Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp 2013 hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp 2013 dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền tự do lập hội là quyền con người quan trọng của một xã hội dân chủ, đồng thời cũng là một chuẩn mực bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân bởi nó góp phần bảo đảm thực hiện các quyền con người khác.
Quyền tự do lập hội được ghi nhận lần đầu tiên tại Điều 20 Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền – UDHR năm 1948. Ngoài việc quy định “mọi người có quyền tự do hội họp và lập hội một cách hòa bình”, Khoản 2 Điều 20 còn nêu rõ “không ai bị ép buộc phải tham gia vào bất cứ hiệp hội nào”. Sau đó, trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị – ICCPR được LHQ thông qua năm 1966 đã tái khẳng định và cụ thể hóa tại Điều 22, trong đó nêu rõ “Mọi người có quyền tự do lập hội với những người khác, kể cả quyền lập và gia nhập các công đoàn để bảo vệ lợi ích của mình”.
Kể từ khi hoàn toàn độc lập đến nay, Việt Nam cũng đã tham gia nhiều hơn vào các diễn đàn quốc tế, trong đó có diễn đàn về quyền con người. Tăng cường đối thoại, chủ động tham gia ký kết và thực hiện các cam kết và điều ước quốc tế về quyền con người đang là một chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Đến nay, Việt Nam đã ký kết và gia nhập nhiều Công ước quốc tế về nhân quyền trong đó có Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (Việt Nam gia nhập năm 1982).
Hiện nay trong xu thế hội nhập quốc tế, số lượng các hội được thành lập gia tăng nhanh chóng[1]. Với môi trường dân chủ, cởi mở hội nhập, các hoạt động kinh tế – xã hội ngày càng phát triển, xã hội hóa ngày càng cao, việc thành lập và phát triển hội thực sự là yêu cầu của thực tiễn đời sống và là xu thế tất yếu nhằm thỏa mãn nhu cầu tự do, dân chủ, sáng tạo của người dân và xã hội. Các hội phát triển đa dạng với quy mô, phạm vi, tính chất hoạt động khác nhau đã góp phần quan trọng trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Khóa luận: Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp.
Tự do lập hội là một quyền con người cơ bản được ghi nhận trong luật nhân quyền quốc tế và Hiến pháp của hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Như vậy, với hiệu lực pháp lý tối cao của nó, Hiến pháp đang đóng vai trò là công cụ pháp lý cơ bản để thực hiện hóa các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người nói chung hay quyền tự do lập hội nói riêng ở các quốc gia. Tuy nhiên, cũng như một số quốc gia khác, khuôn khổ pháp luật về quyền tự do lập hội ở Việt Nam hiện vẫn còn các rào cản, hạn chế sự hoạt động của các hội, nên mặc dù có nhiều hội nhưng hoạt động của hội chưa hiệu quả, chưa bảo đảm thực hiện quyền này một cách đầy đủ và thực sự.
Với những lý do nêu trên, tôi quyết định chọn đề tài “Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp 2013” để làm đề tài Khóa luận cử nhân với mong muốn nghiên cứu, tìm hiểu rõ và sâu sắc hơn quyền tự do lập hội, tìm ra nguyên nhân vì sao quyền tự do lập hội chưa được bảo đảm đầy đủ ở Việt Nam, từ đó đề xuất quan điểm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về bảo đảm quyền tự do lập hội trong bối cảnh hiện nay của nước ta.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, tài liệu khoa học đề cập các vấn đề liên quan tới nội dung này một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như:
Về sách và giáo trình: Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng đồng chủ biên (2011), Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội; PGS.TS Vũ Công Giao (2016), Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp 2013 – Lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Hồng Đức.
Về các đề tài, công trình nghiên cứu khoa học: Phạm Thị Hồng (2013), Hoàn thiện pháp luật về hội ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Viện khoa học xã hội Việt Nam; Hoàng Lan Anh (2014), Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội; Đặng Ngân Hà (2017), Hoàn thiện pháp luật về tự do lập hội ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội; Nhóm làm việc vì sự tham gia của người dân (2016), Đời sống hiệp hội từ góc nhìn người dân.
Những nghiên cứu trên đã cung cấp một lượng thông tin lớn về cả lý luận và thực tiễn về việc thực hành và bảo đảm quyền tự do lập hội trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Tuy nhiên, các tác giả chưa đi sâu nghiên cứu nguyên nhân vì sao quyền tự do lập hội chưa được bảo đảm đầy đủ ở Việt Nam để từ đó đưa ra các giải pháp về hoàn thiện khuôn khổ pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền tự do lập hội.
3. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Mục tiêu của Khóa luận là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp 2013, từ đó trả lời câu hỏi tại sao quyền tự do lập hội chưa được đảm bảo đầy đủ ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đề xuất những quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về quyền tự do lập hội ở nước ta trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Khóa luận: Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp.
Đối tượng nghiên cứu của Khóa luận: Những vấn đề lý luận cơ bản về quyền tự do lập hội, cơ chế bảo vệ quyền tự do lập hội trong các công ước quốc tế, điều ước quốc tế và pháp luật Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản về bảo đảm quyền tự do lập hội, phân tích thực trạng, đánh giá tình hình bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp 2013, những ưu điểm và bất cập còn tồn tại.
5. Những đóng góp về lý luận và thực tiễn của đề tài
Khóa luận là công trình khoa học ở cấp độ Cử nhân đề cập đến vấn đề bảo đảm quyền tự do lập hội, cung cấp những kiến thức, thông tin, luận điểm và đề xuất mới có giá trị tham khảo với các cơ quan nhà nước trong việc hoàn thiện pháp luật mà chủ yếu là khuyến nghị có Luật về Hội để góp phần bảo đảm quyền tự do lập hội ở nước ta trong thời gian tới.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu trên, Khóa luận sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau, như phương pháp tổng hợp và phân tích, phương pháp so sánh và đối chiếu, kết hợp nghiên cứu lý luận và thực tiễn…
7. Bố cục Khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Khóa luận gồm 4 chương như sau:
- Chương 1: Quyền tự do lập hội trong pháp luật quốc tế
- Chương 2: Quyền tự do lập hội trong pháp luật một số quốc gia
- Chương 3: Quyền tự do lập hội trong Hiến pháp 2013 và các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành
- Chương 4: Một số kiến nghị về hoàn thiện pháp luật để bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp 2013
CHƯƠNG I: QUYỀN TỰ DO LẬP HỘI TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ
1.1. Khái niệm “hội” và “quyền tự do lập hội”
Hội đã xuất hiện trên thế giới từ thuở xa xưa, dưới nhiều hình thức đa dạng. “Ngay từ thời cổ đại, ở phương Tây, Plato đã mô tả “câu lạc bộ” là những nơi thị dân Hy Lạp lui tới để thưởng thức nghệ thuật, nghe giảng về thiên văn học và khoa học” [1]. Cùng với thời gian, các hình thức hiệp hội trên thế giới ngày càng phát triển, bao gồm các hội không có hoặc có tư cách pháp nhân, với các tên gọi như câu lạc bộ, hội nghề nghiệp, tổ chức phi chính phủ, các quỹ, công đoàn, tổ chức tôn giáo, chính đảng hoặc công ty…Vậy “hội” là gì? Khóa luận: Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp.
Hiện nay, có nhiều định nghĩa về “hội”. “Trong tiếng Anh, “hội” thường được thể hiện qua hai thuật ngữ đó là: (i) “Association” – chỉ hình thức liên kết của các cá nhân có cùng mối quan tâm, và (ii) “Society” – chỉ một cộng đồng có tổ chức” [2]. “Cả hai khái niệm này đều có từ gốc Latinh là socius/socielis, hàm ý là sự liên hệ, giao lưu, đồng hành giữa con người với nhau trong đời sống” [3].
Công ước ICCPR và các văn kiện quốc tế quy định về quyền tự do lập hội nhưng không định nghĩa khái niệm hội. Tuy nhiên, khái niệm này được định nghĩa trong một số báo cáo của LHQ. Như theo Đại diện đặc biệt của Tổng thư ký LHQ về bảo vệ quyền con người, khái niệm “hội” nhắc đến bất kỳ nhóm cá nhân hoặc bất kỳ thực thể pháp lý nào liên kết với nhau để cùng nhau hành động, bày tỏ, thúc đẩy, theo đuổi hoặc bảo vệ một lĩnh vực quan tâm chung [4].
Theo GS.TS. Nguyễn Đăng Dung thì “hội” là sự thỏa thuận, liên kết, tập hợp, quy tụ của nhiều người với nhau thành nhóm để hướng đến các mục đích, lợi ích hay sự quan tâm chung [5].
Rõ ràng, các quan điểm trên đều có định nghĩa tương đồng về “hội”, thừa nhận “hội” là một khái niệm có ngoại diên rộng nên quyền tự do lập hội là một vấn đề phức tạp. Hơn nữa từ góc độ luật nhân quyền, quyền tự do lập hội cũng là quyền có bản chất, nội dung đa dạng. Lập hội vừa là quyền dân sự, chính trị và cũng vừa là quyền kinh tế xã hội, phụ thuộc rất lớn vào loại hình hội mà cá nhân, tổ chức lựa chọn thành lập, gia nhập. Sự phức tạp và đa dạng nêu trên dẫn đến hệ quả là đối với những hội khác nhau thì việc giải thích, áp dụng và thực thi quyền tự do lập hội cũng có những yêu cầu khác nhau.
Theo quan điểm của LHQ: Quyền tự do lập hội (freedom of association) bao gồm quyền thành lập và tham gia hội, quyền hoạt động tự do và được bảo vệ khỏi sự can thiệp vô lý, quyền tiếp cận nguồn quỹ và các nguồn lực, và quyền tham gia vào việc tiến hành các hoạt động chung của xã hội [6]. Hay nói cách khác, quyền lập hội xuất phát từ những nhu cầu tự nhiên của con người, đó là được quy tụ, được tập trung trong một tổ chức với những mối liên hệ gần gũi, chặt chẽ với những thành viên khác trong cộng đồng. Đây là quan điểm chung, tiến bộ được các quốc gia và vùng lãnh thổ thừa nhận.
1.2. Vai trò của quyền tự do lập hội
Tự do lập hội là cần thiết trong một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Quyền tự do lập hội có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy một loạt các quyền con người khác. Thông qua quyền tự do lập hội, các cá nhân liên kết lại cùng nhau bảo vệ quyền sống, quyền an toàn thân thể, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí…Trong lĩnh vực lao động, việc thành lập công đoàn góp giúp bảo vệ các quyền cơ bản của công nhân về tiền lương, thời gian làm việc, nghỉ ngơi, an toàn lao động…Trong lĩnh vực chính trị, quyền tự do lập hội cũng có vai trò rất thiết yếu đối với việc thực hiện hóa quyền bầu cử, ứng cử và quyền tham gia quản lý đất nước. Đối với các nhóm dễ bị tổn thương, quyền tự do lập hội càng có vai trò quan trọng để chống lại sự phân biệt, kỳ thị cũng như để bảo vệ các quyền khác khi mà tiếng nói của các cá nhân thuộc nhóm này rất dễ bị xã hội và nhà nước bỏ qua.
Ngoài ra, thực hiện quyền tự do lập hội, các cá nhân liên kết với nhau, hỗ trợ nhau trong hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, trong sản xuất kinh doanh và các hoạt động thương mại, dịch vụ. Trong báo cáo năm 2013, Báo cáo viên đặc biệt Maina Kiai đã khẳng định rằng, quyền tự do lập hội trao quyền cho tất cả mọi người được thể hiện quan điểm chính trị, tham gia vào các hoạt động văn hóa, kinh tế và xã hội, tham gia vào các nghi lễ tôn giáo hoặc các niềm tin khác, và bầu lãnh đạo để đại diện cho lợi ích của họ và tăng trách nhiệm giải trình. Sự phụ thuộc và liên quan lẫn nhau giữa các quyền làm cho quyền tự do lập hội trở thành một trong những khía cạnh quan trọng để đánh giá sự tôn trọng của nhà nước với những quyền con người khác [7].
Rõ ràng, quyền tự do lập hội không chỉ là một quyền con người cơ bản mà còn là một công cụ hỗ trợ để bảo vệ các quyền khác
1.3. Các quy định của pháp luật quốc tế về quyền tự do lập hội
Điều ước quốc tế về nhân quyền là hình thức cơ bản chứa đựng các quy phạm pháp luật quốc tế về quyền con người, điều chỉnh nghĩa vụ các quốc gia thành viên và sự hợp tác giữa chúng nhằm hướng tới sự đảm bảo cao nhất các chuẩn mực quyền con người được thừa nhận chung. Tự do lập hội được xác định là một quyền tự do cơ bản và được nêu trong tất cả các văn kiện nhân quyền quốc tế và khu vực, trong đó đặc biệt quan trọng là Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền (UDHR) năm 1948 và Công ước về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) năm 1966. Đây là những cơ sở pháp lý rõ ràng nhất ràng buộc các quốc gia thành viên phải có trách nhiệm thực thi bảo đảm các quyền được đề cập trong công ước nói chung và đối với quyền tự do lập hội nói riêng. Khóa luận: Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp.
Điều 20 UDHR ghi nhận: “1. Mọi người đều có quyền tự do hội họp và lập hội một cách hòa bình; 2. Không ai bị ép buộc phải tham gia vào bất cứ hiệp hội nào”
ICCPR đã cụ thể hóa quy định về quyền tự do lập hội tại Khoản 1 Điều 22: “Mọi người có quyền tự do lập hội với những người khác, kể cả quyền lập và gia nhập các công đoàn để bảo vệ lợi ích của mình”
Cả UDHR và ICCPR đều dùng từ “mọi người”, điều này có nghĩa là chủ thể của quyền tự do lập hội không bị giới hạn ở công dân, mà còn bao gồm cả người nước ngoài và người không có quốc tịch đang sinh sống hợp pháp ở một quốc gia. Cách hiểu này tương thích với quy định của Điều 2 ICCPR về không phân biệt đối xử và được khẳng định trong các Nghị quyết 15/21, 21/16, 24/5, 20/27, 26/29 của Hội đồng Nhân quyền LHQ.
Đồng thời, để bảo đảm quyền tự do lập hội, tại Điều 30 UDHR quy định: “Không được diễn giải bất kỳ điều khoản nào trong bản Tuyên ngôn này theo hướng ngầm ý cho phép bất kỳ quốc gia, nhóm người hoặc cá nhân nào được quyền tham gia vào bất cứ hoạt động hoặc thực hiện bất cứ hành vi nào nhằm mục đích phá hoại bất kỳ quyền hoặc tự do nào nêu trong bản Tuyên ngôn này”
Điều 5 ICCPR cũng tái khẳng định: “Không được phép giải thích bất kỳ một quy định nào của Công ước này để qua đó có hàm ý tạo cho một quốc gia, một nhóm người hoặc một cá nhân có được một quyền nào đó để tiến hành những công việc hoặc hành động nhằm mục đích hủy bỏ bất kỳ quyền và tự do nào được công nhận trong Công ước hoặc nhằm giới hạn những quyền và tự do đó quá mức độ quy định trong Công ước”
Văn phòng Cao ủy Nhân quyền LHQ hiện chưa có bình luận chung nào về nội dung Điều 22 ICCPR, tuy nhiên, từ nội dung của nó, có thể thấy quyền tự do lập hội bao gồm ba khía cạnh: i) thành lập ra hội mới; ii) gia nhập các hội có sẵn; iii) hoạt động, điều hành các hội, bao gồm cả việc tìm kiếm, huy động các nguồn kinh phí cho hoạt động [8].
Về quyền thành lập và gia nhập hội: Trong các nội dung của quyền tự do lập hội, quyền thành lập và gia nhập các hội là nội dung chủ yếu của quyền tự do lập hội. Mọi người đều có quyền này. Trên cơ sở quy định của công ước ICCPR, quyền tự do lập hội của mọi người được bảo đảm ở các quốc gia theo hai thủ tục: thông báo hoặc cấp phép. Cùng với quyền thành lập hội, các cá nhân có quyền gia nhập và rút lui các hội; các hội có quyền ngưng hoạt động và tự giải tán. Tuy nhiên, việc các cơ quan nhà nước ngưng hoạt động và giải tán hội phải tuân thủ chặt chẽ các quy định của luật.
Về quyền tự do hoạt động, điều hành các hội và được bảo vệ khỏi sự can thiệp vô lý: Quyền tự do lập hội được giải thích là quyền hoạt động tự do của các hội, và điều này xác định các nghĩa vụ của nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ và thực thi quyền này. Khóa luận: Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp.
Theo cách tiếp cận chung của luật nhân quyền quốc tế, các quốc gia có ba nghĩa vụ gắn với việc bảo đảm quyền con người. Đối với việc bảo đảm quyền tự do lập hội cũng không ngoại lệ, nhà nước cũng có các nghĩa vụ sau:
Nghĩa vụ tôn trọng: Tôn trọng đời sống nội bộ của hội, hay nói cách khác không được can thiệp tùy tiện vào công việc nội bộ và phải tôn trọng quyền riêng tư của hội như đã quy định tại Điều 17 ICCPR. Cụ thể, các nhà nước không được tùy tiện đặt điều kiện cho những quyết định và hoạt động của hội; đảo ngược kết quả bầu cử thành viên ban lãnh đạo; bắt buộc trong ban lãnh đạo của các hội phải có sự hiện diện của đại diện Chính phủ; yêu cầu các hội nộp báo cáo trước khi xuất bản ấn phẩm hoặc nộp kế hoạch hoạt động để thông qua trước. Các cơ quan độc lập do nhà nước thành lập ra có quyền xem xét báo cáo của các hội như là một cơ chế đảm bảo sự minh bạch và trách nhiệm giải trình, nhưng một thủ tục như vậy không được mang tính chất tùy tiện và phải tôn trọng nguyên tắc không phân biệt đối xử và quyền riêng tư của các hội [9]. Thành viên các hội cần phải được tự do xác định điều lệ, cấu trúc tổ chức, hoạt động của hội và đưa ra các quyết định mà không có sự can thiệp của nhà nước [10]
Nghĩa vụ bảo vệ: đòi hỏi các quốc gia phải tiến hành các biện pháp ngăn ngừa và xử lý những hành vi vi phạm quyền tự do lập hội của người dân do bất kỳ chủ thể nào gây ra, kể cả từ phía công quyền. Thành viên các hội cần phải được thực hành quyền tự do lập hội của họ mà không lo sợ rằng họ có thể là đối tượng của bất kỳ sự đe dọa hay hành động bạo lực nào, bao gồm việc quấy rối, cấm đi lại, bắt, giam giữ, tra tấn, hành quyết tùy tiện, trái pháp luật hay các chiến dịch truyền thông bôi nhọ [11].
Nghĩa vụ thực thi: Luật nhân quyền quốc tế cũng ấn định nghĩa vụ của các nhà nước phải thúc đẩy quyền tự do lập hội thông qua việc tiến hành các biện pháp tích cực để thiết lập và duy trì môi trường thuận lợi cho các hoạt động của các hội. Vì vậy, đòi hỏi các quốc gia phải chủ động có các biện pháp hỗ trợ việc thành lập các hội như cung cấp địa điểm mở văn phòng, tài trợ tài chính trong giai đoạn đầu hoạt động. Tiến hành các hoạt động để giúp đỡ người dân, đặc biệt là các nhóm xã hội yếu thế, được tiếp cận quyền tự do lập hội. Các hội cần được hưởng, không kể những quyền khác, quyền thể hiện chính kiến, truyền bá thông tin, lôi kéo sự tham gia của công chúng, vận động của các chính phủ và các cơ quan quốc tế về nhân quyền. Nghĩa vụ nêu trên cũng đòi hỏi các nhà nước phải tạo điều kiện cho các hội tiếp cận với các nguồn nhân lực cho hoạt động. Khả năng các hội có thể tìm kiếm, tiếp cận và sử dụng các nguồn lực trong nước, ngoài nước và quốc tế được xem là một phần quan trọng và không thể tách rời của quyền tự do lập hội [12]. Trong đó, thuật ngữ “các nguồn lực” dùng để chỉ các nguồn tài chính được chuyển giao, các đóng góp phi tài chính, các nguồn lực vật chất, nguồn nhân lực… [13]. Việc tiếp nhận nguồn tài chính trong và ngoài nước của các hội không nên bị yêu cầu phải được nhà chức trách cấp phép [14].
Mặt khác, bình đẳng là nguyên tắc cơ bản của mọi quyền con người nên bên cạnh các nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ, thực thi quyền tự do lập hội, các Nhà nước còn có nghĩa vụ đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ thể trong việc tự do thành lập và hoạt động của hội. Luật nhân quyền quốc tế nghiêm cấm phân biệt đối xử. Nguyên tắc quyền con người cần được áp dụng mà không có bất kỳ sự kì thị nào là cốt lõi cho việc diễn giải các chuẩn mực quyền con người. Điều này hàm ý rằng những quyết định về quyền tự do lập hội được các nhà chức trách đưa ra không được tạo ra các hiệu ứng kỳ thị, phân biệt đối xử – nói cách khác, phân biệt đối xử trực tiếp và gián tiếp trong việc thực hiện quyền này phải bị nghiêm cấm. Mọi người cần được bình đẳng trong việc hưởng thụ, thực hiện quyền tự do lập hội (thành lập, gia nhập, hoạt động…) Đồng thời, các hội cũng cần phải đảm bảo sự bình đẳng với nhau. Khóa luận: Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp.
Bên cạnh UDHR và ICCPR, một số hội đặc thù còn được bảo vệ bởi các Điều ước quốc tế đa phương khác của LHQ. Chẳng hạn như quyền thành lập và gia nhập các công đoàn, ngoài quy định tại Khoản 1 Điều 22 ICCPR còn quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 8 ICESCR, theo đó, các quốc gia thành viên Công ước cam kết bảo đảm: “Quyền của mọi người được thành lập và gia nhập công đoàn do mình lựa chọn, theo quy chế của tổ chức đó, để thúc đẩy và bảo vệ các lợi ích kinh tế và xã hội của mình. Việc thực hiện quyền này chỉ bị những hạn chế quy định trong pháp pháp luật và là cần thiết đối với một xã hội dân chủ, vì lợi ích của an ninh quốc gia và trật tự công cộng, hoặc vì mục đích bảo vệ các quyền và tự do của những người khác”
Ngoài ra, vào năm 1990, LHQ cũng cho ra đời thêm một Công ước trong lĩnh vực lao động, nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động di trú. Trong Công ước này, quyền công đoàn của người lao động di trú lao động trên lãnh thổ của quốc gia thành viên cũng được đảm bảo giống như quyền của người lao động trong nước. Với quy định tại Điều 7 về “bảo vệ không phân biệt đối xử” giữa những người lao động có quốc tịch khác nhau, Công ước năm 1990 của LHQ về bảo vệ người lao động di trú và thành viên gia đình của họ đã buộc các quốc gia thành viên phải đảm bảo quyền tự do công đoàn của người lao động nước ngoài như quyền của người lao động trong nước. Nói cách khác, Công ước này cũng đã gián tiếp thừa nhận quyền tự do công đoàn của tất cả mọi người lao động trên lãnh thổ của quốc gia thành viên. Điều 26, Công ước nêu trên quy định: “Các quốc gia thành viên thừa nhận quyền của người lao động di trú tham gia vào những cuộc họp và các hoạt động của các công đoàn và các đoàn thể hợp pháp khác, nhằm để bảo vệ quyền và lợi ích kinh tế, văn hoá, xã hội và các quyền khác, theo quy định của các tổ chức nói trên”. Quyền này được cụ thể rõ ràng tại Điều 40 của cùng Công ước: “Người lao động di trú có quyền, cùng với những người khác, thành lập các hội và các công đoàn tại đất nước họ đang lao động nhằm thực hiện và bảo vệ các lợi ích kinh tế, văn hoá, xã hội và các lợi ích khác của họ”. Như vậy, theo quy định của các văn kiện quốc tế của LHQ, vì mục đích đảm bảo cho lợi ích kinh tế, văn hoá, xã hội của mình, tất cả người lao động, kể cả người lao động nước ngoài, đều có quyền thành lập và tham gia các công đoàn theo sự lựa chọn của họ.
1.4. Giới hạn của quyền tự do lập hội
Theo cách hiểu phổ biến, sự hạn chế đối với một quyền con người nào đó được hiểu là trong một số trường hợp các chủ thể hưởng thụ quyền không được hưởng thụ quyền đó một cách tuyệt đối. Giới hạn quyền được ghi nhận trong một số điều ước quốc tế về quyền con người, cho phép quốc gia thành viên áp đặt một số điều kiện với việc thụ hưởng đa số quyền con người [15]. Về mặt ngữ nghĩa, có thể hiểu: “giới hạn” (danh từ) là “phạm vi, mức độ nhất định, không thể hoặc không được phép vượt qua” hoặc (động từ) là “quy định một giới hạn” [16]. Việc giới hạn quyền chính là hành vi can thiệp của nhà nước vào khả năng thụ hưởng quyền trong trường hợp đáng lẽ nhà nước có nghĩa vụ bị động. Những điều kiện đặt ra có hiệu lực trong mọi hoàn cảnh, không nhất thiết chỉ trong bối cảnh khẩn cấp của quốc gia.
Quyền tự do lập hội có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc thúc đẩy các quyền con người khác cũng như đối với sự phát triển của các quốc gia. Mặc dù vậy, quyền tự do lập hội không phải là một quyền tuyệt đối. Khoản 2 Điều 22 ICCPR xác định: “Việc thực hiện quyền này không bị hạn chế, trừ trường hợp do pháp luật quy định và những hạn chế này là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, để bảo vệ sức khoẻ của công chúng hoặc nhân cách, hoặc các quyền và tự do của những người khác. Điều này không ngăn cản việc hạn chế hợp pháp đối với những người trong các lực lượng vũ trang và cảnh sát”. Khóa luận: Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp.
Rõ ràng, theo ICCPR các nhà nước có thể hạn chế hợp pháp quyền này với những người thuộc lực lượng vũ trang và cảnh sát. Điều này là bởi lực lượng vũ trang có nhiệm vụ bảo vệ đất nước trước ngoại xâm còn lực lượng cảnh sát thì có nhiệm vụ bảo vệ an ninh cộng đồng – cả hai nhiệm vụ quan trọng này cần phải được bảo đảm trong mọi hoàn cảnh, vì thế những người làm việc trong các lực lượng này không nên bị chi phối bởi các quan điểm về chính trị do tham gia vào các hội.
Theo đó, cũng giống như nguyên tắc giới hạn các quyền con người việc giới hạn quyền tự do lập hội phải dựa trên các cơ sở:
Được quy định bởi luật: Chỉ có luật mới có thể giới hạn quyền tự do lập hội. Các văn bản dưới luật không thể giới hạn quyền tự do lập hội, mà chỉ có thể được ban hành để tổ chức, thực hiện các quyền do Hiến pháp và luật quy định. Tuy nhiên, luật cũng không thể giới hạn quyền một cách tùy tiện, mà phải đảm bảo yêu cầu cần thiết. Như Tổ chức An ninh và hợp tác châu Âu (OSCE) đã nêu, từ ‘cần thiết” không có nghĩa “tuyệt đối cần thiết” hay “không thể thiếu được”, nhưng cũng không được linh hoạt đến mức “hữu ích” hay “tiện”; thay vào đó, từ này có nghĩa là phải có một sức ép xã hội đối với can thiệp. Khi một sức ép xã hội cần thiết nảy sinh, quốc gia phải đảm bảo rằng bất kỳ biện pháp giới hạn nào cũng phải nằm trong khuôn khổ chấp nhận được của một “xã hội dân chủ”. Mặt khác, tự do lập hội là một quyền cá nhân luôn được thể hiện theo phương thức tập thể. Những biểu hiện tập thể như vậy của các quan điểm cá nhân có thể bị nhìn nhận là đặc biệt đe dọa đến các chính quyền trong một số bối cảnh. Vì vậy, khi có hạn chế về quyền tự do lập hội, những hạn chế đó cần được quy định rõ, bởi các hạn chế này có thể ảnh hưởng đến một số lượng lớn người trong cùng một lúc.
Chỉ bị giới hạn khi điều đó là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia hoặc an toàn, trật tự công cộng; bảo vệ sức khỏe và đạo đức xã hội; bảo vệ các quyền và tự do của người khác. Việc áp dụng các biện pháp giới hạn đòi hỏi chỉ được thực hiện trong những bối cảnh cụ thể phù hợp với mục đích của giới hạn. Thậm chí, cả khi việc áp dụng các giới hạn đúng theo quy định của luật nhưng không cần thiết, không tương xứng với các mục đích đã đề ra thì việc áp dụng giới hạn đó cũng trái với các nguyên tắc luật nhân quyền quốc tế. Tính tương xứng yêu cầu chính quyền không thường xuyên áp đặt các hạn chế mà có thể dẫn đến thay đổi bản chất của việc lập hội. Điều này liên quan mật thiết với cách hiểu và giải thích về các mục đích của việc giới hạn.
Mặc dù có nhiều căn cứ hợp pháp nhưng trên thực tế quyền lập hội thường bị hạn chế với lý do để bảo vệ trật tự công cộng hoặc các quyền và tự do của người khác. Thế nhưng, các lý do về an ninh quốc gia, lợi ích – an toàn – trật tự công cộng là khá mơ hồ và phải đặt trong những bối cảnh cụ thể để cân nhắc chính xác yếu tố nào có thể bị vi phạm, ví dụ như lợi ích công cộng là lợi ích nào, an ninh quốc gia bị xâm phạm từ khía cạnh nào…Chẳng hạn như sẽ không thể coi là xâm phạm an ninh quốc gia nếu như việc lập hội liên quan đến việc phản đối, vận động phản đối, vì lý do tôn giáo, niềm tin, hoặc lương tâm đối với việc nhập ngũ hoặc phục vụ cho một phần của xung đột, hay các nguy cơ sử dụng vũ lực để giải quyết các tranh chấp quốc tế. Không được viện dẫn lý do trật tự công cộng để ngăn cấm hoặc xóa bỏ tự do lập hội. Hạn chế chỉ nên được áp đặt vì trật tự công cộng khi người thực hiện quyền tự do lập hội kích động hành động phi pháp và có cơ sở hợp lý cho thấy hành động như vậy có thể xảy ra. Bất kỳ sự hạn chế nào đối với quyền tự do lập hội cũng không được làm suy yếu bản chất tự do của quyền
Bất kỳ sự giới hạn nào với tự do lập hội cũng phải đảm bảo tính tương xứng. Những biện pháp can thiệp phải phù hợp, ít nhất là phương thức can thiệp phải đạt được các mục tiêu mà pháp luật đề ra. Các cơ quan chức năng cần hiểu là họ có thể sử dụng nhiều biện pháp hạn chế chứ không đơn thuần là cấm. Bất cứ sự hạn chế nào cũng cần gắn kết chặt chẽ với những mối quan ngại cụ thể và cần được thu hẹp để đạt được những mục tiêu cụ thể. Nguyên tắc tương xứng yêu cầu chính quyền không thường xuyên áp đặt các hạn chế mà có thể dẫn đến thay đổi bản chất của sự kiện. Một số vấn đề cần cân nhắc khi quyết định nên hay không nên đưa ra một giới hạn cụ thể với quyền tự do hội họp bao gồm: bản chất của quyền, tầm quan trọng và mục đích của giới hạn, bản chất và phạm vi của giới hạn, mối quan hệ giữa biện pháp giới hạn và mục tiêu của giới hạn đó, liệu có bất kỳ sự giới hạn nào nhẹ hơn có thể đáp ứng các mục đích đề ra? Nguyên tắc này không trực tiếp cân bằng giữa quyền với những lý do để can thiệp, mà thay vào đó là sự cân bằng giữa bản chất, phạm vi của những can thiệp với những lý do của việc can thiệp. Ví dụ Điều 7 Luật của Azerbaijan về tự do lập hội (1998) “Những giới hạn với tự do lập hội phải tương xứng với những mục tiêu dự kiến. Để đạt được mục tiêu thì một sự giới hạn không được vượt quá giới hạn ngưỡng cần và đủ. Các biện pháp hạn chế tự do lập hội phải là thực sự cần thiết để đạt được các mục tiêu là nguyên nhân dẫn đến sự giới hạn”
Để tránh việc các quốc gia lạm dụng quy định về giới hạn quyền để hạn chế, xâm phạm các quyền tự do dân chủ, bao gồm quyền tự do lập hội, LHQ và các tổ chức nhân quyền đã thông qua một số văn bản để xác định rõ nội hàm của các quy định này: chỉ có thể viện dẫn lý do an ninh quốc gia để giới hạn một số quyền khi điều đó là cần thiết để bảo vệ sự tồn tại của quốc gia, sự toàn vẹn lãnh thổ hoặc sự độc lập chính trị của quốc gia trước việc sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực từ bên ngoài (Đoạn 29 của các Nguyên tắc Siracusa); hạn chế sự biện minh với lý do an ninh quốc gia nếu mục đích thực chất hoặc hiệu quả có thể thấy được là để bảo vệ lợi ích không liên quan đến an ninh quốc gia, ví dụ, để bảo vệ một chính phủ khỏi xấu hổi hay khỏi phô bày những hành động sai lầm (Nguyên tắc 2 của các Nguyên tắc Johannesburg) Khóa luận: Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp.
Theo Ủy ban Nhân quyền LHQ thì: “Khi một quốc gia áp đặt các hạn chế với quyền tự do lập hội, cần cân nhắc tới các mục đích, và cần tạo điều kiện hơn là tìm cách áp đặt những hạn chế một cách không cần thiết hoặc không tương xứng. Các quốc gia có nghĩa vụ biện minh cho việc quy định những hạn chế với quyền được bảo vệ bởi Điều 21 của ICCPR” [17]. Những nỗ lực chống khủng bố hoặc sự cực đoạn và nhằm tăng cường an ninh nói chung không bao giờ được viện dẫn để biện minh cho những hành động tùy tiện cắt bớt việc thụ hưởng các quyền con người và tự do cơ bản. Tuyên bố Berlin năm 2004 của Ủy ban Luật gia quốc tế về tôn trọng nhân quyền và pháp quyền trong đấu tranh chống khủng bố nêu rằng: “bản chất của hành vi khủng bố không thể coi là một lý do để các nhà nước bác bỏ nghĩ vụ quốc tế của mình, đặc biệt trong việc bảo hộ các quyền con người cơ bản”. Đồng thời, việc phòng chống tội phạm, bao gồm cả phòng chống gian lận, biển thủ công quỹ, rửa tiền và các tội phạm khác…là quyền hạn, nhiệm vụ của nhà nước, nhưng không được xem là lý do hợp pháp để hạn chế quyền tự do lập hội. Các hạn chế áp đặt với quyền này phải được quy định rõ bởi luật và phải chứng minh được “sự cần thiết” trong một xã hội dân chủ, thể hiện ở việc sự hạn chế đó có mức độ tương xứng đối với lợi ích cần bảo vệ và là cách thức can thiệp tối thiểu để đạt được mục tiêu là bảo vệ lợi ích đó. Các nhà nước không được đặt ra những hạn chế đặc biệt với quyền tự do lập hội trong giai đoạn bầu cử, bởi đây là giai đoạn rất quan trọng trong đời sống chính trị của các quốc gia, gắn liền với việc thực thi nguyên tắc dân chủ [18]
Quyền sống và quyền không bị tra tấn hay trừng phạt hoặc đối xử tàn ác, vô nhân đạo hay hạ nhục cần được quốc gia đảm bảo cho tất cả các cá nhân ở mọi hoàn cảnh và thời gian, bao gồm trong hoàn cảnh thực hiện quyền tự do lập hội, như quy định ở Điều 7 ICCPR. Việc áp đặt các hạn chế về quyền tự do lập hội cũng có khả năng xâm phạm về quyền tự do ngôn luận và tự do tư tưởng, đạo đức và tôn giáo. Vì vậy, việc áp dụng bất cứ điều khoản riêng lẻ nào cũng phải hòa hợp với logic tổng thể của công ước.
Sự can thiệp của nhà nước không nên được sử dụng thường xuyên. Phạm vi của bất kỳ sự hạn chế nào cũng phải được xác định một cách chính xác. Khi sự hạn chế được áp dụng thì phải tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tương xứng và phải luôn đặt mục tiêu bảo đảm quyền tự do lập hội. Cấm đoán chỉ được xem là biện pháp cuối cùng và chỉ áp dụng khi các hạn chế nhẹ hơn không đem lại hiệu quả bảo đảm những lợi ích liên quan. Hơn nữa, nghĩa vụ của nhà nước là cung cấp các nguồn lực bảo vệ quyền tự do lập hội nên việc cấm đoán sẽ thể hiện sự thất bại của nhà nước trong việc thực hiện nghĩa vụ đó. Trong cuốn “Nền dân trị Mỹ” Alexis de tocqueville cũng đã lập luận về điều này khi cho rằng: “Khi các công dân chỉ có thể được kết hội trong một số trường hợp, họ sẽ nhìn hiệp hội như một vật hiếm và đặc biệt, và họ không buồn nghĩ đến những thứ hội hè ấy nữa…Khi có sự phân biệt, hiệp hội này thì bị cấm đoán, hiệp hội kia thì được cho phép, thì thật khó mà biết đâu là cái được phép và đâu là cái bị cấm. Khi người ta đang hồ nghi, người ta chẳng làm bất cứ thứ gì nữa, và sẽ hình thành một quan niệm chung coi một hiệp hội nào đó như một công cuộc liều lĩnh và hầu như bất chính…Khi các công dân có được khả năng và thói quen kết hội để làm mọi điều, họ sẽ tự nguyện kết hội cả vì việc lớn cũng như việc nhỏ. Thế nhưng, nếu họ không có quyền kết hội chỉ vì những việc nhỏ, họ sẽ không còn cả thèm muốn lẫn khả năng kết hội nói chung. Rồi sau đó nếu có cho họ hoàn toàn tự do cùng chăm lo việc thương thuyết (lập hội) thì cũng vô ích thôi: họ sẽ chỉ sử dụng một cách uể oải những quyền được trao; và sau khi các bạn đã kiệt sức ngăn họ tham gia vào các hiệp hội bị cấm đoán, bạn sẽ ngạc nhiên khi thấy chẳng thế nào xui được họ đứng ra lập những hội được phép lập nữa…Một quốc gia có thể đặt những cột mốc nhất định giới hạn ở đó mà vẫn không ngừng tự làm chủ được mình. Đôi khi quốc gia đó phải làm như vậy để tiếp tục được là một quốc gia [19].
CHƯƠNG II: QUYỀN TỰ DO LẬP HỘI TRONG PHÁP LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA Khóa luận: Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp.
Tự do lập hội là quyền con người cơ bản, được ghi nhận trong Hiến pháp hầu hết các quốc gia. Đồng thời, để bảo đảm tự do lập hội, nhiều quốc gia còn ban hành một đạo luật riêng, tuy nhiên, phạm vi điều chỉnh của luật về hội ở các quốc gia rộng hẹp khác nhau.
Quyền tự do lập hội từ lâu đã được ghi nhận như một quyền tự do chính trị cơ bản tại Trung Quốc. Bản Hiến pháp hiện hành (ban hành năm 1982, được sửa đổi, bổ sung vào năm 1988, 1993, 1999 và 2004), tại Điều 35 quy định: “Công dân nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có quyền tự do ngôn luận, xuất bản, lập hội, tham gia tổ chức đoàn thể, đi lại, biểu tình” [20]. Ngoài Hiến pháp, ở Trung Quốc chưa có một đạo luật cụ thể quy định về quyền tự do lập hội. Các quy định trực tiếp liên quan đến hội được điều chỉnh bởi các Quyết định của Quốc vụ viện, gồm: Quyết định số 250 điều chỉnh việc đăng ký và quản lý các tổ chức xã hội, Quyết định số 251 điều chỉnh tạm thời về đăng ký và quản lý các doanh nghiệp phi chính phủ, phi thương mại.
Điều 21 Hiến pháp Hàn Quốc năm 1987 quy định: “(1) Mọi công dân được hưởng các quyền tự do ngôn luận và báo chí, tự do hội họp và lập hội. (2) Không cấp phép hoặc kiểm duyệt ngôn luận và báo chí, cũng như việc hội họp và lập hội” [21].
Điều 18 Hiến pháp Nam Phi 1996 quy định về tự do lập hội: “Mọi người đều có quyền tự do lập hội” [22].
Khác với nhiều quốc gia trên thế giới, ở Nga không có quyền lập hội hay Luật về Hội mà gọi là luật về hiệp hội xã hội và quyền tự do hiệp hội. Tại Điều 30 Hiến pháp Nga quy định: “1) Mỗi người đều có quyền hiệp hội, bao gồm quyền thành lập các nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình. Sự tự do hoạt động của các hiệp hội xã hội được đảm bảo. 2) Không ai có thể bị ép buộc gia nhập hoặc tham dự vào bất kỳ một hiệp hội nào”. Ngoài Hiến pháp là luật cơ bản và hiệu lực cao nhất, Liên bang Nga còn có một số đạo luật cụ thể hóa quyền tự do lập hội của người dân cũng như đảm bảo pháp lý của Nhà nước để thực hiện quyền tự do hiệp hội, quy chế pháp lý của các hiệp hội xã hội. Ví dụ như: Đạo luật Liên bang số 82-FZ “Về các hiệp hội xã hội” ban hành ngày 19/5/1995, được sửa đối, bổ sung 11 lần, lần gần nhất là ngày 30/1/2016), Luật Liên bang “Về các tổ chức phi lợi nhuận” năm 1996…
Luật về hội của Pháp năm 1901 và Hungary năm 1989 điều chỉnh hoạt động của các tổ chức phi chính phủ, tổ chức phi lợi nhuận, các tổ chức công đoàn và đảng phái chính trị. Trong khi đó, luật về hội của một số quốc gia khác lại chỉ điều chỉnh hoạt động của các tổ chức phi chính phủ, tổ chức phi lợi nhuận, các quỹ, còn các tổ chức công đoàn và các đảng chính trị được điều chỉnh bằng các luật về đảng phái chính trị, luật doanh nghiệp, luật công ty…bởi các hội thành lập thường có hình thức rất đa dạng. Ví dụ, một số nước như Thái Lan, Hà Lan, Italia… coi thành lập hội như một chủ thể của đời sống dân sự, vì vậy quyền lập hội nằm trong Luật dân sự hoặc Luật thương mại. Ví dụ, Điều 1274 Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan đưa ra định nghĩa: “Hợp đồng thành lập hội liên hiệp là một hợp đồng mà qua đó nhiều người thỏa thuận hợp nhau lại để cùng tiến hành một hoạt động chung ngoài mục đích chia lời”. Tuy nhiên, quan điểm này hẹp hơn quan điểm của LHQ bởi LHQ cho rằng quyền tự do lập hội không chỉ là quyền dân sự mà còn là quyền chính trị. Khóa luận: Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp.
Việc thành lập hội mới được quy định khác nhau trong pháp luật các quốc gia. Dù Báo cáo viên đặc biệt của LHQ về tự do hội họp hòa bình và hiệp hội cũng đã nhấn mạnh rằng không nên yêu cầu sự đồng ý/ chấp thuận của nhà nước đối với việc hội họp [23]. Nhưng nhiều quốc gia có văn hóa xin phép thì khi thực hiện quyền tự do lập hội, công dân phải xin phép trước với cơ quan công quyền. Luật biểu tình được thông qua gần đây bằng trưng cầu dân ý ở tỉnh Geneva, Thụy Sỹ, quy định mức phạt đến 100.000 Franc Thụy Sỹ đối với bất kỳ ai không xin phép biểu tình, hoặc không tôn trọng nội dung cấp phép[24]. Tương tự, trong khu vực ASEAN, Luật Hội họp và tuần hành hòa bình của Myanmar (2011, sửa đổi 2014) bị phê phán khi quy định nhiều căn cứ mơ hồ, thiếu rõ ràng (như “gây tổn hại cho các tôn giáo, nhân phẩm, các nguyên tắc đạo đức“…) có thể được các cơ quan công quyền nại ra để giải tán một cuộc tuần hành. Đồng thời, đòi hỏi phải “xin phép” 5 ngày trước khi tổ chức tuần hành hoặc biểu tình.
Những quy định như vậy là đi ngược với quan điểm của LHQ. Trong báo cáo của Báo cáo viên đặc biệt của LHQ về tự do hội họp hòa bình và hiệp hội, năm 2012 (A/HRC/20/70)(21/5/2012) đã khẳng định không cần sự phê duyệt trước bởi cơ quan chức năng khi thực hiện quyền tự do lập hội, cùng lắm là có thủ tục thông báo trước với lý do là để cơ quan nhà nước hỗ trợ cho việc thực thi quyền tự do lập hội và có những biện pháp bảo vệ an toàn, trật tự và quyền của người khác. Thủ tục thông báo này phải được áp dụng quy trình đánh giá tương xứng, không phải là một quá trình đánh giá quan liêu phi lý. Đồng thời, việc thông báo trước, chỉ nên yêu cầu đối với những cuộc họp lớn, hoặc những cuộc họp có thể gây ra gián đoạn giao thông.
Về tư cách pháp nhân của hội, luật pháp của nhiều quốc gia thừa nhận loại hình hội không có tư cách pháp nhân. Ví dụ, Điều 2 Luật về Hội của Pháp năm 1901 quy định: “Các hội được thành lập một cách tự do không cần giấy phép hoặc khai báo trước, nhưng chỉ có năng lực pháp lý khi được những người sáng lập công bố sự thành lập theo các quy định của Điều 5” [25]. Như vậy, theo quy định Luật về Hội của Pháp, có hai dạng hội tồn tại: hội không khai báo và hội khai báo. Việc khai báo là điều kiện để hội có được tư cách pháp nhân. Pháp luật về hội của Nhật Bản cũng thừa nhận sự tồn tại của loại hội không có tư cách pháp nhân (các hội có mục đích hoạt động không mang tính phổ thông). Việc thành lập, sửa đổi và giải thể của hội dạng này không đòi hỏi bất kỳ một thủ tục hành chính nào. Các thành viên có thể tổ chức hội theo cách những người này muốn. Theo pháp luật Nhật Bản, Pháp…hoạt động của một hội không có tư cách pháp nhân hoàn toàn hợp pháp, nhưng bị hạn chế về quyền vì thiếu tư cách pháp nhân. Nghĩa là các hội dạng này không thể tham gia tố tụng dân sự, giao kết hợp đồng, nhận các khoản tặng cho, tài trợ cũng như sở hữu tài sản riêng. Tuy nhiên, hội không có tư cách pháp nhân có thể thu lệ phí của hội viên để hoạt động. Nếu sử dụng loại hình hội không đăng ký, pháp luật nhiều nước gọi loại hội này là “hội tồn tại trên thực tế”- de facto, bản thân các thành viên của hội phải gánh chịu các rủi ro pháp lý khiến họ phải suy nghĩ thấu đáo, nên dần sẽ chọn phương thức đăng ký để hội có được tư cách pháp nhân.
Tuy nhiên hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia đôi khi làm cho quyền tự do lập hội không được áp dụng. Trong hoàn cảnh xung đột vũ trang, quyền tự do lập hội dù chỉ để đáp ứng nhu cầu khẩn cấp hoặc để kêu gọi chấm dứt bạo lực có thể bị từ chối triệt để. Trong nhiều trường hợp, pháp luật một số quốc gia còn liệt kê thêm những lý do hạn chế quyền không rõ ràng ngoài các lý do được quy định trong luật nhân quyền quốc tế. Khóa luận: Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp.
Vì vậy, từ quy định về hội của các quốc gia trên thế giới có thể rút ra một số kinh nghiệm sau:
- Quyền tự do lập hội là quyền đương nhiên của con người mà nhà nước có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ và thực thi.
- Thủ tục đăng ký thành lập hội cần rõ ràng, đơn giản. Cơ chế quản lý “xin – cho” với hệ quả “cho phép” thành lập hội như một sự ban ơn cần được xóa bỏ để thay vào đó là cách tư suy tôn trọng quyền con người
- Hội không nhất thiết phải có tư cách pháp nhân vì “có pháp nhân hay không có pháp nhân thì quyền lập hội vẫn là quyền con người, quyền của cá nhân con người, quyền đương nhiên và khách quan, cần được bảo vệ bằng pháp luật” [26]
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Khóa luận: Pháp luật quyền tự do lập hội trong Hiến pháp 2013