, tiềm lực tài chính chưa mạnh, không có tài sản, nhà xưởng thế chấp nên khó tiếp cận vốn tín dụng, nếu có vay được thì lãi suất vay thường cao hơn khả năng sinh lời của doanh nghiệp xã hội. Hơn nữa, doanh nghiệp xã hội lại kinh doanh trên các thị trường có rủi ro cao, lợi suất tài chính thấp nên không hấp dẫn các nhà đầu tư thương mại. Do đó, khả năng tiếp cận, huy động các nguồn vốn đầu tư thương mại rất hạn chế. Trong suốt những ngày đầu thành lập, KOTO cũng đã gặp nhiều khó khăn trong việc kêu gọi vốn đầu tư.

Để thu hút vốn đầu tư, KOTO tổ chức hai sự kiện gây quỹ hàng năm: KOTO Dream Ride, được tổ chức tại Hà Nội từ năm 2002 và Gala KOTO ONE tại thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2014. Các cá nhân, gia đình và tổ chức hảo tâm có thể tham gia một cách liên tục vào chương trình Dream Makers (những người tạo ra giấc mơ) bằng cách tài trợ cho mỗi thực tập sinh 150 đô la Mỹ/tháng trong suốt 24 tháng đào tạo và học tập tại KOTO [8, tr.29].

Đặc biệt, ngày 4-12-2014, Quỹ Đầu tư Lotus Impact đã tuyên bố rót vốn vào KOTO để thành lập KOTO Catering, một công ty chuyên cung cấp dịch vụ suất ăn công nghiệp tại TPHCM và Hà Nội. Đây là lần đầu tiên KOTO được đầu tư sau 15 năm độc hành. Dẫu biết các doanh nghiệp xã hội vẫn rất khó thu hút các quỹ đầu tư xã hội nhưng sự thành công của KOTO là một tín hiệu lạc quan, giúp các doanh nghiệp xã hội củng cố niềm tin có thể hoàn thành sứ mệnh xã hội của mình. Ông James Điền Bùi, Giám đốc điều hành của Lotus Impact, đơn vị vừa đầu tư vào KOTO: Quỹ đầu tư xã hội, trước hết cũng là một quỹ đầu tư. Do vậy, dù mục đích chính là tạo tác động đến xã hội và môi trường, chúng tôi vẫn có những yêu cầu cơ bản về lợi nhuận. Lịch sử của công ty, năng lực của doanh nghiệp và tính khả thi của mô hình kinh doanh là những yếu tố cơ bản mà Lotus Impact xem xét khi quyết định đầu tư [22].

Về mặt doanh thu, doanh thu của KOTO được giữ ở mức ổn định trong vài năm qua. Việc chuyển vào thành phố Hồ Chí Minh và cải tạo nhà hàng đào tạo tại tòa nhà Kumho Asiana Plaza vào năm 2015 đã giúp mở rộng gấp đôi không gian cho khách hàng và cho các sự kiện đặc biệt. Chính điều này đã có tác động không nhỏ tới doanh thu quý II và quý III năm 2015 của KOTO. Tuy nhiên, doanh thu của KOTO vẫn đang trong đà tăng trưởng trong năm 2016 và dự đoán sẽ tăng khoảng 80% từ nay (tháng 10 năm 2016) cho tới cuối năm ngân sách. KOTO mỗi năm đều sử dụng dịch vụ kiểm toán độc lập của các tổ chức lớn như KPMG hoặc Công ty Kiểm toán quốc tế và Tư vấn tài chính (IFC) [8, tr.29]. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

Đây chính là cách một doanh nghiệp xã hội như KOTO ứng dụng các giải pháp kinh doanh giải quyết các vấn đề xã hội. Mục tiêu cao nhất là đạt được sự phát triển bền vững bằng các giải pháp đột phá, giúp cho tổ chức phi lợi nhuận KOTO độc lập về tài chính, chứ không phụ thuộc vào trợ cấp hay các khoản đóng góp để bù đắp các khoảng trống ngân quỹ.

KOTO không có cổ đông, lợi nhuận trích ra từ doanh thu của các hoạt động doanh nghiệp xã hội được tái đầu tư vào chương trình đào tạo. Có thể thấy mô hình kinh doanh của KOTO chính là phân chia và chuyển hóa đầu vào (các khóa đào tạo bài bản, đồ ăn ngon) thành đầu ra bằng cách phát huy cả giá trị kinh tế (doanh thu từ chuỗi nhà hàng) và giá trị xã hội (ảnh hưởng to lớn tới xã hội từ việc thay đổi cuộc đời của trẻ em yếu thế và dễ tổn thương) [8, tr.28].

Đối với một doanh nghiệp xã hội như KOTO, để có thể đồng thời hoàn thành được cả hai mục tiêu xã hội và mục tiêu lợi nhuận, ngoài việc xác định cụ thể vấn đề xã hội cần giải quyết và tìm được một giải pháp kinh doanh phù hợp, hiệu quả, bền vững, thì việc có được một cơ cấu quản trị vững vàng được xem là một yếu tố quan trọng. Tầm nhìn, sứ mệnh và giá trị của KOTO luôn hiện hữu trong cách KOTO tiếp cận và tổ chức. Vì là một doanh nghiệp phi lợi nhuận, KOTO sử dụng doanh thu trực tiếp đầu tư trở lại chương trình đào tạo thay vì trả cổ tức cho cổ đông như hình thức kinh doanh truyền thống [8, tr.30]. Hoạt động kinh doanh của KOTO bao gồm các lĩnh vực:

  • Dịch vụ nhà hàng;
  • Du lịch;
  • Nhà hàng (bao gồm chuỗi các cửa hàng café, cửa hàng bánh, cung cấp thực phẩm và dịch vụ canteen);
  • Dịch vụ quản lý hoạt động ẩm thực;
  • Cung cấp các dịch vụ đào tạo hướng nghiệp.

Định hướng hoạt động được phản ánh trong cơ cấu tổ chức của KOTO, gồm hai bộ phận. Thứ nhât là doanh nghiệp xã hội KOTO, chịu trách nhiệm quản lý mảng dịch vụ ẩm thực và đào tạo tại nhà hàng. Thứ hai là Quỹ KOTO, quản lý hoạt động đào tạo, trung tâm đào tạo và khu ký túc xá trên toàn quốc (bao gồm tất cả các khu ký túc xá của thực tập sinh). Trong đó, doanh thu tạo ra từ hoạt động của doanh nghiệp xã hội KOTO sẽ bù đắp cho chi phí vận hành của Quỹ KOTO [8, tr.29].

Hoạt động của KOTO tại Việt Nam được giám sát bởi Hội đồng quản trị (không nhận lương) tại Úc và được yêu cầu báo cáo tới Cục thuế của Úc. Chín thành viên trong Hội đồng quản trị được phân chia thành các tiểu ban, trong đó có tiểu ban quản lý quỹ cộng đồng, nhằm đảm bảo các yêu cầu về thuế, có thể phát hành được hóa đơn thuế. Đây chính là vị trí pháp lí của KOTO tại Úc, tạo điều kiện cho KOTO gây quỹ hỗ trợ hoạt động tại Việt Nam. Trong khi Jimmy là Chủ tịch Hội đồng quản trị, có văn phòng tại thành phố Hồ Chí Minh, các thành viên khác của Hội đồng quản trị ở Sydney, Melbourne và Canberra.

Bên cạnh đó, đối với một doanh nghiệp xã hội như KOTO, nguồn nhân lực cũng được xem là một vấn đề nan giải. Để vận hành KOTO theo đúng kế hoạch đặt ra đòi hỏi phải có một đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp và phải có tâm yêu thương các em học viên. Điều này không dễ và buộc KOTO phải xây dựng một chính sách quản lý nguồn nhân lực như một công ty thực thụ. KOTO phải nhờ vả khá nhiều vào sự đóng góp của lực lượng tình nguyện viên bên cạnh việc đầu tư cho một số vị trí chủ chốt.

Về cơ cấu tổ chức, KOTO có 109 nhân viên đang làm tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, và một nhân viên đang làm việc tại Úc. Trong tất cả các nhân viên được trả lương, có hai người nước ngoài: Chủ tịch Hội đồng quản trị KOTO và Tổng giám đốc Quỹ KOTO. 2/3 nhân viên là là phụ nữ. Chính sách trao quyền của KOTO được nhận thấy rất rõ nét ở con số 36% nhân viên là học viên đã tốt nghiệp KOTO [8, tr.32]. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

Việt Nam và Úc có các chương trình khuyến khích các tình nguyện viên ở nhiều nước, bao gồm cả Hội đồng quản trị phi lợi nhuận của KOTO tại Úc. Tình nguyện viên của KOTO được lựa chọn để đi lại cả hai lục địa, làm việc bán hoặc toàn thời gian, đúng như sứ mệnh và tầm nhìn đã đề ra. Hơn nữa, hai lần một năm, KOTO đón các nhóm sinh viên từ Đại học Macquarie (Sydney, Úc) đến làm tình nguyện viên tại Việt Nam trong vòng ba tuần vào mùa xuân và mùa hè. KOTO hợp tác với các tình nguyện viên Việt Nam thực hiện các hoạt động ngoại khóa cho thực tập sinh, như các khóa học âm nhạc, nghệ thuật, khiêu vũ hoặc tham gia hoạt động hậu cần cho các sự kiện gây quỹ [8, tr.32].

Như vậy, có thể thấy trải qua 17 năm thành lập và phát triển với nhiều thăng trầm, KOTO đã đạt được nhiều thành tựu nhất định, khẳng định vị trí của mình là người tiên phong cho phong trào doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam. Mô hình của KOTO, với cách tiếp cận tham gia, hành động và dựa trên quyền lợi thực tế, đã cung cấp chương trình đào tạo nghề cho các học viên trong ngành dịch vụ nhà hàng – khách sạn, ở Việt Nam và quốc tế. Chương trình liên kết này cũng đảm bảo sự thay đổi hành vi bằng cách xây dựng sự tự tin và nhân cách cho người học, giúp người học thay đổi bản thân, gia đình và cộng đồng. Mô hình của KOTO đã tiếp sức cho các bạn trẻ thành lập các doanh nghiệp trong cộng đồng, như mở ra các chuỗi nhà hàng hoặc dịch vụ, và xã hơn là đóng góp cho phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam. ILO cũng đã công nhận “giá trị tái tạo to lớn” của mô hình giáo dục, đào tạo và phát triển kỹ năng sống tại KOTO [18]. doanh nghiệp xã hội chính là con đường tạo ra cơ hội tốt hơn cho tất cả mọi người.

Sự lớn mạnh của KOTO trong suốt thời gian qua cũng cho thấy tiềm năng phát triển của doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam. Đặc biệt, cùng với việc doanh nghiệp xã hội đã được pháp luật ghi nhận trong Luật Doanh nghiệp năm 2014 càng tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nhân xã hội lựa chọn đi theo mô hình này. Tuy nhiên ngoài sự nỗ lực của chính bản thân các doanh nghiệp xã hội, cần có sự hỗ trợ của Nhà nước thông qua các chính sách khởi nghiệp cho doanh nghiệp xã hội. Trở lại với trường hợp của KOTO, mặc dù được công nhận là doanh nghiệp xã hội đầu tiên, nhưng đến nay KOTO vẫn chưa được hưởng những ưu đãi về chính sách, thuế, pháp luật. Thuế vẫn đóng như doanh nghiệp bình thường, thuê mặt bằng kinh doanh cũng không được ưu đãi giảm giá [17]. Hoạt động từ kinh doanh của KOTO hiện tại vẫn chưa bù đắp được chi phí cho trung tâm huấn luyện. Họ vẫn phải dựa vào một số nguồn tài trợ, trong đó có nguồn tài trợ từ chính các cá nhân thực khách đến nhà hàng. Mỗi người đến ăn tại nhà hàng KOTO, ủng hộ 150 đô la Mỹ sẽ được một huy hiệu tròn ghi tên gắn ở tiền sảnh nhà hàng. Hiện nay pháp luật đã có nhiều quy định về những ưu đãi, hỗ trợ, khuyến khích về đầu tư, thuế, quỹ đất; hỗ trợ về tài chính, nhân lực; phát triển quỹ tài chính hoặc nguồn tài chính để giúp cho doanh nghiệp xã hội phát triển. Nhưng trên thực tế, các doanh nghiệp xã hội vẫn chưa được hưởng những ưu đãi trên [17]. Điều này cũng đặt ra yêu cầu đối với Nhà nước chính là việc phải triển khai đồng bộ và kịp thời những chính sách ưu đãi, hỗ trợ các doanh nghiệp xã hội để họ có thêm nhiều điều kiện hoạt động và phát triển.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 Khóa luận: Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

Luật Doanh nghiệp sửa đổi ban hành tháng 11/2014 đã mở ra một chương mới cho cộng đồng doanh nghiệp Việt khi lần đầu tiên ghi nhận khái niệm doanh nghiệp xã hội trong hệ thống pháp lý. Việc luật hóa doanh nghiệp xã hội trong Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã tạo tiền đề quan trọng cho việc hình thành môi trường pháp lý và những chính sách phù hợp khuyến khích cho sự phát triển của doanh nghiệp xã hội.

Theo quy định của pháp luật, doanh nghiệp xã hội được định nghĩa là doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường với triết lý kinh doanh gắn liền với xây dựng cuộc sống bền vững, giải quyết các vấn đề xã hội thay vì lợi nhuận thuần túy. doanh nghiệp xã hội góp phần chia sẻ trách nhiệm và gánh nặng xã hội với Nhà nước bằng các con đường riêng đầy sáng tạo, tiết kiệm, thiết thực và hiệu quả, đồng thời giúp bù đắp được một khiếm khuyết khó khắc phục của cơ chế thị trường là vận hành bởi động cơ lợi nhuận.

Hiện nay có một số doanh nghiệp xã hội đã tạo dựng được thương hiệu, điển hình như: Trường đào tạo nghề nhân đạo KOTO với chuỗi nhà hàng ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Trong hơn một thập kỷ phát triển, KOTO đã nhận đào tạo nghề nấu ăn, dịch vụ khách sạn, nhà hàng cho rất nhiều trẻ em lang thang, có hoàn cảnh khó khăn. Không ít học viên của Koto sau này đã tự mở được nhà hàng hoặc tìm được việc làm ổn định tại các khách sạn, nhà hàng có tiếng. Năm 2016, KOTO trở thành doanh nghiệp xã hội được công nhận đầu tiên tại Việt Nam, theo tinh thần của Điều 10 Luật Doanh nghiệp và Nghị định 96 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Sự kiện KOTO chính thức được cấp giấy phép công nhận là doanh nghiệp xã hội đầu tiên theo Luật Doanh nghiệp 2014 không chỉ đối với KOTO mà còn đánh dấu một chặng đường mới trong lịch sử phát triển của phong trào doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam [22]. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp xã hội Việt Nam.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Khóa luận: Giải pháp hoạt động của doanh nghiệp xã hội Việt Nam

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x