Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo ở Hải Phòng dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này. 

2.1 Giới thiệu khái quát môi trường hình thành các di tích

2.1.1 Lịch sử hình thành

Hải Phòng là miền đất có bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa, xã hội lâu đời. Sự hình thành và phát triển của Hải Phòng gắn liền với các chứng tích của người tiền sử ở di chỉ khảo cổ học Cái Bèo (Cát Bà) thuộc văn hóa Hạ Long cách ngày nay khoảng 4000 đến 6000 năm, với sự hình thành của nền văn minh sông Hồng thuộc văn hóa Đông Sơn với các chứng tích của con người ở di chỉ khảo cổ học Tràng Kênh (Thủy Nguyên), Núi Voi (An Lão) cách ngày nay từ 2000 năm đến hơn 3000 năm; với truyền thuyết về tên tuổi của nữ tướng Lê Chân – người lập trang An Biên vào đầu Công Nguyên – cái nôi hình thành nên đô thị Hải Phòng ngày nay.

Là vùng đất đầu súng, ngọn giáo, “phên dậu” phía Đông của đất nước, Hải Phòng có vị thế chiến lược trong toàn bộ tiến trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Người Hải Phòng với tinh thần yêu nước nồng nàn, tính cách dũng cảm, kiên cường, năng động, sáng tạo đó từng chứng kiến và tham gia vào nhiều trận quyết chiến chiến lược trong chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

Hải Phòng là vùng đất in đậm dấu ấn trong lịch sử chống giặc ngoại xâm phương Bắc với các chiến thắng trận Bạch Đằng: trận Bạch Đằng – 938 của Ngô Quyền, trận Bạch Đằng – 981 của Lê Hoàn và trận Bạch Đằng – 1288 của Trần Hưng Đạo. Thời nhà Mạc, vì đây là quê hương của nhà Mạc nên vùng này được chú ý xây dựng thành kinh đô thứ hai gọi là Dương Kinh.

Vào những năm đầu Công Nguyên, Hải Phòng là một làng nhỏ nằm bên bờ sông Cấm. Bà Lê Chân – một nữ tướng của Hai Bà Trưng đã dựng ở đây một trang trại lấy tên là An Biên làm căn cứ chống giặc. Đời Lý – Trần – Lê, Hải Phòng thuộc đất của Hải Dương, thế kỷ XVIII khi giao lưu thương mại quốc tế phát triển, tàu buôn của nước ngoài đến Việt Nam thường qua Hải Phòng. Năm 1817 tại đây đã lập một bến và gọi tên là Ninh Hải.

Với tên gọi Hải Phòng có ý kiến cho rằng đó là tên viết tắt của cụm từ “Hải tần phòng thủ” – một chức tướng của nữ tướng Lê Chân. Nhưng cũng có cách giải thích khác: Năm 1870 – 1873, Bùi Viện, được vua Tự Đức giao phó, đó thực hiện việc xây dựng một bến cảng bên cửa sông Cấm mang tên Ninh Hải và một căn cứ phòng ngự bờ biển ở liền kế bên, gọi là nha Hải Phòng sứ. Khi Pháp đánh chiến Bắc Kỳ lần thứ nhất năm 1873-1874, tại cảng Ninh Hải này, nhà Nguyễn và Pháp lập nên một cơ quan thuế vụ chung, quản lý việc thương mại ở vùng này gọi là Hải Dương thương chính quan phòng.

Hải Phòng là một trong 5 thành phố lớn của Việt Nam, ra đời từ những năm 70 của thế kỷ XIX. Trên địa bàn miền Bắc, Hải Phòng là một đô thị có tuổi đời trẻ nhất so với nhiều đô thị có quá trình tồn tại lâu dài như Hà Nội, Nam Định, Ninh Bình, Hà Tây …

Nền móng đầu tiên cho Hải Phòng phát triển lên thành đô thị không phải như thành luỹ trụ sở phong kiến như Hà Nội, cũng không phải là cảng thị lớn như Hội An. Nó xuất phát từ làng chài nhỏ gần cửa sông, ở đó có bến tàu thuyền, có trạm thuế quan và đồn canh cửa biển với 2 chức năng: kinh tế và quốc phòng. Sau khi ra đời, do vị trí địa lý thuận lợi, trong bối cảnh lịch sử đặc biệt, Hải Phòng đã nhanh chóng trở thành một thành phố – hải cảng có tầm quan trọng lớn cả về mặt kinh tế – chính trị – quân sự trong phạm vị quốc gia và có tên trên thế giới.

Thành phố Hải Phòng ngày nay được Quốc Hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (nay là Quốc Hội nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam) quyết định thành lập vào ngày 27/10/1962, trên cơ sở hợp nhất thành phố Hải Phòng cũ và tỉnh Kiến An. Cùng với Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng phát triển thành 3 thành phố lớn nhất của Việt Nam.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Nhận Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Du Lịch

2.1.2 Vị trí địa lý

Hải Phòng là thành phố duyên hải nằm ở hạ lưu hệ thống sông Thái Bình thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng, có diện tích đất tự nhiên 1053,1 km2 – chiếm 0,45% diện tích đất tự nhiên của cả nước, nằm trong hệ toạ độ địa lý : 20030‟39‟‟ – 21001‟15‟‟ vĩ độ Bắc và 106023‟39‟‟ – 107008‟39‟‟ kinh tuyến Đông. Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

Hải Phòng cách thủ đô Hà Nội 102 km, có tổng diện tích tự nhiên là trên 152.300 ha, chiếm 0,45% diện tích tự nhiên cả nước (số liệu thống kê năm 2001). Về ranh giới hành chính: phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh; phía Tây giáp tỉnh Hải Dương; phía Nam giáp tỉnh Thái Bình. Về phía Đông giáp Biển Đông, Hải Phòng có 125 km bờ biển, địa hình khúc khuỷu, quanh co, tạo nhiều đảo, hang động và bãi tắm đẹp liền kề với Vịnh Hạ Long – di sản thiên nhiên của thế giới, rất thuận lợi cho việc phát triển du lịch. Hải Phòng nằm ở vị trí giao lưu thuận lợi với các tỉnh trong nước và quốc tế thông qua hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển, đường sông và đường hàng không.

Hải Phòng ngày nay bao gồm 15 đơn vị hành chính trực thuộc gồm 7 quận (Hồng Bàng, Lê Chân, Ngô Quyền, Kiến An, Hải An, Đồ Sơn, Dương Kinh), 8 huyện (An Dương, An Lão, Bạch Long Vĩ, Cát Hải, Kiến Thuỵ, Tiên Lãng, Thuỷ Nguyên, Vĩnh Bảo). Dân số thành phố là trên 1.837.000 người, trong đó số dân thành thị là trên 847.000 người và số dân ở nông thôn là trên 990.000 người (theo số liệu điều tra dân số năm 2009). Mật độ dân số 1.207 người/km2.

Hải Phòng với vị trí thuận lợi là cửa ngõ giao thông của miền Bắc Việt Nam, là một trong 3 đỉnh tam giác kinh tế trọng điểm, đó là: Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh. Với hệ thống mạng lưới đường bộ, đường sắt, cảng biển và đường hàng không đã tạo cho Hải Phòng nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế.

Cảng biển Hải Phòng đã hình thành trên 100 năm, là đầu mối xuất nhập khẩu hàng hoá, tiếp thu các thành tựu khoa học kỹ thuật của thế giới. Hiện nay, cảng Hải Phòng là một trong những cảng biển lớn nhất Việt Nam, kéo dài hơn 12km gồm những cảng hàng rời, cảng Container, cảng hàng nặng xếp dỡ hơn 6,5 triệu tấn/ năm và dự kiến 10/12 triệu tấn vào năm 2010. Hệ thống cảng biển cùng với hệ thống của sân bay Cát Bi được cải tạo…Hải Phòng có điều kiện thuận lợi để chuyển tải hàng hoá xuất nhập khẩu cho các tỉnh vùng Bắc Bộ, các tỉnh phía nam Trung Quốc, đồng thời thiết lập mối quan hệ bằng đường biển và đường hàng không với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.

2.1.3 Điều kiện tự nhiên Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

Về khí hậu: Hải Phòng chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa. Trong đó, từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau là khí hậu một mùa đông lạnh và khô. Từ tháng 5 đến tháng 10 thuộc khí hậu mùa hè, nồm mát và mưa nhiều. Lượng mưa trung bình từ 1.600 đến 1.800 mm/ năm.

Nhiệt độ trung bình năm từ 23 – 260C, tháng nóng nhất nhiệt độ lên tới 390C và tháng lạnh nhất nhiệt độ có thể xuống dưới 90C. Do nằm gần biển, độ ẩm trung bình vào khoảng 80 – 85 %, cao nhất vào tháng 7, 8, 9; thấp nhất là vào tháng 1, 2.

Địa hình, đất đai: Địa hình Hải Phòng thay đổi rất đa dạng phản ánh một quá trình lịch sử địa chất lâu dài và phức tạp. Phần bắc Hải Phòng có dáng dấp của một vùng trung du với những đồng bằng xen đồi trong khi phần phía nam thành phố lại có địa hình thấp và khá bằng phẳng của một vùng đồng bằng thuần tuý nghiêng ra biển.

Đồi núi chiếm 15 % diện tích, phân bố hơn nửa phía bắc thành phố tạo thành 2 dải chạy liên tục theo hướng Đông Bắc – Tây Nam. Trong đó, dải thứ nhất chạy từ An Lão đến Đồ Sơn và dải thứ hai chạy từ Kỳ Sơn – Tràng Kênh đến An Sơn – Núi Đèo. Cấu tạo địa chất Hải Phòng gồm những loại đá cát kết, phiến sét, đá vôi.

Hiện nay, Hải Phòng có 62.127 ha đất canh tác, hình thành phần lớn từ hệ thống sông Thái Bình và vùng đất bồi ven biển nên chủ yếu mang tính chất đất phèn, đất mặn, địa hình đan xen cao thấp và nhiều đồng trũng. Đất nông nghiệp tính theo bình quân đầu người đạt 360m2/người không kể những bãi bồi ven biển lớn với 23.000 ha bãi triều đá nổi và ngập nước, trong đó hiện có 13.000 ha bãi nổi còn bỏ hoang.

Ngoài ra Hải Phòng còn có tài nguyên rừng phong phú đa dạng, có rừng nước mặn, rừng cây lấy gỗ, cây ăn quả, tre, mây…đặc biệt có khu rừng nguyên sinh Cát Bà với thảm thực vật đa dạng phong phú, trong đó có nhiều loại thảo mộc quý hiếm. Diện tích rừng khoảng 17.300 ha, trong đó có khoảng 580 ha rừng nguyên sinh như rừng nhiệt đới Amazon thu nhỏ, trong đó có nhiều loại cây gỗ quý hiếm được xếp loại thực vật cần bảo vệ và nhiều loại cây dược liệu được giới y học trong và ngoài nước quan tâm; có nhiều loại chim như hoạ mi, khướu, vẹt, đa đa, đại bàng, hải âu, én…Thú quý trên đảo có khỉ mặt đỏ, khỉ mặt vàng, sơn dương, hoẵng, rái cá, sóc đuôi đỏ, sóc bụng đỏ, mèo rừng, nhím…đặc biệt là voọc đầu trắng sống thành từng đàn là loại thú quý hiếm trên thế giới chỉ mới thấy ở Cát Bà. Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

Về hệ thống sông ngòi: Hải Phòng có mạng lưới sông ngòi dày đặc với mật độ 0,65 – 0,8 km/km2 và đều từ sông Thái Bình chảy ra vịnh Bắc Bộ với 5 cửa sông chính. Vì thế, Hải Phòng vừa có “tính sông” do chịu chi phối của chế độ nước đất liền, vừa có “tính biển” do chịu ảnh hưởng sâu sắc của thuỷ triều. Trong đất liền có 16 con sông chính toả rộng khắp các địa bàn với độ dài hơn 300km gồm sông Thái Bình, Văn Úc, Lạch Tray, sông Cấm, sông Đá Bạc (một nhánh của sông Bạch Đằng). Ngoài những sông chính là những nhánh sông nhánh lớn nhỏ chia cắt khắp địa hình thành phố: sông Giá, sông Đa Độ …

Về bờ biển, biển và hải đảo: Hải Phòng có bờ biển dài trên 125 km. Ngoài khơi thuộc địa phận Hải Phòng cú nhiều đảo rải rác trên khắp mặt biển, lớn nhất có đảo Cát Bà, xa nhất là đảo Bạch Long Vĩ. Biển, bờ biển và hải đảo đó tạo nên cảnh quan thiên nhiên đặc sắc của thành phố duyên hải. Đây cũng là một thế mạnh tiềm năng của nền kinh tế địa phương. Biển Hải Phòng là một bộ phận thuộc Tây bắc vịnh Bắc Bộ, có điạ hình là một đường cong lõm của bờ vịnh Bắc Bộ, thấp và bằng phẳng. Mũi Đồ Sơn nhô ra biển nhu một bán đảo, tạo cho Đồ Sơn thành một vị trí chiến lược quan trọng và thắng cảnh thiên nhiên nổi tiếng. Trong đó Cát Bà là một trong ba hòn đảo lớn nhất Việt Nam với nhiều hang động, bãi tắm và có rừng nguyên sinh Cát Bà – một trong những khu dự trữ sinh quyển thế giới nơi bảo tồn các loại động vật quý hiếm. Có thể nói bờ biển, biển, hải đảo đã tạo nên cảnh sắc thiên nhiên vô cùng đặc sắc, tạo nên tiềm năng và thế mạnh cho du lịch Hải Phòng.

Tài nguyên biển là một trong những nguồn tài nguyên qúy hiếm của Hải Phòng với gần 1.000 loài tôm, cỏ và hàng chục loài rong biển có giá trị kinh tế cao như tôm rồng, tôm he, cua bể, đồi mồi, sò huyết, ngọc trai, tu hài, bào ngư…

là những hải sản được thị trường thế giới ưa chuộng. Tại các vùng triều ven bờ, ven đảo và các vùng bãi triều ở các vùng cửa sông rộng tới trên 12.000 ha vừa có khả năng khai thác, vừa có khả năng nuôi trồng thuỷ sản nước mặn và nước lợ có giá trị kinh tế cao.

Đây chính là đặc trưng thiên nhiên đặc sắc của Hải Phòng, nhân tố tác động thường xuyên đến nhiều hiện tượng xảy ra trong thiên nhiên và ảnh hưởng quan trọng đến nhiều hoạt động xã hội.

Về khoáng sản: Do đặc điểm lịch sử địa chất, vị trí địa lý, Hải Phòng có nhiều nguồn lợi, tiềm năng: có mỏ sắt ở Dương Quan (Thuỷ Nguyên), mỏ kẽm ở Cát Bà (tuy trữ lượng nhỏ); có sa khoáng ven biển (Cát Hải và Tiên Lãng); mỏ cao lanh ở Doãn Lại (Thuỷ Nguyên), mỏ sét ở Tiên Hội, Chiến Thắng (Tiên Lãng). Đá vôi phân phối chủ yếu ở Cát Bà, Tràng Kênh, Phi Liệt, phà Đụn; nước khoáng ở xã Bạch Đằng (Tiên Lãng). Muối và cát là hai nguồn tài nguyên quan trọng của Hải Phòng, tập trung chủ yếu ở vùng bãi giữa sông và bãi biển, thuộc các huyện Cát Hải, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo, Kiến Thụy, Đồ Sơn. Trên đảo Bạch Long Vĩ có đá asfalt – sản phẩm ôxi hoá dầu, cho biết có triển vọng dầu khí vì thềm lục địa của Hải Phòng chiếm đến 1/4 diện tích Đệ Tam vịnh Bắc Bộ, có bề dày đạt tới 3.000m. Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

2.1.4 Điều kiện kinh tế – xã hội và đời sống dân cư

Về địa danh: Địa danh Hải Phòng mới xuất hiện cách đây 100 năm. Tuy nhiên, từ xa xưa, tại mảnh đất này đã có cư dân sinh sống. Những kết quả nghiên cứu khảo cổ học tại di chỉ Cái Bèo đã cho thấy dấu vết cư trú của con người cổ xưa cách đây khoảng 6000 đến 7000 năm. Hải Phòng còn có nhiều địa danh mang dấu ấn của nền văn hoá Đông Sơn – một nền văn hoá của thời đại kim khí đồng thau.

Về cơ cấu dân cư: Cùng với lịch sử, cộng đồng dân cư Hải Phòng không ngừng lớn mạnh và phát triển. Dân số Hải Phòng hiện nay đã có khoảng 1803,468 nghìn người (số liệu từ Chi cục dân số và kế hoạch hoá gia đình tháng 3 năm 2009), mật độ dân số Hải Phòng khá đông với trình độ dân trí cao.

Hải Phòng là đầu mối giao lưu nên trong suốt quá trình phát triển đã có nhiều tầng lớp dân cư từ nơi khác đến sinh sống. Điển hình từ xa xưa ở Hải Phòng đã hình thành nên khu phố người Hoa và khu phố Tây. Ngày nay, Hải Phòng là một trong những thành phố có kinh tế phát triển cao. Do vậy, Hải Phòng ngày càng thu hút dân cư từ nơi khác đến sinh sống, mà chủ yếu là dân cư của các tỉnh lân cận mang đến cho Hải Phòng các đặc trưng văn hoá khác nhau. Tuy nhiên tất cả đều có chung một cội nguồn văn hoá và cốt cách của những con người đi khai hoang lấn biển.

Về kinh tế: Đặc điểm nổi bật của kinh tế Hải Phòng là kinh tế biển và cảng biển, bởi chính những ưu thế về vị trí địa lý và tài nguyên biển đã tạo cho thành phố những đặc trưng riêng biệt này. Khi nói đến những ngành kinh tế chủ chốt của Hải Phòng là phải kể đến: ngành công nghiệp đóng tàu, ngành nuôi trồng và chế biến thuỷ sản, ngành khai thác xi măng và ngành du lịch.

Đặc biệt, sự kiện thành phố được Chính phủ công nhận là đô thị loại 1 – đô thị trung tâm cấp quốc gia, Bộ Chính Trị đã ban hành Nghị Quyết 32/NQ – TW về “xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng trong thời kỳ công nghiệp hoá – hiện đại hoá” là mốc son lịch sử ghi nhận những thành tựu phát triển của thành phố, nâng cao vị thế và tạo điều kiện, có cơ hội thuận lợi cho Hải Phòng tiếp tục phát triển, xứng đáng với lợi thế vốn có của mình.

Với sự phát triển nhanh chóng về mặt kinh tế, cùng với sự phát triển về mặt xã hội đã mang lại cho Hải Phòng một bộ mặt mới – bộ mặt của một thành phố công nghiệp hiện đại. Người dân Hải Phòng ngày càng được nâng cao về mặt đời sống và tinh thần, trình độ dân trí ngày càng nâng lên, tỷ lệ lao động thất nghiệp và không có việc làm giảm, đã tạo những bước đệm cho sự phát triển đi lên từng ngày một của Hải Phòng. Tuy nhiên, trong thời buổi hội nhập như nền kinh tế thị trường hiện nay, Hải Phòng cần có những chính sách đầu tư và phát triển mạnh hơn nữa để trở thành một trọng điểm kinh tế miền Bắc.

2.1.5 Sự phát triển du lịch Hải Phòng Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

2.1.5.1 Tài nguyên du lịch Hải Phòng

Tài nguyên du lịch tự nhiên của Hải Phòng khá đa dạng và phong phú, được hình thành bởi tổng hợp các yếu tố địa chất – địa hình, khí hậu, thuỷ hải sản và hệ thống động thực vật đa dạng, phân bố tập trung ở dải ven biển Đồ Sơn và Cát Bà; ngoài ra còn có phân bố ở khu vực núi đá vôi Tràng Kênh – Thuỷ Nguyên.

Cát Bà là hòn đảo lớn nhất và độc đáo nhất trong số 1696 hòn đảo của quần thể Vịnh Hạ Long. Trên đảo còn lưu giữ được khu rừng nguyên sinh nhiệt đới, có hệ thống động thực vật phong phú, nhiều loại động vật, thực vật quý hiếm còn tồn tại ở đây như Voọc đầu trắng được ghi trong sách đỏ của thế giới, tới 745 loài thực vật bậc cao. Cát Bà còn có hệ thống hang động, vùng vịnh rất hấp dẫn du khách: động Trung Trang, động Thiên Long, vịnh Lan Hạ…Cát Bà còn có 139 bãi tắm mini nằm xen giữa những dãy núi đá vôi trùng điệp với cấu trúc karst ngập nước, hệ sinh thái san hô của Cát Bà là tài nguyên đặc hữu trong quần thể di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long. Cát Bà đã được UNESCO công nhận là “khu dự trữ sinh quyển đảo Cát Bà” vào ngày 01/04/2005.

Đồ Sơn được ví như hình con rồng đang nằm chầu về viên ngọc là Hòn Dáu. Đây là một bán đảo với đồi núi, rừng cây nối tiếp nhau vươn ra biển đến 5km, với ba khu bãi tắm đều có núi đồi, rừng thông yên tĩnh và thoáng mát.

Cát Bà và Đồ Sơn có hàng trăm cơ sở lưu trú phục vụ khách du lịch, thích hợp với các loại hình du lịch nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, du lịch biển đảo, du lịch sinh thái, du lịch nghiên cứu khoa học… Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

Một số địa điểm khác có thể đưa vào khai thác phục vụ du lịch như: khu sinh thái Núi Voi (An Lão), khu vực rừng Thiên Văn (Kiến An), khai thác nước khoáng nóng Tiên Lãng, khu vực sông Giá và Tràng Kênh (Thuỷ Nguyên)…

Hải Phòng có tài nguyên du lịch nhân văn khá phong phú, được tập trung phần lớn ở khu vực nội thành và các vùng phụ cận. Đồ Sơn có lễ hội chọi trâu độc đáo là một trong 15 lễ hội cấp quốc gia, có suối Rồng, Đình Ngọc, tháp Tường Long. Huyện Kiến Thụy, vùng đất linh thiêng đã sản sinh ra nhà Mạc với gần 66 năm trị vì đất nước. Huyện Thuỷ Nguyên với chiến thắng Bạch Đằng lịch sử và hệ thống hang động núi được ví von như Hạ Long trên cạn. Huyện An Lão với Núi Voi, căn cứ trong kháng chiến chống Thực dân Pháp và chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mĩ. Vĩnh Bảo với khu di tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm – một trong những nhà tiên tri nổi tiếng thế giới, cây đại thụ của nền văn học Việt Nam thế kỷ 16 và nhiều di tích lịch sử văn hoá lễ hội truyền thống, các trò chơi dân gian tiêu biểu. Khu vực nội thành có dải trung tâm, nhà hát lớn được xây dựng từ thời Pháp thuộc với những Quán hoa, đình Hàng kênh, đền Nghè, chùa Dư Hàng…đều là những điểm tham quan du lịch hấp dẫn. Khu vực đồi Thiên Văn có phong cảnh đẹp, có đài khí tượng thuỷ văn lớn nhất vùng Đông Nam Á, có kính thiên văn quan sát vũ trụ. Khu vực quận Hải An với nhiều di tích lịch sử văn hoá được xếp hạng cấp quốc gia, đặc biệt có hệ thống “tứ linh từ” được coi là “tứ trấn” trấn giữ vùng cửa biển Đông Bắc và làng hoa Đằng Hải truyền thống.

Hải Phòng có lịch sử và nét văn hoá truyền thống lấu đời, có lợi thế về du lịch hơn so với nhiều địa phương khác trong khu vực Bắc Bộ. Vì nơi đây hội tụ nhiều yếu tố quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội mà trước hết đó là điều kiện thuận lợi để xây dựng các khu công nghiệp, thương mại và dịch vụ gắn liền với cảng quốc gia, với vị trí địa lý kinh tế có sức hấp dẫn đầu tư.

2.1.5.2 Hiện trạng phát triển du lịch Hải Phòng.

Hoạt động du lịch của thành phố Hải Phòng đã từng bước phát triển với tốc độ khá nhanh và ổn định, có nhiều chuyển biến tích cực. Ta có thể thấy, du lịch Hải Phòng đang trên đà phát triển mạnh, tuy nhiên lượng khách quốc tế đến Hải Phòng năm 2008 có giảm so với những năm 2007 có thể giải thích như sau: trên thế giới xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu làm ảnh hưởng đến khả năng đi du lịch của các nước, hơn nữa trong năm 2008 là năm thế giới diễn ra nhiều sự kiện quan trọng như: Olympic Bắc Kinh, giải bóng đá Châu Âu. Tại Hải Phòng, tuyến bay Ma Cao – Hải Phòng tạm ngưng hoạt động đã ảnh hưởng đến số lượng khách du lịch quốc tế đến Hải Phòng. Vì đối tượng khách du lịch Hải Phòng tập trung nhiều vào khách Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Singapore… Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

Thực hiện sự chỉ đạo của ủy ban nhân dân thành phố căn cứ Chương trình công tác năm 2008 và năm 2009, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch xây dựng Kế hoạch hoạt động kỷ niệm 62 năm Ngày Toàn quốc kháng chiến, 64 năm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, đón tết Dương lịch 2009, tết Nguyên đán Kỷ Sửu và 79 năm Ngày thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Tại hội nghị, Sở đã tập trung triển khai Chương trình công tác năm 2009 trên các lĩnh vực văn hoá, thể thao, du lịch và gia định, trong đó đặc biệt chú trọng các công việc như: các hoạt động trước, trong và sau dip tết Nguyên đán Kỷ Sửu, Lễ hội kỷ niệm 50 năm Ngày Bác Hồ về thăm Làng cá Cát Bà và Kỷ niệm Ngày truyền thống Ngày Thuỷ sản Việt Nam, tổ chức hoạt động Indoor games tại Hải Phòng…

Xu hướng phát triển du lịch Hải Phòng trong năm 2010 tích cực đẩy mạnh hoạt động du lịch, tăng cường xúc tiến và quảng bá về du lịch, tiến hành tổ chức nhiều sự kiện quan trọng của thành phố như: chào mừng kỷ niệm 55 ngày giải phóng Hải Phòng, khai mạc đại hội Thể dục thể thao thành phố lần thứ VI – 2010, tổ chức lễ hội chọi trâu hàng năm tại Đồ Sơn…

Cùng với du lịch, các ngành, các cấp của thành phố cùng vào cuộc, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp du lịch thuộc các thành phần kinh tế phát triển ổn định theo đúng Nghị quyết Đảng bộ thành phố lần thứ 12 đã xác định: “Du lịch cần được đầu tư và phát triển trở thành ngành kinh tế có mức tăng trưởng đột biến trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của thành phố”.

  • Đẩy mạnh khai thác mở rộng thị trường

Điểm rõ nét trong mấy năm qua của Hải Phòng là thị trường khách du lịch được mở rộng, đặc biệt là thị trường khách du lịch của các tỉnh phía Nam Trung Quốc. Ngoài ra khách du lịch đến từ các nước Nhật Bản, Thái Lan, Singapore, Mỹ cũng ngày một tăng. Trong những năm gần đây khách du lịch ở các nước trong khu vực Đông Nam Á đến Hải Phòng tăng, trong khi đó khách quốc tế đến từ các nước EU giảm.

Để phát triển du lịch trên địa bàn thành phố, văn phòng UBND thành phố đã phối kết hợp với Công an thành phố phổ biến quy chế về tổ chức quản lý công dân Trung Quốc sử dụng giấy phép xuất nhập cảnh do Trung Quốc cấp, vào Việt Nam tham quan du lịch được ban hành theo Quyết định số 849/QĐ – BCA ngày 27/08/2004 của Bộ công an (gọi tắt là Quy chế 849) đã cho các doanh nghiệp lữ hành quốc tế và các khách sạn từ một sao trở lên trên địa bàn. Đến nay đã có 418 doanh nghiệp lữ hành quốc tế của Hải Phòng có đủ điều kiện hoạt động kinh doanh đón khách du lịch Trung Quốc theo quy chế này.

Năm 2004, Chính phủ miễn bỏ thị thực nhập cảnh đối với công dân Nhật Bản đến Việt Nam tham quan du lịch. Đây là thị trường tiềm năng, du khách có khả năng thanh toán cao, số lượng khách đông thứ 2 trong cơ cấu khách quốc tế đến Hải Phòng tham quan du lịch. Đến tháng 8 năm 2008, Chính phủ Việt Nam chính thức bãi bỏ thị thực nhập cảnh đối với 46 quốc gia trên thế giới trong đo có các nước Châu Âu và Mỹ. Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam cũng xóa bỏ thị thực nhập cảnh đối với toàn bộ kiều bào Việt Nam sống định cư ở nước ngoài. Như vậy tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch Việt Nam nói chung, và du lịch Hải Phòng nói riêng có xu hướng phát triển. Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

Khách du lịch quốc tế đi bằng tàu biển đến Đồ Sơn và Cát Bà ngày càng tăng. Sở Văn hoá, thể thao và du lịch cùng các doanh nghiệp vận tải hành khách đang triển khai đưa tàu cao tốc của ta và tàu cao tốc liên doanh với Trung Quốc vươn tới thị trường Nam Trung Quốc và đảo Hải Nam.

  • Công tác quảng bá và xúc tiến du lịch

Hoạt động xúc tiến du lịch được đẩy mạnh, cụ thể Sở đang tích cực triển khai các Đề án, kế hoạch:

Đề án Qui định về Điều kiện, tiêu chuẩn của phương tiện thuỷ hoạt động du lịch trên địa bàn thành phố: Sở đã hoàn thiện dự thảo trình và được UBND thành phố phê chuẩn tại Quyết định số 104/2007/QĐ – UBND ngày 19/01/2007.

Xây dựng tuyến du lịch đường bộ từ Thái Lan – Lào – Nghệ An – Hà Nội – Hải Phòng: sau khi cùng các Sở du lịch Nghệ An, Hà Nội, các thành phố thuộc Lào, Thái Lan họp bàn, khảo sát, hợp tác xây dựng tuyến, nghiên cưú mở tuyến du lịch sinh thái biển Hải Phòng – Bạch Long Vĩ: xây dựng Kế hoạch mở tuyến, thực hiện Kế hoạch theo lộ trình; Hợp tác xây dựng tuyến du lịch “các khu dự trữ sinh quyển ven vịnh Bắc Bộ”: với Quảng Ninh hai bên đã phối hợp chỉ đạo, quản lí và hướng dẫn các doanh nghiệp đưa, đón khách du lịch tham quan liên vùng Cát Bà – Hạ Long; cùng triển khai dự án nạo vét, mở luồng tàu Gia Luận (Cát Bà) đến Tuần Châu (Hạ Long). Với Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình: Sở du lịch thành phố Hải Phòng đã làm việc với Sở Du lịch, Sở Thương mại – Du lịch các tỉnh trên về việc hợp tác xây dựng tuyến du lịch: “các khu dự trữ sinh quyển ven Vịnh Bắc Bộ”. Các Sở đã nhất trí cao đề xuất của Sở du lịch Hải Phòng và thống nhất đề nghị Sở Du lịch Hải Phòng là đầu mối liên hệ và dự thảo Đề án xây dựng tuyến trình Tổng cục du lịch.

Thành lập khu Du lịch quốc gia Đồ Sơn – Lưu vực sông Đa Độ (Kiến Thụy): đang triển khai xâu dựng đề án tiếp tục hoàn thiện sau khi có thông tư hướng dẫn thực hiện. Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

Công tác tuyên truyền, quảng ba du lịch đã được thực hiện dưới nhiều hình thức như: thường xuyên phối hợp với Đài phát thanh truyền hình Hải Phòng, Đài truyền hình Việt Nam (VTV1 và VTV4) làm tin tức, phóng sự truyền hình về du lịch Hải Phòng, duy trì các website du lịch có đăng thông tin về du lịch Hải Phòng…Phối hợp với các tỉnh, thành phố bạn trong nước và nước ngoài tổ chức Hội chợ ẩm thực du lịch, tham gia các đại hội, sự kiện, khảo sát, đón đoàn Famtrip và quảng bá du lịch như: Thái Nguyên, Hà Nội, Quảng Ninh, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh; các trung tâm du lịch lớn của Trung Quốc như : Bắc Hải, Nam Ninh (Quảng Tây), Hàng Châu (Quảng Đông) (Nguồn : Sở văn hoá – thể thao và du lịch).

Trong mùa du lịch Sở văn hoá – thể thao và du lịch đã đưa ra những khẩu hiệu nhằm quảng bá du lịch như: “Đồ Sơn biển gọi” đón khách mùa hè, năm 2009 để thu hút khách du lịch Hải Phòng đã hoàn thành các dự án mở rộng tại Đồ Sơn và đưa ra các chương trình khai mạc lễ hội Đồ Sơn kéo dài từ ngày 30/4 đến 3/5 với nhiều tiết mục ấn tượng, tổ chức chương trình lớn đón mừng vị khách thứ một triệu đến tham quan du lịch Cát Bà …

  • Đầu tư phát triển cơ sở vui chơi giải trí

Tại khu vực nội thành và các vùng phụ cận, Sở Văn hoá – thể thao và du lịch đã được khuyến khích xây dựng một số điểm vui chơi giải trí công nghệ cao đã đi vào hoạt động như: khu “dịch vụ ăn uống”, khu vui chơi giải trí nhà nghỉ Cát Cò III, khu vui chơi giải trí đảo Dáu nhân tạo…

Ngoài các dự án đã được phê duyệt và đang triển khai xây dựng, còn có rất nhiều dự án đang trình UBND Thành phố phê duyệt. Khi các dự án mới được triển khai sẽ tiếp tục làm thay đổi diện mạo ngành du lịch thành phố, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách.

  • Hệ thống giao thông

Hải Phòng có hệ thống giao thông công cộng tương đối tốt. Việc phát huy lợi thế của Hải Phòng là cảng biển, đầu mối giao thông đã được đặt ra trong chương trình phát triển du lịch ngay từ những năm đầu tiên của thế kỷ này.

Cảng được khơi sâu để các tàu có trọng tải lớn của quốc tế có thể ra vào thuận tiện, Hải Phòng đang xây dựng dự án cảng tàu du lịch tại bến Bính, cầu cảng 11 cảng Hải Phòng, cảng Bến Nghiêng – Đồ Sơn, nâng cấp các cảng Cái Bèo – Cát Bà cảng nước sâu Đình Vũ. Hàng loạt các tàu vận chuyển khách hiện đại được trang bị để phục vụ khách du lịch từ bến Bính, Đồ Sơn đi Cát Bà, Hạ Long tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Hải Phòng đang có kế hoạch mở tuyến du lịch Hà Nội – Quảng Ninh – Hải Phòng, vì vậy việc đầu tư tàu cao tốc để đảm bảo nhu cầu khách du lịch hoặc tuyến Cát Bà – Đồ Sơn và tàu đi ra đảo Dáu để phục vụ du khách trong và ngoài nước.

  • Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ du lịch Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

Hải Phòng đang từng bước cải tiến chất lượng phục vụ du lịch từ đội ngũ lao động. Hàng năm, bằng những chính sách của mình, thành phố đã và đang thực hiện công tác đào tạo lại và cấp giấy chứng nhận cho hàng trăm người đang làm việc tại các cơ sở phục vụ du lịch.

Quyết tâm xây dựng Hải Phòng là trung tâm đào tạo nguồn nhân lực du lịch không chỉ cho thị trường Hải Phòng mà còn cho các tỉnh phía Bắc. Hiện tại trên địa bàn Hải Phòng có rất nhiều trường đào tạo đội ngũ hướng dẫn viên du lịch và nghề như: Trường Đại học Hải Phòng, trường Đại học Dân lập Hải Phòng, trường Cao đẳng Cộng Đồng, trường Trung học nghiệp vụ du lịch Hải Phòng – đang nâng cấp thành Trường Cao đẳng nghề du lịch Hải Phòng.

Trong những năm gần đây, Trường Đại học Dân Lập Hải Phòng luôn đi đầu trong công tác đào tạo, rất nhiều hướng dẫn viên du lịch giỏi, những sinh viên có tâm huyết với hoạt động du lịch của Thành phố.

2.2 Cuộc đời và sự nghiệp của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn

Trong lịch sử Việt Nam thời kỳ trung đại, có lẽ chưa có một vương triều nào như vương triều nhà Trần. Chỉ trong vòng 30 năm (1258 – 1288), họ đã lãnh đạo một dân tộc nhỏ bé chỉ trên dưới 5 triệu dân với chưa đầy 20 vạn quân liên tiếp đánh bại ba cuộc xâm lược của đế chế Nguyên – Mông hùng mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ. Triều đại nhà Trần với rất nhiều những danh tướng góp mặt trong cuộc chiến hùng tráng của đất nước, nổi bật nhất trong số đó chính là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư [bản kỉ, quyển 5, tờ 1-a]cho hay, tiên tổ của họ Trần là Trần Kinh, người làng Tức Mặc, phủ Thiên Trường. Làng nay là xã Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Trần Kinh sinh ra Trần Hấp. Trần Hấp sinh ra Trần Lý. Trần Lý sinh ra Trần Thừa. Kể từ Trần Thừa trở về trước, người họ Trần ở làng Tức Mặc đời đời đều làm nghề chài lưới.

Con trai trưởng của Trần Thừa là Trần Liễu. Khi em là Trần Cảnh làm vua, Trần Liễu được phong là An Sinh Vương. Hiện vẫn chưa rõ An Sinh Vương Trần Liễu có mấy người con, chỉ thấy sử cũ nhắc đến 3 người.

Trong số những người con của An Sinh Vương Trần Liễu, nổi bật hơn cả vẫn là Trần Quốc Tuấn. Trần Quốc Tuấn về sau được phong là Hưng Đạo Vương, vì thế, người đời vẫn quen gọi ông là Trần Hưng Đạo. Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

Cuộc đời của Trần Hưng Đạo là cuộc đời của một nhà đạo đức, của một người luôn luôn nêu cao và quyết tâm giữ vững tình đoàn kết keo sơn vì nghĩa cả. Ông là biểu tượng sáng ngời của tinh thần trung quân ái quốc.

Trần Quốc Tuấn ra đời khi họ Trần vừa thay thế nhà Lý trong một đất nước đói kém, loạn ly. Trần Thủ Độ, một tôn thất tài giỏi đã xếp đặt bày mưu giữ cho thế nước chông chênh thành bền vững. Bấy giờ Trần Cảnh còn nhỏ mới 11 tuổi, vợ là Lý Chiêu Hoàng. Bà là vị vua cuối cùng của dòng họ Lý, vì nhường ngôi cho chồng nên tôn thất nhà Lý dị nghị nhà Trần cướp ngôi. Trần Thủ Độ rất lo lắng. Bấy giờ Trần Liễu, anh ruột vua Trần Cảnh lấy công chúa Thuận Thiên, chị gái Chiêu Hoàng đang có mang. Trần Thủ Độ ép Liễu nhường vợ cho Cảnh để chắc có một đứa con cho Cảnh. Liễu nổi loạn. Thủ Độ dẹp tan nhưng tha chết cho Liễu. Song điều này không dẹp nổi lòng thù hận của Liễu. Vì thế Liễu kén thầy giỏi dạy cho con trai mình thành bậc văn võ toàn tài, ký thác vào con mối thù sâu nặng. Người con trai ấy chính là Trần Quốc Tuấn. Thuở nhỏ, có người đã phải khen Quốc Tuấn là bậc kỳ tài. Khi lớn lên, Trần Quốc Tuấn càng tỏ ra thông minh xuất chúng, thông kim bác cổ, văn võ song toàn. Trần Liễu thấy con như vậy mừng lắm, những mong Quốc Tuấn có thể rửa nhục cho mình. Song, cuộc đời Trần Quốc Tuấn trải qua một lần gia biến, ba lần quốc nạn và ông đã tỏ ra là một bậc hiền tài. Khi sắp qua đời, An Sinh Vương cầm tay Quốc Tuấn và trối trăng lại rằng: “Nếu con không vì cha mà lấy được thiên hạ thì ở nơi suối vàng, cha không sao nhắm mắt được.” Quốc Tuấn ghi nhớ lời của cha, nhưng không cho đó là lời nói phải.

Thù nhà ông không đặt lên trên quyền lợi dân nước, xã tắc. Ông đã biết dẹp thù riêng, vun trồng cho mối đoàn kết giữa tông tộc họ Trần khiến cho nó trở thành cội rễ của đại thắng. Bấy giờ quân Nguyên sang xâm chiếm Việt Nam.

Trần Quốc Tuấn đã giao hảo hoà hiếu với Trần Quang Khải. Hai người là hai đầu mối của hai chi trong họ Trần, đồng thời một người là con Trần Liễu, một người là con Trần Cảnh, hai anh em đối đầu của thế hệ trước. Sự hoà hợp của hai người chính là sự thống nhất ý chí của toàn bộ vương triều Trần, đảm bảo đánh thắng quân Nguyên hung hãn.

Chuyện kể rằng: thời ấy tại bến Đông, ông chủ động mời Thái sư Trần Quang Khải sang thuyền mình trò chuyện, chơi cờ và sai nấu nước thơm tự mình tắm rửa cho Quang Khải… Rồi một lần khác, ông đem việc xích mích trong dòng họ dò ý các con, Trần Quốc Tảng có ý khích ông cướp ngôi vua của chi thứ, ông nổi giận định rút gươm toan chém chết Quốc Tảng. Do các con và những người tâm phúc xúm vào van xin, ông bớt giận dừng gươm nhưng bảo rằng: Từ nay cho đến khi ta nhắm mắt, ta sẽ không nhìn mặt thằng nghịch tử, phản thầy này nữa! Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

Trong chiến tranh, ông luôn hộ giá bên vua, tay chỉ cầm cây gậy bịt sắt. Thế mà vẫn có lời dị nghị, sợ ông sát vua. Ông bèn bỏ luôn gậy bịt sắt, chỉ chống gậy không khi gần cận nhà vua nên sự nghi kị cũng chấm dứt. Giỏi tâm lý, chú ý từng việc nhỏ để tránh hiềm nghi, yên lòng quan để yên lòng dân, đoàn kết mọi người vì nghĩa lớn dân tộc. Trần Quốc Tuấn trọn đời trung trinh son sắt vì vua, vì nước.

Vua giao quyền tiết chế cho Trần Quốc Tuấn. Ông biết dùng người tài, các anh hùng Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã tượng… đều từ cửa tướng của ông mà ra. Ông rất thương binh lính và họ cũng rất tin yêu ông. Đội quân cha con ấy đã trở thành đội quân bách thắng.

Trần Quốc Tuấn đã soạn hai bộ binh thư: “Binh thư yếu lược” và “Vạn Kiếp tông bí truyền thư” để dạy bảo các tướng cách cầm quân đánh giặc. Trần Khánh Dư, một tướng giỏi cùng thời đã hết lời ca ngợi ông: …”Lấy ngũ hành cảm ứng với nhau, cân nhắc cửu cung, không lẫn âm dương…”. Biết dĩ đoản binh chế trường trận, có nghĩa là lấy ngắn chống dài. Khi giặc lộ rõ ý định gây hấn, Trần Quốc Tuấn truyền lệnh cho các tướng, răn dạy chỉ bảo lẽ thắng bại tiến lui. Bản Hịch tướng sĩ viết bằng giọng văn thống thiết hùng hồn, mang tầm tư tưởng của một bậc “đại bút”.

Trần Hưng Đạo là người có công khai sinh ra nền khoa học quân sự nước ta. Trước Trần Hưng Đạo, bao thế hệ anh hùng hào kiệt đã chiến đấu và chiến thắng, góp phần đắc lực vào việc làm phong phú kho tàng kinh nghiệm chống xâm lăng. Nhiều bậc anh hùng hào kiệt đã thực sự tiến tới đỉnh cao của nghệ thuật cầm quân, thậm chí là đỉnh cao điêu luyện của loại hình nghệ thuật đặc biệt này. Nhưng, một nền khoa học thực sự với đầy đủ ý nghĩa của từ này, thì phải đợi đến Trần Hưng Đạo mới chính thức được khai sinh. Trước tác có giá trị đánh dấu sự kiện này chính là Binh thư yếu lược.

Với việc biên soạn và phổ biến Binh thư yếu lược, Trần Hưng Đạo đã để lại cho đời sau bài học vô giá về kinh nghiệm chống xâm lăng, rằng muốn đập tan những đội quân ăn cướp tàn bạo và thiện chiến, thì bên cạnh tinh thần chiến đấu, lí tưởng chiến đấu và trình độ võ nghệ cũng như thiết bị kĩ thuật, tướng sĩ còn phải được trang bị những tri thức về binh pháp. Với việc khai sinh Binh thư yếu lược, Trần Hưng Đạo đã thực sự trở thành nhà lí luận quân sự xuất sắc đầu tiên của nước ta. Tuy nhiên, Trần Hưng Đạo không phải chỉ là nhà lí luận xuất sắc mà còn là nhà chỉ huy thiên tài. Ông là linh hồn của những chiến công chống xâm lăng vang dội ở thế kỷ XIII. Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

Sinh thời, uy danh lẫy lừng của Trần Hưng Đạo đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia, “tiếng vang đến cả giặc phương Bắc, khiến chúng thường gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương chứ không dám gọi tên”. [Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỉ, quyển 6, tờ 11-a]

Là tướng nhân, Trần Quốc Tuấn thương dân, thương quân, chỉ cho quân dân con đường sáng. Là tướng nghĩa, ông coi việc phải hơn điều lợi. Là tướng chí, ông biết lẽ đời sẽ dẫn đến đâu. Là tướng dũng, ông sẵn sàng xông pha vào nơi nguy hiểm để đánh giặc, lập công, trận Bạch Đằng oanh liệt nghìn đời là đại công của ông. Là tướng tín, ông bày tỏ trước cho quân lính biết theo ông thì sẽ được gì, trái lời ông thì sẽ bị gì. Cho nên cả ba lần đánh giặc Nguyên – Mông, Trần Quốc Tuấn đều lập công lớn.

Khi đại thắng quân Nguyên ở trận Bạch Đằng lịch sử, Trần Hưng Đạo đã là một lão tướng, tuổi cũng xấp xỉ đến lục tuần. Sau nhiều năm lao tâm khổ tứ, sức khoẻ của lão tướng Trần Hưng Đạo cũng dần dần cạn kiệt. Sử cũ chép rằng, ngày 24 tháng 6 năm Canh Tí (1300), trời bỗng có sao sa. Cũng vào ngày tháng ấy, Trần Hưng Đạo lâm bệnh. Hai tháng trước khi mất, vua Trần lúc bấy giờ là Trần Anh Tông (1293-1314) ngự tới tận nhà để thăm rồi nhân đó hỏi rằng :

  • Nếu có điều chẳng may xảy ra mà bọn giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì nên có kế sách đối phó như thế nào?

Ông đã trăn trối những lời cuối cùng, thật thấm thía và sâu sắc cho mọi thời đại “Khoan sức dân để làm kế rễ sâu gốc vững, đó mới là thượng sách giữ nước”. Mùa thu tháng Tám, ngày 20, năm Canh Tý, Hưng Long thứ 8 (1300) “Bình Bắc đại nguyên soái” Hưng Đạo đại vương qua đời. Theo lời dặn lại, thi hài ông được hỏa táng thu vào bình đồng và chôn trong vườn An Lạc, giữa cánh rừng An Sinh miền Đông Bắc, không xây lăng mộ, đất san phẳng, trồng cây như cũ…

Bảy thế kỉ qua, tên tuổi và sự nghiệp của Trần Hưng Đạo luôn toả sáng trong sử sách, luôn là nguồn cảm hứng vô tận của thơ văn và nhiều loại hình nghệ thuật khác ở nước ta. Cao Bá Quát (1808 – 1855) ca ngợi:

  • Phổ xuất tiên nguyên cái thế hào,
  • Phấn thân tuẫn quốc bất từ lao.
  • Xanh phù nhật cốc khâm hoài nhuệ,
  • Tấn tảo biên trần thủ đoạn cao.
  • Công mãn Nam thiên thuỳ trúc bạch,
  • Uy dư Đông Hải thiếp ba đào.
  • Phần Dương khánh diễn hồn dư sự,
  • Trường sử Hồ nhi thức tuấn mao.

(Là đấng anh hào bậc nhất trong đời, vốn dòng dõi nhà tiên, Dấn mình vì nước chẳng nề khó nhọc. Nâng đỡ xe mặt trời lòng những hăng hái, Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

  • Quét sạch bụi ngoài cõi, mưu lược thật cao siêu.
  • Công cao đầy cả trời Nam, lưu truyền sử sách,
  • Uy linh khắp biển Đông, sóng cả yên lặng.
  • Ân trạch ở Phần Dương có sánh cũng bằng thừa, Mãi khiến giặc Hồ phải biết tay tài giỏi).

Các cây đại bút thời Trần như Bùi Tông Quán, Phạm Sư Mạnh, Lý Tế Xuyên, Trương Hán Siêu…v.v đều có những tuyệt tác về Trần Hưng Đạo và sự nghiệp của ông. Các nhà khoa bảng Nho học sau đó cũng thường dành cho Trần Hưng Đạo những lời đặc biệt kính trọng.

Ngày nay, hình như hiếm có vị anh hùng dân tộc nào mà họ tên và tước hiệu được trang trọng đặt cho nhiều đường phố, công sở và trường học như Trần Hưng Đạo.

2.3 Tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Hưng Đạo Đại Vương)

Trên đất nước ta, trong số các nhân vật lịch sử được nhân dân tôn thờ là thần, là thánh hay thành hoàng có lẽ không ai là nhiều hơn Trần Hưng Đạo – Người mà tên tuổi đã gắn liền với chiến công ba lần đánh tan quân xâm lược Nguyên – Mông (thế kỷ XIII – XIV), đặc biệt là chiến thắng Bạch Đằng năm 1288. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, người anh hùng cứu nước, vị tướng lĩnh tài ba trong lịch sử dân tộc, nhà quân sự kiệt xuất trong lịch sử chiến tranh thế giới, và là người được nhân dân bao đời nay ngưỡng mộ.

Trong tâm thức người Việt, sự Thánh hoá Trần Hưng Đạo đã được thể hiện một cách rất cụ thể và đầy đủ. Ở Việt Nam có rất nhiều thánh nhưng rất ít những vị Thánh được thờ phụng và nhắc đến nhiều như đức Thánh Trần và đức Thánh mẫu Liễu Hạnh. Người Việt Nam tôn vinh Trần Hưng Đạo lên bậc siêu nhân huyền thoại. Ngài có những uy quyền phép thuật, diệt trừ được những bọn hung tàn (cả người ác và ma quái). Phép thuật của Ngài là: giết giặc cứu nước, trị bệnh cứu dân. Ngài đã trở thành người không có tuổi, đã hiện diện cả hôm qua, hôm nay và mãi mãi sau này. Do vậy chúng ta có thể thấy chất Người, chất Phật, chất Thần trong vị Thánh này.

  • Muôn năm Vạn Kiếp miếu đình
  • Độ dân là Phật, hiển linh là Thần.

Trong tâm thức dân gian, Hưng Đạo đại vương thường được vinh danh là đức Thánh Trần và đồng nhất Ngài với Ngọc Hoàng thượng đế, từ đó tạo nên một dòng đạo Nội – đạo Thanh đồng, mà đức Thánh Trần là giáo chủ.

“Sinh vi tướng, tử vi thần” (sống là tướng giỏi, chết là phúc thần), suốt mấy trăm năm qua, Đức Thánh Trần đã thực sự có ảnh hưởng sâu đậm tới đời sống tâm linh của người dân Việt. Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

Người ta tôn thờ Ngài nhiều đến như vậy, trước hết là bởi một nhu cầu được hầu Thánh (hầu bóng, hầu đồng, lên đồng) và thưởng thức hầu Thánh. Hầu Thánh là một loại hình múa hát thiêng trong một không gian thiêng liêng có một sức hấp dẫn kỳ lạ. Người diễn – lên đồng, thâu đêm người xem cũng thức thâu đêm không biết mệt, Hầu bóng – một nghi lễ đã ăn sâu vào tâm thức dân gian. Trong quá trình phát triển của lịch sử, lúc đậm lúc nhạt, nhưng diễn xướng hầu Thánh bao giờ cũng được người dân đón nhận một cách nhiệt tình. Đi xem hầu Thánh là để được xem múa hát, là để, dù chỉ được “ban” một ít lộc, nhưng đối với mọi người, thì điều đó rất thiêng liêng – “Một miếng lộc Thánh bằng một gánh lộc trần”.

Trong sách Lịch triều hiến chương loại chí Phan Huy Chú có viết: “Trong nước hễ có đàn bà bị Bá Linh ám ảnh, gọi là ma Phạm Nhan, người ta thường đem chiếu đổi lấy chiếu của Đền (Kiếp Bạc – tác giả) về trải giường cho bệnh nhân nằm thì khỏi ngay”. Trong ngày hội, những người đàn bà vô sinh, hiếm muộn hoặc là mắc các chứng bệnh đàn bà…người ta đến Đền cúng bái. Thầy cúng (có thể là thầy phù thuỷ) dùng roi dâu đánh vào người đàn bà, người ấy lăn lộn, thậm chí lăn xuống sông, thì coi như tà ma đã được trừ (xuất phát từ chuyện Đại vương chém Phạm Nhan). Người ta tin rằng, với uy danh của đức Thánh Trần trừ diệt được Phạm Nhan thì mọi tà ma đều được trừ diệt. Đó là tư tưởng:tin cậy nhờ đức Thánh trừ là sát quỷ.

Cùng với mục đích như vậy là niềm tin trong việc cầu phúc, tránh hoạ. Người dân tìm đến đền thờ Trần Hưng Đạo đem theo niềm ước vọng của mình: cầu được bình an, học hành hiển đạt, làm ăn phát tài, tránh được mọi điều xui xẻo và, phổ biến nhất, là việc cầu tự (cầu được có con). Những đứa trẻ ra đời được gọi là “Con cầu tự”. Cuối cùng chính là niềm tin trong việc xin ấn, cũng chính bởi những chiếc ấn, người ta xin về treo ở nhà và tin rằng sẽ gặp nhiều điều may mắn trong cuộc sống.

Nhìn chung, hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước đều có tục thờ Trần Hưng Đạo. Đền thờ Trần Hưng Đạo được dựng lên ở khắp nơi. Ở phía Bắc, theo sự tập hợp của trường Viễn Đông Bác Cổ vào những năm 30 của thế kỷ XX, thì những thần tích thần sắc về Ngài đã có trên địa bàn ở nhiều tỉnh. Nhiều nhất là tỉnh Nam Định (với 47 nơi, khoảng trên 120 di tích), kế đến là Hà Nam (24 nơi), Thái Bình (20 nơi). Chưa kể còn có nhiều di tích, Trần Hưng Đạo được phối tự cùng với nhiều vị thần khác. Chẳng hạn, chỉ riêng ở Nam Định, việc phối tự này được thấy ở nhiều nơi

  • Huyện Ý Yên: Làng Ngô Xá, Vũ Xuyên, Mỹ Dương
  • Huyện Xuân Trường: Làng Nam Điền
  • Huyện Vụ Bản: Làng Bích Thôn
  • Huyện Nghĩa Hưng: Làng Trạng Vĩnh, Quần Lạc
  • Huyện Nam Trực: Làng Trung Khánh thượng
  • Huyện Hải Hậu: Làng Trung Phương Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

Ở các tỉnh phía Nam tuy ít hơn nhưng hầu như tỉnh, thành phố nào cũng có thờ. Trong đó, quy mô lớn nhất phải kể đến là đền Trần Hưng Đạo (Vạn An Linh từ) ở số 36, đường Võ Thị Sáu, phường 4, quận Nhất, T.phố Hồ Chí Minh. Đây vốn là ngôi chùa thờ phật nhưng đã chuyển thành đền thờ Trần Hưng Đạo kể từ năm 1932. Điều đó cho thấy, tâm lý tôn vinh, phụng thờ đức Thánh Trần rất phổ biến trong nhân dân Việt Nam. Các đền thờ, các thần tích đã chứng minh sự thánh hoá Trần Hưng Đạo là một nhu cầu tâm linh của quần chúng. Họ tôn thờ và thấy đức Thánh Trần rất hiển linh, song không huyễn hoặc. Ngài có công với nước, với dân: đuổi giặc thì giặc chạy, trừ ma thì ma trốn.

Có cả những sách vở, vừa của giới bác học, vừa của các nho sĩ bình dân, viết về Trần Hưng Đạo và đều tôn Ngài là Thánh. Những bài văn chầu như Trần triều hiển thánh, những bản sự tích như Trần triều Hưng Đạo Đại Vương truyện, hoặc Kiếp Bạc vạn ninh từ điển tích, và đều nhất quán khẳng định ngài là bậc Thánh của các triều đại: “Lịch triều Lê, Nguyễn thánh minh”.

Sự thánh hoá Trần Hưng Đạo còn thể hiện rất rõ trong các lễ hội ở khắp mọi nơi, nhưng được tổ chức trọng thể hơn, với quy mô quốc tế là ở Bảo Lộc (Nam Định), Đồng Bằng (Thái Bình) và Kiếp Bạc (Hải Dương). Riêng ở Kiếp Bạc, ngày 20-8 được gọi là ngày giỗ Cha:

  • Dù ai buôn xa bán xa
  • Hai mươi tháng tám giỗ cha thì về.

2.4 Một số di tích thờ Trần Hưng Đạo ở Hải Phòng

Hưng Đạo Vương đã nhận được nhiều sắc phong thượng đẳng tối linh thần của các vương triều, được Nhà nước chính thức đưa vào thờ phụng trong các đền miếu. Sách “Đại nam thống nhất chí” hay “Nam định dư chí” đều chép: “Năm Minh Mạng thứ 4, cho được thờ vào miếu đế vương các đời. Năm Minh Mạng thứ 16, cho được thờ vào Vũ Miếu”.

Trong số các sắc phong của các triều đại nhà Lê – Nguyễn, còn giữ lại rất nhiều các di tích thờ ông, đều dùng những mĩ từ ca ngợi công ơn to lớn của Trần Hưng Đạo là “ sống là tướng, thác là thần, uy vũ, linh ứng cảm biến cả trời đất ”. Tất cả các sắc phong của các triều đại đều phong cho Trần Hưng Đạo là “ thượng đẳng thần ” – chức tước cao nhất của các vị thần (hai chức pháp vị thấp hơn là trung đẳng thần và hạ đẳng thần).

Nhưng sắc phong lớn nhất mà người dân Việt Nam trong suốt bảy thế kỉ qua đã phong tặng là ĐỨC THÁNH TRẦN, là VUA CHA, là ĐẾ. Cũng vì thế, vị thánh này đã có ảnh hưởng khá lớn trong chiều sâu tâm tưởng và đời sống hàng ngày của người dân đất Việt. Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

Ngoài ra, hầu như tất cả các đình, đền thờ Trần Hưng Đạo đều lưu giữ được nhiều câu đối, những bức hoành phi, đại tự ca ngợi công ơn, đức tính trung hiếu vẹn toàn của Trần Hưng Đạo.

  • Bạch Đằng nhất trận thuỷ công
  • Tặc Nguyên đại phá huyết hồng mãn giang

Có một điều khá đặc biệt là khá nhiều vị vương công, danh tướng dưới triều Trần, phần lớn đều ở dưới trướng Trần Hưng Đạo, đều được hiển thánh theo tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu và thờ Đức Thánh Trần. Từ Hưng Đạo Vương trở thành Đức Thánh Trần có vị trí tôn vinh riêng, các vị khác cũng đều được cầu bái nơi điện thờ Tứ phủ, điển hình những nơi như vậy chính là phủ Thượng Đoạn (Phương Lưu, Đông Hải). Hay như đền Phú Xá, ngoài việc thờ phụng Quốc công tiết chế thì nhân dân còn xây dựng cả hệ thống Trần Triều uy nghi với từng khám thờ riêng biệt, từng vị cũng đều được các tín chủ khấn nguyện riêng và cũng có giá chầu như Nhị vị Vương Cô, Tứ vị vương tử, Đức ông Tả Hữu…

Đối với một số đền thờ như đình Chung Mỹ (huyện Thuỷ Nguyên) thờ Hưng Trí Vương Trần Quốc Hiện, tuy thần chủ là con trai thứ năm của Ngài nhưng tượng thánh của Trần Hưng Đạo bao giờ cũng được đặt ở vị trí cao nhất của ban thờ, cho dù kích thước thực thể có nhỏ hơn. Hay như miếu Phả Lễ, Hưng Đạo Vương được thờ bằng bài vị ở nghè chưa có sắc phong nhưng lại chính là một trong 4 vị Thành Hoàng nổi tiếng được thờ nơi đây. Có thể dễ dàng nhận thấy việc thờ cúng Trần Hưng Đạo được coi như là thờ một vị Thánh trong Tứ phủ, Ngài được coi là Vua Cha. Ngoài các đình, đền, miếu, nghè, Trần Hưng Đạo còn được thờ ở nhiều chùa gọi là “cung Trần triều”, hay “cung Đức Thánh Trần” như ở Chùa Vẽ (Đông Hải I, Hải An)

2.4.1 Di tích lịch sử đền Phú Xá

Quận Hải An là quận nằm ở phía Đông Nam thành phố Hải Phòng, được thành lập theo Nghị định 106/NĐ-CP ngày 20/12/2002 của Chính Phủ trên cơ sở tách 5 xã thuộc huyện An Hải (cũ) và phường Cát Bi thuộc quận Ngô Quyền, với diện tích 10.492 ha, dân số khoảng 77.600 người. Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

Nằm trong hệ thống 5 xã thuộc huyện An Hải cũ, Đền Phú Xá là một trong những di tích của phường Đông Hải I (Quận Hải An – Hải Phòng) đã được Bộ Văn hoá thông tin công nhận di tích lịch sử văn hoá kiến trúc nghệ thuật (ngày 16 – 11 – 1988). Cách nội thành Hải Phòng 8km về phía Đông – ngôi đền này có vị trí rất thuận lợi cho sự phát triển du lịch của địa điểm này.

Truyền thuyết dân gian ở địa phương cho biết: nơi đây, Trần Quốc Tuấn đã thiết lập nhiều kho lương thực, chuẩn bị cho chiến dịch Bạch Đằng năm 1288, đồng thời diễn ra cuộc khao thưởng quân sĩ có công trước khi kéo quân về căn cứ Vạn Kiếp

Tại vị trí ngôi đền cổ kính ngày nay, nhân dân còn tôn thờ người phụ nữ có tên Bùi Thị Từ Nhiên – người giữ trọng trách chăm lo quân lương, cung cấp hậu cần quân đội nhà Trần thuở ấy. Qua lời cụ Phạm Văn Cố (hiện là Phó ban quản lí di tích, 77 tuổi) cho biết : đây là kho quân lương của nữ tướng địa phương Bùi Thị Từ Nhiên, bà đã vận động con cháu quyên góp cho kho lương. Vào năm 1288, quân dân nhà Trần đã chiến thắng giặc xâm lược Nguyên – Mông trận cuối cùng với những chiến tích lẫy lừng, nơi đây diễn ra cuộc khao quân thưởng sĩ trước khi đoàn người về Vạn Kiếp (Kiếp Bạc – Hải Dương). Cùng đó là những dấu tích được để lại, lưu lại dấu ấn cho con cháu những bước chân anh hùng qua các di tích, như bãi cọc trên sông Bạch Đằng hay miếu Vua Bà (Yên Hưng – Quảng Ninh). Ngoài ra, cấu kết với Chùa Vẽ là di tích vẽ chiến đồ, Chùa Đỏ là nơi nấu ăn, bếp núc để chuyển thực phẩm ra chiến trường. Đó là 2 di tích thờ vọng.

Truyền ngôn ở đây còn kể lại rằng, giặc tan, bà Bùi Thị Từ Nhiên lại cùng dân làng chăm lo sản xuất, xây dựng xóm làng. Dân làng Phú Xá rất tự hào về truyền thống yêu nước, góp phần đánh giặc ngoại xâm từ thế kỷ XIII qua hình ảnh bà nữ tướng hậu cần họ Bùi của quê hương.

Năm 1300, nhớ đến công ơn đánh đuổi giặc ngoại xâm, nhân dân địa phương đã tạo dựng ngôi đền thờ Trần Hưng Đạo. Ngôi đền quay hướng Bắc và làm bằng tranh, tre, nứa lá. Nhưng cho đến năm Canh Thân (1320), một cơn hồng thuỷ kéo đến cướp đi sinh mạng của nhiều người, tàn phá làng quê bé nhỏ. Hậu quả của cơn hồng đó khiến người dân phải bỏ đi nơi khác làm ăn sinh sống. Khi nước rút, dân làng trở về, bắt tay khôi phục xóm thôn. Bà Bùi Thị Từ Nhiên đã vận động nhân dân sửa lại ngôi đền thờ Ngài. Làng Phú Xá ban đầu gọi tên là làng Phú Lương, thời Tự Đức (1848 – 1882), do tránh tên huý chồng bà Bùi Thị Từ Nhiên nên đổi thành Phú Xá. Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

Đền Phú Xá được dựng lại quy mô hơn, sau khi trải qua nhiều biến cố, cách đây hơn 700 năm trước, vào khoảng thời gian năm Canh Thìn, khi Khải Định làm vua được 6 năm.

Trải qua nhiều lần tu sửa, đền Phú Xá ngày nay đã trở thành một công trình kiến trúc bề thế có diện tích khoảng 5.500m2, nét trang trí nghệ thuật chạm khắc, đắp vẽ mang đậm dấu ấn phong cách đời Nguyễn, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ.

Với kết cấu “nội công ngoại quốc”, từ sân bước vào là 5 gian tiền đường, 2 hàng giải vũ, 3 gian cung cấm trong cùng, ở khoảnh sân giữa như giếng trời xen 2 toà cung trước là “thiêu hương”, còn giờ đây người ta tu sửa thành gian để cỗ kiệu.

Cảnh quan của đền Phú Xá thoáng đạt, quang đãng có thể coi như địa thế đắc lợi, phong thuỷ hữu tình. Tiền diện có hồ bán nguyệt, bán kính ngang với chiều rộng của đền. Đền mở một cổng lớn và hai cổng nhỏ cổ xưa còn lưu lại với những nét tự chắc nịch soi bóng xuống mặt hồ. Trước khi tiến tới điện chính, người ta đi qua hàng sân gạch đỏ, rộng là sự đóng góp xây dựng đền của khách thập phương với những hàng cây cổ thụ sải bóng vươn dài và một toà tháp đá tựa góc phải cao 2.5m chưa tính cả bệ là 5 bậc thang hướng trụ, luôn được đặt hoa.

Đền Phú Xá là một ngôi đền lớn không chỉ về bề dày lịch sử, về cấu trúc, phong cách mà còn là đối tượng được thờ. Đây là ngôi đền chính thờ Trần Hưng Đạo và gia đình Ngài trong cụm di tích cấp quốc gia tại Đông Hải, Hải An. Sau bàn thờ Công đồng nhà Trần tại bái đường là đến các ban thờ của gia đình Hưng Đạo Vương gồm Phu nhân của Ngài là Nguyên Từ Quốc Mẫu, 4 người con trai, người con gái và một tướng lãnh tài ba đồng thời cũng là con rể của Ngài. Bốn vị hoàng nam lần lượt đó là Hưng Võ Vương Trần Quốc Hiển, Hưng Trí Vương Trần Quốc Nghiễn, Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng và Hưng Hiến Vương Trần Quốc Uy. Người con trưởng Hưng Võ Vương là một võ tướng có tài, sau là Phò mã của vua Trần Thánh Tông (phu quân của Thiên Thụy Công Chúa) được đặt ban thờ tại gian cấm cung cùng với Hưng Đạo Vương và phu nhân. Ngoài ra, tả hữu ban thờ tiền tế là Đệ nhất vương cô Quyền Thanh Công Chúa (Trinh Công Chúa – con gái cả, là Hoàng Hậu của vua Trần Nhân Tông, sau được người con là vua Trần Anh Tông (1293 – 1314) tôn là Khâm Từ Bảo Thánh Hoàng Hậu) và Đệ nhị vương cô Đại Hoàng Công Chúa (đây chính là Nguyên Công Chúa – con gái nuôi của Trần Hưng Đạo, là vợ của vị danh tướng Phạm Ngũ Lão, người có công lớn trong các cuộc chiến tranh vệ quốc chống quân Nguyên xâm lược lần thứ hai và lần thứ ba). Sử cũ ghi rất rõ tên, tước hiệu và những cống hiến nổi bật của các con Trần Hưng Đạo, nhưng, ngoài việc khẳng định Trinh Công Chúa là con gái đầu lòng, những người con trai kế tiếp hiện vẫn chưa biết chắc thứ bậc anh em trước sau cụ thể ra sao. Ban giữa thờ Nữ tướng hậu cần Bùi Thị Từ Nhiên, người có công giúp việc quân lương của quân đội nhà Trần, năm 1328 bà qua đời, dân làng nhớ công lao của bà và đã thờ phối hưởng bà tại đây với tư thế ngồi trong ngai sơn son thếp vàng rực rỡ, quấn hồng bào, viền áo thêu long phượng, tượng pho nhỏ, nét mặt thanh tú, điềm nhiên nhưng toát lên vẻ cương nghị của bậc hào kiệt thời Trần. Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

Theo truyền thống dân gian “Tháng Tám giỗ Cha, Tháng Ba giỗ Mẹ”. Trần Hưng Đạo mất ở Vạn Kiếp, thọ ở tuổi 72. Ngày 20 tháng Tám âm lịch hàng năm chính là ngày kị của Ngài. Khi Ngài mất dân gian tôn sùng, gọi Ngài là Thánh Vương, dựng đền thờ Ngài ở rất nhiều nơi trải dài trên khắp đất nước. Còn tháng Ba chỉ việc thờ Mẹ. Mẹ ở đây chính là Mẫu Liễu Hạnh và có thể bao gồm các mẫu phủ khác. Việc thờ song hành như vậy chính là biểu hiện của triết lý âm dương trong đời sống, tín ngưỡng của người Việt. Tại đền Phú Xá có một gian nhà cổ nhỏ kế bên điện chính toà tiền đường. Trước đây gian nhà cổ xưa đó là một chùa nhỏ thờ phụng Phật và các Mẫu. Nhưng hiện thời gian nhà đó dành riêng cho việc thờ cúng các Mẫu, người ta thường gọi là điện thờ Mẫu, tuy không tráng lệ như Phủ Thượng Đoạn (Đình Thêu – nơi thờ cúng Mẫu riêng thuộc cụm di tích đình, đền, chùa nổi tiếng của làng An Hải xưa) nhưng hệ thống thờ cũng khá đầy đủ với Tam Toà Thánh Mẫu. Còn đối với chùa, dân làng trong thôn đã tự quyên góp tiền của xây dựng một ngôi chùa có quy mô tương đối có tên Chùa Phú Lễ. Thôn làng đã dành 1 khoảng đất lớn để xây dựng chùa, và còn có Uỷ ban nhân dân của phường Đông Hải I mượn đất của làng văn hoá thôn Phú Xá làm cơ quan chính quyền.

2.4.2 Di tích lịch sử văn hoá Chùa Vẽ

Chùa Vẽ vốn là một ngôi chùa thờ Phật giống như mọi chùa làng Việt Nam khác của nhân dân làng Đoạn Xá, huyện An Dương, xứ Hải Dương xưa kia (nay là phường Đông Hải, quận Hải An). Đồng thời, chùa còn là một di tích lưu niệm về chiến thắng Bạch Đằng lịch sử lần thứ ba (1288) của dân tộc. Cách trung tâm thành phố 5km, chùa xưa kia có tên gọi là Bà Ni Tự sau đổi thành Hoa Linh Tự và tên nôm thường gọi là Chùa Vẽ.

Theo truyền thuyết năm 938 Ngô Vương Thiên Tử đã chọn chùa làm nơi lập đồn binh, chuẩn bị cho thế trận Bạch Đằng, đánh đuổi quân Nam Hán. Đến thế kỷ thứ XIII năm 1288 trong cuộc kháng chiến thần thánh chống quân xâm lược Nguyên – Mông, dưới sự chỉ đạo của vị tướng tài ba Trần Hưng Đạo, vị trí này được chọn làm nơi quan sát thế địa, vẽ bản đồ chiến thuật. Chính vì lí do này nên tên nôm của chùa chính là Chùa Vẽ. Như vậy cũng có thể nói chùa Vẽ là ngôi cổ tự ra đời rất sớm ở nước ta.

Theo dân sở tại, có hai cách giải thích tên gọi Chùa Vẽ như sau: địa bàn xã Đông Hải trải dài theo bờ nam sông cửa Cấm, với nhiều làng xã, địa danh cổ gắn liền với những sự kiện oanh liệt chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta trong chiến thắng Bạch Đằng năm 938 của Ngô Vương như: Hạ Đoạn, Đoạn Xá, Phương Lưu và chiến thắng Bạch Đằng năm 1287 – 1288 của quân dân ta thời Trần, đó là các làng quê: Phú Xá, Bình Kiều…Truyền sử địa phương đặc biệt nhắc tới vai trò lợi hại của các ngôi chùa ở khu vực này đã góp phần vào thắng lợi vang dội của quân dân ta trong thế kỷ XIII. Đó là Linh Đô tự, tên nôm là Chùa Đỏ (gần khu vực cảng cửa Cấm ngày nay) là nơi quân ta nổi lửa, nuôi quân đánh trận. Chùa làng Đoạn Xá là nơi các thám tử của Hưng Đạo Vương vẽ sơ đồ chuẩn bị cho trận thuỷ chiến chôn vùi mộng xâm lăng của quân Nguyên-Mông và chùa Tân Để vốn là một kho hậu cần quan trọng của triều đình, bên cạnh đến Phú Xá là kho lương tự nguyện của nhân dân…Do vậy, chùa làng Đoạn Xá ngoài tên chữ Hoa Linh Tự, còn có tên nôm rất phổ biến trong nhân dân quanh vùng là Chùa Vẽ.

Một cách giải thích nữa là chùa mang tên vị tăng có công khai lập ngôi chùa thờ Phật từ buổi gian nan, chùa sư ông Vẽ, sau truyền đến Sư Vô. Rất tiếc, cách giải thích này cũng chưa thật đầy đủ, lại chưa có một văn bản nào đáng tin cậy nói về việc này từ bao đời nay. Nhưng tên chùa là Chùa Vẽ đã trở nên quen thuộc với cư dân Hải An. Chùa Vẽ nổi danh trong vùng tới mức một công trình giao thông mang tầm cỡ quốc gia mới được xây dựng trong những năm gần đây cũng được mang tên chùa, gọi là cảng Chùa Vẽ. Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

Đây là một công trình kiến trúc nghệ thuật cổ còn khá nguyên vẹn, nguy nga. Chùa Vẽ có quy mô và nghệ thuật trang trí kiến trúc giống hệt như các đình làng nổi tiếng trong vùng như Đông Khê, Hạ Lũng, Phụng Pháp v.v…chứ không mang dáng vẻ thấp và u tịch như các chùa làng Việt Nam khác. Khuôn viên chính của toà Phật điện to lớn, đứng sừng sững trên ba lớp thềm bậc đá xanh cao 0,85m, đứng song hành hàng ngang với dãy nhà khách, nhà tổ và vườn tháp của chùa (quay hướng Đông Nam) gồm Toà Phật điện cấu trúc chữ ĐINH (J) gồm 5 gian tiền đường và 4 gian chuôi vồ, nhà tổ 5 gian, nhà khách 5 gian. Phía trước toà Phật điện có hồ sen tròn, nước xanh trong, in bóng nhiều loại cây xanh bóng mát. Do từ khoảng cách của vì số 5 và số 6 tới hồi tường (khoảng cách từ cột cái đến cột quân) tạo thành bệ, ngưỡng, cửa gỗ, song hàng với gian chuôi vồ chứa thêm bệ tượng, với công năng: Tả thờ Mẫu và Hữu thờ Đức ông, thánh Trần. Tường hồi của hai gian phụ này cấu trúc kiểu tam sơn, hơi thụt vào sau tường hồi bổ trụ của 5 gian tiền đường. Hai vị trí thờ phụ này có chung tường gian ống muống, nhưng qua hệ thống cửa gỗ, sơn chạm thủng, trang trí khá cầu kỳ: chạm thủng lộng vàng son rực rỡ.

Hồi nóc mái toà Phật điện, xây đắp kiểu tường hồi bổ trụ gian 3 cấp, nối giữa các trụ đầu hình khối chữ nhật là các đường hoa thị chạy thành băng trang trí. Do kết cấu đặc biệt có dụng ý làm tăng thêm vị trí sử dụng trong nội thất, nên từ vị trí 2 hồi với vì 5-6, trổ thêm 2 gian xép ở mỗi phía, nằm song song với gian đầu tiên của kiến trúc chuôi vồ. Phần mái của hai gian xép này đắp hình tam sơn gối sóng.

Trang trí trên kiến trúc: Do cảnh quan thoáng rộng, nội thất có cột xà to, cao, nên các mảng trang trí cho ngôi chùa khá hài hoà, không cảm thấy rất rối mắt cho du khách nhưng đủ mức cảm nhận sự cảm nhận mạch lạc của nghệ thuật sơn, chạm, khắc cổ mang dấu ấn Nguyễn cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20. Hoa Linh cổ tự theo chữ Hán đề trên câu đầu gian trung tâm được trùng tu năm Nhâm Tuất đời Khải Định (1922). Hai bức chạm gỗ cảnh long vân khánh hội, long hàm thọ, sư tử hý cầu dưới xà hạ vì số 1, đề tài mai điểu, nho sóc, cúc sen thể hiện tài năng khéo léo của các nghệ nhân, tăng thêm giá trị ngôi chùa cổ. Đồng thời phản ánh đời sống tâm linh, phong phú, đa dạng của cư dân địa phương và du khách trong phạm trù tín ngưỡng Phật – Thánh Mẫu.

Các cột của toà nhà này được làm hoàn toàn bằng gỗ lim nguyên cây, cao to lừng lững, một vòng tay người ôm không xuể. Kiến trúc chùa cao to là thế, nhưng nhờ hệ thống y môn, cửa võng, đại tự, hoành phi, câu đối…cũng không kém phần bề thế và lại được sơn son thếp vàng rực rỡ nên vẫn rực lên ánh vẻ ấm cúng và nguy nga.

Chùa Vẽ vốn chỉ là một ngôi chùa làng như bao chùa làng Việt Nam khác. Song, trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, chùa Vẽ gắn liền với sự thịnh suy của làng quê Đoạn Xá, Đông Hải. Chùa Vẽ không những là một di tích lịch sử mang tính chất lưu niệm về tiểu sử danh nhân Trần Hưng Đạo, vị anh hùng dân tộc và lưu niệm sự kiện “Đằng Giang tự cổ huyết do hồng” của dân tộc mà còn là di tích dung hội nhiều tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống như Đạo Phật, tín ngưỡng thờ Thành Hoàng, thờ “Tam toà Thánh Mẫu”, thờ cúng tổ tiên và anh hùng dân tộc, đạo lão… Đã một thời chùa Vẽ là một cảnh “Già lam” nổi tiếng ở lộ Hải đông (gồm Hải Phòng, Quảng Ninh và Hải Dương) được sự nâng đỡ trực tiếp của triều đình nhà Trần (1226-1400) và là cơ sở của dòng thiền Trúc Lâm. Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

Vào thăm chùa hiện nay, dĩ nhiên chúng ta không gặp đầy đủ những tượng pháp, nghi trượng và đồ thờ tự…trong nguyên trạng. Thời gian, chiến tranh và lòng tham con người đã làm hư hỏng, tẩu tán, thất thoát đi nhiều rồi, nhất là trong các thời kì Đế quốc và thực dân xâm chiếm, đô hộ nước ta, thời “ấu trĩ tả khuynh” của chúng ta. Tuy nhiên những di vật hiện tồn không phải là ít, chúng đã trở thành những đồ cổ quý giá. Và hầu hết các đồ thờ của Chùa Vẽ đều mang phong cách nghệ thuật Nguyễn (1802-1945).

Ban thờ Tam bảo: Phật điện được bày trọn trong 3 gian hậu cung của chùa. Hệ thống bệ tượng được đóng bằng gỗ lim chắc khoẻ, giật cấp thấp dần từ trong ra ngoài, độ cao chênh lệch giữa các bậc được tính toán công phu nên các tượng pháp có điều kiện phô diễn vẻ đẹp và màu sắc kim rực rỡ của mình. Tượng Phật trên Phật điện tuy chưa thật đầy đủ của một ngôi chùa Đại Thừa, nhưng khá đông đảo, được dồn từ nhiều nơi về hoặc do sự cống hiến, cúng tế của các tín đồ Phật tử nên có phong cách đa dạng và phong phú.

Hàng trên cùng là bộ tượng Tam Thế với tên gọi đầy đủ là Thường trụ tam thế diệu pháp thân, tiếp đến là bộ Di Đà Tam Tôn là những tượng pháp kinh điển của nhà Phật, phải luôn tuân thủ nghiêm quy tắc “Tam quang điện muội” – “Thích Ca đồ”. Tượng A Di Đà cao to nhất trong Phật điện, thể hiện trong tư thế toạ thiền trên đài sen phụ tọa toàn phần trong thế hình tháp vững chắc.

Hàng tượng thứ 3 có Đức Thích Ca giáo chủ ngồi giữa, hai bên là Mahacadiep và A nan đà tôn giả là những đại đệ tử của đức Cồ Đàm. Hàng tượng thứ 4 gồm ba pho tượng Quan Thế Âm Bồ Tát. Pho đặt chính giữa là Quan Âm chuẩn đề ngồi trên toà sen, có 6 đôi tay để trần xoè ra như đoá hoa nở và các ngón tay cong lại trong những thế bí truyền của dòng Thiền. Pho bên phải là Đức Phật bà Diệu Thiện với bên trái là bình nước cam lộ để diệt trừ 108 phiền não cho chúng sinh và bên phải là con chim Ca lăng tần già (đã mất) hoá giảng Phật pháp giác ngộ chúng sinh. Pho bên trái là Quan âm tọa sơn khoan thai trên bệ gỗ. Hàng tượng thứ 5 là Ngọc Hoàng và Nam Tào – Bắc Đẩu, toà Cửu Long có Thích Ca sơ sinh bên cạnh là Quan âm Tống tử. Cuối cùng là tượng “Thế Tôn thuyết pháp”. Ban thờ hữu gian toà tam bảo đặt tượng A nan đà – một đại đệ tử của Phật thích ca, mang dáng dấp một vị cao tăng đầu đội “Thất phật”.

Ban thờ Trần Hưng Đạo và Đức ông: được lập bên tả gian tiền đường. Mở đầu là đôi ngựa chiến, một bạch mã, một hồng mã tượng trưng cho âm, dương đứng trên giá gỗ có bánh xe đẩy, dáng thon nhỏ, nhanh nhẹn với đầy đủ yên cương, cao 1,6m. Theo hồ sơ di tích ghi lại thì lúc trước nơi đây có nhang án gỗ, long đình, sập gỗ, long khám…nhưng nay do những nhiều biến cố đã xảy ra nên ban thờ này đã được xây cất đá lát giật cấp cao từ ngoài vào, trưng tượng 3 vị từ trái qua là Đức Thánh Trần Hưng Đạo, Đức Ông và Ngô Vương Quyền. Tượng Trần Hưng Đạo đặt trong tư thế toạ ngai rồng uy nghi, cao to bằng người thật, quắc thước, nhưng thần thái toát vẻ hiền hậu. Tượng khoác long bào, thân và tay áo thêu rồng phượng. Đôi tay đặt trên gối, lòng bàn tay úp, ngang vai đặt kiếm chúc xuống. Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

Đứng song hàng với toà Phật điện là nhà thờ tổ 5 gian cùng quay hướng Đông Nam. Trong nhà thờ tổ hiện nay lập ba ban thờ, gian chính đặt bàn thờ Tổ, gồm 5 pho, đứng ở vị trí trung tâm là tượng Bồ Đề Đạt Ma (nhân dân quen gọi là Tổ tây), ông tổ của dòng thiền. Xung quanh là bốn pho tượng các vị sư tổ trụ trì, hoằng dương phật pháp tại chùa. Tượng mang dáng dấp của các vị tăng sư, đậm nét chân dung, thần thoái toát lên vẻ từ tâm của người thoát khỏi vòng tục lụy. Hữu là ban thờ Hậu Phật, chung quanh là các vị cao tăng trụ trì tại chùa. Trước đây gồm có 6 pho tượng mang dáng dấp của các vị tăng sư, đầy vẻ từ tâm và đậm nét chân dung. Nhưng hiện nay chỉ còn để ảnh thờ và bát hương. Bên tả trưng tượng Phật bà Quan âm thiên thủ thiên nhãn bằng gỗ đứng trên toà sen, một tay cầm trượng, một tay đinh ba, khuôn mặt nhiều dáng vẻ với nhiều thế tay bắt ấn.

Chùa Vẽ là một công trình kiến trúc nghệ thuật cổ có quy mô bề thế, được bảo quản chắc chắn, còn bảo lưu được nhiều tượng Pháp, đồ thờ có giá trị nghệ thuật cao. Các di vật khác:

  • chuông đồng : 4 chiếc
  • bia đá : 5 chiếc
  • câu đối : 6 đôi, một đôi hình lòng máng, năm đôi hình chữ nhật phẳng, trong đó có đôi câu đối hình lòng máng được làm cầu kỳ nhất, chạm nổi hàng chữ Hán lối chữ triện, nội dung như sau:

Điệu xuất vu thiên thánh tiết cổ kim vô dữ tỷ

(Khởi xuất từ trời, xưa nay thánh hiền không sánh kịp) + Pháp hà kỳ đại thần kỳ thượng hạ độc xưng tôn (Pháp sao to lớn, trên dưới các thần độc xưng tôn)

  • Đại tự: 11 bức cả thảy, nội dung ca ngợi cõi linh như sau:
  • + Thiên long hiến thuỵ
  • (Bộ thiên, bộ long dâng hiến điềm lành)
  • Vân quang thái lĩnh (Mây sáng non thái)
  • Long đức chính trung (Ngay thẳng như rồng)
  • Linh ứng hiển nhiên
  • (Hiện điềm Linh ứng rõ ràng)
  • + Trung hoà thả bình
  • (Tất cả đều hoà hợp và bình đẳng)
  • + Chúng thánh Trung Vương
  • (Ngài là bậc vương giả trong hàng các thánh)
  • Khải Đinh chính thống (Mở đầu từ thời nhà Đinh)
  • Thánh cung vạn tuế (Thánh thọ muôn tuổi)
  • Thiên nhân sư Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

(Bậc Thầy của người và trời – chỉ Đức Phật là thầy của người và trời, một trong 10 hiệu của đức Phật).

Chùa không chỉ là nơi thờ Phật mà còn là nơi thờ tưởng niệm Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo với chiến thắng Bạch Đằng lịch sử. Chùa Vẽ được Bộ văn hoá công nhận di tích quốc gia (ngày 25/01/1994). Đến với Chùa Vẽ, du khách sẽ được chiêm ngưỡng một di tích lịch sử văn hoá đặc sắc và được nghe nhiều mẩu chuyện lý thú, cảm động về chiến thắng Bạch Đằng. Đồng thời, du khách sẽ được chứng kiến sự phát triển của một cửa ô thành phố Hải Phòng đang làm Chùa Vẽ đẹp thêm.

2.4.3 Di tích đền Tràng Kênh

Tại mảnh đất giàu truyền thống yêu nước, giữ nước và đánh giặc ngoại xâm – Thuỷ Nguyên, nơi đây có rất nhiều di tích lịch sử văn hoá có giá trị về lịch sử, khoa học, nghệ thuật – một di tích mới được xây dựng. Di tích đó được người ta biết đến như một ngôi đền thờ Trần Hưng Đạo. Đền Trần Hưng Đạo toạ lạc ở cửa sông Bạch Đằng thuộc về mảnh đất Tràng Kênh – thị trấn Minh Đức, huyện Thuỷ Nguyên, Hải Phòng. Khu đền nằm trên một nhánh sông Thải nối với nhánh sông Bạch Đằng, phía sau là một ngọn núi đá hùng vĩ, rất nổi tiếng với cái tên U Bò, thuộc khu núi đá Tràng Kênh.

Lần theo câu chuyện thú vị của người thủ từ thì việc ngôi đền được xây dựng thật có nhiều điều khiến người ta cảm thấy tò mò. Đã từ rất lâu rồi, ở khu vực nơi đó không có dân cư ngụ, khúc sông – nơi những người thuyền chài, những ngư dân thường tới kiếm sống, họ tự dựng nên một ngôi miếu nhỏ. Hàng ngày họ thắp nhang nguyện cầu được phù hộ với những mong muốn cho cuộc sống ấm no, ổn định, cho công việc làm ăn được suôn sẻ, gặp nhiều may mắn. Nhưng thực chất, họ cũng không biết vị thần thánh nào đã phù hộ cho mình. Và rồi, trải qua nhiều thế hệ, người ta cũng không hỏi đến, cũng chẳng ai hay căn miếu thờ cúng ai, chỉ biết rằng – đó là một nơi rất linh thiêng.

Có lẽ nói theo tâm linh thì có thể coi đây là duyên số. Câu chuyện giữa Nhà máy Xi Măng Hải Phòng và mảnh đất Tràng Kênh có gắn kết với nhau từ trước chăng? Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

Năm 1997, khi dự án của Thành phố chuyển toàn bộ Nhà máy Xi Măng Hải Phòng rời khỏi khu Thượng Lý (Hồng Bàng) bắt đầu thực hiện, việc chọn địa điểm di dời đã được tính toán là khu núi đá Tràng Kênh (Minh Đức, Thuỷ Nguyên). Ngay từ lúc bắt đầu san lấp mặt bằng, người ta đã ra thắp hương tại ngôi miếu không tên kia. Cho đến năm 2004, toàn bộ dự thảo hạng mục công trình hoàn tất, Nhà máy đã đi vào quy mô sản xuất hoàn chỉnh. Cũng vào thời điểm đó, Nhà máy tiếp nhận một Giám đốc mới, đó là ông Lê Văn Thành – vốn là một trưởng phòng tài năng, nay lên nắm giữ cương vị dẫn dắt Nhà máy với những nhiệm vụ lớn lao trong thời kỳ đổi mới của đất nước.

Cùng với thời gian thi công Nhà máy, người ta đã nhiều lần cho nâng cấp, tu sửa ngôi miếu cho sạch đẹp, khang trang hơn trước và cũng luôn cầu xin cho công việc suôn sẻ khi xây dựng và sản xuất. Ông Lê Văn Thành lấy làm lạ với sự linh thiêng kỳ diệu của miếu cổ, cầu gì được nấy… và quyết tâm đi tìm hiểu. Tìm và gặp gỡ với nhà ngoại cảm thiên tài Phan Thị Bích Hằng, ông đã mời bà về nghiên cứu sự linh ứng này. Kết quả thật bất ngờ, bà Hằng cho hay: đây là vùng đất thiêng bởi địa điểm này chính là trung tâm diễn ra trận đánh oanh liệt của lịch sử giữa triều đình nhà Trần và đế chế xâm lăng Nguyên – Mông hùng mạnh. Nơi đây là mặt trận hùng tráng ghi dấu những chiến công thần tích của quân dân nhà Trần, đồng thời cũng là nơi tử nạn của rất nhiều binh lính cả hai phía địch và ta. Hưng Đạo Vương cùng các danh tướng đã từng đứng trên đỉnh núi này quan sát thế trận, chỉ huy tiêu diệt binh địch.

Từ ý nghĩa đó, ông Thành đã nảy ra một ý tưởng phiêu lưu, ông muốn được dựng một điện thờ vị tướng quân anh hùng trong lịch sử dân tộc mà ông hằng ngưỡng mộ ngay tại ngôi miếu cổ. Theo dòng người đi làm lễ, ông vào Nam Định, về với quê hương nhà Trần, tới đền thờ Trần Hưng Đạo cầu xin được thực hiện nguyện vọng lớn lao của mình. Ba năm tròn, và sự cố gắng của ông đã không hoài công vô ích. Bà Bích Hằng báo một tin tốt lành: Ngài hiển linh báo mộng đồng ý. Phải chăng sự thành khẩn của ông Thành đã lay động cả lòng thánh nhân?

Hôm trước, ngày mùng 4 tháng 9, được bà Hằng gọi điện báo tin mừng, ngay hôm sau ông Thành xin gặp gỡ ngay nhà ngoại cảm, nói lên những ý tưởng dựng đền của mình. Ba năm trước, ông đã đi rất nhiều nơi, cả những đền thờ chính và những nơi thờ một gian riêng biệt như đền Bảo Lộc, đền Kiếp Bạc… Ngắm nhìn, chụp hình, vẽ thiết kế dựa theo những điện thờ đó, ông đã có rất nhiều suy tính khi thu thập tài liệu, hình ảnh cùng những phong cách dựng đền thờ ở mỗi nơi đến tham khảo. Lúc đầu, ông có ý định xây đền tại khu đất trống ngoài, nơi gần khu miếu cũ, có thể nói là dựa trên nền kiến trúc ngôi miếu cổ. Nhưng không được.

Thông qua bà Bích Hằng, ông Thành đã thực hiện xây dựng ngôi đền toàn bộ từ vị trí, cấu trúc, hoa văn, bố cục, thiết kế…đều theo ý muốn của Trần Hưng Đạo. Ngôi đền toạ trên sườn núi, vị trí thuận lợi, sông giáp núi. Hướng đền Nam ghé Tây, nhìn ra là cửa sông Bạch Đằng, kế sau là dãy núi U Bò hùng vĩ. Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

Từ nơi mập me nước sông, nơi thuyền đỗ, cập bến rồng lên đến ngôi đền là hàng bậc thang đá xanh rất đẹp, tựa như không gian cổ xưa của bậc Hoàng thân quốc thích. Cổng đền Tam quan cao và rộng với lối kiến trúc quen thuộc.

Ngày 9/9/2008, Giám đốc nhà máy Xi Măng Hải Phòng đã phát động xây dựng ngôi đền do toàn thể cán bộ công nhân viên trong nhà máy đóng góp mà đứng đầu là ông Lê Văn Thành.

Quá trình xây dựng ngôi đền diễn ra vô cùng thuận lợi không xảy ra bất cứ một vấn đề gì làm cản trở, hoặc gây khó khăn trong vấn đề thi công. Khi nhắc đến vấn đề này, người thủ từ tặc lưỡi, ái ngại: nói ra thì không ai tin chứ hoàn tất mọi hạng mục công trình để người ta có thể đến bái kiến chỉ trong vòng vỏn vẹn 99 ngày. Công nhân Nhà máy san lấp mặt bằng, thợ đá Ninh Bình đưa từng phiến đá một về đây mới đục, khắc tạo hình. Toàn bộ đồ thờ cúng tế tự đều do làng nghề truyền thống Hà Tây cung cấp và những người thợ Đồng Minh (Vĩnh Bảo) nhận trang trí kiến trúc. Từ khuôn viên sau cổng đền, đến được với chính điện phải qua một khoảnh sân vừa, lên tiếp 5 bậc đá cao mới tới được chính điện. Ngôi đền làm bằng gỗ thơm, toả hương ngào ngạt khắp các gian thờ. Với những trang trí cơ bản, lưỡng long chầu nguyệt, những hoành phi, đại tự, câu đối trên những cột gỗ sơn son thếp vàng tuyệt đẹp, ngôi đền toát lên vẻ linh thiêng, uy nghiêm như chính vị Thánh nhân được thờ tại đó. Gian tiền đường, bàn thờ lớn chính giữa là “Công đồng các quan” với hai bên tả, hữu là “Chư vị quan văn” và “Chư vị quan võ”, kế đến là Bạch mã và Hồng mã. Tiếp theo mới đến Kiệu Rồng đề tự “QUỐC CÔNG TIẾT CHẾ HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG” với ngai vàng tượng trưng đặt mũ và hoàng bào. Phần thực, “Hậu cung” luôn luôn đóng cửa cài then, chỉ trừ đại lễ mở 3 ngày và không phải ai cũng được diện kiến tượng Ngài.

Kỳ thú về pho tượng của Đức Thánh Trần, người quản từ cho hay: Ông Thành đã phải xin gặp Giáo sư Lê Văn Lan, bởi tại Viện sử học Việt Nam còn lưu giữ duy nhất một đồng tiền thời Trần. Trên đồng tiền đó có khắc in khuôn mặt của Trần Hưng Đạo mà theo Ngài bản tạc đó là đúng hơn hết. Ngài đã chỉ bảo: ở mỗi địa phương, mỗi thời đại các nghệ nhân tạo nên nhiều sự khác biệt trong cách phác hoạ khuôn diện Ngài lên tượng, và Ngài chỉ ưng ý nhất với bản khắc trên đồng tiền cổ. Nhưng trên bản khắc đó là hình ảnh Ngài mặc áo bào, còn tại nơi đang dựng chỗ thờ Ngài trên sông Bạch Đằng là chiến trận. Vậy nên, khuôn bản hoàn chỉnh của pho tượng Đức thánh Trần đặt tại Hậu cung là khuôn mặt trên đồng tiền cổ và mặc chiến bào (áo giáp). Pho tượng nặng 1,2 tấn, được đúc bằng đồng nguyên chất.

Ngôi đền nhỏ xinh trên sườn núi nhưng chứa đựng biết bao tâm huyết, lòng thành kính của cán bộ Nhà máy Xi Măng Hải Phòng nói riêng và nhân dân cả nước nói chung. Người ta gọi là đền Tràng Kênh, hay thông dụng nhất là đền Trần Hưng Đạo với tên chữ là “Linh từ Tràng Kênh”. Diện tích của ngôi đền tính tới thời điểm hiện nay, do trong quá trình xây dựng, san lấp mặt bằng, lấn sông, tân đất đã lên tới 4000m2 (điện miếu trước đó chỉ khoảng 200m2). Nếu tính cả toàn bộ khuôn viên dành cho ngôi đền thì con số là khoảng 20.000m2

Một chi tiết khá đặc biệt nữa với ngôi đền này là đối với kinh phí xây dựng, người ta không rõ toàn bộ chi phí cụ thể là bao nhiêu. Quá trình xây dựng ngôi đền không có sự hạch toán, dự toán nào hết, người ta cứ thực hiện, thiếu điểm nào bổ sung thêm chi tiết đó. Kinh phí là do cán bộ công nhân viên nhà máy đóng góp còn lại thiếu đâu là do ông Lê Văn Thành chịu trách nhiệm toàn bộ.

2.4.4  Các di tích thuộc cụm Liên Khê Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

Liên Khê là một xã ở phía Đông Bắc huyện Thuỷ Nguyên ngày nay. Nơi đây là một danh thắng, một khu di tích lịch sử trong phòng tuyến Trúc Động Tràng Kênh – Bạch Đằng của quân đội nhà Trần hồi thế kỷ thứ XIII. Cách Hải Phòng chưa đầy 30km, giao thông thuận tiện, Liên Khê là một trong những nơi thu hút du khách đến thăm quan.

Nơi đây còn lưu truyền nhiều câu chuyện, huyền tích lịch sử đầy thú vị cách đây hơn 700 năm, kể từ khi Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn lấy Trúc Động (tên cũ của Liên Khê) làm căn cứ để tiến ra cửa sông Bạch Đằng, sông Chanh tiêu diệt và bắt sống đạo thuỷ binh của đế quốc Nguyên Mông, viết lên một trang sử hào hùng của dân tộc.

Liên Khê xưa kia thuộc tổng Trúc Động, huyện Thuỷ Đường phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương. Liên Khê là vùng đất phù sa có lịch sử lâu đời, nằm trên mạch núi già của vùng cung Đông Triều. Con người đến sinh cơ lập nghiệp tại mảnh đất này từ rất sớm. Những hiện vật khảo cổ học tìm thấy dưới lòng đất Liên Khê gồm đồ gốm và đồ đá mách bảo về một nền văn minh cách đây trên hơn 2000 năm. Thư tịch cổ cho thấy vào những năm tháng đầu công nguyên, nhân dân Liên Khê dưới sự lãnh đạo của ba anh em họ Trương, người trang Thiểm Khê đã kéo về Mê Linh (Vĩnh Phúc), theo Hai Bà Trưng đánh đuổi quân Đông Hán.

Ba mặt của Liên khê được bao bọc bởi sông Đá Bạc, sông Giá (tên cổ là Đô Lý), phía đông bắc có tám dãy núi đá cao nằm sát sông Đá Bạc, tạo thành tấm bình phong thiên nhiên kỳ vĩ. Mười quả núi đất liền nhau chạy dọc theo chiều dài của xã là chỗ dựa cho các ngôi nhà và vườn nhà bậc thang qui tụ thành những xóm thôn trù mật. Lịch sử đã đi qua mảnh đất này và để lại những nét son oanh liệt.

Không những đẹp về cảnh, có lịch sử lâu đời, Liên Khê còn có vị trí chiến lược quan trọng. Các triều đại nhà Trần, nhà Mạc, nhà Nguyễn và thời thuộc Pháp đều nhận thấy điều đó và đặt đồn luỹ ở đây.

Lịch sử kể rằng, trước nguy cơ bị quân dân Đại Việt tiêu diệt, Thoát Hoan viên tướng cầm đầu đạo quân viễn chinh Nguyên Mông phải tìm cách rút quân về nước. Quân Nguyên Mông chia làm hai đạo rút binh, cánh quân bộ do Thoát Hoan trực tiếp chỉ huy chạy theo đường Lạng Sơn, cánh quân thuỷ do Ô Mã Nhi cầm đầu tháo lui theo đương cửa sông Bạch Đằng.

Để bảo đảm đánh nhanh, diệt gọn toàn bộ đạo thuỷ binh của Ô-mã-nhi, Trần Hưng Đạo hạ lệnh triệt phá cầu đường dọc theo hướng rút lui của đạo quân này, đồng thời, tổ chức nhiều trận tập kích quyết liệt, buộc lực lượng kị binh đi hộ tống phải quay lại, cùng về với Thoát-hoan. Ngoài ra, Trần Hưng Đạo cũng còn cho quân sĩ đánh nhiều trận lớn nhỏ khác, khiến Ô-mã-nhi phải đi theo hướng định sẵn của ta để rồi sa vào ổ mai phục do chính Trần Hưng Đạo sắp đặt. Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

Nơi diễn ra trận quyết chiến chiến lược là khi vực đầu nguồn của sông Bạch Đằng, vì thế, sử vẫn gọi đấy là trận quyết chiến chiến lược Bạch Đằng. Đây là nơi hợp lưu của sông Đá Bạc, sông Giá, sông Chanh, sông Rút, sông Kênh và sông Bạch Đằng, đó là chưa kể nhiều sông nhỏ và các kênh rách khác, vì thế, lòng sông rất rộng, rất thuận tiện cho việc bố trí một trận thuỷ chiến. Đây là nơi mà năm 938, Ngô quyền đã phá quân Nam Hán và năm 981, Lê Hoàn đã đánh tan quân Tống xâm lăng. Kế thừa kinh nghiệm của Ngô Quyền và Lê Hoàn, Trần Hưng Đạo đã bố trí một trận địa mai phục hết sức công phu. Hàng loạt cọc gỗ vạt nhọn và bịt sắt được cắm xuống, tạo ra bãi chướng ngại vật hết sức lợi hại đối với chiến thuyền của giặc. Những cánh quân chủ lực tinh nhuệ nhất của triều đình, đông đảo các đơn vị quân đội của vương hầu quý tộc cùng rất nhiều đội dân binh đã được huy động tham gia trận đánh lịch sử này. Trong bộ chỉ huy trận đánh, ngoài Trần Hưng Đạo, còn có cả Thượng Hoàng Trần Thánh Tông, vua Trần Nhân Tông, các danh tướng khác như Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái…v.v.

Thuỷ binh và bộ binh nhà Trần được Trần Hưng Đạo bố trí mai phục sẵn, chủ yếu ở khu vực tả và hữu ngạn sông Giá (nay thuộc huyện Thuỷ Nguyên), tả và hữu ngạn sông Chanh (nay thuộc huyện Yên Hưng) ở nơi hợp lưu của sông Bạch Đằng với sông Rút, sông Bạch Đằng với sông Kênh. Tuy có sự tham gia của đông đảo bộ binh, nhưng tính chất căn bản của trận Bạch Đằng vẫn là một trân thuỷ chiến kết hợp chặt chẽ giữa mai phục với bao vây tiêu diệt.

Trần Hưng Đạo đã nghiên cứu rất kĩ chế độ thuỷ văn cuả sông Bạch Đằng, dự kiến rất chính xác mực nước lên xuống của ngày diễn ra trận đánh. Điều này đã khiến cho bãi cọc gỗ thực sự phát huy được tác dụng lợi hại nhất, khiến cho đạo quân của Ô-mã-nhi hốt hoảng vì hoàn toàn bất ngờ và không cách gì có thể thoát được.

Ngày 30 tháng 4 năm 1288, từ Vạn Kiếp, Ô-mã-nhi bắt đầu rút quân. Đây cũng là lúc mà ở Bạch Đằng, trận địa mai phục của Trần Hưng Đạo đã bố trí xong.

Ngày 8 tháng 4 năm 1288, đội tiền vệ của Ô-mã-nhi do tướng Lưu Khê cầm đầu bị đánh tới tấp ở Trúc Động (một địa điểm nằm trên sông Giá, nay thuộc xã Lưu Kiếm, huyện Thuỷ Nguyên). Bị đại bại ở đây, Lưu Khê buộc phải quay lại, theo sông Đá Bạc mà ra Bạch Đằng. Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

Mờ sáng ngày 9 tháng 4 năm 1288, binh thuyền của Ô-mã-nhi từ sông Đá Bạc tiến ra sông Bạch Đằng. Trần Hưng Đạo lập tức cho một đội chiến thuyền nhẹ, ra khiêu chiến rồi giả vờ thua chạy. Tướng giặc là Phàn Tiếp đem quân đuổi theo, nhưng khi chúng vừa tiến đến khu vực núi Tràng Kênh thì bị phục binh của ta bắt đầu đổ ra đánh.

Lúc ấy, Ô-mã-nhi cũng vừa lọt vào ổ phục kích lớn nhất của Trần Hưng Đạo tại sông Bạch Đằng. Nước sông Bạch Đằng rút với một tốc độ rất nhanh, chiến thuyền của giặc số thì vỡ nát do đâm phải bãi cọc gỗ, số thì bị tắc nghẽn lại, không sao tiến lên phía trước được. Và, đó cũng là lúc Trần Hưng Đạo hạ lệnh cho quân sĩ ồ ạt tấn công. Trận ác chiến diễn ra vào trưa ngày 9 tháng 4 năm 1288. Sử cũ cho hay, quân Nguyên như bị chìm trong trận mưa tên thuốc độc từ nhiều hướng bắn ra. Chúng hốt hoảng chưa tìm được cách đối phó thì hàng chục chiếc thuyền chứa lửa do Trần Hưng Đạo hạ lệnh thả từ thượng nguồn lại ồ ạt lao thẳng vào. Ô-mã-nhi cùng các tướng lĩnh cao cấp của giặc tìm đường chạy trốn nhưng lại bị quân ta bắt sống. Đạo thuỷ binh của Ô-mã-nhi hoàn toàn bị tiêu diệt.

Đây là chiến công lừng lẫy nhất của quân dân ta trong sự nghiệp chống xâm lăng ở thế kỷ thứ XIII và đây cũng là một trong những trận quyết chiến chiến lược lừng lẫy nhất của lịch sử dân tộc.

2.4.4.1 Di tích lịch sử đền Thụ Khê

Con đường để tìm đến một trong những di tích lịch sử văn hoá nổi tiếng thờ Trần Hưng Đạo tại Hải Phòng, có thể sánh ngang với đền Kiếp Bạc (Hải Dương) về giá trị lịch sử thật rất thu hút. Từ trung tâm thành phố Hải Phòng qua cầu Bính là tới địa phận huyện Thuỷ Nguyên, qua thị trấn Núi Đèo, theo đường quốc lộ số 10 đi vào xã Liên Khê chừng 1km, rẽ tay trái hỏi thăm sẽ được chỉ dẫn tới đền Thụ Khê.

Để ghi lại chiến thắng Trúc Động – Bạch Đằng năm 1288 và nhớ ơn vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo, người trực tiếp chỉ huy trận Trúc Động, nhân dân địa phương đã xây dựng đền thờ ông trên nền đại bản doanh xưa, đó là đền Thụ Khê (hay còn gọi là từ Thụ). Tương truyền đây là nơi trần Hưng Đạo luyện tập và bố trí đội quân kỵ mã.

Trưởng làng văn hoá Thụ Khê, ông Hiển kể lại: Trước đây đền Thụ Khê là một công trình bề thế trên diện tích rộng lớn theo kiểu “nội công ngoại quốc” gồm tòa bái đường, cung chữ “đinh”, hai dãy giải vũ 5 gian với phong cách kiến trúc Ngôi đền được dựng trên nền đất lịch sử lâu đời vốn là căn cứ đóng quân của Quốc công, là chứng tích cho cuộc chiến đánh đuổi bè lũ xâm lược xác thực nhất. Đó cũng chính là niềm tự hào của người dân nơi đây khi được sống tại nơi thiêng liêng như vậy. Nhưng thời gian và chiến tranh đã làm cho ngôi đền không còn nguyên vẹn như xưa… Nhắc đến thời quá khứ khi ngôi đền còn mang dáng vẻ oai nghiêm của mình người quản từ sống tại đó ngậm ngùi cho biết: thời gian tàn phá ngôi đền có thể nói là cách khoả lấp đi một sự thật đớn đau của lịch sử, vào năm khi chính sách của Nhà nước về vấn đề bài trừ mê tín rất cực đoan, các đình chùa miếu mạo trên khắp cả nước đều bị đập phá, và ngôi đền này cũng không phải là ngoại lệ…Cho đến năm 1990, ngôi đền được xây dựng lại nhưng tuy khá đơn sơ nhưng dựa trên những dấu tích còn sót lại, ngôi đền được sang sửa xây đắp với phong cách kiến trúc nhà Nguyễn thế kỷ XVIII với Tam quan ô cao mái vòng, đèn thờ và thiêu hương đá vạnh tròn trước thềm điện chính…

Năm 1994, căn cứ vào những bài vị sắc phong dành cho từ Thụ được dựng đền thờ Hưng Đạo Vương, năm 1996 ngôi đền này chính thức được Bộ Văn hoá thông tin công nhận là Di tích lịch sử quốc gia. Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

Trong niềm tự hào về mảnh đất lưu lại lịch sử hào hùng của dân tộc tại làng mình, ông Hiển – người đại diện cho di tích văn hoá, sự tường tận về lịch sử nơi đây đã cho ông niềm tin cùng dân địa phương tiếp tục bảo vệ, tôn tạo, duy trì thật tốt ngôi đền. Năm 2008, cùng với sự vận động của chính quyền tại thôn làng, nhân dân đã đóng góp hơn 1 tỷ đồng để xây dựng lại ngôi đền mới hoàn toàn. Đó là một toà nhà 5 gian, lợp ngói đỏ, mái đình ngắn, dốc, lợp ngói đỏ kiểu “tàu đao lá mái”, các mái đao như cố nâng bổng cả tàu mái. Trên đỉnh mái đắp nổi với lưỡng long chầu nguyệt, có thân gầy mảnh, phủ vẩy sành, uốn khúc mềm mại, đầu ngóc cao. Cửa mở rộng tại 3 gian giữa bằng gỗ mộc kiểu “cửa thùng cung khách”. Lối đi vào đền không có cổng hay hàng rào, chỉ là một con đường nhỏ, hai bên là hai hàng cau mới ươm xanh mướt, đường lên như một con dốc thoải. Cho đến tận sân đền, người ta kết cấu hình thành những bậc thang lớn, dài lên khu nhà ngang khang trang có thể được coi là nhà truyền thống với những bức ảnh đóng khung treo tường, hình ảnh của dân chúng ngày mới khởi công xây dựng lại ngôi đền, chúng còn là những bằng khen dành cho nhân dân làng Thụ Khê, uỷ ban chính quyền nơi đây…Từ lối rẽ vào ngôi đền, con đường hướng lên gần vìa núi khiến người ta có cảm giác đến dần với sự uy nghiêm của vùng đất. Đến với nơi đây người ta không thể thẳng lưng mà tiến, sự cung kính đối với ngôi đền biểu hiện ngay từ lúc đi trên những bậc thang cao và dài. Bên cạnh ngôi đền hiện giờ còn có một ngôi chùa cổ có tên là Ngọc Thanh Từ, ngôi chùa này có từ trước khi đền thờ Hưng Đạo Vương được dựng. Tiền diện chùa có trang trí cây cảnh với những hòn non bộ khá cổ kính và tượng Quan thế âm Bồ Tát hiền từ với một tay là bình cam lộ, một tay thế thủ Phật pháp. Khuôn viên toàn bộ ngôi đền nằm trọn vẹn trên lưng chừng đồi, ba phía bao quanh là ngọn núi xanh rì cây cối mà người xưa vẫn thường nhắc đến. Đó là ngọn núi Từ Thụ cao vút, chính là nơi Quốc công truyền thụ kế sách đánh giặc và cắm gươm báu của mình xuống, kỉ vật dành cho thôn xóm nơi đây khi chiến thắng Bạch Đằng vang dội khắp nơi.

Theo lời của ông Trưởng làng, đền Thụ Khê có thể được coi là di tích chính thờ Trần Hưng Đạo ở Hải Phòng bởi những dấu tích chứng thực nơi đây thật sự có giá trị cao về lịch sử. Chính tại địa điểm này, tuy là thuộc xã Liên Khê nhưng thực chất mới là nơi lưu kiếm, chứ không phải là xã Lưu Kiếm như nhiều người tưởng nhầm…Ông còn cho biết: làng Thụ Khê và làng Phú Xá (Đông Hải, Hải An) đã có mối giao hảo từ lâu, bởi hai làng đều thờ Trần Quốc Tuấn. Đến hẹn lại lên, cứ vào khoảng ngày 15 tháng Hai âm lịch hàng năm là dân làng Phú Xá lại cử người sang đền Thụ Khê làm lễ cúng linh đình. Cũng như vậy, đối với làng Phú Xá, người Thụ Khê cũng luôn qua lại thờ phụng. Và nhân dân địa phương cả hai vùng cũng hiểu rằng đó là mối kết thân lâu đời tốt đẹp từ truyền thống tương thân tương ái của cha ông. Có một câu chuyện không rõ thực hư ra sao kể lại rằng: sự giao hảo giữa hai làng có từ một sự kiện lạ, khi dân làng Phú Xá xây đền thờ Trần Hưng Đạo tại thôn xóm mình, mọi công trình gần như đã chu toàn nhưng riêng nóc đền thì cất mãi không xong. Vì lẽ đó mà người làng Phú Xá phải dâng lễ xin chân hương tại Từ Thụ. Sau khi có được chân nhang thì việc xây dựng hoàn tất nhanh chóng…

Đền Thụ Khê nay còn lưu giữ một số hiện vật quí như: Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

  • Cỗ ngai và bài vị thờ đức thánh Trần
  • Một pho tượng cao 28 chỉ đặt trên ngai thể hiện đức thánh Trần Hưng Đạo trong tư thế thiết triều.
  • Cạnh đó là ngai thờ, bài vị cùng Duệ hiệu tướng quân Phạm Ngũ Lão (con rể Trần Hưng Đạo)
  • Và một số hiện vật khác mang niên đại thời Nguyễn đầu thế kỷ XX, gồm hương án, bộ bát bưu, bát hương lớn (đường kính 32 cm), mâm bồng đá (cao 45 chỉ).

2.4.4.2 Di tích lịch sử chùa Thiểm Khê

Đối diện với bên kia đền Thụ Khê qua dãy núi chạy dài là một thung lũng hiểm yếu, nơi Hưng Đạo luyện quân sĩ, người xưa đã dựng chùa Thiểm Khê ghi dấu. Thiểm Khê là tên một làng nằm ven sông Giá.

Chùa Thiểm Khê có tên chữ là Hoa Linh Tự, được xem như đài tưởng niệm về chiến thắng Trúc Động. Chùa được dựng trên sườn cao của một thung lũng, lưng dựa vào núi Thiểm, bên phải có núi chùa Hang, bên trái là núi Mẫu Ba. Dưới con mắt phong thuỷ, chùa Thiểm Khê toạ lạc trên khu đất mang thể ỷ ngai, hai bên có tay long, tay hổ.

Chùa Thiểm Khê là một công trình kiến trúc nghệ thuật phật giáo được xây dựng sau chiến thắng Bạch Đằng lần thứ 3 (năm 1288). Chùa có cấu trúc mặt bằng hình chữ công gồm 5 gian tiền đường và 3 gian hậu cung, tòa phật điện nằm ở trung tâm và là kiến trúc trọng yếu nhất của chùa, phía sau còn có điện thờ Mẫu 2 gian và tòa điện thánh 3 gian, tôn thờ 7 vị thành hoàng làng.

Về kiến trúc, chùa Thiểm Khê do bị giặc phá hoại hồi kháng chiến chống Pháp, nên hầu hết những công trình hiện tại tuổi đời còn rất non trẻ. Nhưng trong chùa còn lưu giữ rất nhiều tượng quý mang tính giá trị mỹ thuật, có giá trị về nghệ thuật cao, được xếp vào loại tượng gỗ cổ nhất còn lại ở nước ta như: bộ Tam Thế, bộ Di Đà Tam Tôn, Quan Âm Chuẩn Đề, hai pho Bồ Đề Đạt Ma, tượng Bồ Tát, Ngọc Hoàng và Nam Tào, Bắc Đẩu, Thích Ca sơ sinh và tượng Đức Ông, Thánh Tăng. Đáng chú ý nhất là chùa Thiểm Khê còn bảo tồn được pho tượng „Quan Âm phủ thiên nhãn‟ niên đại thế kỷ XVI rất đẹp, là một trong những pho tượng gỗ có niên đại sớm nhất được tìm thấy ở nước ta. Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

2.4.4.3 Di tích lịch sử chùa Mai Động

Đến cụm di tích Liên Khê, người ta không thể bỏ qua ngôi chùa Mai Động một công trình lưu niệm về chiến thắng Bạch Đằng (1288) chống để quốc Nguyên Mông của dân tộc. Tương truyền, chùa Mai Động được xây dựng trên mảnh đất đã từng là kho quân lương tiền phương của quân đội nhà Trần.

Chùa Mai Động tên chữ là Lễ Sơn Tự – một công trình kiến trúc có qui mô vừa phải và vẫn giữ được dáng dấp của nghệ thuật dân tộc cổ truyền. Chùa nằm trên sườn của dãy núi yên ngựa thấp. Khuôn viên chùa dốc theo độ thoải của sườn đồi khoảng 15 độ. Chùa quay hướng nam, trước chùa còn bảo lưu được 4 ngôi tháp mộ trong số hơn hai chục tháp sư của chùa.

Kiến trúc chùa có bố cục hình chữ ‘đinh’ quen thuộc gồm 3 gian tiền đường và 3 gian hậu cung. Trong chùa có nhiều di vật quí hiếm: Đó là hệ thống tượng tháp; toà tam bảo được bày trọn trong toà hậu cung trên hệ thống bệ thờ xây bằng gạch chắc khoẻ, cân đối. Chùa Mai Động còn lưu giữ một số bia đá, Thạch thiên đài, những thư tịch cổ văn của thế kỷ XVII, XVIII. Thạch thiên đài trụ dựng ở sân chùa là một cột đá hình chữ nhật vuông (cao 1,65m, rộng 22cm). Đỉnh cột tạo dáng búp sen tròn trên một đầu vuông thắt đáy (cạnh trên 38cm, cạnh dưới 30cm và chiều cao 16cm). Mặt trên đấu sen trang trí hình cánh sen đẹp, mỗi cạnh ba cánh. Trụ đá, hai đầu tạo đấu vuông. Đấu phía trên, mặt trước, mặt sau chạm nổi rồng và phượng đối nhau, hai bên mặt chạm cánh sen cách điệu. Đấu vuông chân cột mặt trước chạm nổi hình thú vờn chân, mặt sau chạm con cá chụm đầu vào nhau tạo thành bông hoa ba cánh và hai mặt bên chạm bông sen mãn khai. Diềm cột trụ chạy hàng hoa dây cúc, rồng, phượng. Thân trụ khắc chìm chữ Hán trong ô tạo dáng cánh sen chữ ‘nhật’.

Với kiến trúc trên, có thể thấy chùa Mai Động là một thực thể không thể thiếu được của cụm di tích lịch sử văn hoá xã Liên Khê.

Liên Khê còn là căn cứ hoạt động của nghĩa quân Đốc Tít (1885-1887) và của phong trào Mạc Thiên Binh (1897-1898) chống thực dân Pháp xâm lược. Trong cuộc kháng chiến 9 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng, hang sâu, núi cao ở Trúc Động Liên Khê đã che chở cho du kích bộ đội ta bám trụ, diệt thù.

Cụm di tích Liên Khê (Trúc Động xưa) là niềm tự hào của huyện Thuỷ Nguyên, của thành phố cảng Hải Phòng và đã được Bộ Văn hoá thông tin cấp bằng công nhận di tích lịch sử văn hoá ngày 13-2-1996.

2.5 Lễ hội truyền thống tại một số di tích thờ Trần Hưng Đạo ở Hải Phòng

2.5.1 Lễ hội ở cụm di tích Liên Khê

Là một vùng quê có địa hình núi non hiểm trở, lại có dải đồng bằng xen quanh đồi, xóm làng tồn tại giữa 2 địa điểm khảo cổ học nổi tiếng là Tràng Kênh và Việt Khê, có niên đại lịch sử trên dưới 2500 năm. Tổng Trúc Động xưa – Liên Khê nay còn bảo lưu truyền thống văn hoá rất phong phú đậm đà bản sắc dân gian.

Lịch trình lễ hội được chia làm kì vụ: xuân – thu nhị kỳ, dàn trải đều trong cả tổng xã, hội làng được tổ chức khoảng thời gian sau Tết. Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

Ngày 9/1, có hội vật của tổng, tổ chức tại miếu vật thôn Mai Động. Ngoài ra nhân dân địa phương còn tổ chức nhiều trò vui chơi dân gian mang tính thượng võ như: chơi đu, đua thuyền, chọi gà, bơi chải trên sông Giá…

Ngày 15/3, tại khu vực Thiểm Khê có lễ kỉ niệm 3 anh em họ Trương theo giúp Hai Bà Trung đánh giặc. Trước đây tại cánh đồng Thiểm Khê có an táng phần mộ của Ninh Vương Mạc Phúc Tư và hai vị thân vương khác.Ở khu đồng dưới, dân làng lập nghè thờ 3 vị. Sau đó phần mộ và hài cốt được chuyển về đồng áng phường Câu Tử huyện Thuỷ Đường. Do vậy ngày 8/ 4 có lễ tiễn thuyền tại tả Ba Vương.

Ngày hội 20/8 âm lịch có lễ rước Đức Thánh Trần từ đền Thụ Khê ra miếu Đức Thánh ở khu vực bến Sỏi. Đó là lễ rước kiệu nhằm tái hiện việc Ngài đã đến nơi này lập doanh trại, vạch kế sách đánh quân xâm lược và lưu kiếm tại đây. Trong những truyền thuyết dân gian về Hưng Đạo Vương có biểu tượng thanh kiếm thần được khai thác nhiều. Một trong số đó chính là truyền thuyết của nhân dân vùng Thụ Khê kể rằng sau khi chiến thắng, Hưng Đạo Vương đã quay lại cắm một thanh kiếm lên đỉnh núi Thụ Khê – nơi mà xưa kia Vương đã lập đồn binh – để ghi công lao của nhân dân địa phương. Dân làng đã lập đền thờ ông, và đôi câu đối trong đền đã ghi nhân sự kiện đó:

Lòng trung trùm tâm quang, lưu truyền Vạn Kiếp

Uy danh một kiếm, khiếp đảm bọn yêu ma.

Thanh kiếm dường như là một vật thiêng đã tạo cho Đức Thánh Trần một sức mạnh siêu phàm, bởi mọi câu chuyện dân gian về ông đều gắn liền với kiếm thần.

Sau phần tế lễ, đám rước được cử hành (có năm có, có năm không). Điều đáng chú ý là dân làng tuỳ từng năm mà tổ chức trò chơi trong ngày hội rất sôi nổi như thi bơi chải, đua thuyền, hội vật…Ngoài ra đánh đu cũng là một môn thể thao được ưa chuộng mang tính quần chúng đối với nhân dân địa phương làm phong phú thêm nội dung của lễ hội.

Truyền thuyết cũng kể lại rằng, sau khi chiến thắng, Hưng Đạo Vương có trở về Thụ Khê và Trúc Động thăm lại nơi diễn ra cuộc chiến xưa, nhân dân đã làm một bữa cơm quá lộ để đón tiếp ông. Về sau, người dân nơi đây đã lập đền thờ và cứ đến ngày giỗ ông lại làm cỗ “quá lộ” bày một mâm cơm rượu, ít đĩa cá, mời người qua đường ăn uống như diễn lại lễ đón chào Trần Quốc Tuấn và đoàn quân chiến thắng năm xưa. Đó là một nét riêng của ngày hội nơi đây, lễ vật ngoài những vật phẩm thông thường là thịnh soạn dành cho những tráng sĩ đánh giặc thì buộc phải có cá, đĩa cá chính là muốn nhắc nhở về tông tổ dòng họ Trần xuất thân từ nghề chài lưới. Và người dân thường tổ chức rước kiệu trên sông là để nhớ đến những trận thuỷ chiến oanh liệt trên sông Bạch Đằng.

Thụ Khê có lệ 15/2 có lễ giao hiếu với làng Phú Xá (An Hải) do cùng thờ Trần Hưng Đạo. Từ lâu hai làng vẫn đi lại thăm hỏi giúp đỡ nhau trong cuộc sống thường ngày.

Liên Khê ngày nay là vùng di tích và lễ hội chứa đựng nhiều nội dung lịch sử liên quan trực tiếp đến Trần Hưng Đạo và chiến thắng Bạch Đằng năm 1288. Do vậy bên cạnh việc củng cố và nhấn mạnh nội dung hành động của lễ hội cho thắt chặt, xúc tích gây nhiều ấn tượng với nhân dân sở tại và quý khách thập phương.

2.5.2 Lễ hội đền Tràng Kênh Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

Ngày 27-2 (tức ngày 14 tháng Giêng năm Canh Dần), tại đền Tràng Kênh, xã Minh Đức (Thủy Nguyên) – linh từ thờ Quốc công tiết chế Hưng đạo đại vương Trần Quốc Tuấn trang trọng diễn ra lễ khai ấn. Đây là lần đầu tiên, đền thờ Trần Hưng Đạo mở lễ khai ấn vào dịp rằm tháng Giêng. Lễ khai ấn thu hút đông đảo nhân dân và du khách tới dự và xin ấn.

Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy, Chủ tịch HĐND thành phố Nguyễn Văn Thuận tham gia Ban chủ lễ cùng với Thượng tọa Thích Thanh Giác – Phó Ban Trị sự Thành Hội Phật giáo Hải Phòng và Tổng Giám đốc Công ty Xi măng Hải Phòng Lê Văn Thành. Sau nghi thức cúng thần linh của chư tăng, Ban chủ lễ dâng hương trước đền thờ Đức Thánh Trần và làm lễ khai ấn. Sau lễ khai ấn, nhân dân và du khách vào đền làm lễ dâng hương để xin ấn cầu mong một năm mới ấm no, mưa thuận gió hòa…

Lễ khai ấn đầu năm là truyền thống tâm linh của dân tộc cầu cho quốc thái dân an, sức khỏe, công danh và sự nghiệp. Mỗi người, mỗi nhà đều mong có được ấn triện của Đức Thánh Trần để mong một năm thuận buồm xuôi gió trong mọi công việc và cuộc sống.

Hàng năm có ba kì lễ hội lớn, được gọi là các ngày đại lễ trong năm diễn ra tại đền Tràng Kênh được ấn định

  • Đầu năm: 14 tháng Giêng khai ấn

Từ ngày 14 –16 tổ chức cúng tế, các khách thập phương xa gần, công nhân trong công ty tổ chức làm lễ cúng tế.

  • Ngày 20/8 là ngày giỗ của Đức Thánh Trần
  • Ngày 14 tháng Chạp là ngày khánh thành ngôi đền.

Đền Trần Hưng Đạo được đúc ấn tại đây, cứ vào ngày mồng một và ngày 15, ai có nhu cầu xin ấn tín thì đến đây, ấn tín được đúc từ đền Bảo Lộc ở Nam Định rồi sau đó xin Ngài đồng ý mới chuyển ra đây.

2.5.3 Lễ hội chùa Vẽ và đền Phú Xá

Hướng về phía Đông Nam của thành phố Hải Phòng, nơi có nhiều điểm di tích mang những dấu ấn đặc sắc về Hưng Đạo Vương, một vùng quê trù phú với người dân hiền lành chất phác nhưng luôn đầy lòng tự hào ý chí anh hùng chống giặc ngoại xâm có từ ngàn đời. Chùa Vẽ và đền Phú Xá chính là một trong số nhiều di tích như vậy.

Theo truyền thống dân gian, “Tháng Tám giỗ Cha” là ngày 20 tháng Tám âm lịch hàng năm, tại đền Phú Xá, dân làng sửa soạn lại đồ tế khí, nghi vệ Đức thánh Trần và Bùi Thị Từ Nhiên một cách trọng thể để đón nhân dân khắp nơi về dự.

Trong lễ hội tháng Ba, vốn là tháng giỗ Mẹ (Thánh Mẫu – ở đây nói đến Phủ Thượng Đoạn) thì tại đền Phú Xá, người ta mở cửa đền để mừng kị nhật thắp hương cúng tế nữ tướng Bùi Thị Từ Nhiên. Ngày mồng 5 tháng Ba âm lịch hàng năm chính là ngày dân làng tưởng nhớ đến công lao của bà. Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

Những ngày hội như vậy, người dân Đông Hải và rất đông khách thập phương tới tham dự làm lễ tế cúng bái. Từng đám người gẩy đàn, hát trầu văn theo nhịp trống, nhịp kèn, họ hát theo khoá lễ, từng đợt về nội dung chiến tích công lao to lớn của Đức thánh Hưng Đạo, về những câu chuyện sự tích làm nên hình tượng con người Ngài đầy anh dũng, bất tử trong lòng tử tôn. Lễ hội tháng Tám rất lớn, sự chuẩn bị bắt đầu từ ngày mồng Một. Phần lễ có đầy đủ các thủ tục, những người trong ban quản lí di tích đứng ra đảm nhận trách nhiệm này. Trong nghi lễ của đám rước lớn, chủ tế là do nhân dân trong làng tiến cử, những người tham gia như rước kiệu, kéo cờ cũng đều được tuyển chọn kĩ lưỡng. Ngày hội có những trò chơi dân gian như cờ tướng, chọi gà, dân làng chơi trên sân đền. Lễ vật dâng lên ban thờ gồm hương hoa, quả, oản và một thức rất đặc trưng là bánh đa nướng. Theo như dân gian truyền lại thì khi xưa để tích trữ lương khô nuôi quân, Hưng Đạo Vương sử dụng bánh đa làm thực phẩm chính vì những ưu thế thuận tiện và hương vị đặc trưng của nó.

Người dân Đoạn Xá – Đông Hải đã từ bao đời nay gắn bó với ngôi chùa Vẽ của làng xã mình và các vị thánh được thờ trong đó. Yêu mến những vị anh hùng dựng nước và giữ nước của làng quê, dân tộc, nhân dân ta với tấm lòng kính phục và trí tưởng tượng phong phú đã thần thánh hoá họ, gắn cho họ tất cả những cái gì là thiêng liêng nhất, cao quý nhất để tôn thờ. Thông qua “Oai linh của thần thánh”, người nông dân thể hiện sức mạnh của chính bản thân mình, đồng thời cũng nói lên cái ước mong có một sức mạnh huyền bí che chở cho cuộc sống của họ được bình an nơi thôn dã.

Trong ký ức của nhân dân nhiều làng về sinh hoạt văn hoá xã thôn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, đình thường được nhắc đến nhiều hơn. Nhưng

  • Đoạn Xá, chùa vẫn là trung tâm sinh hoạt văn hoá của dân ba làng Đoạn Xá, Thượng Đoạn, Vạn Mỹ (nay đã chuyển thành phường). Các ngày lễ tiết ở chùa mở theo chu kỳ hàng năm như sau:
  • Ngày mồng 4 tháng Giêng: Khánh hạ. Dân làng mở hội chùa, tổ chức tế Đức ông. Trong ngày hội ngoài việc thờ Phật, cúng Thánh rất trang nghiêm ở trong chùa, trong điện, trên sân chùa còn tổ chức nhiều trò vui chơi như: hát đám, hát ả đào, kể hạnh, diễn chèo…
  • Ngày 15 tháng Giêng làm lễ chư Phật
  • Từ ngày 15 đến hết ngày 24 tháng giêng: nhà chùa tổ chức lễ “dâng sao giải hạn” cho dân làng và thiên nam, tín nữ thập phương.
  • Mồng 1 tháng 4: Vào hè. Dân làng làm lễ cầu mát.
  • Mồng 8 tháng 4 (nay là 15 tháng 4) tổ chức lễ kỉ niệm ngày Phật đản.

Những ngày lễ theo quy định của nhà Phật đều được tổ chức chu đáo ở chùa Vẽ theo thông bạch của Trung ương Hội Phật giáo Việt Nam. Đặc biệt chùa Vẽ luôn được coi là một di tích gắn bó liên quan chặt chẽ với đền Phú Xá, Phủ Thượng Đoạn, là hai trong “Tứ linh từ” của huyện An Dương xưa, nay là huyện An Hải. Cho nên ngày hội lễ ở Phủ Thượng đoạn (từ mồng 1 đến 15 tháng 3) và đền Phú Xá (từ mồng 1 đến 20 tháng 8). Chùa Vẽ cũng mở cửa đón khách thập phương và là một điểm không thể thiếu trong tâm linh những người đi trẩy hội. Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

Ngày xưa, khi đình Đoạn Xá chưa bị phá, ngoài những ngày hội lễ diễn ra ở chùa như đã kể trên, dân làng Đoạn Xá còn tổ chức lễ hội chung ở đình. Đình Đoạn Xá là một trong hàng chục công trình tưởng niệm Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng 938 ở vùng đất ông đã từng lập chiến công xưa.

Hội làng Đoạn Xá diễn ra từ ngày mồng 6 đến hết ngày mồng 9 tháng 2 âm lịch hàng năm. Làng Đoạn Xá xưa chia làm hai giáp, giáp Đông và giáp Bắc. Mỗi giáp lại có một miếu riêng của mình. Miếu giáp Đông thờ Đức Bạch Truật, miếu giáp Bắc thờ Thần Cây Gạo. Vào ngày hội mở: Tối mồng 6 tháng 2, dân làng làm lễ nhập tịch, ngày mồng 7, buổi sáng các giáp rước lợn ông Bồ về đình, làm lễ và tổ chức lễ thánh. Buổi tế này do đội tế của làng đảm nhiệm, việc tuyển chọn người và mọi nghi thức diễn ra giống mọi làng xã quanh vùng. Ngày mồng 1 tháng 2 hai làng Thượng Đoạn và Vạn Mỹ rước thần vị của mình về đình Đoạn Xá tham gia hội lễ giao hiếu, giao lân theo lệ cổ. Trong ngày này tổ chức hợp tế giữa ba xã, người chủ tế được dành cho làng Đoạn Xá. Khi các làng xã kia vào đám thì dân Đoạn Xá cũng cử một đoàn đại biểu sang dự. Chính việc “kết chạ”, “giao hiếu, giao lân” này đã thắt chặt và tăng cường mối đoàn kết gắn bó các làng xã với nhau trong sự nghiệp chung. Ngày mồng 9 tháng 2 làm lễ kỳ an và kết thúc hội.

Từ sau Cách mạng tháng tám đến nay mọi lễ nghi đã được giản tiện đi nhiều. Qua truyền thuyết, lễ hội và lễ nghi giúp chúng ta hiểu được phần nào quan niệm của người xưa về thế giới và nhân sinh. Chúng ta tôn trọng tín ngưỡng của nhân dân, nhưng cũng kiên quyết bài trừ những tập tục lạc hậu mê tín dị đoan nhằm xây dựng cuộc sống mới tốt đẹp.

TIỂU KẾT

Hàng ngàn năm lịch sử đã trải qua, ghi dấu những chiến công uy danh lẫy lừng của Hưng Đạo Đại Vương. Không thể phủ nhận công lao to lớn của Ngài cùng những mãnh tướng đem lại cho dân tộc nhiều niềm tự hào về thế hệ cha ông. Những tư liệu về cuộc đời và sự nghiệp của Trần Quốc Tuấn, những mẩu chuyện đời thường nhưng chất chứa biết bao hình ảnh người anh hùng cứu nước, oai phong lẫm liệt luôn là đề tài để những nhà nghiên cứu khoa học tìm tòi. Để từ đó chúng ta có thể hiểu sâu thêm về bản thân, quan niệm và tư tưởng của ông trong một thời đại đầy biến cố, thời thế tạo anh hùng. Con người được thần thánh hóa với đầy yếu tố kì bí ngay từ lúc sinh ra cho đến lúc thân xác cùng hòa với núi sông, đó là biểu tượng tôn nghiêm của dân chúng. Bởi lòng thành kính đối với Ngài quá lớn lao nên những vị tướng, thân nhân của Ngài cũng được thờ phụng hình thành nên hệ thống Trần triều khá trọn vẹn. Quần chúng không có điều kiện nghiên cứu lịch sử, nhưng đã rất trung thành với lịch sử, không phân biệt chiến công lớn bé, không bị lệ thuộc về trật tự lễ nghi mà đều tôn vinh, ngưỡng mộ các vị.

Do đó, việc có hệ thống Trần triều trong tín ngưỡng Tứ phủ và tín ngưỡng Đức Thánh Trần đã cho ta thấy ý thức dân tộc rất đậm đà trong tâm thức dân gian. Điều kiện lịch sử cũng cho thấy rằng: hình như trong lịch sử Việt Nam, ít có triều đại có được vinh dự trọn vẹn như nhà Trần. Nhà Trần được giành vị trí lớn trong tín ngưỡng Tứ phủ, mà các vương triều khác đều không có được. Hiện tượng này có thể cho thấy, ý thức dân tộc Việt Nam thật là đậm đà ngay cả trong lĩnh vực tâm linh.

Các di tích liên quan đến Trần Hưng Đạo, tuy không phải di tích nào cũng nhận được sự quan tâm đúng mực của các cấp chính quyền nhưng trong lòng những người dân thì tấm lòng thành kính đối với Ngài không bao giờ đổi thay mà sẽ tồn tại mãi theo từng thế hệ. Công lao và sự nghiệp, cuộc đời Trần Quốc Tuấn đối với người Việt luôn là tấm gương sáng chói, xây dựng niềm tin, niềm tự hào dân tộc. Khóa luận: Giá trị văn hoá của một số di tích thờ trần hưng đạo.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Khóa luận: Giải pháp phát triển du lịch tại di tích thờ trần hưng đạo

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x