Luận văn: Tổng quan về giá cổ phiếu trên Sở giao dịch

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Tổng quan về giá cổ phiếu trên Sở giao dịch hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Ảnh hưởng của thông tin kế toán trên BCTC đến giá cổ phiếu – Bằng chứng thực nghiệm các công ty thuộc lĩnh vực công nghiệp và bất động sản niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Tp.HCM dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.1 Tổng quan lý thuyết về cổ phiếu và giá cổ phiếu:

2.1.1 Khái niệm cổ phiếu:

Theo Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 ngày 26/11/2014 quy định: “Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó…”

Theo Luật chứng khoán số 70/2006/QH11 ngày 29/06/2006 quy định: “Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành”.

2.1.2  Các loại cổ phiếu:

Căn cứ vào quyền lợi của người nắm giữ, cổ phiếu được phân loại bao gồm cổ phiếu phổ thông (cổ phiếu thường) và cổ phiếu ưu đãi:

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế

2.1.2.1 Cổ phiếu phổ thông (cổ phiếu thường): Luận văn: Tổng quan về giá cổ phiếu trên Sở giao dịch

Cổ phiếu thường là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sổ hữu đối với một phần vốn cổ phần thường của công ty cổ phần. Nhà đầu tư mua cổ phần thường được gọi là cổ đông thường.

Đặc điểm của cổ phiếu thường:

  • Đây là loại chứng khoán vốn, tức là công ty huy động vốn chủ sở hữu.
  • Cổ phiếu thường không có thời gian đáo hạn và hoàn trả vốn gốc.
  • Cổ tức chi trả cho cổ đông phụ thuộc vào kết quả kinh doanh và chính sách cổ tức của công ty.
  • Cổ đông thường có các quyền đối với công ty như sau:
  • Quyền trong quản lý: Cổ đông thường được tham gia bỏ phiếu và ứng cửu vào Hội đồng quản trị công ty, cũng như quyền được tham gia quyết định các vấn đề quan trọng đối với hoạt động của công ty.
  • Quyền đối với tài sản của công ty: Quyền được nhận cổ tức và phần giá trị còn lại của công ty khi thanh lý sau chủ nợ và cổ đông ưu đãi.
  • Quyền chuyển nhượng cổ phần: cổ đông thường có thể chuyển nhượng quyền sở hữu cổ phần của mình cho người khác để thu hồi hoặc chuyển dịch vốn đầu tư.
  • Ngoài ra, cổ động thường có thể được hưởng các quyền lợi khác: quyền được ưu tiên mua trước các cổ phần mới do công ty phát hành…tùy theo quy định cụ thể trong điều lệ của công ty.
  • Trách nhiệm của cổ đông thường: Bên cạnh việc được hưởng các quyền lợi, cổ động thường cũng phải gánh chịu những rủi ro mà công ty gặp phải tương ứng với phần vốn góp và chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ trong giới hạn phần vốn góp của mình vào công ty.

2.1.2.2 Cổ phiếu ưu đãi:

Cổ phiếu ưu đãi là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần ưu đãi của công ty cổ phần và đồng thời nó cho phép người nắm giữ loại cổ phiếu này được hưởng một số quyền lợi ưu đãi hơn so với cổ đông thường. Người nắm giữ cổ phiếu ưu đãi là cổ đông ưu đãi.

Đặc điểm của cổ phiếu ưu đãi:

  • Cổ phiếu ưu đãi là chứng khoán vốn, xác nhận quyền sở hữu một phần công ty cổ phần của nhà đầu tư.
  • Cổ phiếu ưu đãi cổ tức: Được quyền ưu tiến về cổ tức và thanh toán khi thanh lý công ty. Chủ sở hữu cổ phiếu ưu đãi được hưởng một khoản cổ tức cố định, được xác định trước không phụ thuộc vào kết quả hoạt động của công ty .
  • Cổ phiếu ưu đãi biểu quyết: Có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với cổ phiếu phổ thông. Số phiếu biểu quyết của một cổ phần ưu đãi biểu quyết do điều lệ công ty quy định. Chỉ có tổ chức được Chính phủ uỷ quyền và cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phiếu ưu đãi biểu quyết. Ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chỉ có hiệu lực trong ba năm, kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau thời hạn đó, cổ phiếu ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập được chuyển đổi thành cổ phần phổ thông và họ sẽ có những quyền và nghĩa vụ của cổ đông phổ thông.
  • Cổ phiếu ưu đãi hoàn lại: là cổ phiếu được công ty hoàn lại vốn góp bất cứ khi nào theo yêu cầu của người sở hữu hoặc theo các điều kiện được ghi tại cổ phiếu ưu đãi hoàn lại.
  • Cổ đông ưu đãi cổ tức và ưu đãi hoàn lại có quyền như cổ đông phổ thông, trừ quyền biểu quyết, dự họp đại hội cổ đông, đề cử người vào HĐQT và Ban kiểm soát. Cổ đông ưu đãi biểu quyết có các quyền như cổ đông phổ thông, trừ việc chuyển nhượng cổ phiếu đó cho người khác.
  • Trong phạm vi nghiên cứu, luận văn tập trung nghiên cứu cổ phiếu phổ thông (cổ phiếu thường).

2.1.3 Giá cổ phiếu:

2.1.3.1 Mệnh giá: Luận văn: Tổng quan về giá cổ phiếu trên Sở giao dịch

Mệnh giá của cổ phiếu thường là giá trị danh nghĩa và công ty cổ phần ấn định cho một cổ phiếu và được ghi trên cổ phiếu. Theo quy định của Luật chứng khoán Việt Nam thì mệnh giá cổ phiếu được quy định là 10.000 đồng.

Mệnh giá cổ phiếu thường được sử dụng để ghi sổ sách kế toán của công ty. Mệnh giá cổ phiếu không có giá trị thực tế đối với nhà đầu tư khi đã đầu tư, nên nó không liên quan đến giá thị trường của cổ phiếu đó. Mệnh giá cổ phiếu chỉ có ý nghĩa quan trọng vào thời điểm công ty phát hành cổ phiếu thường lần đầu huy động vốn thành lập công ty. Mệnh giá thể hiện số tiền tối thiểu Công ty phải nhận được trên mỗi cổ phiếu mà công ty phát hành ra.

2.1.3.2 Giá trị sổ sách:

Giá trị sổ sách của cổ phiếu thường là giá trị của cổ phiếu được xác định dựa trên cơ sở số liệu sổ sách kế toán của công ty.

Trường hợp công ty chỉ phát hành cổ phiếu thường thì giá trị sổ sách của một cổ phiếu thường được xác định bằng cách lấy vốn chủ sở hữu của công ty chia cho tổng số cổ phiếu thường đang lưu hành.

Trường hợp công ty phát hành cả cổ phiếu ưu đãi, thì phải lấy vốn chủ sở hữu trừ đi phần giá trị thuộc cổ phiếu ưu đãi rồi mới chia cho số cổ phiếu thường đang lưu hành.

Phần giá trị của cổ phiếu ưu đãi được tính theo mệnh giá hoặc giá mua lại tùy thuộc loại cổ phiếu ưu đãi công ty phát hành và cộng với phần cổ tức công ty còn khất lại chưa trả cho cổ đông ưu đãi trong các kỳ trước đó (nếu có).

Việc xem xét giá trị sổ sách, cho phép cổ đông thấy được số giá trị tăng thêm của cổ phiếu thường sau một thời gian công ty hoạt động so với số vốn góp ban đầu.

2.1.3.3 Giá trị thị trường:

Giá trị thị trường là giá trị thị trường hiện tại của cổ phiếu thường, được thể hiện trong giao dịch cuối cùng đã được ghi nhận. Giá trị thị trường hay còn được gọi là giá thị trường. Thực tế, giá thị trường của cổ phiếu không phải do công ty ấn định và cũng không do người nào khác quyết định, mà giá thị trường của cổ phiếu được xác định bởi giá thấp nhất mà người bán sẵn sàng bán nó và giá cao nhất mà người mua sẵn sàng trả để mua nó.

Tóm lại, giá thị trường của cổ phiếu được xác định bởi quan hệ cung – cầu trên thị trường. Giá trị thị trường cổ phiếu của một công ty phụ thuộc rất nhiều yếu tố, do vậy nó thường xuyên biến động.

2.2 Tổng quan về thông tin kế toán trên BCTC: Luận văn: Tổng quan về giá cổ phiếu trên Sở giao dịch

2.2.1 Khái quát về thông tin kế toán trên BCTC:

Thông tin kế toán là những thông tin có được do hệ thống kế toán xử lý và cung cấp. Thông tin kế toán có những tính chất sau: là thông tin hiện thực, đã xảy ra, là thông tin có độ tin cậy vì mọi số liệu kế toán đều phải có chứng từ hợp lý, hợp lệ, là thông tin có giá trị pháp lý (Nguyễn Thị Khánh Phương, 2015).

Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 21 – trình bày BCTC: “Báo cáo tài chính phản ánh theo một cấu trúc chặt chẽ tình hình tài chính, kết quả kinh doanh của một doanh nghiệp. Mục đích của báo cáo tài chính là cung cấp các thông tin về tình hình tài chính, tình hình kinh doanh và các luồng tiền của một doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu hữu ích cho số đông những người sử dụng trong việc đưa ra các quyết định kinh tế. Để đạt mục đích này báo cáo tài chính phải cung cấp những thông tin của một doanh nghiệp về:

a/ Tài sản;

b/ Nợ phải trả;

c/ Vốn chủ sở hữu;

d/ Doanh thu, thu nhập khác, chi phí, lãi và lỗ;

đ/ Các luồng tiền.”

Theo quy định thông tư 200/2012/TT-BTC ngày 22/12/2014 của Bộ Tài chính, hệ thống BCTC doanh nghiệp Việt Nam bao gồm các báo cáo:

  • Bảng cân đối kế toán: là báo cáo phản ánh một cách tổng quát toàn bộ tài sản của doanh nghiệp theo hệ thống các chỉ tiêu được quy định thống nhất. Phản ánh tình hình tài sản theo 2 cách phân loại: kết cấu tài sản và nguồn hình thành tài sản. Phản ánh dưới hình thức giá trị và tại một thời điểm.
  • Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh: là báo cáo phản ánh tình hình và kết quả kinh doanh trong một kỳ kế toán của doanh nghiệp, chi tiết theo hoạt động kinh doanh và hoạt động khác.
  • Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: là báo cáo phản ánh các nguồn hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp.
  • Thuyết minh BCTC: bộ phận hợp thành của hệ thống báo cáo tài chinh của doanh nghiệp. Thuyết minh BCTC đưa ra thông tin chi tiết cho các thông tin tóm tắt trong BCTC, giúp nhà đầu tư hiểu rõ hơn về tình hình hoạt động thực tế của doanh nghiệp.

2.2.2  Vai trò của thông tin kế toán trên BCTC: Luận văn: Tổng quan về giá cổ phiếu trên Sở giao dịch

Thông tin kế toán trên BCTC là nguồn thông tin quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn phục vụ chủ yếu cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp như các cơ quan quản lý nhà nước, các nhà đầu tư hiện tại và nhà đầu tư tiềm năng, các chủ nợ, nhà quản lý, kiểm toán độc lập và các đối tượng khác có liên quan. Vai trò cụ thể của thông tin kế toán đối với một số đối tượng như sau:

  • Đối với nhà nước: BCTC cung cấp thông tin cần thiết giúp cho việc thực hiện chức năng quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế, giúp cho các cơ quan tài chính nhà nước thực hiện việc kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất đối với hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời làm cơ sở cho việc tính thuế và các khoản nộp khác của doanh nghiệp đối với ngân sách nhà nước.
  • Đối với nhà quản lý doanh nghiệp: Các nhà quản lý thường cạnh tranh nhau để tìm kiếm nguồn vốn và cố gắng thuyết phục nhà đầu tư và các chủ nợ rằng họ sẽ đem lại lợi nhuận cao nhất với độ rủi ro thấp nhất. Để thực hiện được điều này, các nhà quản lý phải công bố công khai thông tin trên BCTC định kỳ về hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài ra nhà quản lý còn sử dụng BCTC để tiến hành quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình.
  • Đối với các nhà đầu tư và chủ nợ: Chủ nợ thường cần các thông tin tài chính để quyết định cho vay, đồng thời giám sát và bắt buộc các nhà quản lý thực hiện theo hợp đồng đã ký kết. Đối với nhà đầu tư, họ cần các thông tin tài chính để thực hiện các quyết định đầu tư của mình
  • Đối với các kiểm toán viên độc lập: các nhà đầu tư và cung cấp tín dụng có lý do để lo lắng rằng các nhà quản lý có thể bóp méo các BCTC do họ cung cấp nhằm mục đích tìm kiếm nguồn vốn hoạt động. Vì vậy các nhà đầu tư và tín dụng đòi hỏi các nhà quản lý phải thuê các kiểm toán viên độc lập để kiểm toán BCTC, các nhà quản lý phải chấp thuận vì họ cần vốn. Như vậy, BCTC đóng vai trò như là đối tượng của kiểm toán độc lập.

2.2.3  Chất lượng thông tin kế toán:

2.2.3.1 Một số quan điểm về chất lượng thông tin kế toán: Luận văn: Tổng quan về giá cổ phiếu trên Sở giao dịch

Theo Nguyễn Bích Liên (2012), các tổ chức nghề nghiệp kế toán như Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB), Hội đồng chuẩn mực kế toán tài chính Hoa Kỳ (FASB) hay theo chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) đều dựa trên quan điểm chất lượng thông tin kế toán được đánh giá qua chất lượng BCTC. Chính vì thế, thông tin BCTC phải đảm bảo các yêu cầu của thông tin kế toán, đánh giá kịp thời tình hình tài chính của doanh nghiệp, đảm bảo tính so sánh giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp tại các quốc gia khác nhau từ đó các phương pháp ghi chép, hạch toán kế toán được xác định phù hợp.

Quan điểm về chất lượng thông tin BCTC của IASB, FASB đã được Nguyễn Trọng Nguyên (2015) tổng hợp gồm hai đặc tính chất lượng cơ bản và bốn đặc tính chất lượng bổ sung:

Hai đặc tính chất lượng cơ bản:

Thích hợp: Những thông tin được xem là thích hợp nếu nó tạo nên sự khác biệt trong việc ra quyết định của người sử dụng nằm trong khả năng của họ với tư cách là nhà cung ứng vốn. Để làm được điều đó thì thông tin cần phải có giá trị dự báo và giá trị xác nhận hoặc cả hai. Việc thông tin có khả năng tác động lên việc ra quyết định hay không, điều này không những phụ thuộc vào việc thông tin đã từng ảnh hưởng lên việc ra quyết định trong quá khứ mà nó sẽ có ảnh hưởng trong tương lai.

Trình bày trung thực: Để thông tin BCTC có thể hữu ích, chúng phải được trình bày trung thực, phản ánh những hiện tượng kinh tế đúng với ý nghĩa của chúng. Trình bày trung thực chỉ đạt được khi diễn giải của một sự kiện kinh tế phải được đầy đủ, trung lập và không có những sai sót trọng yếu. Những thông tin tài chính được trình bày trung thực sẽ thể hiện được bản chất của hiện tượng kinh tế thông qua các giao dịch, sự kiện hoặc các yếu tố, điều mà không phải lúc nào cũng đạt được dưới hình thức pháp lý.

Bốn đặc tính chất lượng bổ sung:

Có thể so sánh: Khả năng so sánh được thể hiện ở những thông tin có thể cho phép người sử dụng chúng xác định những điểm giống và khác nhau giữa hai hiện tượng kinh tế. Nhất quán có nghĩa là việc sử dụng những chính sách và thủ tục kế toán giống nhau giữa các kỳ kế toán hoặc trong một kỳ kế toán giữa các doanh nghiệp với nhau. Nếu như có thể so sánh là mục đích thì sự nhất quán là một điều kiện để đạt được mục đích đó.

Có thể kiểm chứng: là một thuộc tính của thông tin mà có thể đảm bảo cho người sử dụng thông tin được trình bày trung thực theo đúng như bản chất của hiện tượng kinh tế. Thông tin có thể kiểm chứng còn có nghĩa những người sử dụng độc lập với những kiến thức khác nhau có thể đi đến một sự thống nhất chung, tuy nhiên, không nhất thiết là hoàn toàn giống nhau. Để thông tin có thể kiểm chứng thì phải có một trong 2 yếu tố: Thông tin trình bày trung thực hiện tượng kinh tế mà không có sai sót trọng yếu và áp dụng phương pháp ghi nhận hoặc đo lường hợp lý, không có sai sót trọng yếu và thiên lệch.

Tính kịp thời: Đặc tính kịp thời có nghĩa là việc có được thông tin sẵn sàng cho người ra quyết định trước khi nó mất đi giá trị và khả năng ảnh hưởng đến những quyết định đó. Có một thông tin thích hợp sớm hơn thì có thể gia tăng mức độ ảnh hưởng của nó đến những quyết định và sự chậm trễ sẽ làm mất đi những giá trị tiềm tàng, cốt lõi của chúng. Tuy nhiên, có một số thông tin vẫn có thể được xem là kịp thời mặc dù kỳ báo cáo của chúng đã kết thúc rất lâu bởi vì người sử dụng vẫn có thể dùng, cân nhắc chúng khi ra quyết định.

Có thể hiểu được: là thuộc tính của thông tin mà có thể giúp cho những người sử dụng có thể hiểu được ý nghĩa của thông tin. Khả năng hiểu được sẽ gia tăng khi thông tin được phân loại, làm rõ bản chất và trình bày rõ ràng, ngắn gọn.

Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 01 (VAS 01), các yêu cầu của cơ bản đối với thông tin kế toán cụ thể như sau:

Trun thực: Các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo trên cơ sở các bằng chứng đầy đủ, khách quan và đúng với thực tế về hiện trạng, bản chất nội dung và giá trị của nghiệp vụ kinh tế phát sinh.

Khách quan: Các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo đúng với thực tế, không bị xuyên tạc, không bị bóp méo.

Đầy đủ: Mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh liên quan đến kỳ kế toán phải được ghi chép và báo cáo đầy đủ, không bị bỏ sót.

Kịp thời: Các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo kịp thời, đúng hoặc trước thời hạn quy định, không được chậm trễ.

Dễ hiểu: Các thông tin và số liệu kế toán trình bày trong BCTC phải rõ ràng, dễ hiểu đối với người sử dụng. Người sử dụng ở đây được hiểu là người có hiểu biết về kinh doanh, về kinh tế, tài chính, kế toán ở mức trung bình. Thông tin về những vấn đề phức tạp trong BCTC phải được giải trình trong phần thuyết minh.

Có thể so sánh: Các thông tin và số liệu kế toán giữa các kỳ kế toán trong một doanh nghiệp và giữa các doanh nghiệp chỉ có thể so sánh được khi tính toán và trình bày nhất quán. Trường hợp không nhất quán thì phải giải trình trong phần thuyết minh để người sử dụng BCTC có thể so sánh thông tin giữa các kỳ kế toán, giữa các doanh nghiệp hoặc giữa thông tin thực hiện với thông tin dự toán, kế hoạch.

Tóm lại, có rất nhiều quan điểm về chất lượng thông tin kế toán, tuy nhiên tất cả quan điểm đều hướng đến việc nâng cao chất lượng của thông tin kế toán phục vụ cho những người sử dụng nó.

2.2.3.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kế toán: Luận văn: Tổng quan về giá cổ phiếu trên Sở giao dịch

Để nâng cao chất lượng của thông tin kế toán thì điều quan trọng nhất là phải nhận diện được các yếu tố ảnh hưởng đến nó. Đánh giá được tầm quan trọng của thông tin kế toán hay chính xác hơn là thông tin BCTC, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về các yếu tố ảnh hưởng đến thông tin BCTC nhằm đưa ra các giải pháp để nâng cao chất lượng của BCTC.

Theo Heidi (2001) nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của các nước khu vực Châu Âu thì có 2 nhóm nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC đó là nhân tố bên trong bao gồm quyết định của nhà quản trị, người lập BCTC và nhân tố bên ngoài bao gồm tổ chức kiểm toán, quy định của chính phủ.

Kết quả nghiên cứu của Ohnuorah và cộng sự (2015) về việc đánh giá quản trị doanh nghiệp đối với chất lượng BCTC của một số công ty tại Nigeria đã cho thấy rằng trong ngắn hạn các yếu tố ảnh hưởng tích cực với chất lượng BCTC là tính độc lập, kinh nghiệm của Hội đồng quản trị, và chất lượng của kiểm toán độc lập. Yếu tố tiêu cực đến chất lượng BCTC là tính độc lập giữa giám đốc và hội đồng quản trị.

Theo nghiên cứu của Phan Dũng (2013) “Hoàn thiện hệ thống pháp luật kế toán: Nâng cao chất lượng hoạt động kế toán – kiểm toán và hội nhập quốc tế”, tác giả đã thực hiện nghiên cứu về hệ thống pháp lý về kế toán tại Việt Nam, xác định những mặt tích cực, hạn chế và đưa ra các giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về kế toán của Việt Nam. Tác giả đã nhận định, để nâng cao chất lượng kế toán, kiểm toán và hội nhập quốc tế cần sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật kế toán tại Việt Nam trên cơ sở hòa hợp với chuẩn mực kế toán quốc tế.

Đối với nghiên cứu của Nguyễn Trọng Nguyên (2015) về tác động của quản trị công ty đến chất lượng thông tin BCTC tại các công ty niêm yết ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập trong tổng số thành viên HĐQT, thành viên HĐQT độc lập có kiến thức và kinh nghiệm về kế toán tài chính, các cuộc họp HĐQT, thành viên Ban kiểm soát có chuyên môn kế toán tài chính và sự hiện diện bộ phận kiểm toán nội bộ có liên quan tích cực đến chất lượng thông tin BCTC.

Như vậy, trên cơ sở các kết quả nghiên cứu cho thấy có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC. Do vậy tác giả xin kế thừa các kết quả nghiên cứu và xác định các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến chất lượng BCTC bao gồm các yếu tố về quản trị công ty, hệ thống pháp lý về kế toán và chất lượng kiểm toán BCTC. Dựa trên các nhân tố ảnh hưởng này, tác giả sẽ đề xuất các giải pháp có liên quan nhằm nâng cao mối quan hệ giữa thông tin kế toán trên BCTC và giá cổ phiếu.

2.2.4 Đặc điểm thông tin kế toán của các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghiệp và bất động sản: Luận văn: Tổng quan về giá cổ phiếu trên Sở giao dịch

Mục đích của thông tin kế toán là cung cấp các thông tin về tình hình tài chính, tình hình kinh doanh và các luồng tiền của một doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu hữu ích cho số đông những người sử dụng trong việc đưa ra các quyết định kinh tế. Chính vì thế, các doanh nghiệp cần tổ chức kế toán trên cơ sở tuân thủ các quy định hiện hành và chuẩn mực kế toán, đồng thời phải phù hợp với đặc thù của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đảm bảo chất lượng thông tin kế toán, cung cấp kịp thời những thông tin cho người sử dụng.

2.2.4.1 Đối với thông tin kế toán của các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghiệp:

Công nghiệp là lĩnh vực sản xuất hàng hóa vật chất mà sản phẩm được “chế tạo, chế biến” cho nhu cầu tiêu dùng hoặc phục vụ hoạt động kinh doanh tiếp theo. Đây là hoạt động kinh tế, sản xuất quy mô lớn, được sự hỗ trợ thúc đẩy mạnh mẽ của các tiến bộ về công nghệ, khoa học và kỹ thuật.

Với đặc thù lĩnh vực công nghiệp chủ yếu là sản xuất, chính vì thế sẽ phát sinh các nghiệp vụ kinh tế về chi phí về nguyên vật liệu, chi phí về hao mòn tài sản cố định, chi phí về tiền lương công nhân sản xuất và các chi phí khác về tổ chức quản lý sản xuất tạo ra sản phẩm. Kế toán quá trình sản xuất tập hợp những chi phí đã phát sinh trong quá trình sản xuất của xí nghiệp theo tính chất kinh tế, theo công dụng và nơi sử dụng chi phí tổng hợp một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào tài khoản chi phí sản xuất để tính ra giá thành thực tế của sản phẩm hoàn thành.

Bên cạnh đó việc xác định chi phí thì việc ghi nhận doanh thu phải đảm bảo phù hợp với chi phí. Lĩnh vực công nghiệp là sản xuất hàng hóa và theo thông tư 200/2012/TT-BTC ngày 22/12/2014 các điều kiện ghi nhận doanh thu bán hàng như sau:

  • Doanh nghiệp đã chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu sản phẩm, hàng hóa cho người mua;
  • Doanh nghiệp không còn nắm giữ quyền quản lý hàng hóa như người sở hữu hoặc quyền kiểm soát hàng hóa;
  • Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn;
  • Doanh nghiệp đã hoặc sẽ thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch bán hàng;
  • Xác định được các chi phí liên quan đến giao dịch bán hàng.

2.2.4.2 Đối với thông tin kế toán của các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực bất động sản: Luận văn: Tổng quan về giá cổ phiếu trên Sở giao dịch

Theo Luật kinh doanh bất động sản số 66/2014/QH13 ngày 25/11/2014: “Kinh doanh bất động sản là việc đầu tư vốn để thực hiện hoạt động xây dựng, mua, nhận chuyển nhượng để bán, chuyển nhượng; cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua bất động sản; thực hiện dịch vụ môi giới bất động sản; dịch vụ sàn giao dịch bất động sản; dịch vụ tư vấn bất động sản hoặc quản lý bất động sản nhằm mục đích sinh lợi”.

Với định nghĩa trên, hoạt động kinh doanh bất động sản có các đặc điểm sau:

  • Đòi hỏi vốn đầu tư lớn: do đặc điểm của bất động sản là có giá trị lớn, vì vậy nhà đầu tư cần phải phân bổ, chu chuyển, bảo toàn vốn để thu được lợi nhuận cao nhất.
  • Thời gian từ khi bắt đầu dự án đến kết thúc của một dự án đầu tư và đạt thành quả phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm. Trong thời gian đầu tư đó có nhiều biến động, vì vậy nhà đầu tư phải có những dự đoán các biến động có thể xảy ra. Ví dụ: về thị trường, sự phát triển kinh tế – xã hội, kỹ thuật – công nghệ, sức mua, thời tiết, khí hậu…
  • Thời gian thực hiện đầu tư dài, vì vậy nhà đầu tư phải phân bổ vốn và huy động vốn hợp lý, có hiệu quả.

Với những đặc điểm của lĩnh vực bất động sản, theo thông tư 200/2012/TT-BTC ngày 22/12/2014 đã quy định việc ghi nhận doanh thu bán bất động sản của doanh nghiệp là chủ đầu tư phải thực hiện theo nguyên tắc:

Đối với các công trình, hạng mục công trình mà doanh nghiệp là chủ đầu tư (kể cả các công trình, hạng mục công trình doanh nghiệp vừa là chủ đầu tư, vừa tự thi công), doanh nghiệp không được ghi nhận doanh thu bán bất động sản theo Chuẩn mực kế toán Hợp đồng xây dựng và không được ghi nhận doanh thu đối với số tiền thu trước của khách hàng theo tiến độ. Việc ghi nhận doanh thu bán bất động sản phải đảm bảo thoả mãn đồng thời 5 điều kiện sau:

Bất động sản đã hoàn thành toàn bộ và bàn giao cho người mua, doanh nghiệp đã chuyển giao rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu bất động sản cho người mua;

Doanh nghiệp không còn nắm giữ quyền quản lý bất động sản như người sở hữu bất động sản hoặc quyền kiểm soát bất động sản;

Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn;

Doanh nghiệp đã thu được hoặc sẽ thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch bán bất động sản;

Xác định được chi phí liên quan đến giao dịch bán bất động sản.

  • Đối với các công trình, hạng mục công trình mà doanh nghiệp là chủ đầu tư (kể cả các công trình, hạng mục công trình doanh nghiệp vừa là chủ đầu tư, vừa tự thi công), trường hợp khách hàng có quyền hoàn thiện nội thất của bất động sản và doanh nghiệp thực hiện việc hoàn thiện nội thất của bất động sản theo đúng thiết kế, mẫu mã, yêu cầu của khách hàng thì doanh nghiệp được ghi nhận doanh thu khi hoàn thành, bàn giao phần xây thô cho khách hàng. Trường hợp này, doanh nghiệp phải có hợp đồng hoàn thiện nội thất bất động sản riêng với khách hàng, trong đó quy định rõ yêu cầu của khách hàng về thiết kế, kỹ thuật, mẫu mã, hình thức hoàn thiện nội thất bất động sản và biên bản bàn giao phần xây thô cho khách hàng.
  • Đối với bất động sản phân lô bán nền, nếu đã chuyển giao nền đất cho khách hàng (không phụ thuộc đã làm xong thủ tục pháp lý về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay chưa) và hợp đồng không hủy ngang, chủ đầu tư được ghi nhận doanh thu đối với nền đất đã bán khi thỏa mãn đồng thời các điều kiện sau:

Đã chuyển giao rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sử dụng đất cho người mua;

Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn;

Xác định được chi phí liên quan đến giao dịch bán nền đất;

Doanh nghiệp đã thu được hoặc chắc chắn sẽ thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch bán nền đất.

Đối với trường hợp cho thuê tài sản, có nhận trước tiền cho thuê của nhiều kỳ thì việc ghi nhận doanh thu được thực hiện theo nguyên tắc phân bổ số tiền cho thuê nhận trước phù hợp với thời gian cho thuê. Trường hợp thời gian cho thuê chiếm trên 90% thời gian sử dụng hữu ích của tài sản, doanh nghiệp có thể lựa chọn phương pháp ghi nhận doanh thu một lần đối với toàn bộ số tiền cho thuê nhận trước nếu thỏa mãn đồng thời các điều kiện sau:

Bên đi thuê không có quyền hủy ngang hợp đồng thuê và doanh nghiệp cho thuê không có nghĩa vụ phải trả lại số tiền đã nhận trước trong mọi trường hợp và dưới mọi hình thức; Luận văn: Tổng quan về giá cổ phiếu trên Sở giao dịch

Số tiền nhận trước từ việc cho thuê không nhỏ hơn 90% tổng số tiền cho thuê dự kiến thu được theo hợp đồng trong suốt thời hạn cho thuê và bên đi thuê phải thanh toán toàn bộ số tiền thuê trong vòng 12 tháng kể từ thời điểm khởi đầu thuê tài sản;

Hầu như toàn bộ rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản thuê đã chuyển giao cho bên đi thuê;

Doanh nghiệp cho thuê phải ước tính được tương đối đầy đủ giá vốn của hoạt động cho thuê.

Các doanh nghiệp ghi nhận doanh thu trên tổng số tiền nhận trước trong trường hợp này phải thuyết minh trên Báo cáo tài chính về:

Chênh lệch về doanh thu và lợi nhuận nếu ghi nhận theo phương pháp phân bổ dần theo thời gian cho thuê;

Ảnh hưởng của việc ghi nhận doanh thu trong kỳ đối với khả năng tạo tiền, rủi ro trong việc suy giảm doanh thu, lợi nhuận của các kỳ trong tương lai.

Do đặc thù của kinh doanh bất động sản dự án đầu tư hoàn thành từng phần và chuyển nhượng dần nên khi chưa tập hợp được đầy đủ hồ sơ, chứng từ về các khoản chi phí liên quan trực tiếp tới việc đầu tư, xây dựng bất động sản nhưng đã phát sinh doanh thu nhượng bán bất động sản, doanh nghiệp được trích trước một phần chi phí để tạm tính giá vốn hàng bán. Khi tập hợp đủ hồ sơ, chứng từ hoặc khi bất động sản hoàn thành toàn bộ, doanh nghiệp phải quyết toán số chi phí đã trích trước vào giá vốn hàng bán. Phần chênh lệch giữa số chi phí đã trích trước cao hơn số chi phí thực tế phát sinh được điểu chỉnh giảm giá vốn hàng bán của kỳ thực hiện quyết toán. Việc trích trước chi phí để tạm tính giá vốn bất động sản phải tuân thủ theo các nguyên tắc sau:

  • Doanh nghiệp chỉ được trích trước vào giá vốn hàng bán đối với các khoản chi phí đã có trong dự toán đầu tư, xây dựng nhưng chưa có đủ hồ sơ, tài liệu để nghiệm thu khối lượng và phải thuyết minh chi tiết về lý do, nội dung chi phí trích trước cho từng hạng mục công trình trong kỳ.
  • Doanh nghiệp chỉ được trích trước chi phí để tạm tính giá vốn hàng bán cho phần bất động sản đã hoàn thành, được xác định là đã bán trong kỳ và đủ tiêu chuẩn ghi nhận doanh thu.
  • Số chi phí trích trước được tạm tính và số chi phí thực tế phát sinh được ghi nhận vào giá vốn hàng bán phải đảm bảo tương ứng với định mức giá vốn tính theo tổng chi phí dự toán của phần hàng hóa bất động sản được xác định là đã bán (được xác định theo diện tích).

Như vậy, với đặc điểm riêng về hoạt động của lĩnh vực công nghiệp và bất động sản thì việc ghi nhận doanh thu và giá vốn có sự khác nhau, chính vì thế thông tin kế toán trên BCTC cũng như những biến động của thông tin kế toán từng lĩnh vực này cũng sẽ khác nhau, đặc biệt là chỉ tiêu liên quan đến lợi nhuận và cụ thể trong bài nghiên cứu là chỉ tiêu EPS.

2.3 Ảnh hưởng của thông tin kế toán trên BCTC đến giá cổ phiếu:

2.3.1 Ảnh hưởng của thông tin kế toán đến giá cổ phiếu:

Thông tin kế toán trên BCTC giúp cho nhà quản trị cũng như nhà đầu tư đánh giá được kết quả hoạt động của doanh nghiệp, trong đó nhà đầu tư quan tâm đến việc tạo ra lợi nhuận của công ty và mong muốn thu được khoản lợi nhuận từ việc đầu tư, còn đối với nhà quản trị thông quan thông tin BCTC họ có thể kiểm soát được kế hoạch và mục tiêu kinh doanh đề ra nhằm tăng giá trị của công ty.

Giá trị của công ty niêm yết được thể hiện thông qua giá trị cổ phiếu, và những biến động của giá cổ phiếu chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều thông tin, trong đó có cả thông tin BCTC. Chính vì thế, khi quyết định đầu tư vào chứng khoán, nhà đầu tư cần dựa vào thông tin BCTC để phân tích, đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đưa ra các quyết định đầu tư của mình. Do đó, các thông tin tài chính trên TTCK cần phải được chính xác và việc tăng cường chất lượng thông tin BCTC là cơ sở quan trọng để bảo vệ nhà đầu tư cũng như mang đến tính ổn định của TTCK.

2.3.2 Mối quan hệ giữa kế toán trên BCTC và giá cổ phiếu – mô hình nghiên cứu của Ohlson (1995). Luận văn: Tổng quan về giá cổ phiếu trên Sở giao dịch

2.3.2.1 Khái quát về mô hình Ohlson (1995):

Năm 1995, giáo sư James Ohlson – Đại học New York (Hoa Kỳ) đã công bố mô hình định giá của mình trong việc nghiên cứu mối liên hệ giữa giá cổ phiếu và thông tin kế toán thông qua nghiên cứu “Lợi nhuận, giá trị sổ sách và cổ tức trong định giá cổ phiếu”. Mô hình của ông đã trả lời được hai câu hỏi: những thông tin BCTC nào có mối liên hệ trực tiếp đến giá cổ phiếu và đâu là mô hình lý thuyết của mối liên hệ này?

Ohlson đã rút ra được mô hình riêng của mình để nghiên cứu mối liên hệ giữa giá cổ phiếu và hai thông tin BCTC là lợi nhuận và giá trị sổ sách bằng việc kết hợp giữa mô hình thu nhập thặng dư và chuỗi thông tin do ông đề xuất, với giả định trên một thị trường hiệu quả.

Mô hình định giá của Ohlson (1995) đã được sử dụng nhiều trong việc nghiên cứu thị trường chứng khoán ở nhiều quốc gia và đã tạo ra trào lưu sử dụng giá trị sổ sách, lợi nhuận để định giá giá trị của công ty (Trần Ngọc Lina, 2013).

2.3.2.2 Mô hình Ohlson (1995) Luận văn: Tổng quan về giá cổ phiếu trên Sở giao dịch

Mô hình Ohlson (1995) gồm 2 bộ phận: mô hình định giá cổ phiếu dựa trên lợi nhuận thặng dư (RIM – Mô hình thu nhập thặng dư) và chuỗi thông tin do Ohlson đề xuất.

2.3.2.2.1 Mô hình thu nhập thặng dư (RIM)

RIM dựa trên một nguyên tắc cơ bản của lý thuyết định giá: giá trị nội tại của một cổ phiếu bằng tổng giá trị hiện tại hóa của các dòng cổ tức mà cổ phiếu đó có thể mang lại cho người nắm giữ trong tương lai (Mô hình chiết khấu cổ tức).

Trong đó:

  • : giá trị nội tại của mỗi cổ phiếu tại thời điểm t
  • : cổ tức trên mỗi cổ phiếu trả vào thời điểm t+τ
  • : lợi suất yêu cầu
  • : kỳ vọng toán học dựa trên thông tin sẵn có tại thời điểm t

Để rút ra RIM từ mô hình chiết khấu cổ tức, cần dựa trên giả thiết về quan hệ giữa cổ tức, lợi nhuận và giá trị sổ sách như sau:

Trong đó:

  • : lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu của thời kỳ t
  • : giá trị sổ sách trên mỗi cổ phiếu của thời kỳ t

Thay giá trị cổ tức tìm được từ (2.2) vào (2.1), ta có:

Gọi là lợi nhuận thặng dư của thời kỳ t+τ, tức là chênh lệch giữa lợi nhuận thực hiện và mức lợi nhuận vừa đủ bù đắp chi phí vốn cổ phần của thời kỳ t+τ (được xác định dựa trên lợi suất yêu cầu và giá trị sổ sách của thời kỳ t+τ-1)

Theo mô hình thu nhập thặng dư (RIM), giá cổ phiếu được xác định bởi giá trị sổ sách trên mỗi cổ phiếu và tổng giá trị của lợi nhuận thặng dư trong tương lai của công ty. Trên cơ sở mô hình này, rút ra một quy tắc quan trọng được sử dụng phổ biến để phân tích giá trị mà công ty tạo ra cho cổ đông. Nếu lợi nhuận thặng dư có giá trị dương có nghĩa là tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của một công ty lớn hơn lợi suất yêu cầu khi đầu tư vào cổ phiếu của công ty đó thì giá trị cổ phiếu sẽ lớn hơn giá trị sổ sách của nó và công ty được xem là đã tạo ra giá trị cho cổ đông. Ngược lại, nếu lợi nhuận thăng dư âm thì giá trị của cổ phiếu sẽ nhỏ hơn giá trị sổ sách của nó và công ty bị coi không tạo ra giá trị của cổ đông (Nguyễn Việt Dũng, 2009).

2.3.2.2.2 Chuỗi thông tin Ohlson: Luận văn: Tổng quan về giá cổ phiếu trên Sở giao dịch

Từ mô hình RIM, Ohlson đề xuất ra mô hình định giá cổ phiếu dựa trên Chuỗi thông tin – Mô hình động lực thông tin tuyến tính, với giả thiết là chuỗi thời gian của lợi nhuận thặng dư được thể hiện qua 2 công thức sau:

Trong đó:

Là các thông tin ngoài kế toán, giá trị thông tin có liên quan nhưng không thể hiện trên sổ sách kế toán (có nghĩa là những thông tin không tác động đến bt và xt), n là sai số kỳ vọng bằng 0, lần lượt là trọng số hồi quy của     và   chạy từ 0 đến 1

Từ hai công thức (2.7) và (2.8) tạo thành chuỗi thông tin Ohlson và được kết hợp với mô hình thu nhập thặng dư RIM để đi đến mô hình Ohlson cho phép diễn giải giá cổ phiếu trong mối liên hệ với thông tin BCTC:

Việc kết hợp giữa mô hình thu nhập thặng dư (RIM) và chuỗi thông tin do Ohlson đề xuất cho phép Ohlson rút ra được mô hình riêng của mình để nghiên cứu mối liên hệ giữa giá cổ phiếu và hai thông tin BCTC là lợi nhuận và giá trị sổ sách trên một thị trường hiệu quả khi giá cổ phiếu phản ánh chính xác giá trị thực của nó. Ngoài ra, mối liên hệ giữa giá cổ phiếu và lợi nhuận và giá cổ phiếu và giá trị sổ sách hiện tại là tỷ lệ thuận, điều này phù hợp với các kết quả nghiên cứu trước đó. Phương trình (2.9) trong bài nghiên cứu sau đó được hàng loạt các nghiên cứu thực nghiệm khác chứng minh và được các nhà nghiên cứu đánh giá cao.

2.3.2.3 Một số hạn chế của mô hình Ohlson:

Thứ nhất, mô hình Ohlson dựa trên giả định thị trường hiệu quả và điều này rất khó đáp ứng trong thực tế vì giả thiết thị trường là giả thiết mạnh và trong một số khối lượng lớn các nghiên cứu về chủ đề này từ trước đến này ngày càng có nhiều kết quả trái ngược với nó (Nguyễn Viết Dũng, 2009).

Thứ hai, biến là các thông tin ngoài kế toán, giá trị thông tin có liên quan nhưng không thể hiện trên sổ sách kế toán, chưa được xác định cụ thể trong mô hình.

Với những hạn chế trên, các nhà nghiên cứu khi sử dụng mô hình Ohlson để định giá cổ phiếu phải đặt điều kiện giả định là thị trường hiệu quả hoặc xem xét khi thị trường không hiệu quả thì giá cổ phiếu sẽ được xác định ở thời điểm sau đó một thời gian khi thông tin đã có đầy đủ để xác định giá cổ phiếu vì “vai trò quyết định tới tính hiệu quả của thị trường hiệu quả là khả năng cập nhật thông tin một cách đầy đủ và kịp thời cho tất cả các nhà đầu tư trên thị trường. Thông tin bao gồm thông tin công khai và thông tin chưa được công bố” (Đào Lê Trang Anh, 2015). Bên cạnh đó, các nghiên cứu có thể bổ sung thêm các biến phù hợp để có thể hoàn thiện mô hình khi mà biến của mô hình chưa được xác định cụ thể.

2.4 Các lý thuyết nền có liên quan đến nghiên cứu: Luận văn: Tổng quan về giá cổ phiếu trên Sở giao dịch

2.4.1 Lý thuyết ủy nhiệm (Agency theory)

Lý thuyết ủy nhiệm được phát triển bởi Jensen và Meckling trong một công bố năm 1976 đã định nghĩa “Lý thuyết ủy nhiệm tập trung cho mối quan hệ tương tự như một hợp đồng mà theo đó người chủ (nhà đầu tư, chủ sở hữu) thuê người thừa hành (nhà quản lý). Người thừa hành sẽ đại diện người chủ thực hiện một số nhiệm vụ và được phép ra một số quyết định liên quan”.

Theo Jensen và Meckling (1976), do các bên đều cố gắng tối đa hóa lợi ích của mình nên phát sinh chi phí ủy nhiệm nhằm hướng người được ủy nhiệm hành xử theo hướng tối đa hóa lợi ích của bên ủy nhiệm. Chi phí ủy nhiệm bao gồm:

  • Chi phí giám sát
  • Chi phí liên kết
  • Chi phí khác

Lý thuyết này cho rằng khi nhà quản lý sở hữu toàn bộ công ty thì nhà quản lý sẽ đưa ra những quyết định nhằm tối đa hóa lợi nhuận của công ty, tức có nghĩa là tối đa hóa lợi nhuận của họ. Tuy nhiên, khi tỷ lệ vốn trong công ty của họ càng nhỏ thì quyền lợi của họ trong công ty dựa trên vốn giảm dần và họ có xu hướng muốn nhận được các khoản thù lao lớn hơn. Khi đó, cả hai bên ủy quyền và bên đại diện đều muốn tối đa hóa lợi ích của họ và họ có nhiều mục tiêu khác nhau để đạt được những điều này.

Lý thuyết ủy nhiệm cũng cung cấp một cơ sở tốt cho việc giải thích tại sao người được ủy nhiệm (quản lý) lựa chọn những chính sách kế toán và công bố thông tin kế toán, để có lợi nhất cho họ và sẽ thuận lợi cho việc đối phó với những thay đổi của môi trường bên ngoài cũng như giúp giảm thiểu các chi phí phát sinh.

Như vậy, dựa vào lý thuyết này, tác giả sẽ xem xét tác động của nhà quản lý đến thông tin kế toán toán từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của thông tin BCTC, hạn chế các tác động của nhà quản lý đến chất lượng của BCTC.

2.4.2 Lý thuyết tín hiệu (Signaling theory) Luận văn: Tổng quan về giá cổ phiếu trên Sở giao dịch

Lý thuyết tín hiệu mô tả hành vi của hai bên, một bên nắm thông tin và phát tín hiệu cho thị trường và một bên sử dụng thông tin đó. Lý thuyết này nhằm làm giảm tình trạng thông tin bất cân xứng giữa bên có thông tin và bên cần thông tin.

Các công ty sử dụng các thông tin tài chính của mình để phát tín hiệu ra thị trường. Chất lượng BCTC chính là tín hiệu đáng tin cậy, tạo niềm tin cho nhà đầu tư và các chủ thể liên quan, nhằm thuyết phục họ rằng các thông tin được công bố ra đáng tin cậy và minh bạch. Doanh nghiệp thông qua các hoạt động kiểm soát nội bộ và đào tạo trình độ đội ngũ nhân viên kế toán, thực hiện tốt các quy định của thuế, các quy định pháp lý về kế toán nhằm nâng cao tính hiệu quả của công tác kế toán, độ tin cậy và tính chính xác của thông tin, gia tăng chất lượng BCTC.

Như vậy, dựa vào lý thuyết này sẽ giúp giải thích được việc nhà đầu tư sẽ có phản ứng phù hợp với các thông tin nhận được từ doanh nghiệp mà cụ thể trong bài nghiên cứu là thông tin kế toán.

TÓM TẮT CHƯƠNG 2

Chương này tác giả đã trình bày các cơ sở lý thuyết liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài, cụ thể tác giả giới thiệu làm rõ các khái niệm về giá cổ phiếu, thông tin kế toán, vai trò của thông tin kế toán trên BCTC, cũng như mối quan hệ giữa chúng thông qua mô hình Ohlson (1995), đồng thời tác giả cũng trình bày về những đặc điểm thông tin kế toán của lĩnh vực công nghiệp và bất động sản và các lý thuyết thuyết nền có liên quan để làm cơ sở khoa học cho đề tài. Từ những nội dung lý thuyết, tác giả sẽ xác định nhân tố ảnh hưởng của thông tin kế toán trên BCTC đến giá cổ phiếu là lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu (EPS) và giá trị sổ sách trên mỗi cổ phiếu (BVPS) theo đề xuất của mô hình Ohlson. Bên cạnh đó, tác giả đã định hướng nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kế toán nhằm đề xuất các giải pháp có liên quan tác động đến mối quan hệ giữa thông tin kế toán và giá cổ phiếu. Luận văn: Tổng quan về giá cổ phiếu trên Sở giao dịch

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY   

===>>> Luận văn: Thực trạng giao dịch chứng khoán trên thị trường

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x