Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Tổng quan về quy định của công chứng viên hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Thực hiện pháp luật công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
Hà Nội là Thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; là trung tâm chính trị – hành chính quốc gia, nơi đặt trụ sở của các cơ quan trung ương của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội, cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế; là trung tâm lớn về văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước. Luận văn: Tổng quan về quy định của công chứng viên
Thủ đô Hà Nội có diện tích tự nhiên hơn 3.300 km2; dân số hơn 7,2 triệu người và khoảng 02 triệu người từ các địa phương đến làm ăn, sinh sống thường xuyên. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2013 là 8,25 %, thu ngân sách Thành phố năm 2013 đạt 162.035 tỷ đồng.
Nhu cầu công chứng hợp đồng, giao dịch của tổ chức, người dân trên địa bàn thành phố rất lớn, đứng thứ 2 cả nước chỉ sau thành phố Hồ Chí Minh.
Số hợp đồng, giao dịch đã công chứng tăng dần qua các năm 2007 đến 2010 và ổn định từ năm 2010 đến 2013, tổng số hợp đồng, giao dịch đã công chứng trên địa bàn thành phố trong 07 năm (2007-2013) là 1.151.000, cụ thể như sau: Năm 2007: 52.000, Năm 2008: 85.000, Năm 2009: 160.000, Năm 2010: 216.000, Năm 2011: 220.000, Năm 2012: 200.000, Năm 2013: 218.000 hợp đồng, giao dịch [57, tr. 1].
Sau hơn 07 năm thi hành Luật Công chứng, Hà Nội đã có 103 tổ chức hành nghề công chứng (10 Phòng công chứng và 93 Văn phòng công chứng), phủ khắp 30 quận, huyện, thị xã, hoạt động công chứng tại thành phố Hà Nội có được nhiều kết quả tích cực, đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách, bảo đảm an toàn cho các hợp đồng, giao dịch, đáp ứng kịp thời nhu cầu công chứng của tổ chức và người dân. Trong phạm vi nghiên cứu, phục vụ mục tiêu nghiên cứu, luận văn chỉ đi sâu vào phân tích các bất cập trong thực hiện pháp luật công chứng trên các phương diện: công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng và thủ tục công chứng.
2.1. THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN QUY ĐỊNH VỀ CÔNG CHỨNG VIÊN
Nghề công chứng là một nghề có những đặc thù và yêu cầu riêng biệt: Chủ yếu công chứng các giao dịch, hợp đồng trong lĩnh vực dân sự, kinh tế, thương mại…; là nghề có nhiều kỹ năng thực hành (xác minh nhân thân người yêu cầu công chứng, xác minh đối tượng hợp đồng là có thật, nhận dạng chữ ký, chữ viết, con dấu trong văn bản, cách lấy dấu vân tay của người yêu cầu công chứng…). Các hợp đồng, giao dịch trong lĩnh vực công chứng yêu cầu không quá phức tạp, thường có mẫu do Bộ Tư pháp ban hành, tuy nhiên, đòi hỏi áp dụng phải lành nghề, thông thạo nhất định, càng có nhiều kinh nghiệm thì độ lành nghề càng cao, số lượng các hợp đồng được công chứng càng nhiều, bảo đảm chất lượng. Trong thực tế, công chứng viên chỉ có 30-60 phút cho việc công chứng một hợp đồng, giao dịch, nếu là hợp đồng do công chứng viên soạn thảo và chuẩn bị trước thì thời gian để các bên ký kết và công chứng viên công chứng việc ký kết là 30 phút, nếu là hợp đồng do công chứng viên soạn thảo và không có sự chuẩn bị trước thì thời gian khoảng 60 phút. Pháp luật không quy định về thời gian tối thiểu cho việc giải quyết một hợp đồng, giao dịch cụ thể, nhưng do áp lực về cạnh tranh, về thời gian của người yêu cầu công chứng (thời gian công chứng được quy định là giờ hành chính nên người yêu cầu công chứng phải bố trí, sắp xếp công việc để có mặt thực hiện giao kết, việc bố trí thời gian không phải dễ, đặc biệt là những hợp đồng, giao dịch có sự tham gia của nhiều người. Ngoài ra, người Việt Nam hay chọn giờ đẹp khi giao kết hợp đồng, giao dịch) nên thời gian cho việc công chứng một hợp đồng, giao dịch rất ngắn. Trong khoảng thời gian như vậy, công chứng viên phải thực hiện một loạt các hành vi sau: xác minh nhân thân của người yêu cầu công chứng, xác minh tính hợp pháp, phù hợp về đạo đức của nội dung hợp đồng, giao dịch, xác minh tính có thật của giấy tờ, tài sản, tài sản không bị tranh chấp, chưa thực hiện các giao dịch khác làm hạn chế quyền của người chủ sở hữu, sử dụng, giải thích ý nghĩa của hợp đồng, giao dịch, hướng dẫn các bên ký kết hợp đồng, giao dịch…, do đó, đòi hỏi công chứng viên phải có kinh nghiệm thực tiễn, áp dụng trình tự, thủ tục nhuần nhuyễn, thuần thục với độ chính xác cao. Luận văn: Tổng quan về quy định của công chứng viên
Số lượng người tham gia một hợp đồng, giao dịch cũng là một yếu tố gây áp lực, tác động đến hành vi công chứng của công chứng viên, càng đông người tham gia hợp đồng, giao dịch, áp lực càng lớn. Một hợp đồng, giao dịch thường có sự tham gia giao kết của tối thiểu là 4 người, có những trường hợp có đến hơn chục người tham gia hợp đồng, giao dịch như các hợp đồng, giao dịch liên quan đến hộ gia đình, liên quan đến di sản thừa kế. Với số lượng người như vậy cùng tham gia giao kết hợp đồng, giao dịch, đặc biệt là với những tổ chức hành nghề công chứng bố trí diện tích phòng làm việc nhỏ, hẹp sẽ gây áp lực rất lớn đối với công chứng viên trong việc công chứng, bảo đảm tính chính xác của hợp đồng, giao dịch.
Trong cùng một thời điểm, một công chứng viên phải đồng thời tiếp nhận hồ sơ, tư vấn, hướng dẫn và công chứng các loại hợp đồng, giao dịch khác nhau (hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, mua bán, thế chấp, bảo lãnh, ủy quyền, khai nhận di sản thừa kế, thỏa thuận phân chia di sản thừa kế, di chúc) với nhiều người yêu cầu công chứng khác nhau, với những trình tự, thủ tục chặt chẽ do luật định trong một khoảng thời gian ngắn, thậm chí có thể tiếp nhận và xử lý hồ sơ yêu cầu công chứng ngay lập tức nếu các điều kiện để giao kết giao dịch, hợp đồng đã đầy đủ, mà vẫn phải bảo đảm yếu tố chính xác, an toàn, áp lực công việc rất lớn, sai sót rất dễ xảy ra nếu thiếu kỹ năng hành nghề. Chính vì vậy, khi được bổ nhiệm công chứng viên, các công chứng viên đã phải hội tụ đầy đủ cả hai yếu tố, một là các kiến thức pháp luật về công chứng, hai là các kỹ năng cần thiết để tiến hành hoạt động công chứng. Nếu thiếu một trong hai yếu tố trên, các công chứng viên gặp nhiều lúng túng trong việc công chứng các hợp đồng, giao dịch.
Thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Sở Tư pháp đã có những biện pháp đẩy mạnh việc thực hiện để đáp ứng nhu cầu công chứng hợp đồng, giao dịch rất lớn của người dân trên địa bàn thành phố Hà Nội, số lượng công chứng viên trên địa bàn tăng lên nhanh chóng, tính đến tháng 4/2014, Hà Nội có tổng số 341 công chứng viên đang hành nghề, đứng đầu trong cả nước (68 công chứng viên tại 10 Phòng công chứng và 273 công chứng viên tại 93 văn phòng công chứng). Tất cả các công chứng viên được bổ nhiệm đều đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn về công chứng viên theo quy định của Luật Công chứng. Tuy nhiên, dù tăng nhanh về số lượng nhưng chất lượng các công chứng viên lại chưa tăng tương xứng, dẫn đến chất lượng văn bản công chứng chưa cao, chưa thực sự hoàn thành trách nhiệm -phòng ngừa- trong các giao dịch về dân sự, kinh tế.
Nhìn chung, chất lượng đội ngũ công chứng viên còn nhiều bất cập, hạn chế, bên cạnh các công chứng viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có tâm với nghề, còn nhiều công chứng viên hạn chế về năng lực chuyên môn, kỹ năng hành nghề, chưa tuân thủ quy tắc đạo đức hành nghề công chứng, thậm chí một số công chứng viên có hành vi vi phạm đạo đức nghề nghiệp, vi phạm pháp luật nghiêm trọng đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự làm ảnh hưởng đến uy tín của đội ngũ công chứng viên nói riêng và nghề công chứng nói chung. Phần lớn các công chứng viên yếu kém này là các công chứng viên được miễn đào tạo, miễn tập sự hành nghề công chứng [6].
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ Luật Học
2.1.1. Về tiêu chuẩn công chứng viên Luận văn: Tổng quan về quy định của công chứng viên
Thực tiễn cho thấy quy định về tiêu chuẩn công chứng viên bộc lộ một số bất cập, hạn chế, có thể coi như là còn đơn giản, thông thoáng, chưa chặt chẽ:
Thứ nhất, quy định công chứng viên phải có thời gian công tác pháp luật từ 05 năm trở lên tại các cơ quan, tổ chức.
Quy định này là cần thiết nhằm bảo đảm các công chứng viên có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, thời gian 05 năm là đủ để một người làm quen, thử việc và tiếp cận đầy đủ với một công việc nhất định. Tuy nhiên, quy định này còn chưa chặt chẽ, nhiều người làm công tác pháp luật nhưng do quy mô đơn vị nhỏ, nên khối lượng công việc giải quyết không nhiều, do đó thiếu kinh nghiệm khi giải quyết các vấn đề thực tiễn. Hiện nay có rất nhiều các doanh nghiệp siêu nhỏ, có tổ chức hoặc không tổ chức bộ phận pháp chế, khối lượng công việc không lớn, nếu quy định những người làm pháp chế tại các đơn vị này cũng đủ điều kiện thì chất lượng công chứng viên sẽ không cao. Thậm chí, có những công chứng viên đã được bổ nhiệm tại các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương khi tham gia các lớp đào tạo nghề công chứng thừa nhận thiếu kinh nghiệm đối với các hợp đồng, giao dịch về nhà đất do giao dịch tại địa phương không lớn. Chưa quy định mốc thời gian 5 năm được tính từ thời điểm nào, do đó nhiều người có thời gian làm công tác pháp luật nhưng lại chưa được trang bị kiến thức cơ bản về pháp luật (có bằng cử nhân luật), dẫn đến tình trạng hiểu và áp dụng chưa chính xác, thậm chí là áp dụng sai các quy định của pháp luật. Thực tế cho thấy, tại các Phòng công chứng, một số công chứng viên được bổ nhiệm khi vừa mới có bằng cử nhân luật, do được công chứng viên tin tưởng, giao nhiệm vụ trong công tác chuyên môn, giúp việc cho các công chứng viên, từ khâu tiếp nhận, hướng dẫn hồ sơ cho đến đến soạn thảo, hướng dẫn người yêu cầu công chứng ký kết hợp đồng. Trong khoảng thời gian này, họ học thêm bằng cử nhân luật. Khi có đủ thời gian công tác pháp luật là 5 năm theo quy định, cộng với vừa tốt nghiệp cử nhân luật, họ đã có thể được bổ nhiệm. Có thể nói, đây là những công chứng viên được bổ nhiệm dựa trên kinh nghiệm thực tiễn hoạt động là chính, trong khi kiến thức cơ bản vừa mới được trang bị, do đó chất lượng không cao.
Thứ hai, quy định công chứng viên phải có giấy chứng nhận đào tạo nghề công chứng.
Công chứng được coi là một nghề, nên việc được đào tạo nghề là cần thiết, giúp các công chứng viên được trang bị đầy đủ kiến thức và kỹ năng nghề cần thiết. Tuy nhiên, việc thực hiện quy định này có một số bất cập, hạn chế sau:
Về thời gian đào tạo nghề công chứng, được quy định là 6 tháng, bao gồm cả việc trang bị các kiến thức cơ bản, đào tạo, rèn luyện các kỹ năng và giải quyết các tình huống thực tiễn. Khung thời gian như vậy là chưa hợp lý với những lý do sau: Một là, khi học cử nhân luật, gần như chưa có bộ môn về công chứng, do đó, đến khi được đào tạo nghề, học viên mới được trang bị kiến thức một cách có hệ thống về công chứng, bao gồm cả các kiến thức về Bộ luật Dân sự, Luật hôn nhân và gia đình, Luật sở hữu trí tuệ, Luật doanh nghiệp, Luật đất đai, Luật nhà ở,…. Hai là, công chứng có rất nhiều dạng hợp đồng, giao dịch khác nhau (hợp đồng chuyển nhượng, mua bán, tặng cho, hợp đồng thế chấp, hợp đồng ủy quyền, hợp đồng thuê, mượn tài sản, di chúc, văn bản khai nhận và thỏa thuận phân chia di sản thừa kế,…) mỗi dạng hợp đồng, giao dịch có những đặc điểm, yêu cầu, hồ sơ, thủ tục, kinh nghiệm khác nhau. Ví dụ: cùng là hợp đồng thế chấp, nhưng hồ sơ yêu cầu đối với các đối tượng là cá nhân, vợ chồng, hộ gia đình, doanh nghiệp (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần)… là khác nhau. Do đó, mỗi một hợp đồng, giao dịch cần có nhiều buổi học để học viên được trang bị kiến thức, kỹ năng xử lý các tình huống thực tế. Ba là, nghề công chứng đòi hỏi phải được rèn luyện một số kỹ năng nhất định: xác minh nhân thân người yêu cầu công chứng, xác định đối tượng của hợp đồng, giao dịch là có thật, nhận dạng chữ ký, chữ viết, con dấu trong văn bản, cách lấy dấu vân tay của người yêu cầu công chứng. Có thể nói, công chứng là một nghề -nguy hiểm-, mỗi công chứng viên chứng nhận nhiều hợp đồng, giao dịch có giá trị lớn mỗi ngày, nếu sơ suất dù chỉ một hợp đồng, giao dịch thì thiệt hại xảy ra rất lớn. Do đó, thời gian đào tạo nghề công chứng cần được quy định dài hơn để học viên được trang bị đầy đủ về lý thuyết, cũng như rèn luyện thuần thục các kỹ năng cần thiết trong nghề.
Ví dụ:
Vừa qua, các cơ quan chức năng phát hiện, ngăn chặn, xử lý một số vụ sử dụng giấy tờ nhà đất giả, như vụ Nguyễn Thị Bằng An (ở huyện Từ Liêm) cùng đồng bọn sử dụng hàng chục sổ đỏ giả, chiếm đoạt nhiều tỷ đồng; vụ Lê Bá Quỳ (ở xã Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm) dùng phôi sổ đỏ thật điền thông tin ảo, lừa hơn mười cá nhân, công ty, ngân hàng; vụ mất cắp 483 phôi sổ đỏ ở thị xã Sơn Tây…
Trong buổi làm việc với chúng tôi sáng 8/5/2012, đồng chí Lã Hoàng Hưng, Phó trưởng Phòng Bổ trợ tư pháp, Sở Tư pháp thành phố Hà Nội, lo lắng đưa ra lời cảnh báo: Qua theo dõi hoạt động thực tiễn của các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn Hà Nội gần đây, thấy nổi lên vấn đề nhức nhối là việc sử dụng giấy tờ giả (nhiều nhất là giấy tờ liên quan nhà đất). Nhiều loại giấy tờ giả tinh vi đến mức, công chứng viên có kinh nghiệm cũng khó xác định đâu là thật, đâu là giả [12].
Về cơ sở đào tạo nghề: Hiện nay, Học viện Tư pháp là đơn vị duy nhất trong cả nước đào tạo về nghiệp vụ công chứng, tuy nhiên, vẫn chưa có Khoa đào tạo công chứng viên, phụ trách đào tạo nghiệp vụ công chứng là Khoa đào chấp hành viên và các chức danh tư pháp khác. Đội ngũ giảng viên hạn chế, gồm 3 nhóm: nhóm giảng viên cơ có trình độ Thạc sĩ, chưa qua thực tiễn hành nghề công chứng (giảng viên cơ hữu của Học viện Tư pháp), nhóm giảng viên có trình độ lý luận cao, làm công tác quản lý nhà nước về công chứng nhưng chưa hoạt động thực tiễn hành nghề công chứng (cán bộ của Vụ Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp) và nhóm giảng viên hoạt động thực tiễn nhưng trình độ lý luận chưa cao (là công chứng viên các tổ chức hành nghề công chứng, đa số có trình độ thạc sĩ, chỉ duy nhất có ông Tuấn Đạo Thanh, Trưởng Phòng công chứng số 1 thành phố Hà Nội có trình độ Tiến sĩ trong lĩnh vực công chứng). Trong đó, nhóm giảng viên của Học viện Tư pháp có số lượng rất ít, nhóm giảng viên còn lại được giảng dạy theo chế độ cộng tác viên, do đó độ ổn định không cao, lớp học hay phải nghỉ do giảng viên vướng lịch công tác, nhóm giảng viên của Bộ tư pháp tuy có trình độ cao nhưng do chưa hoạt động thực tiễn nên hạn chế trong việc hướng dẫn học viên giải quyết tình huống, dẫn tới tình trạng giải quyết tình huống đúng quy định nhưng không phù hợp với thực tiễn.
Về chương trình đào tạo nghề: Tính đến thời điểm hiện tại, Bộ Tư pháp chưa ban hành chương trình khung về đào tạo nghề công chứng, chưa có chính sách để phát triển Học viện Tư pháp, thu hút đội ngũ công chứng viên có kinh nghiệm lâu năm về giảng dạy. Ngoài ra, đến năm 2012 (sau 5 năm thực hiện Luật Công chứng số 82/2006/QH11) Bộ Tư pháp mới ban hành Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng, là tiêu chuẩn để các công chứng viên thực hiện. Đây là những yếu tố khiến công tác đào tạo công chứng viên còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng tới chất lượng công chứng viên được đào tạo. Chất lượng công chứng viên không chỉ phụ thuộc vào kỹ năng nghề mà còn phụ thuộc vào đạo đức hành nghề. Thực tiễn cho thấy, nhiều công chứng viên vì những nguyên nhân khác nhau đã không thực hiện đúng quy trình, thủ tục pháp luật quy định, gây hậu quả, thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và các cá nhân, tổ chức liên quan. Những tồn tại, hạn chế trong thời gian qua có một phần trách nhiệm không nhỏ của Bộ Tư pháp.
Ví dụ:
Đối với Hợp đồng ủy quyền ngày 21/5/2008, giữa bên ủy quyền ông Trần Văn Mạnh bà Nguyễn Thị Nương và bên được ủy quyền Nguyễn Thu Hợp. Số công chứng 440/HĐUQ/2008, Quyển số 01TP/C SCC/HĐGD.
Khi tiếp nhận hồ sơ, ông Hoàng Văn Sự là Công chứng viên đồng ý cho sử dụng chứng minh nhân dân của ông Mạnh là bản photocoppy, nhưng không có bản chính để đối chiếu và cho các bên tham gia ký hợp đồng ủy quyền ký tên, điểm chỉ vào bản hợp đồng. Theo tài liệu điều tra các đối tượng đã photocopy mặt trước chứng minh nhân dân của ông Mạnh (có dán ảnh của Nguyễn Toàn người đóng giả ông Mạnh), photocopy mặt sau chứng minh nhân dân của anh Toàn ghép thành chứng minh nhân dân của ông Mạnh để đưa vào hồ sơ công chứng (mặt sau chứng minh nhân dân có dấu vân tay của anh Toàn). Ông Hoàng Văn Sự khai đã đồng ý cho ông Mạnh sử dụng chứng minh nhân dân phôtôcoppy, nhưng yêu cầu phải có Giấy khai sinh của con ông Mạnh và bà Nương để đưa vào hồ sơ. Ông Sự đã không lường trước được Hạnh, Hợp, Nương đã thuê người đóng giả ông Mạnh để ký hợp đồng. Luận văn: Tổng quan về quy định của công chứng viên
Như vậy, khi tiến hành công chứng Hợp đồng ủy quyền này, công chứng viên đã bỏ qua nguyên tắc xác định nhân thân của người yêu cầu công chứng, không yêu cầu người yêu cầu công chứng xuất trình chứng minh nhân dân nên đã công chứng không đúng với quy định của pháp luật. Hợp đồng ủy quyền là trái pháp luật phải được hủy bỏ [28].
Ngoài ra, Luật Công chứng số 82/2006/QH11 cũng không quy định thời gian tối đa cho phép kể từ khi một người được cấp Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề công chứng đến khi người đó đăng ký tập sự hành nghề công chứng. Nếu thời gian dài quá thì việc đào tạo nghề sẽ không còn ý nghĩa, người học sẽ bị quên kiến thức, kỹ năng đã được đào tạo.
Thứ ba, quy định công chứng viên phải qua thời gian tập sự nghề công chứng
Việc quy định tập sự hành nghề công chứng là cần thiết, tạo môi trường để những người trải qua đào tạo nghề công chứng được áp dụng những kiến thức mình có được qua đào tạo nghề áp dụng vào thực tiễn. Tuy nhiên, quy định về tập sự hành nghề công chứng có một số bất cập, hạn chế sau:
Một là, không quy định tiêu chuẩn công chứng viên được hướng dẫn tập sự dẫn đến trường hợp người tập sự được phân công hướng dẫn bởi các công chứng viên mới được bổ nhiệm, số lượng hợp đồng, giao dịch ít và kinh nghiệm trong nghề chưa nhiều.
Hai là, không quy định nghĩa vụ của công chứng viên hướng dẫn tập sự, thực tế cho thấy, những người tập sự ít có cơ hội được tham gia thực hiện các công việc liên quan đến công chứng, do thời hạn thực hiện yêu cầu công chứng ngắn, đòi hỏi xử lý công việc gấp, mà người tập sự thì chưa thạo việc, nên các công chứng viên thường ít giao việc cho người tập sự, nhất là những hợp đồng, giao dịch có giá trị lớn, phức tạp, số lượng người tham gia công chứng đông.
Ba là, không quy định số lượng người tập sự mà mỗi công chứng viên được hướng dẫn, thực tế có trường hợp, 1 công chứng viên hướng dẫn 4 người tập sự dẫn đến chất lượng hướng dẫn không cao.
Bốn là, không quy định nghĩa vụ của người tập sự về thời gian làm việc, thông thường người tập sự chỉ đăng ký tập sự, thỉnh thoảng mới đến làm việc, khi đến thường chỉ quan sát các công chứng viên làm việc mà không trực tiếp tham gia vào hoạt động công chứng, hết thời gian tập sự thì đến xin xác nhận. Từ phía bản thân người tập sự cũng không hoàn thành trách nhiệm của mình, mục đích của việc tập sự không đạt được.
Năm là, việc quy định khi kết thúc quá trình tập sự, người tập sự báo cáo kết quả tập sự có nhận xét của công chứng viên mà không đưa ra 1 tiêu chuẩn cụ thể nào trong việc nhận xét dẫn tới tính khả thi không cao, tùy thuộc vào ý muốn chủ quan của công chứng viên (tình cảm, trình độ, kinh nghiệm), kết quả tập sự không khách quan, thiếu chính xác và không có cơ sở để kiểm chứng.
Sáu là, không quy định thời gian tối đa cho phép kể từ khi một người hoàn thành tập sự hành nghề công chứng đến khi nộp hồ sơ xin bổ nhiệm công chứng viên. Nếu thời gian dài quá thì kết quả tập sự sẽ không còn ý nghĩa, người tập sự sẽ quên những kỹ năng hành nghề có được qua tập sự.
2.1.2. Miễn đào tạo nghề và miễn tập sự hành nghề công chứng Luận văn: Tổng quan về quy định của công chứng viên
Số lượng các công chứng viên trên địa bàn thành phố Hà Nội tăng nhanh, do được bổ sung một số lượng lớn các công chứng viên từ các đối tượng được miễn đào tạo nghề và miễn tập sự hành nghề công chứng, bước đầu góp phần đáp ứng nhu cầu công chứng hợp đồng, giao dịch tăng nhanh trên địa bàn thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, quy định này đã bộc lộ bất cập, hạn chế sau:
Luật Công chứng số 82/2006/QH11 quy định đối tượng được miễn đào tạo và tập sự nghề công chứng quá rộng. Đều là những người có chức danh chuyên ngành, học hàm, học vị, có trình độ pháp luật tương đối cao. Tuy nhiên, công chứng lại là nghề có phạm vi hoạt động chủ yếu, chuyên sâu trong lĩnh vực dân sự, kinh tế, thương mại. Trong khi đó, lĩnh vực pháp luật có rất nhiều mảng chuyên sâu khác nhau: hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính, Hiến pháp, quốc tế, quyền con người,… Việc quy định một người hành nghề hoặc nghiên cứu chuyên sâu trong lĩnh vực này sang hành nghề trong lĩnh vực khác mà không qua đào tạo, tập sự là không phù hợp. Thực tế cho thấy, ngay cả các cán bộ của Bộ Tư pháp, những người làm công tác quản lý nhà nước về công chứng nhưng vẫn lúng túng trong việc hướng dẫn học viên xử lý tình huống cụ thể. Do không được đào tạo và tập sự hành nghề nên các đối tượng này khi trở thành công chứng viên có thể mới tìm hiểu kiến thức, kỹ năng liên quan đến công chứng, dẫn đến còn lúng túng, chủ quan, không đáp ứng được yêu cầu khi hành nghề. Nghề công chứng được coi là nghề đặc biệt, những sai sót trong thực hiện công chứng có thể sẽ dẫn đến ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xã hội. Do vậy, để đảm bảo hiệu quả khi hành nghề thì những đối tượng trên cần phải được bồi dưỡng nghề công chứng hoặc giảm thời gian đào tạo để thu nhận kiến thức, kinh nghiệm liên quan đến hành nghề công chứng. Nhờ có việc đào tạo, bồi dưỡng này, khi được bổ nhiệm công chứng viên họ đã được “nạp” sẵn những kiến thức, kinh nghiệm liên quan đến nghề công chứng để yên tâm xử lý từng tình huống nghiệp vụ cho đúng pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Ngoài ra, những đối tượng này cần phải qua tập sự hành nghề để áp dụng nhuần nhuyễn những kiến thức, kỹ năng thu nạp được qua quá trình đào tạo, bồi dưỡng. Thực tế cho thấy, sai phạm trong hoạt động công chứng xảy ra chủ yếu là công chứng viên được miễn đào tạo nghề công chứng và miễn tập sự hành nghề công chứng, đã có phát sinh những tranh chấp dân sự trong một số vụ việc và hệ quả này sẽ kéo dài bởi tranh chấp phát sinh từ các văn bản công chứng có thể không xảy ra ngay mà trong một vài năm sau, thậm chí còn lâu hơn nữa mới phát sinh hậu quả.
Theo Luật gia Phạm Quốc Anh, Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam: Trong tất cả các lĩnh vực nói chung và lĩnh vực công chứng nói riêng, con người luôn là yếu tố quyết định. Là một người công chứng viên tiêu chuẩn đầu tiên là cần phải có đủ trình độ năng lực và đạo đức nghề nghiệp. Điều đó sẽ được thể hiện qua chất lượng công chứng, qua thái độ niềm nở, ân cần, làm việc cặn kẽ, có trách nhiệm. Hiện nay các công chứng viên chủ yếu vẫn làm công tác đối nội với các loại giao dịch trong nước, ít các hợp đồng giao dịch có yếu tố nước ngoài, đa số chất lượng ngoại ngữ của các công chứng viên còn thấp, kiến thức về hội nhập rất hạn chế. Vì vậy tự bản thân mỗi người làm công tác công chứng phải có ý thức trau dồi những hạn chế nói trên. Thêm vào đó hiện nay theo quy định chung thì những cán bộ đã được đào tạo, công tác ở các cơ quan tư pháp, hành pháp được miễn thực tập công chứng viên. Đây là một kẽ hở, nó đúng nhưng chưa được hoàn thiện bởi vì mỗi lĩnh vực của pháp luật lại có những yêu cầu riêng, chỉ có cái nền kiến thức chung của ngành tư pháp để đem vào làm việc cụ thể trong lĩnh vực công chứng thì chưa đủ. Những người đã qua đào tạo, công tác tại các cơ quan tư pháp, hành pháp muốn làm việc trong lĩnh vực công chứng vẫn phải qua lớp đào tạo ngắn hạn, có thi, kiểm tra một cách nghiêm túc để lấy chứng chỉ. Nếu chỉ dựa trên quá trình công tác mà miễn thực tập thì sẽ chỉ đáp ứng được về mặt số lượng, không đáp ứng được về chất lượng [11].
Ngoài ra, Luật Công chứng số 82/2006/QH11 cũng bỏ sót một đối tượng quan trọng cần được miễn/giảm thời gian đào tạo nghề và tập sự hành nghề công chứng. Đó là những người làm việc tại các tổ chức hành nghề công chứng với nhiệm vụ giúp việc cho các công chứng viên. Những người này có trình độ cử nhân về pháp luật, lại qua thực tiễn hoạt động, được các công chứng viên (nhiều công chứng viên đang trực tiếp giảng dạy tại Học viện Tư pháp) kèm cặp, hướng dẫn, nếu được miễn/giảm thời gian đào tạo nghề và tập sự hành nghề công chứng thì sẽ là một nguồn nhân lực chất lượng bổ sung cho đội ngũ công chứng viên. Trong thực tế, các công chứng viên hoàn thành trách nhiệm của mình có sự giúp sức rất lớn của đội ngũ giúp việc, ngoài các công việc có tính chất hành chính, sự vụ, những người giúp việc còn trợ giúp các công chứng viên trong các công việc có tính chất chuyên môn (tư vấn, hướng dẫn người yêu cầu công chứng chuẩn bị hồ sơ, thủ tục công chứng, viết yêu cầu công chứng; soạn thảo hợp đồng, giao dịch; giải thích, hướng dẫn người yêu cầu công chứng ký kết hợp đồng, giao dịch), các công chứng viên chỉ phải xác minh, kiểm tra lại toàn bộ quá trình và ký vào văn bản công chứng. Những người này chỉ khác các công chứng viên là không được ký các hợp đồng, giao dịch, còn các công việc khác họ cũng thực hiện không khác gì một công chứng viên.
Về các trường hợp miễn đào tạo nghề công chứng: Theo quy định hiện hành có quá nhiều đối tượng được miễn đào tạo nghề công chứng, trong khi đó những người đã từng là công chứng viên lại không được miễn đào tạo nghề, do đó cần sửa đổi bổ sung Luật Công chứng theo hướng loại bỏ bớt các đối tượng được miễn đào tạo nghề công chứng nhưng đặc cách bổ nhiệm công chứng viên cho người đã từng là công chứng viên [28]. Luận văn: Tổng quan về quy định của công chứng viên
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Thực trạng tổ chức hành nghề công chứng tại Hà Nội