Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Tổng quan về niên yết chứng khoán ở Tp HCM hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận các công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
Trong chương 2, tác giả sẽ tiếp tục trình bày phần cơ sở lý thuyết về lợi nhuận, hành vi điều chỉnh lợi nhuận, công ty cổ phần niêm yết và các khái niệm liên quan khác. Ngoài ra, tác giả cũng sẽ trình bày những mô hình quản trị lợi nhuận trên thế giới hiện nay để làm căn cứ xác định các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết.
2.1. Cơ sở lý thuyết về lợi nhuận
2.1.1. Khái niệm về lợi nhuận Luận văn: Tổng quan về niên yết chứng khoán ở Tp HCM
Mục tiêu cuối cùng và quan trọng của một công ty theo lý thuyết là đạt tối đa lợi nhuận. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về lợi nhuận:
Nhà kinh tế học hiện đại P.A Samuelson định nghĩa rằng: “ Lợi nhuận là một khoản thu nhập dôi ra bằng tổng số thu về trừ đi tổng số đã chi” hoặc cụ thể hơn là “lợi nhuận được định nghĩa như là khoản chênh lệch giữa tổng thu nhập của một công ty và tổng chi phí”.
Theo VAS 17 thì: “lợi nhuận kế toán là lợi nhuận hoặc lỗ của một kỳ, trước khi trừ đi thuế thu nhập doanh nghiệp, được xác định theo quy định của chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán”.
Lợi nhuận đối với kế toán tài chính thường được công bố rộng rãi ra bên ngoài, đặc biệt là đối với công ty cổ phần niêm yết, các công bố này là tài liệu nghiên cứu cho cơ quan thuế, nhà đầu tư và một số ngân hàng thương mại.
Lợi nhuận đối với kế toán quản trị chủ yếu phục vụ cho ban lãnh đạo, hội đồng quản trị và nội bộ doanh nghiệp.
Từ các quan điểm trên, theo góc độ của nhà quản trị tài chính doanh nghiệp có thể thấy rằng: Lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản tiền chênh lệch giữa thu nhập và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt được thu nhập từ các hoạt động đưa lại, là kết quả cuối cùng của các hoạt động sản xuất kinh doanh và là chỉ tiêu chất lượng để đánh giá hiệu quả kinh tế các hoạt động của doanh nghiệp.
Tóm lại, theo mục tiêu nghiên cứu của đề tài, đề tài định hướng nghiên cứu lợi nhuận thuộc phạm vi kế toán tài chính, nghĩa là lợi nhuận của công ty đã được kiểm toán và công bố rộng rãi. Vì như vậy mới có căn cứ để xác định có hay không hành điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản trị.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế
2.1.2. Nội dung của lợi nhuận
Hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường, để tồn tại và phát triển thì sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải hiệu quả. Tuy nhiên, do hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp rất đa dạng và phong phú, nên hiệu quả kinh doanh có thể đạt được từ nhiều nguồn khác nhau. Do đó, lợi nhuận của doanh nghiệp cũng bao gồm nhiều loại, trong đó chủ yếu là:
2.1.2.1. Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh
Là khoản chênh lệch giữa doanh thu tiêu thụ sản phẩm và chi phí đã bỏ ra của khối lượng sản phẩm hàng hóa dịch vụ, lao vụ của các hoạt động kinh doanh chính và phụ của doanh nghiệp.
2.1.2.2. Lợi nhuận thu được từ hoạt động tài chính Luận văn: Tổng quan về niên yết chứng khoán ở Tp HCM
Là khoản chênh lệch giữa các khoản thu và chi có tính chất nghiệp vụ tài chính trong quá trình doanh nghiệp thực hiện việc kinh doanh.
Các hoạt động nghiệp vụ tài chính gồm:
- Hoạt động cho thuê tài chính
- Hoạt động mua bán chứng khoán, mua bán ngoại tệ
- Lãi tiền gửi ngân hàng thuộc vốn kinh doanh của doanh nghiệp
- Lãi cho vay vốn
- Lợi tức cổ phần và hoàn nhập số dư khoản dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán
- Lợi nhuận thu được từ việc phân chia kết quả hoạt động liên doanh, liên kết của doanh nghiệp với đơn vị khác…
2.1.2.3. Lợi nhuận thu được từ các hoạt động khác (hoạt động bất thường)
Là khoản chênh lệch giữa thu nhập và chi phí của các hoạt động khác ngoài các hoạt động nêu trên. Như vậy lợi nhuận thu được từ các hoạt động khác bao gồm:
- Khoản phải trả nhưng không trả được do chủ nợ tuyên bố phá sản hay khoản nợ khó đòi đã duyệt nay thu hồi được
- Lợi nhuận từ quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản
- Khoản chênh lệch giữa thu nhập và chi phí của hoạt động thanh lý, nhượng bán tài sản cố định
- Lợi nhuận của năm trước phát hiện năm nay
- Hoàn nhập số dư các khoản dự phòng, giảm giá hàng tồn kho, dự phòng phải thu khó đòi, tiền trích bảo hành sản phẩm còn thừa sau khi hết hạn bảo hành…
2.1.3. Vai trò của lợi nhuận Luận văn: Tổng quan về niên yết chứng khoán ở Tp HCM
2.1.3.1. Đối với doanh nghiệp
Lợi nhuận giữ vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh vì trong điều kiện hạch toán kinh doanh độc lập theo cơ chế thị trường, doanh nghiệp có tồn tại và phát triển hay không thì điều quyết định là doanh nghiệp có tạo ra được lợi nhuận hay không. Chuỗi lợi nhuận của doanh nghiệp trong tương lai sẽ phát triển như thế nào? Vì thế, lợi nhuận được coi là một trong những đòn bẩy quan trọng đồng thời là một chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh.Lợi nhuận tác động đến tất cả các mặt hoạt động của doanh nghiệp, việc thực hiện chỉ tiêu lợi nhuận là điều kiện quan trọng đảm bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp được ổn định, vững chắc.
2.1.3.2. Đối với xã hội
Ngoài vai trò đối với doanh nghiệp, lợi nhuận còn là nguồn tích lũy cơ bản, là nguồn để mở rộng tái sản xuất xã hội. Sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải hạch toán lợi nhuận lãi (hoặc lỗ) rồi từ đó nộp một khoản tiền vào ngân sách nhà nước. Sự tham gia đóng góp này của các doanh nghiệp được phản ánh ở số thuế thu nhập doanh nghiệp đã nộp. Thuế thu nhập doanh nghiệp là một sự điều tiết của nhà nước đối với lợi nhuận thu được của các đơn vị sản xuất kinh doanh, để góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và động viên một phần lợi nhuận của cơ sở kinh doanh cho ngân sách nhà nước, đảm bảo sự đóng góp công bằng, hợp lý giữa các thành phần kinh tế, kết hợp hài hòa giữa lợi ích của nhà nước và lợi ích người lao động.
2.2. Một số vấn đề cơ bản về công ty cổ phần niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán
2.2.1. Khái niệm công ty cổ phần Luận văn: Tổng quan về niên yết chứng khoán ở Tp HCM
Theo Luật công ty Thụy Điển: Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp được thành lập do nhiều cá nhân, tổ chức góp vốn kinh doanh trên nguyên tắc lời ăn, lổ chịu. Tiền vốn được chia thành các phần bằng nhau, người góp vốn với tư cách các cổ đông sẽ mua một số cổ phần đó. Cổ đông chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vốn góp của mình và cổ đông được quyền sang nhượng lại cổ phần thông qua việc mua bán các cổ phiếu.
Theo Luật doanh nghiệp Việt Nam: Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó:
- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế tối đa.
- Cổ đông chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác trừ trường hợp đó là cổ phần ưu đãi biểu quyết và cồ phần của cổ đông sáng lập.
- Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
- Công ty cổ phần có quyền phát hành các loại chứng khoán các loại để huy động vốn.
2.2.2. Phân loại công ty cổ phần
Công ty cổ phần nội bộ (Private company)
Là công ty cổ phần chỉ phát hành cổ phiếu trong số những người sáng lập ra công ty, nhân viên và người lao động trong công ty và các pháp nhân là đơn vị sáng lập. Đây là loại cổ phiếu ký danh không được chuyển nhượng hoặc chỉ được chuyển nhượng theo một số điều kiện nhất định trong nội bộ công ty. Việc tăng vốn của công ty rất hạn chế. Công ty chỉ được vay vốn từ các tổ chức tín dụng hoặc tích lũy từ trong nội bộ công ty.
Công ty cổ phần đại chúng (Public company)
Là công ty cổ phần có phát hành cổ phiếu rộng rãi ra công chúng, ngoài những đối tượng nội bộ như công ty cổ phần nội bộ.
Phần lớn những công ty cổ phần mới thành lập đã bắt đầu như những công ty cổ phần nội bộ. Đến khi công ty phát triển, tiếng tăm đã lan rộng, hội đủ điều kiện, họ có thể phát hành cổ phiếu rộng rãi ra công chúng, trở thành một công ty cổ phần đại chúng.
Khi một công ty cổ phần lần đầu phát hành cỏ phiếu rộng rãi ra công chúng, người ta gọi đó “ trở thành đại chúng” ( Go public). Đợt phát hành đó được gọi là đợt phát hành lần đầu cho công chúng ( Initial Public offering – IPO).
Công ty cổ phần niêm yết (Listed company)
Các công ty cổ phần đại chúng tiếp tục con đường phấn đấu để có đủ điều kiện được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán sẽ trở thành công ty niêm yết. Chứng khoán của họ sẽ được giao dịch trên thị trường chứng khoán tập trung.Chúng có thể trở thành những công ty cổ phần hàng đầu của đất nước, uy tín, tiếng tăm và được hưởng những điều kiện thuận lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh và huy động vốn.
2.2.3. Mục đích niêm yết của các công ty cổ phần Luận văn: Tổng quan về niên yết chứng khoán ở Tp HCM
Có rất nhiều động cơ khiến các công ty cổ phần muốn niêm yết trên thị trường chứng khoán. Có thể tổng hợp thành một số mục đích chính như sau:
Tiếp cận kênh thu hút vốn dài hạn
Khi tham gia niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, doanh nghiệp có thể huy động vốn một cách nhanh chóng, thuận tiện, dễ dàng từ việc phát hành cổ phiếu dựa trên tính thanh khoản cao và uy tín của doanh nghiệp được niêm yết trên thị trường. Huy động theo cách này, doanh nghiệp không phải thanh toán lãi vay cũng như phải trả vốn gốc giống như việc vay nợ, từ đó sẽ rất chủ động trong việc sử dụng nguồn vốn huy động được cho là mục tiêu và chiến lược dài hạn của mình. Đây được coi là yếu tố quan trọng nhất khi quyết định niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán.
Khếch trương uy tín của doanh nghiệp
Để được niêm yết chứng khoán, doanh nghiệp phải đáp ứng được những điều kiện chặt chẽ về mặt tài chính, hiệu quả sản xuất – kinh doanh cũng như cơ cấu tổ chức… Do đó, những công ty được niêm yết trên thị trường thường là những công ty có hoạt động sản xuất – kinh doanh tốt. Thực tế đã chứng minh, niêm yết chứng khoán là một trong những cách thức quảng cáo tốt cho doanh nghiệp, từ đó thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, tìm kiếm đối tác…
Tạo tính thanh khoản cho cổ phiếu của doanh nghiệp
Khi doanh nghiệp niêm yết trên TTCK sẽ giúp các cổ đông của doanh nghiệp dễ dàng chuyển nhượng cổ phiếu đang nắm giữ, qua đó tăng tính hấp dẫn của cổ phiếu.
Gia tăng giá trị thị trường của doanh nghiệp
Xét về dài hạn, giá cổ phiếu của doanh nghiệp niêm yết đều tăng so với mức giá tại thời điểm trước khi niêm yết.
2.2.4. Sơ lược vài nét lịch sử hình thành và phát triển của Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
Sở GDCK TP.HCM là một đơn vị thuộc Ủy ban chứng khoán Nhà nước và quản lý hệ thống giao dịch chứng khoán niêm yết của Việt Nam. Có thể tóm gọn các cột mốc lịch sử quan trọng sau:
Trung tâm GDCK TP.HCM được thành lập theo quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/07/1998 và chính thức đi vào hoạt động thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000.
Theo quyết định 559/QĐ/TTg ngày 11/05/2007 của Thủ tướng chính phủ, Trung tâm GDCK TP.HCM được chuyển đổi thành Sở GDCK TP.HCM.
Ngày 07/01/2008, Ủy ban chứng khoán Nhà nước đã cấp giấy chứng nhận đăng kí hoạt động công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cho Sở GDCK TP.HCM (Hose).
Công ty TNHH MTV này có trụ sở chính đặt tại địa chỉ 45-47 Bến Chương Dương, Phường Thái Bình, Quận 1, TP.HCM.Công ty có vốn điều lệ 1000 tỷ VND.
- Tên gọi đầy đủ: Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
- Tên giao dịch quốc tế: Hochiminh Stock Exchange
- Tên viết tắt: HOSE
2.3. Những vấn đề cơ bản về hành vi điều chỉnh lợi nhuận
2.3.1. Khái niệm hành vi điều chỉnh lợi nhuận Luận văn: Tổng quan về niên yết chứng khoán ở Tp HCM
Dù có những tên gọi khác nhau như “điều chỉnh lợi nhuận”, “quản trị thu nhập”, “quản trị lợi nhuận”…nhưng đó là việc làm “méo mó” số liệu lợi nhuận được thực hiện thông qua hành vi điều chỉnh doanh thu và chi phí. Trong khoa học, hành vi này thường được gọi là quản trị lợi nhuận.
Mặc dù thuật ngữ “ quản trị lợi nhuận” được sử dụng rộng rãi nhưng cho đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có một định nghĩa chuẩn nào được công nhận đầy đủ và mang tính khoa học.
Quản trị lợi nhuận là sự điều chỉnh lợi nhuận kế toán để đạt được mục tiêu đã đặt ra trước đó của nhà quản trị. Nó là “ một sự can thiệp có tính toán kỹ lưỡng trong quá trình cung cấp thông tin tài chính nhằm đạt được những mục đích cá nhân” (Schipper,1989).
Healy and Waland (1999) cho rằng “điều chỉnh lợi nhuận xảy ra khi các nhà quản trị sử dụng các ước tính kế toán và giao dịch nội bộ để tác động đến báo cáo tài chính, nhằm làm cho các đối tượng sử dụng thông tin hiểu sai về tình hình sản xuất của công ty hoặc làm ảnh hưởng đến các hợp đồng mà có cam kết dựa trên chỉ tiêu lợi nhuận kế toán” (ví dụ hợp đồng tín dụng với ngân hàng, hợp đồng thù lao giữa nhà quản trị với công ty…).
Theo Levitt (1998) thì điều chỉnh lợi nhuận là hành động nhằm làm cho báo cáo tài chính phản ánh mong muốn của nhà quản trị chứ không phải là hoạt động tài chính cơ bản của công ty.
Đồng ý với quan điểm đó, Parfet (2000) cũng cho rằng điều chỉnh lợi nhuận được thực hiện nhằm che giấu hoạt động tài chính thực bằng cách tạo ra các nghiệp vụ kế toán không có thực hoặc làm các dự toán không hợp lý.
Tuy nhiên, ngược lại những quan điểm trên, Beneish (2001) lại cho rằng mục đích điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý là nhằm công bố thông tin với chất lượng tốt hơn đến người sử dụng, giúp các nhà đầu tư khám phá ra các mong đợi của họ về các dòng tiền mà doanh nghiệp sẽ mang đến trong tương lai.
Cuối cùng, tùy thuộc vào mục tiêu công bố thông tin, Ronen và Yaari (2008) đã phân loại khái niệm về hành vi điều chỉnh lợi nhuận thành ba nhóm như sau:
- Nhóm điều chỉnh lợi nhuận trắng (White Earnings Management): các nhà quản lý dựa trên lợi thế về quyền lực để lựa chọn các chính sách kế toán một cách linh hoạt nhằm thông báo tín hiệu cá nhân của họ về dòng tiền của doanh nghiệp trong tương lai. Đây được xem là nhóm có lợi và gia tăng chất lượng chất lượng báo cáo tài chính.
- Nhóm điều chỉnh lợi nhuận xám (Grey Earnings Management): Các nhà quản lý lựa chọn các chính sách kế toán trong và ngoài giới hạn cho phép nhằm làm gia tăng giá trị của doanh nghiệp hoặc vụ lợi ích của họ.
- Nhóm điều chỉnh lợi nhuận đen (Black Earnings Management): là hành vi sử dụng các thủ thuật của quản lý để làm sai lệch hoặc giảm sự minh bạch của báo cáo tài chính.
Tóm lại, có nhiều quan điểm khác nhau của nhiều tác giả về khái niệm hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Tuy nhiên, có thể nhận thấy rằng sự khác nhau đó là do cách nhìn nhận của mỗi tác giả về đặc điểm cũng như cách thực thực hiện hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Trong nghiên cứu này, hành vi điều chỉnh lợi nhuận thuộc về đối tượng của kế toán tài chính bởi vì các chỉ tiêu lợi nhuận và liên quan đến lợi nhuận trong báo cáo tài chính đã được công bố rộng rãi ra bên ngoài nhằm phục vụ cho các đối tượng sử dụng thông tin.
Vì thế, theo định hướng của đề tài này là phục vụ cho người sử dụng thông tin, tác giả xin được phép trích dẫn nhận định của Nguyễn Thị Phương (2014): điều chỉnh lợi nhuận là “hành động có mục đích của của nhà quản lý bằng cách sử dụng các hình thức chi phối thu nhập như lựa chọn chính sách kế toán hay thông qua thực hiện các nghiệp vụ kinh tế, sử dụng hành động quản lý nhằm mục đích gây hiểu nhầm khi cung cấp thông tin cho người sử dụng để đạt được lợi ích gì đó”.
2.3.2. Động cơ điều chỉnh lợi nhuận của doanh nghiệp Luận văn: Tổng quan về niên yết chứng khoán ở Tp HCM
2.3.2.1. Hợp đồng thù lao
Trong thực tế, các doanh nghiệp niêm yết thường có chế độ trả lương (thưởng) cho ban điều hành bằng tỷ lệ (%) nhân với (x) lợi nhuận kế toán. Trong trường hợp này, nhà quản lý nói riêng và ban điều hành nói chung sẽ có xu hướng điều chỉnh tăng lợi nhuận kế toán trong kỳ để tối đa hóa mức lương, thưởng cho bản thân.
Hoặc hợp đồng thù lao giữa doanh nghiệp và nhà quản lý quy định rõ điều khoản: nếu đạt lợi nhuận X đồng thì sẽ được hưởng Y đồng nghĩa là mức lương (thưởng) có giới hạn. Khi đó, nếu mức lợi nhuận đã đạt ngưỡng giới hạn thì nhà quản lý có thể điều chuyển bớt lợi nhuận sang năm sau.
Mặt khác nhà quản lý cũng có thể sở hữu cổ phiếu của doanh nghiệp. Lúc này, nếu muốn bán đi số cổ phiếu đang nắm giữ và thu được mức lợi cao, nhà quản lý có thể điều chỉnh tăng lợi nhuận nhằm tác động vào giá cổ phiếu nhằm thu lợi.
2.3.2.2. Phát hành cổ phiếu ra công chúng
Vì lợi nhuận là một trong những tiêu chí góp phần cho sự lựa chọn danh mục của các nhà đầu tư nên để giảm thiểu rủi ro phát hành cổ phiếu ra công chúng không thành công, bên cạnh việc quảng bá, áp dụng các chiến lược marketing chiến lược đến các nhà đầu tư tiềm năng thì rất có thể doanh nghiệp sẽ điều chỉnh, quản trị lợi nhuận theo hướng tăng lợi nhuận đến mức tối đa (trong khuôn khổ cho phép của chế độ, chuẩn mực kế toán hiện hành) làm cho kết quả của doanh nghiệp đẹp hơn. Từ đó, đạt được mục tiêu huy động vốn đã đề ra cũng như tăng giá trị thị trường của cổ phiếu.
2.3.2.3. Mối quan hệ giữa các bên lợi ích liên quan khác Luận văn: Tổng quan về niên yết chứng khoán ở Tp HCM
Bên cạnh mối quan hệ với cổ đông, doanh nghiệp cũng có mối quan hệ chặt chẽ với các bên có lợi ích liên quan khác, đặc biệt là mối quan hệ với nhà cung cấp tín dụng và thuế. Trong mối quan hệ với người cấp tín dụng cho doanh nghiệp như các ngân hàng, các công ty tài chính, doanh nghiệp phải ký kết hợp đồng với nhiều điều khoản ràng buộc dựa trên các chỉ tiêu tài chính. Nhà quản lý có thể có các hành vi điều chỉnh lợi nhuận để tránh vi phạm các điều khoản. Liên quan đến thuế, doanh nghiệp phải đóng thuế thu nhập doanh nghiệp dựa trên lợi nhuận chịu thuế. Mặc dù, ngày nay, kế toán cho mục đích thuế và kế toán cho mục đích cung cấp thông tin đã có sự tách biệt, nếu muốn giảm thuế, một khả năng xảy ra là doanh nghiệp tránh báo cáo lợi nhuận kế toán ở mức cao để hợp lý hóa hành vi điều chỉnh giảm lợi nhuận chịu thuế, từ đó giảm số thuế thu nhập phải nộp.
2.3.2.4. San bằng lợi nhuận giữa các kỳ kế toán để đảm bao xu hướng lợi nhuận bền vững trong dài hạn.
Các doanh nghiệp nỗ lực giảm thiểu sự biến động chỉ tiêu lợi nhuận giữa các kỳ kế toán nhằm giữ giá cổ phiếu ổn định hoặc làm tăng giá trị thị trường của cổ phiếu. Bởi vì theo như tâm lý các nhà đầu tư thì lợi nhuận biến động bất thường đồng nghĩa rủi ro cao khi đầu tư cổ phiếu doanh nghiệp đó. Vì vậy, giá cổ phiếu sẽ rớt giá so với các doanh nghiệp có lợi nhuận ổn định qua các kỳ.Hệ quả là, nhà quản trị của các doanh nghiệp niêm yết thường có xu hướng điều chỉnh lợi nhuận (theo hướng san bằng) nhằm đạt được sự ổn định về lợi nhuận giữa các kỳ kế toán để đảm bảo lợi nhuận bền vững trong dài hạn.
2.3.2.5. Thay đổi nhà quản trị
Quản trị lợi nhuận thường xảy ra quanh thời điểm thay đổi nhà quản trị. Một nhà quản trị của một công ty đang làm ăn thua lỗ sẽ cố gắng điều chỉnh theo xu hướng tăng lợi nhuận để tránh bị sa thải. Còn một nhà quản trị mới sẽ cố gắng chứng tỏ năng lực bằng cách dịch chuyển lợi nhuận của các kỳ kế toán tương lai về thời điểm hiện tại. Vì tại thời điểm này, nhà quản trị đang bị xem xét cũng như đánh giá năng lực chuyên môn, khả năng lãnh đạo… nhằm tiến tới việc kí kết hợp đồng thù lao.
2.3.2.6. Che giấu thông tin Luận văn: Tổng quan về niên yết chứng khoán ở Tp HCM
Cuối cùng, doanh nghiệp cũng có thể điều chỉnh lợi nhuận nhằm tránh công bố các mức lợi nhuận cao, để tránh cơ quan quản lý Nhà nước có những hành động chính sách điều tiết hoạt động của doanh nghiệp như rút bớt các chính sách ưu đãi,điều tra hành vi được cho là độc quyền của doanh nghiệp mà đang đem lại lợi ích quá cao cho doanh nghiệp.
2.4. Cơ sở dồn tích, cơ sở tiền của kế toán và nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận
Kế toán theo cơ sở dồn tích: là phương pháp kế toán dựa trên cơ sở Dự thu – Dự chi. Theo đó, “mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính của công ty liên quan đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu, doanh thu và chi phí phải được ghi sổ kế toán vào thời điểm phát sinh giao dịch, không căn cứ vào thời điểm thực tế thu hoặc thực tế chi tiền hoăc tương đương tiền”.
Kế toán theo cơ sở tiền: là phương pháp kế toán dựa trên cơ sở Thực thu – Thực chi tiền. Kế toán theo sơ sở tiền chỉ cho phép ghi nhận các giao dịch khi các giao dịch này phát sinh bằng tiền. Chế độ kế toán hiện hành quy định rằng Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh phải được thực hiện theo cơ sở dồn tích. Điều này mang lại cơ hội cho nhà quản trị thực hiện hành động điều chỉnh lợi nhuận thông qua các giao dịch không bằng tiền nhằm đạt được một mục tiêu nào đó. Trong khi đó, kế toán theo cơ sở tiền được sử dụng để lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ (theo phương pháp trực tiếp) dựa trên cơ sở thực thu, thực chi tiền nên nhà quản trị không thểđiều chỉnh các giao dịch. Từ đó chênh lệch giữa lợi nhuận trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và dòng tiền trên Báo cáo lưu chuyển tiền tệ tạo ra biến kế toán gọi là Accruals. Ta có công thức sau:
Biến kế toán dồn tích (Accruals) = Lợi nhuận sau thuế – Dòng tiền từ HĐKD.
Từ đó suy ra:
Lợi nhuận sau thuế = Biến kế toán dồn tích (Accruals) + Dòng tiền từ HĐKD Dòng tiền từ HĐKD trên BCLCTT được lập theo cơ sở tiền nên không thể điều chỉnh được, nên muốn điều chỉnh lợi nhuận các nhà quản trị phải điều chỉnh các biến kế toán dồn tích. Theo các nhà nghiên cứu, các biến kế toán dồn tích (Accruals) gồm hai phần: phần không thể điều chỉnh (NDA) và phần có thể điều chỉnh từ nhà quản trị (DA). Để đo lường phần DA, các nhà nghiên cứu phải xác định phần biến NDA bởi vì biến này liên quan đến hoạt động bình thường của công ty. Tóm lại, để nhận diện có hay không hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các nhà quản trị, các nhà nghiên cứu tìm cách xác định phần biến kế toán không thể điều chỉnh (NDA). Phương pháp xác định các NDA được trình bày trong phần lý thuyết các mô hình nghiên cứu quản trị lợi nhuận.
2.5. Thủ thuật dùng để điều chỉnh lợi nhuận Luận văn: Tổng quan về niên yết chứng khoán ở Tp HCM
Có nhiều phương pháp khác nhau được sử dụng để thực hiện hành vi điều chỉnh lợi nhuận, dưới đây là một số phương pháp điều chỉnh lợi nhuận được tập hợp bởi Tiến sĩ Đường Nguyễn Hưng, 2013:
2.5.1. Điều chỉnh lợi nhuận thông qua lựa chọn phương pháp kế toán
Lựa chọn chính sách kế toán ghi nhận doanh thu, giá vốn
Nếu doanh nghiệp ghi nhận doanh thu giá vốn theo tiến độ hoàn thành thì phương pháp này cho phép doanh nghiệp có thể thực hiện hành vi điều chỉnh lợi nhuận thông qua các ước tính mức độ hoàn thành công việc.
Lựa chọn phương pháp khấu hao tài sản cố định
Lựa chọn phương pháp khấu hao sẽ cho phép dịch chuyển lợi nhuận giữa các niên độ.
Lựa chọn chính sách về ghi nhận chi phí sửa chữa TSCĐ
Doanh nghiệp có thể điều chỉnh lợi nhuận thông qua việc lựa chọn chính sách về ghi nhận chi phí sửa chữa TSCĐ. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể ước tính trích trước chi phí sửa chữa lớn TSCĐ vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ tại thời điểm chưa phát sinh chi phí và mức trích này sẽ gia tăng chi phí từ đó ảnh hưởng đến lợi nhuận trong kỳ.
Lựa chọn phương pháp tính giá thành sản phẩm và phương pháp xác định giá trị hàng xuất kho
Doanh nghiệp có thể lựa chọn các phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang khác nhau từ đó ảnh hưởng đến giá vốn hàng bán và lợi nhuận trong kỳ.
Lựa chọn phương pháp kế toán chi phí lãi vay
Đối với khoản chi phí lãi vay tùy trường hợp có thể được vốn hóa vào nguyên giá TSCĐ hoặc ghi nhận như là chi phí phát sinh.Việc phân biệt này ảnh hưởng đến lợi nhuận kế toán, do đó trong trường hợp này doanh nghiệp có thể lợi dụng kế toán chi phí lãi vay để điều chỉnh lợi nhuận.
2.5.2. Điều chỉnh lợi nhuận thông qua lựa chọn thời điểm vận dụng các phương pháp kế toán và thực hiện các ước tính kế toán Luận văn: Tổng quan về niên yết chứng khoán ở Tp HCM
Ước tính kế toán một lần được áp dụng một lần khi nghiệp vụ phát sinh
- Ước tính thời gian khấu hao TSCĐ
- Ước tính số lần phân bổ hay mức phân bổ của chi phí trả trước
- Ước tính chi phí bảo hành công trình xây lắp
- Ước tính kế toán mỗi kỳ được thực hiện vào cuối mỗi kỳ kế toán
- Ước tính chi phí bảo hành sản phẩm
- Ước tính tỷ lệ hoàn thành công trình xây lắp và cung cấp dịch vụ
- Ước tính giá trị sản phẩm dở dang
- Ước tính khoản phải thu khó đòi để lập dự phòng
- Ước tính khoản giá trị hàng tồn kho bị giảm giá để lập dự phòng
2.5.3. Điều chỉnh lợi nhuận thông qua các quyết định kinh doanh về thời điểm thực hiện nghiệp vụ kinh doanh
Quyết định về thời điểm lựa chọn thời điểm đầu tư hay thanh lý TSCĐ
Nhà quản lý có thể điều chỉnh lợi nhuận thông qua quyết định thời điểm thanh lý, nhượng bán TSCĐ để đẩy nhanh hay làm chậm lại việc ghi nhận lợi nhuận thua lỗ của các hoạt động khác.
Quyết định quản lý về việc thực hiện nghiệp vụ tiêu thụ
Nhà quản lý có thể quyết định đẩy lùi thời điểm lập hóa đơn bán hàng sang kỳ sau hoặc ngược lại để điều chỉnh doanh thu, giá vốn trong kỳ.
Quyết định về việc thực hiện các khoản chi phí nghiên cứu và triển khai
Doanh nghiệp có thể cắt giảm các chi phí này hoặc quyết định thời điểm ghi nhận để tăng lợi nhuận hoặc ngược lại.
Quyết định về các khoản đầu tư
Doanh nghiệp có thể bán các khoản đầu tư đang sinh lời hoặc thực hiện nghiệp vụ mua bán cổ phần để biến các doanh nghiệp khác trở thành công ty con, công ty liên doanh, liên kết từ đó thay đổi lợi nhuận.
2.6. Một số mô hình đo lường lợi nhuận được điều chỉnh Luận văn: Tổng quan về niên yết chứng khoán ở Tp HCM
2.6.1. The Healy Model (1985)
Biến kế toán dồn tích không thể điều chỉnh (NDA) bằng trung bình của biến kế toán dồn tích (TA):
Biến kế toán dồn tích điều chỉnh(DA)
Trong đó:
(non disrectionary accruals): biến kế toán dồn tích không điều chỉnh năm sự kiện t của công ty i
( Total accruals): biến kế toán dồn tích năm t của công ty i: Tổng tài sản năm t của công ty i
Số năm trong kỳ ước tính t: t-n; t-n+1;…; t-1 trong kỳ ước tính
2.6.2. The DeAngelo Model (1986) Luận văn: Tổng quan về niên yết chứng khoán ở Tp HCM
Mô hình của DeAngelo so sánh các biến dồn tích (accruals) của năm nay (t) trừ đi các biến dồn tích (accruals) của năm trước (t-1). Và chênh lệch giữa hai thời kỳ này chính là biến kế toán dồn tích được điều chỉnh (DA). Mô hình của DeAngelo giả định rằng các thành phần biến kế toán dồn tích không thể điều chỉnh (NDA) sinh ra là ngẫu nhiên và bằng với tổng số biến kế toán dồn tích (TA) của năm trước. Do đó sự thay đổi trong tổng số biến kế toán dồn tích (TA) giữa năm nay và năm trước được giả định là do việc thực hiện điều chỉnh kế toán.
Biến kế toán không thể điều chỉnh của công ty i năm sự kiện:
Biến kế toán có thể điều chỉnh của công ty i năm sự kiện :
Và cũng theo DeAngelo, số biến kế toán dồn tích (TA) được giả định chính là lợi nhuận sau thuế trừ (-) dòng tiền hoạt động kinh doanh. Phần biến kế toánđiều chỉnh (DA) chính là lợi nhuận điều chỉnh được thực hiện bởi lựa chọn kế toán có cân nhắc của nhà quản trị.
Biến kế toán dồn tích (TA) = Lợi nhuận sau thuế – Dòng tiền từ HĐKD
Từ đó cho thấy phần lợi nhuận không bằng tiền gồm có thể điều chỉnh và không điều chỉnh. Phần biến kế toán có thể điều chỉnh (DA) chính là lợi nhuận điều chỉnh.
Tuy nhiên, mô hình của DeAngelo không thật sự chính xác nếu các công ty này có xu hướng phát triển. Sự phát triển sẽ ảnh hưởng nhất định trong khía cạnh hoạt động của họ, bao gồm các biến kế toán dồn tích. Nếu yếu tố tăng trưởng bị bỏ qua, sự thay đổi trong biến kế toán dồn tích (TA) ở thời kỳ t có thể xác định không chính xác, do những thay đổi trong biến kế toán không thể điều chỉnh (NDA) phụ thuộc vào sự tăng trưởng. Ví dụ quy mô công ty lớn, đầu tư thêm máy móc, thiết bị, nhà xưởng,… làm cho chi phí khấu hao tăng, dẫn đến phần NDA tăng. Điều này có thể dẫn đến kết luận khôngđúng về việc thực hiện điều chỉnh kế toán để lập báo cáo tài chính. Nhược điểm này đã được khắc phục bởi mô hình Friedlan (1994).
2.6.3. The Jones Model (1991)
Mô hình này rất hiệu quả trong việc nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuậnở các nước phát triển. Để phát hiện biến dồn tích kế toán có điều chỉnh, tác giả đã thực hiện qua hai bước.
Bước 1: Xác định biến kế toán dồn tích khôngđiều chỉnh (NDA) như sau:
Trong đó: = Doanh thu thuần t – doanh thu thuần t -1 : nguyên giá TSCĐ cuối năm t
Tổng tài sản cuối năm t -1
1 , 2 , 3: các tham số của từng công ty
Bước 2: Ước tính tham số của từng công ty thông qua mô hình sau ở kỳ ước tính:
Trong đó :
1 , 2, 3 : kết quả ước tính 1 , 2, 3 thông qua OLS
Tổng accruals năm t của công ty i
Residual tương đương với phần discrectionary accruals
2.6.4. The Modified Jones (1994) Luận văn: Tổng quan về niên yết chứng khoán ở Tp HCM
Mô hình Modified Jones là một biến thể của mô hình Jones (1991) được cải tiến bởi Dechow, Sloan và Sweeney bằng cách điều chỉnh sự thay đổi của doanh thu bằng sựthay đổi của khoản nợ phải thu. Mô hình được phát triển nhằm giảm sự sai số của mô hình trong việc xác định biến dồn tích bất thường khi nhà quản lý chi phối doanh thu:
Trong đó= Phải thu khách hàng net t – Phải thu khách hàng net t -1
Nhiều nghiên cứu đã kết luận rằng cả hai mô hình Jones và Modified Jones cho kết quả đáng tin cậy về biến dồn tích có thể điều chỉnh.
2.6.5. Friedlan Model (1994)
Mô hình Friedlan là một biến thể của mô hình DeAngelo. Mô hình Friedlan giả định rằng sự thay đổi trong số tổng trích trước giữa hai giai đoạn có hai thành phần: sự thay đổi do tăng trưởng và (2) sự thay đổi do lựa chọn kế toán của tổ chức phát hành. Khi một công ty phát triển, số biến kế toán dồn tích không thể điều chỉnh và biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh tăng theo. Để kiểm soát đến yếu tố tăng trưởng đến tổng số biến kế toán dồn tích (accruals), mô hình giả định một tỷ lệ tương ứng so sánh tổng số biến kế toán dồn tích ( accruals) và doanh thu được sử dụng (sales). Tổng số biến kế toán dồn tích (TA) được cho là được cho là sự khác biệt giữa tổng số biến kế toán dồn tích (accruals) trong thời kỳ t được chuẩn hóa bởi doanh thu bán hàng của thời kỳ t và tổng số biến kế toán dồn tích ( accruals) thời kỳ t-1 được chuẩn hóa bởi doanh thu bán hàng thời kỳ t-1. Mô hình như sau:
Phần biến kế toán có thể được điều chỉnh ( ) chính là lợi nhuận được điều chỉnh.
2.7. Hậu quả của hành vi điều chỉnh lợi nhuận Luận văn: Tổng quan về niên yết chứng khoán ở Tp HCM
Để đạt được mức lợi nhuận mong muốn, doanh nghiệp sẽ chi phối các hoạt động kinh tế mặc dù biết chúng sẽ giảm giá trị dài hạn của doanh nghiệp. Bởi vì khi sử dụng kỹ thuật điều chỉnh lợi nhuận thông qua các chính sách kế toán như tính toán thời gian thanh lý tài sản và tăng doanh thu cuối kỳ thông qua các điều kiện nới lỏng thanh toán thực chất không làm tăng thêm lợi nhuận của doanh nghiệp mà đơn thuần chỉ là dịch chuyển lợi nhuận qua các kỳ kế toán nhằm tạo ảo tưởng doanh nghiệp đang phát triển. Và hậu quả kéo theo là lợi nhuận biến động bất thường cộng thêm sự sụt giảm ROA, ROE gây tâm lý hoang mang cho cổ đông, không thu hút được vốn đầu tư hay thậm chí dẫn đến nguy cơ phá sản ( Võ Văn Nhị và Hoàng Cẩm Trang, 2013).
Một số nghiên cứu cho thấy nhà đầu tư rất nhạy cảm với hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Dechow và các cộng sự ( 1996) đã cung cấp một bằng chứng rằng có khoảng 9% sụt giảm cổ phiếu đối với các công ty đang bị SEC điều tra về hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Vì thế, các doanh nghiệp nên sáng suốt trong việc điều chỉnh lợi nhuận vì một khi đã mất niềm tin nơi cổ đông và nhà đầu tư thì có thể dẫn đến kết quả không như mong đợi.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Lợi nhuận là mục tiêu và là động cơ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, nó là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp. Vì thế nên các doanh nghiệp sẽ có xu hướng điều chỉnh lợi nhuận trong kỳ tùy vào mục đích mình hướng đến.
Công ty cổ phần niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán là đối tượng phải công bố báo cáo tài chính. Do đó, vấn đề đặt ra là báo cáo tài chính phải minh bạch, đầy đủ rõ ràng nhằm cung cấp thông tin hữu ích cho các đối tượng có nhu cầu sử dụng, đặc biệt là các nhà đầu tư.
Tuy nhiên, như đã nêu ở ý trên, vì để thu hút nhà đầu tư hoặc để phục vụ cho một mục đích nào đó, các nhà quản trị sẽ tìm cách dịch chuyển lợi nhuận trong kỳ, làm lệch lạc thông tin kế toán.
Từ những cơ sở lý thuyết về lợi nhuận và hành vi điều chỉnh lợi nhuận ở Chương 2 sẽ tạo tiền đề cho tác giả nghiên cứu, phân tích và đánh giá được thực trạng hành về hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty cổ phần niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thông tin trong Báo cáo tài chính. Luận văn: Tổng quan về niên yết chứng khoán ở Tp HCM
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Thực trạng về lợi nhuận các Cty chứng khoán Tp HCM