Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Tổng quan về bán cổ phiếu lẻ tại các Cty Cổ phần hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty cổ phần ở Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.1. Quy định pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty cổ phần
2.1.1. Quy định pháp luật về chào bán cổ phiếu riêng lẻ của công ty cổ phần Luận văn: Tổng quan về bán cổ phiếu lẻ tại các Cty Cổ phần
CTCP là chủ thể phát hành chứng khoán đóng vai trò chủ yếu trong việc cung cấp cổ phiếu – một loại hàng hoá quan trọng cho TTCK. Với đặc điểm vốn điều lệ chia thành nhiều phần bằng nhau, tương ứng với số cổ phần được sở hữu là các quyền lợi của cổ đông như quyền hưởng cổ tức, quyền biểu quyết và quyền tham gia quản lý Công ty. Vì vậy, CTCP có lợi thế hơn các loại hình doanh nghiệp khác khi có thêm một phương thức huy động vốn đó là chào bán cổ phiếu. Chào bán cổ phiếu riêng lẻ là một phương thức chào bán chứng khoán trong phạm vi một số nhà đầu tư nhất định và đôi khi có tính chất đặc biệt như các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp, các nhà đầu tư chiến lược, có tiềm lực về vốn, các công ty đầu tư chứng khoán, các quỹ tín thác đầu tư… Hầu hết pháp luật các nước trên thế giới đều có quy chế pháp lý riêng điều chỉnh hoạt động chào bán cổ phiếu riêng lẻ. Nội dung cơ bản của những quy chế này là tạo cho chủ thể chào bán quyền tự định đoạt những nội dung liên quan đến đợt chào bán như giá cổ phần dự kiến chào bán, thời điểm thích hợp để đợt chào bán thành công, số lượng cổ phần dự định chào bán tương ứng với số vốn mà công ty dự kiến huy động. Ở Việt Nam, hoạt động chào bán cổ phiếu riêng lẻ của CTCP được quy định tại Điều 87 Luật Doanh nghiệp 2005. Các quy định trong Điều 87 Luật Doanh nghiệp Việt Nam tạm thời được coi là quy định về chào bán cổ phần riêng lẻ đối với những loại CTCP thành lập và hoạt động theo luật này. Bên cạnh đó, chào bán cổ phần riêng lẻ còn được quy định tại các văn bản pháp luật khác, bao gồm: Luật chứng khoán 2006, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán 2006, Nghị định 58/2012/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều của Luật chứng khoán và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật chứng khoán 2006.
Về mặt nội dung, pháp luật điều chỉnh hoạt động chào bán cổ phần riêng lẻ của CTCP bao gồm các nội dung chủ yếu như: (i) các trường hợp chào bán cổ phiếu riêng lẻ của CTCP (ii) điều kiện chào bán cổ phần riêng lẻ; (iii) hồ sơ, thủ tục chào bán cổ phần riêng lẻ;
Các trường hợp chào bán cổ phiếu riêng lẻ của công ty cổ phần
Hoạt động chào bán cổ phiếu riêng lẻ của CTCP được thực hiện khi thành lập CTCP hoặc khi CTCP có nhu cầu huy động vốn.
Hoạt động chào bán cổ phần riêng lẻ khi thành lập công ty cổ phần:
Các CTCP mới thành lập theo quy định của Luật Doanh nghiệp có thể huy động vốn bằng một trong hai phương thức là chào bán cổ phiếu ra công chúng hoặc cháo bán cổ phiếu riêng lẻ. Tuy nhiên trên thực tế, những CTCP mới thành lập thường lựa chọn phương thức chào bán cổ phiếu riêng lẻ để huy động vốn vì để một đợt chào bán chứng khoán ra công chúng thành công, tổ chức phát hành thường cần phải có uy tín trong kinh doanh trên thương trường. Uy tín này cho phép tổ chức phát hành có khả năng thu hút được lượng vốn cần thiết từ công chúng đầu tư một cách nhanh chóng, tức là có thể chào bán hết cổ phần cần phát hành ra công chúng trong khoảng thời gian luật định. Những CTCP mới thành lập rõ ràng không thể có được uy tín này do chưa hề có cơ hội để chứng tỏ năng lực kinh doanh của mình. Vì vậy phát hành cổ phiếu riêng lẻ thường là lựa chọn tối ưu của những công ty này. Luận văn: Tổng quan về bán cổ phiếu lẻ tại các Cty Cổ phần
Hoạt động chào bán cổ phần riêng lẻ khi thành lập CTCP được quy định tại Luật Doanh nghiệp 2005. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 và Nghị định 120/2010/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật Doanh nghiệp, các cổ đông sáng lập được quyền mua toàn bộ cổ phần được quyền chào bán, trường hợp cổ đông sáng lập không đăng ký mua hết thì công ty được quyền chào bán cổ phần ra bên ngoài để bảo đảm góp đủ số vốn cần thiết. Luật Doanh nghiệp 2005 cũng quy định cụ thể, chi tiết hoạt động góp vốn, mua cổ phần, chào bán, thanh toán cổ phần… của cổ đông sáng lập khi thành lập CTCP.
Theo Điều 84 Luật doanh nghiệp 2005 “các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng kí mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán và thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh”. Trường hợp có cổ đông sáng lập không thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký, Luật doanh nghiệp 2005 quy định rõ cách xử lý, bảo đảm trong thời hạn ba (03) năm số cổ phần chưa đăng ký mua phải được chào bán hết nhưng sau ba (03) năm số cổ phần chưa được đăng ký mua hết sẽ xử lý như thế nào thì Luật chưa quy định. Người đang sở hữu cổ phiếu có quyền yêu cầu hoàn trả vốn hay không? Trách nhiệm của các cổ đông sáng lập trong trường hợp này chưa có quy định rõ ràng.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 87 Luật Doanh nghiệp 2005, thẩm quyền quyết định thời điểm, phương thức chào bán cổ phần trong số cổ phần được quyền chào bán thuộc về Hội đồng quản trị.
Quy định về giá chào bán cổ phần cũng có sự linh hoạt, theo quy định chung, giá chào bán cổ phần không được thấp hơn giá thị trường hoặc giá trị được ghi trong sổ sách của cổ phần tại thời điểm gần nhất. Tuy nhiên, Luật doanh nghiệp 2005 quy định các trường hợp ngoại lệ mà doanh nghiệp có thể chào bán với giá thấp hơn mệnh giá như trường hợp cổ phần chào bán lần đầu tiên cho những người không phải là cổ đông sáng lập, cổ phần chào bán cho tất cả cổ đông theo tỷ lệ cổ phần hiện có của họ ở công ty và các trường hợp khác theo quy định tại Điều 87 Luật Doanh nghiệp 2005. Xét thấy quy định này là hợp lý vì những lý do sau: Đối với trường hợp chào bán lần đầu tiên cho người không phải là cổ đông sáng lập, vì đây là cổ phần được chào bán “lần đầu tiên”, đây cũng là lần đầu tiên nhà đầu tư tiếp cận với cổ phần của tổ chức phát hành nên chưa xác định được giá của cổ phiếu trên thị trường. Vì vậy, quy định được phép bán cổ phần thấp hơn so với giá thị trường hoặc giá trị được ghi trong sổ sách của cổ phần giúp cho công ty có khả năng huy động vốn để có đủ số vốn điều lệ cần thiết để hoạt động.
Trường hợp chào bán cổ phần cho các cổ đông theo tỷ lệ cổ phần hiện có của họ tại công ty, cổ đông hiện hữu là những người sở hữu vốn góp tại CTCP, họ đóng góp nguồn vốn hoạt động cho công ty và có thể chính là người tham gia lao động, quản lý tại chính công ty đó, vì vậy việc họ được hưởng ưu đãi nhất định như được mua cổ phần của công ty với giá thấp hơn giá trị trường là một quyền lợi chính đáng. Khi công ty thực hiện việc phát hành cổ phần và chào bán cho Nhà đầu tư sẽ dẫn tới việc thay đổi cơ cấu vốn điều lệ và có thể thay đổi cơ cấu quản lý công ty. Vì vậy, quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 nhằm bảo vệ quyền lợi của các cổ đông hiện hữu, cho họ quyền ưu tiên hơn những Nhà đầu tư bên ngoài là hợp lý. Tuy nhiên, liên quan đến Điều 87 Luật Doanh nghiệp cũng có một vấn đề cần xem xét như sau: CTCP có nhiều loại cổ phần khác nhau, tùy thuộc vào loại cổ phần nắm giữ mà các cổ đông có các quyền và nghĩa vụ tương ứng. Ví dụ cổ đông sở hữu cổ phần phổ thông sẽ được hưởng mức cổ tức thấp hơn cổ phần ưu đãi cổ tức, nhưng thay vào đó những cổ đông này lại có quyền dự đại hội đồng cổ đông, có quyền đề cử người vào hội đồng quản trị, ban kiểm soát và biểu quyềt về những quyết định quan trọng của công ty. Vì thế để đảm bảo sự công bằng giữa các cổ đông, quy định tại điểm b khoản 1 Điều 87 Luật Doanh nghiệp cần điều chỉnh theo hướng cụ thể hơn là “cổ phần chào bán cho tất cả các cổ đông theo tỷ lệ cổ phần của từng loại hiện có của họ ở công ty” thay vì quy định hiện hành “cổ phần chào bán cho tất cả các cổ đông theo tỷ lệ cổ phần hiện có của họ ở công ty” sẽ chính xác, đảm bảo sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật.
Trường hợp cổ phần chào bán cho người môi giới hoặc người bảo lãnh cũng được bán với giá thấp hơn giá thị trường hoặc giá trị ghi trong sổ sách công ty của cổ phần, tuy nhiên số chiết khấu hoặc tỷ lệ chiết khấu cụ thể phải được sự chấp nhận của số cổ đông đại diện ít nhất 75% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết vì khi chào bán cổ phần với giá thấp có thể sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của cổ đông. Do vậy, trong trường hợp này phải được sự đồng ý của ít nhất 75% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết là hợp lý.
Hoạt động chào bán cổ phiếu khi công ty cổ phần tăng vốn:
Hoạt động này thường được tiến hành khi công ty có nhu cầu mở rộng sản xuất, thực hiện các dự án đầu tư. Đối tượng được chào bán có thể là cổ đông hiện hữu hoặc công chúng đầu tư. Khoản 2 Điều 87 Luật doanh nghiệp 2005 quy định: “Trường hợp công ty phát hành thêm cổ phần phổ thông và chào bán số cổ phần đó cho tất cả các cổ đông phổ thông theo tỷ lệ cổ phần hiện có của họ tại công ty thì phải gửi thông báo bằng văn bản đến các cổ đông theo phương thức đảm bảo đến được địa chỉ của họ”. Có thể hiểu đây là hoạt động chào bán cổ phần trong nội bộ công ty vì đối tượng được chào bán là các cổ đông hiện hữu, không có sự tham gia của nhà đầu tư bên ngoài. Quy định này góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của các cổ đông hiện hữu khi doanh nghiệp CBCKRL. Luật Doanh nghiệp 2005 không quy định hoạt động chào bán cổ phần cho Nhà đầu tư không phải là cổ đông hiện hữu, vì vậy hoạt động này được thực hiện theo quy định của pháp luật chứng khoán. Việc chào bán cổ phần riêng lẻ trong trường hợp này sẽ làm tăng Vốn Điều lệ công ty, giúp CTCP bổ sung nguồn vốn kinh doanh và có sức cạnh tranh với các doanh nghiệp khác.
Ngoài ra, có nhiều trường hợp doanh nghiệp phát hành cổ phiếu riêng lẻ không vì mục đích huy động vốn mà việc phát hành cổ phiếu riêng lẻ cho các nhà đầu tư chiến lược như các công ty tài chính, công ty bảo hiểm, các đối tác làm ăn quan trọng có ý định nắm giữ cổ phiếu lâu dài. Đây là điều kiện giúp doanh nghiệp có được sự ổn định để phát triển, nhất là trong điều kiện TTCK xuất hiện xu thế đầu cơ chứng khoán, dễ dẫn đến khủng hoảng cho các doanh nghiệp. Luận văn: Tổng quan về bán cổ phiếu lẻ tại các Cty Cổ phần
Tuy nhiên, việc phát hành cổ phiếu riêng lẻ cũng tồn tại những mặt trái. Trong thời gian vừa qua, nhiều công ty đã lợi dụng danh nghĩa phát hành cổ phiếu cho cổ đông chiến lược để chào bán với giá rẻ, đây là vấn đề gây bức xúc đối với thị trường, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của cổ đông hiện hữu. Trên thực tế, khi CTCP phát hành cổ phiếu cho đối tác chiến lược, tỷ lệ sở hữu của các cổ đông hiện hữu sẽ bị giảm đi và cổ phiếu đang lưu hành sẽ bị pha loãng. Quy định chưa chặt chẽ về việc phát hành cho cổ đông chiến lược khiến nhiều tổ chức mang danh nghĩa chiến lược đã bán ngay cổ phiếu khi giá cao mà không gắn bó với doanh nghiệp.
Điều kiện chào bán cổ phiếu riêng lẻ của công ty cổ phần
Điều kiện chào bán cổ phiếu riêng lẻ của CTCP lần đầu tiên được quy định cụ thể tại Công văn số 14285/BTC – UBCK ngày 26 tháng 11 năm 2008 việc thực hiện một số điểm của Chỉ thị số 20/2008/CT-TTg về tăng cường quản lý TTCK. Theo quy định tại Điều 2 mục II Công văn số 14285/BTC – UBCK, điều kiện, thủ tục CBCKRL của các CTCP đại chúng gồm: báo cáo về kế hoạch chào bán cổ phiếu riêng lẻ gửi Ủy ban chứng khoán Nhà nước, Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông thông qua phương án chào bán và phương án sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán; Quyết định của Hội đồng quản trị hoặc Đại hội đồng cổ đông theo Điều lệ công ty hoặc ủy quyền của Đại hội đồng cổ đông cho Hội đồng quản trị thông qua danh sách nhà đầu tư được chào bán cổ phiếu; Tài liệu cung cấp thông tin về đợt chào bán cho nhà đầu tư, trừ trường hợp chỉ chào bán cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp; Báo cáo tài chính năm gần nhất hoặc báo cáo kiểm toán vốn (đối với doanh nghiệp mới được thành lập chưa đủ 01 năm tài chính) được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán độc lập; Tài liệu chứng minh đáp ứng tỷ lệ tham gia của nhà đầu tư nước ngoài và tuân thủ quy định về hình thức đầu tư, trong trường hợp chào bán cho nhà đầu tư nước ngoài;
Đối với CTCP chưa phải là công ty đại chúng thì việc chào bán cổ phiếu riêng lẻ được quy định đơn giản hơn và không cần báo cáo kế hoạch chào bán với Uỷ ban chứng khoán Nhà nước mà chỉ cần đăng ký với Sở Kế hoạch và Đầu tư nơi cấp đăng ký kinh doanh.
Với quy định này hoạt động CBCKRL được thực hiện một cách dễ dàng cả về điều kiện lẫn thủ tục chào bán. Điều này đã dẫn đến tình trạng trong một thời gian dài nhiều doanh nghiệp lợi dụng quy định về chào bán cổ phiếu cho số lượng hạn chế rồi chào bán tiếp ra công chúng, mặc dù doanh nghiệp chưa đủ điều kiện để trở thành công ty đại chúng. Đồng thời, lợi dụng việc CBCKRL cho những đối tượng đặc thù (đối tác chiến lược) dẫn đến pha loãng sở hữu của các cổ đông một cách quá mức. Điều này đã gây ảnh hưởng đến lợi ích của các cổ đông và ảnh hưởng không tốt đến tình hình kinh tế xã hội.
Đứng trước tình hình đó, ngày 04/01/2010 Chính phủ đã ban hành Nghị định 01/2010/NĐ-CP về chào bán cổ phần riêng lẻ, Nghị định 01/2010/NĐ-CP đã quy định rõ các điều kiện chào bán cổ phần riêng lẻ chung cho cả CTCP đại chúng và CTCP chưa phải là công ty đại chúng. Đây là lần đầu tiên hoạt động chào bán cổ phần riêng lẻ được điều chỉnh bởi một văn bản luật riêng biệt, Nghị định 01/2010/NĐ-CP đã quy định chặt chẽ hơn các điều kiện đối với hoạt động chào bán cổ phần riêng lẻ. Theo đó, CTCP chào bán cổ phiếu riêng lẻ phải đáp ứng các điều kiện sau:
- Có quyết định thông qua phương án chào bán cổ phần riêng lẻ và phương án sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán của Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị theo Điều lệ công ty hoặc ủy quyền của Đại hội đồng cổ đông cho Hội đồng quản trị. Phương án chào bán phải xác định rõ đối tượng và số lượng nhà đầu tư được chào bán dưới 100 nhà đầu tư và hạn chế chuyển nhượng cổ phần tối thiểu trong vòng 01 năm kể từ ngày hoàn thành đợt chào bán.
- Trường hợp chào bán cho các đối tác chiến lược, tổ chức chào bán phải xây dựng tiêu chí xác định, lựa chọn đối tác chiến lược. Đối tác chiến lược là các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có năng lực tài chính, quản trị doanh nghiệp; chuyển giao công nghệ mới, cung ứng nguyên vật liệu, phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm; gắn bó lợi ích lâu dài với doanh nghiệp.
- Những người có quyền lợi liên quan đến đợt chào bán riêng lẻ không được tham gia biểu quyết thông qua Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông về việc này.
- Có hồ sơ đăng ký chào bán cổ phần riêng lẻ đầy đủ và hợp lệ theo quy định tại Điều 9 Nghị định 01/2010/NĐ-CP gửi tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền chậm nhất 20 ngày trước ngày dự kiến thực hiện việc chào bán, trừ trường hợp pháp luật chuyên ngành có quy định khác.
- Trường hợp tổ chức chào bán là doanh nghiệp thuộc lĩnh vực ngành, nghề kinh doanh có điều kiện thì phải đáp ứng thêm các điều kiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành liên quan.
- Các đợt chào bán riêng lẻ phải cách nhau ít nhất sáu tháng.
- Đảm bảo tuân thủ các quy định về tỷ lệ góp vốn, hình thức đầu tư, trong trường hợp có sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài.
Việc hạn chế thời gian chuyển nhượng cổ phần tối thiểu là một năm kể từ ngày hoàn thành đợt chào bán nhằm bảo vệ lợi ích tổng thể chung của toàn TTCK. Về thông lệ cũng như kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, việc giới hạn như vậy là hợp lý, khắc phục được tình trạng nhiều Doanh nghiệp chưa đủ điều kiện để trở thành công ty đại chúng nhưng thông qua chào bán cổ phiếu riêng lẻ để trở thành công ty đại chúng. Tuy nhiên, quy định thời gian nắm giữ tối thiểu một năm như trên có thể khiến Doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc thu hút vốn đầu tư để mở rộng hoạt động sản xuất – kinh doanh. Thời hạn một năm là quá dài và có thể xuất hiện nhiều rủi ro. Vì vậy, thay vì tham gia mua cổ phần phát hành riêng lẻ, nhà đầu tư quay sang mua chứng khoán trên thị trường tập trung hoặc tập trung vào kênh đầu tư khác để vừa tránh được rủi ro thanh khoản, vừa không bị hạn chế thời gian chuyển nhượng. Như vậy, rõ ràng quy định này đang ảnh hưởng đến kế hoạch huy động vốn của hàng chục ngàn CTCP.
Việc hạn chế chuyển nhượng cổ phần tối thiểu trong vòng một năm kể từ ngày hoàn thành đợt chào bán riêng lẻ đã hạn chế về tính khả thi của phương án chào bán cổ phần dù là cổ đông hiện hữu hay cổ đông mới, làm mất đi sức hấp dẫn của TTCK riêng lẻ. Cổ phần được chào bán là để huy động thêm vốn cho CTCP phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, việc có thay đổi cổ đông sau đó do chuyển nhượng không ảnh hưởng gì đến nguồn vốn và hoạt động của CTCP. Nhà đầu tư có chuyển nhượng hay không thì tiền từ đợt chào bán cổ phần cũng là tiền của CTCP nên ai nắm giữ cổ phần rõ ràng không ảnh hưởng đến số tiền đó.
Đối chiếu quy định về hạn chế thời gian chuyển nhượng của Nghị định 01/2010/NĐ-CP với quy định tại Luật doanh nghiệp 2005 thì có sự mâu thuẫn. Cụ thể, khoản 5 Điều 87 Luật doanh nghiệp quy định: “Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 (cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng) và khoản 5 Điều 84 (hạn chế chuyển nhượng cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập) của luật này”. Như vậy, Luật doanh nghiệp chỉ quy định hai trường hợp bị hạn chế thời gian chuyển nhượng cổ phần là cổ phần ưu đãi biểu quyết và cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập, còn lại tất cả các cổ đông đều có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình trong khi đó Nghị định 01/2010/NĐ-CP lại quy định thêm trường hợp hạn chế chuyển nhượng cổ phần của cổ đông hiện hữu là số cổ phần được chào bán trong đợt phát hành và chào bán riêng lẻ. Luận văn: Tổng quan về bán cổ phiếu lẻ tại các Cty Cổ phần
Ngoài ra, Nghị định 01/2010/NĐ-CP không quy định giới hạn phạm vi chủ thể chào mua, cũng không có một văn bản nào hướng dẫn cho vấn đề này. Vì vậy có thể hiểu, bất kỳ tổ chức, cá nhân nào khi tham gia mua bán chứng khoán riêng lẻ đều phải tuân thủ các điều kiện quy định tại Nghị định 01/2010/NĐ-CP. Như vậy, việc chào bán cổ phần cho cán bộ công nhân viên chức cũng sẽ được coi là chào bán riêng lẻ và cũng sẽ bị giới hạn thời gian chuyển nhượng.. Quy định này đã khiến cho cán bộ công nhân viên cũng ngần ngại không dám mua cổ phiếu của công ty mình vì cũng giống như tâm lý của các nhà đầu tư bên ngoài, thời hạn một năm là quá dài cho những rủi ro có thể xảy ra, nhất là trong tình hình kinh tế biến động với nhiều gam màu sáng tối như hiện nay. Chính điều này cũng đã làm cho nhiều công ty phải hủy bỏ phương án phát hành cổ phiếu do cán bộ công nhân viên không đăng ký mua.
Nghị định 01/2010/NĐ-CP quy định các đợt chào bán phải cách nhau ít nhất 06 tháng, tức là công ty sẽ chỉ được thực hiện hai đợt chào bán cổ phần mỗi năm (khoản 5, Điều 8). Trên thực tế hầu hết các doanh nghiệp luôn luôn phải huy động vốn liên tục do nhu cầu thực tế của hoạt động sản xuất kinh doanh, vì vậy quy định này đã làm hạn chế khả năng huy động vốn của các CTCP và kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp bởi doanh nghiệp muốn phát triển được các dự án đầu tư và đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả thì nguồn vốn bổ sung liên tục là yếu tố cần thiết. Vì vậy, quy định các đợt chào bán cổ phần riêng lẻ phải cách nhau ít nhất 06 tháng tại Nghị định 01/2010/NĐ-CP đã làm mất khả năng huy động vốn nhanh chóng và giảm đi lợi thế của CTCP mặc dù đây được coi là lợi thế lớn nhất của loại hình công ty này.
Với quy định như trên, pháp luật Việt Nam dường như vẫn còn thể hiện sự nặng nề trong các yêu cầu về thủ tục hành chính mà một công ty cổ phần phải thực hiện khi chào bán cổ phần riêng lẻ. Thiết nghĩ, quyền chào bán cổ phần là quyền có tính chất tự nhiên, tạo nên đặc trưng của công ty cổ phần. Do đó, pháp luật chỉ nên can thiệp vào quyền này ở một mức độ nhất định nếu việc chào bán riêng lẻ đã được nhận diện thông qua mối quan hệ giữa công ty chào bán và hầu hết các nhà đầu tư (thông thường là người lao động trong công ty, cổ đông hiện hữu của công ty hoặc các nhà đầu tư có mối quan hệ kinh doanh với công ty).Từ các giới hạn trên, rõ ràng việc huy động vốn để tận dụng các cơ hội đầu tư của các doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều khó khăn, các phương án đầu tư sẽ phải thay đổi, bài toán huy động vốn sẽ phải tính toán lại, dòng chảy nguồn vốn vào các CTCP sẽ bị ảnh hưởng theo đókìm hãm sự phát triển, tăng trưởng của các doanh nghiệp.
Như vậy, việc áp dụng Nghị định 01/2010/NĐ-CP trên thực tế đã cho thấy nhiều vướng mắc và hạn chế, điều này chứng tỏ Nghị định 01/2010/NĐ-CP có nhiều bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản thay thế.
Trước tình hình đó, ngày 24/11/2010 Quốc hội đã ban hành Luật số 62/2010/QH12 sửa đổi và bổ sung Luật chứng khoán 2006, Luật này chính thức có hiệu lực từ ngày 01/07/2011.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán được ban hành nhằm khắc phục những vấn đề vướng mắc trong thực tiễn hoạt động của TTCK và thực tế thi hành Luật Chứng khoán 2006; đảm bảo định hướng phát triển TTCK theo đúng mục tiêu; đồng thời từng bước tiếp cận với quy định và thông lệ quốc tế cũng như tăng cường sự quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK. Để tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp luật đối với lĩnh vực chứng khoán và TTCK, ngày 20 tháng 7 năm 2012 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 58/2012/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán (Nghị định 58/2012/NĐ-CP). Nghị định 58/2012/NĐ-CP có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2012 và thay thế cho các văn bản sau: Nghị định số 14/2007/NĐ-CP ngày 19 tháng 01 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật chứng khoán; Nghị định số 84/2010/NĐ-CP ngày 02 tháng 8 năm 2010 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 14/2007/NĐ-CP; Nghị định số 01/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 01 năm 2010 của Chính phủ về chào bán cổ phần riêng lẻ. Về cơ bản, Nghị định 58/2012/NĐ-CP kế thừa các quy định hiện hành của Nghị định 14/2007/NĐ-CP, Nghị định 84/2010/NĐ-CP và Nghị định 01/2010/NĐ-CP. Để khắc phục những khó khăn trong quá trình thực thi Nghị định 01/2010/NĐ-CP về chào bán cổ phần riêng lẻ, Nghị định 58/2012/NĐ-CP đã bổ sung các quy định về chào bán cổ phiếu riêng lẻ theo đúng tinh thần của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán. Do các doanh nghiệp chào bán cổ phiếu riêng lẻ bao gồm cả công ty đại chúng và công ty chưa đại chúng nên Nghị định 58/2012/NĐ-CP có quy định cụ thể riêng cho hai nhóm đối tượng này: (i) Đối với công ty đại chúng đăng ký chào bán riêng lẻ sẽ nộp hồ sơ và báo cáo với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước theo quy định của Luật Chứng khoán; (ii) Đối với công ty chưa đại chúng đăng ký chào bán riêng lẻ sẽ nộp hồ sơ và báo cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định của Luật Doanh nghiệp và các luật chuyên ngành khác.
Như vậy Nghị định 58/2012/NĐ-CP đã phân chia chủ thể chào bán cổ phiếu riêng lẻ làm hai trường hợp cụ thể, đối với từng chủ thể khác nhau, điều kiện chào bán cũng được quy định khác nhau: Luận văn: Tổng quan về bán cổ phiếu lẻ tại các Cty Cổ phần
Điều kiện chào bán cổ phiếu riêng lẻ của công ty cổ phần chưa đại chúng:
Khoản 6 Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật chứng khoán 2006 quy định “CBCKRL của tổ chức phát hành không phải là công ty đại chúng được thực hiện theo quy định của Luật doanh nghiệp và pháp luật có liên quan” . Điều này là hợp lý, bởi vì các CTCP chưa đại chúng thường là các công ty nhỏ, vốn hóa ít, cho nên nếu áp dụng các điều kiện, thủ tục chào bán như đối với CTCP đại chúng sẽ rất khó khăn và là vật cản lớn trên con đường tìm kiếm nguồn vốn của loại hình công ty này. Ngoài quy định tại Luật doanh nghiệp 2005, chào bán cổ phiếu riêng lẻ của CTCP chưa đại chúng phải đáp ứng điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị định 58/2012/NĐ-CP, cụ thể là:
- Có quyết định của Đại hội đồng cổ đông thông qua phương án chào bán cổ phiếu riêng lẻ và phương án sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán;
- Đáp ứng các điều kiện khác theo quy định của pháp luật chuyên ngành trong trường hợp tổ chức phát hành là doanh nghiệp thuộc lĩnh vực ngành, nghề kinh doanh có điều kiện.
Điều kiện chào bán cổ phiếu riêng lẻ của công ty đại chúng:
- Có quyết định của Đại hội đồng cổ đông thông qua phương án chào bán và sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán; xác định rõ đối tượng, số lượng nhà đầu tư;
- Việc chuyển nhượng cổ phần, trái phiếu chuyển đổi riêng lẻ bị hạn chế tối thiểu 1 năm, kể từ ngày hoàn thành đợt chào bán, trừ trường hợp chào bán riêng lẻ theo chương trình lựa chọn cho người lao động trong công ty, chuyển nhượng chứng khoán đã chào bán của cá nhân cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, chuyển nhượng chứng khoán giữa các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, theo quyết định của Tòa án hoặc thừa kế theo quy định của pháp luật;
- Các đợt chào bán cổ phần hoặc trái phiếu chuyển đổi riêng lẻ phải cách nhau ít nhất sáu tháng.
- Đáp ứng các điều kiện khác theo quy định của Luật chuyên ngành trong trường hợp tổ chức phát hành là doanh nghiệp thuộc lĩnh vực ngành nghề kinh doanh có điều kiện.
Đối với CTCP chưa đại chúng, điều kiện chào bán cổ phiếu riêng lẻ tại Nghị định 58/2012/NĐ-CP có hai điểm bị loại bỏ hoàn toàn so với quy định tại Nghị định 01/2010/NĐ-CP, đó là: (i) bỏ quy định nhà đầu tư bị hạn chế chuyển nhượng cổ phần tối thiểu trong vòng 01 năm kể từ ngày hoàn thành đợt chào bán; (ii) bỏ quy định ràng buộc các đợt chào bán riêng lẻ phải cách nhau ít nhất 06 tháng. Còn đối với CTCP đại chúng, các quy định này vẫn tiếp tục được kế thừa và có điều chỉnh. Quy định về hạn chế chuyển nhượng trong vòng 01 năm kể từ ngày hoàn thành đợt chào bán được loại trừ cho một số đối tượng nhà đầu tư nhất định. Việc loại trừ giới hạn thời gian chuyển nhượng một năm cho các đối tượng là công nhân viên trong công ty, chuyển nhượng của cá nhân cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, chuyển nhượng giữa các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp với nhau, theo quy định của tòa án hoặc thừa kế theo quy định của pháp luật đã giải quyết phần nào những mâu thuẫn trong các văn bản pháp luật tồn tại ở Nghị định 01/2010/NĐ-CP, đảm bảo hài hòa giữa quyền quản lý của nhà nước với quyền lợi của doanh nghiệp và nhà đầu tư. Ngoài ra, hoạt động chào bán trái phiếu chuyển đổi riêng lẻ cũng đã được Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật chứng khoán điều chỉnh, tránh hiện tượng lách luật như trong thời gian trước đây. Tuy nhiên, quy định về khoảng cách giữa hai đợt phát hành phải cách nhau ít nhất 06 tháng vẫn được áp dụng đối với CTCP đại chúng. Điều này sẽ là khó khăn cho các doanh nghiệp trong quá trình huy động vốn, đòi hỏi doanh nghiệp phải có những dự tính xa cho kế hoạch kinh doanh của mình.
Như vậy, Nghị định 58/2012/NĐ-CP đã có quy định khá rõ ràng và có sự khác nhau giữa điều kiện chào bán cổ phiếu riêng lẻ đối với CTCP chưa đại chúng và CTCP đại chúng. Điểm khác biệt lớn nhất trong điều kiện chào bán là đối với công ty chưa đại chúng thì Nhà đầu tư không bị giới hạn về thời gian chuyển nhượng cổ phiếu sau đợt phát hành và công ty không bị ràng buộc điều kiện về thời gian giữa các đợt chào bán. Quy định khác nhau về điều kiện chào bán là do xuất phát từ đặc trưng của hai loại hình công ty có sự khác biệt về quy mô này. Đối với các CTCP chưa đại chúng, việc phát hành cổ phiếu riêng lẻ giới hạn trong phạm vi số lượng ít các nhà đầu tư bên ngoài, chủ yếu là phát hành cho cổ đông hiện hữu. Bên cạnh đó, việc chuyển nhượng cổ phần của các cổ đông hiện hữu cũng dễ dàng được kiểm soát bởi công ty, vì vậy các nhà đầu tư mua cổ phiếu của CTCP không phải là công ty đại chúng không bị hạn chế chuyển nhượng cổ phần trong thời hạn 01 năm kể từ ngày phát hành như đối với công ty đại chúng do tiềm ẩn ít nguy cơ pha loãng thị trường.
Hồ sơ, thủ tục chào bán cổ phiếu riêng lẻ của công ty cổ phần
Điều 61 Luật doanh nghiệp 1999 quy định về thủ tục chào bán cổ phần như sau: “Thủ tục và trình tự chào bán cổ phần thực hiện theo quy định của pháp luật về chứng khoán”. Với quy định này CTCP khi có nhu cầu chào bán cổ phần riêng lẻ rất lúng túng và không biết thực hiện theo quy định nào. Bởi vì, pháp luật về chứng khoán chỉ điều chỉnh hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng mà không có quy định về thủ tục CBCKRL. Khắc phục thiếu sót của Luật doanh nghiệp 1999, Khoản 6 Điều 87 Luật doanh nghiệp năm 2005 đã phân biệt thủ tục chào bán cho mỗi phương thức chào bán: “điều kiện, phương thức, thủ tục chào bán cổ phần ra công chúng thực hiện theo quy định của pháp luật về chứng khoán. Chính phủ sẽ quy định hướng dẫn việc chào bán cổ phần riêng lẻ”. Như vậy, theo quy định tại Luật doanh nghiệp 2005, nếu công ty chào bán cổ phần ra công chúng thì điều kiện, phương thức, thủ tục chào bán tuân theo những quy định của pháp luật về chứng khoán. Nếu công ty chào bán cổ phần riêng lẻ trước hết sẽ tuân theo quy định của Luật doanh nghiệp và văn bản hướng dẫn của Chính phủ. Cụ thể hơn theo quy định tại khoản 2 Điều 24 Nghị định 120/2010/NĐ – CP hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp 2005 quy định: trình tự, thủ tục chào bán cổ phần riêng lẻ thực hiện theo quy định có liên quan của pháp luật về chứng khoán. Luận văn: Tổng quan về bán cổ phiếu lẻ tại các Cty Cổ phần
Văn bản pháp luật chứng khoán đầu tiên có đề cập đến hoạt động chào bán cổ phiếu riêng lẻ là Nghị định số 01/2010/NĐ-CP. Tuy nhiên, Nghị định 01/2010/NĐ-CP chỉ quy định chung chung rằng “trình tự, thủ tục tiếp nhận và xử lý hồ sơ đăng ký CBCKRL phải được niêm yết tại cơ quan có thẩm quyền” (Khoản 2 Điều 7 Nghị định 01/2010/NĐ-CP) mà không có hướng dẫn cụ thể nào về trình tự thủ tục này. Chính vì vậy, việc áp dụng Nghị định 01/2010/NĐ-CP đối với hoạt động chào bán cổ phiếu riêng lẻ của doanh nghiệp gặp khó khăn khi các doanh nghiệp đến nộp hồ sơ đăng ký CBCKRL tại cơ quan có thẩm quyền thì các cơ quan này từ chối tiếp nhận hồ sơ với lý do chờ hướng dẫn cụ thể của Chính phủ. Điển hình là trường hợp của Sở Kế hoạch và Đầu tư, đây là cơ quan thường xuyên tiếp nhận các hồ sơ chào bán cổ phiếu riêng lẻ của các loại hình công ty như: CTCP không phải là tổ chức tín dụng, công ty bảo hiểm, CTCP chứng khoán, CTCP quản lý quỹ, công ty đại chúng. Tuy nhiên do chưa có hướng dẫn nào về chức năng mới do Nghị định 01/2010/NĐ-CP mang lại, vì vậy các Sở kế hoạch và Đầu tư chỉ tiếp nhận hồ sơ đăng ký tăng vốn điều lệ thông thường, từ chối nhận hồ sơ CBCKRL. Chính vì vậy trong thời gian từ khi áp dụng Nghị định 01/2010/NĐ-CP cho đến trước khi Nghị định 58/2012/NĐ-CP có hiệu lực, thủ tục chào bán cổ phần riêng lẻ của Doanh nghiệp bị ách tắc, nhiều hồ sơ chào bán bị treo lại mà không có phản hồi của cơ quan quản lý Nhà nước. Điều này đã khiến cho các doanh nghiệp hết sức bức xúc và làm mất đi nhiều cơ hội đầu tư do thiếu vốn.
Những bất cập của nghị định 01/2010/NĐ-CP về hồ sơ và thủ tục chào bán cổ phiếu riêng lẻ đã được Nghị định 58/2012/NĐ-CP điều chỉnh theo hướng quy định rõ ràng hơn. Theo đó, Nghị định 58/2012/NĐ-CP phân biệt rõ hồ sơ, trình tự và thủ tục chào bán đối với 2 loại hình: CTCP chưa đại chúng và CTCP đại chúng.
Hồ sơ chào bán cổ phiếu riêng lẻ của công ty cổ phần chưa đại chúng bao gồm:
- Giấy đăng ký chào bán cổ phiếu riêng lẻ theo mẫu số 01 Phụ lục Nghị định 58/2012/NĐ-CP;
- Quyết định của Đại hội đồng cổ đông thông qua phương án chào bán và phương án sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán;
- Quyết định của Hội đồng quản trị thông qua tiêu chí và danh sách lựa chọn đối tượng được chào bán trong trường hợp được Đại hội đồng cổ đông uỷ quyền;
- Tài liệu cung cấp thông tin về đợt chào bán cho nhà đầu tư (nếu có);
- Tài liệu chứng minh đáp ứng tỷ lệ tham gia của nhà đầu tư nước ngoài và tuân thủ quy định về hình thức đầu tư trong trường hợp chào bán cho nhà đầu tư nước ngoài.
Hồ sơ chào bán cổ phiếu riêng lẻ của công ty đại chúng bao gồm:
Ngoài các văn bản tương tự như hồ sơ chào bán cổ phiếu riêng lẻ của CTCP chưa đại chúng thì hồ sơ chào bán của công ty đại chúng còn bao gồm văn bản chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh có điều kiện (nếu có).
Như vậy, Nghị định 58/2012/NĐ-CP đã quy định cụ thể về hồ sơ chào bán cổ phiếu riêng lẻ của CTCP chưa đại chúng và công ty đại chúng, theo đó hồ sơ chào bán của hai loại hình công ty này về cơ bản là giống nhau, tuy nhiên đối với công ty đại chúng thì cần phải có thêm văn bản chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh có điều kiện
Một điểm mới của Nghị định 58/2012/NĐ-CP so với Nghị định 01/2010/NĐ-CP và các quy định trước đây về chào bán cổ phiếu riêng lẻ là Nghị định 58/2010/NĐ-CP đã bổ sung quy định về trình tự, thủ tục đăng ký chào bán cổ phiếu riêng lẻ. Thủ tục đăng ký chào bán cổ phiếu riêng lẻ được quy định cụ thể với các bước đăng ký chào bán như sau: Luận văn: Tổng quan về bán cổ phiếu lẻ tại các Cty Cổ phần
Tổ chức phát hành gửi hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu riêng lẻ tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Nghị định 58/2012/NĐ-CP. Cơ quan có thẩm quyền theo Nghị định 58/2012/NĐ-CP bao gồm: Bộ Tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm không phải là công ty đại chúng; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với tổ chức tín dụng không phải là công ty đại chúng; Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đối với trường hợp tổ chức phát hành là công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty đại chúng; Sở Kế hoạch và Đầu tư; Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế trong trường hợp tổ chức phát hành là CTCP chưa đại chúng không phải là doanh nghiệp bảo hiểm, tổ chức tín dụng, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ. Việc quy định cụ thể các cơ quan quản lý thuận lợi cho các doanh nghiệp tiến hành chào bán cổ phiếu riêng lẻ khi nộp hồ sơ.
Trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ và hợp lệ, trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký chào bán cổ phần riêng lẻ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải có ý kiến bằng văn bản yêu cầu tổ chức phát hành bổ sung, sửa đổi hồ sơ. Thời gian nhận hồ sơ đầy đủ và hợp lệ được tính từ thời điểm tổ chức phát hành hoàn thành việc bổ sung, sửa đổi hồ sơ.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký đầy đủ và hợp lệ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thông báo cho tổ chức đăng ký và công bố trên trang thông tin điện tử về việc chào bán cổ phiếu riêng lẻ của tổ chức đăng ký.
Trong vòng 10 ngày kể từ khi hoàn thành đợt chào bán, tổ chức phát hành gửi báo cáo kết quả đợt chào bán này cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Việc quy định về trình tự, thủ tục đăng ký chào bán cổ phiếu riêng lẻ là một điểm mới quan trọng, vừa tạo thuận lợi cho các CTCP thực hiện chào bán cổ phiếu riêng lẻ vừa là cơ sở để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện việc tiếp nhận và giải quyết hồ sơ chào bán của Doanh nghiệp, góp phần đẩy nhanh quá trình chào bán cổ phiếu riêng lẻ của các CTCP. Tuy nhiên cũng giống như Nghị định 01/2010/NĐ-CP, quy định về thủ tục tiếp nhận và xử lý hồ sơ chào bán cổ phần riêng lẻ chưa thực sự rõ ràng. Thẩm quyền quản lý và tiếp nhận hồ sơ của các cơ quan Nhà nước mặc dù được xác định nhưng chưa có văn bản hướng dẫn rõ cho các cơ quan này. Điều 8 Nghị định 58/2012/NĐ-CP quy định thẩm quyền của các cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực CBCKRL là “ Tiếp nhận và xử lý hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu riêng lẻ theo quy định của Nghị định này và pháp luật có liên quan”. Quy định này không mới hơn, không khả quan hơn quy định “Trình tự, thủ tục tiếp nhận và xử lý hồ sơ đăng ký chào bán cổ phần riêng lẻ phải được niêm yết công khai tại cơ quan có thẩm quyền” tại Khoản 2 Điều 7 Nghị định 01/2010/NĐ-CP là bao nhiêu nếu như không có văn bản hướng dẫn cụ thể cho các cơ quan có thẩm quyền thực hiện. Thiết nghĩ khi áp dụng Nghị định 58/2012/NĐ-CP, việc tiếp nhận và xử lý hồ sơ chào bán cổp hiếu riêng lẻ của các CTCP có thể sẽ tiếp tục bị vướng mắc như thời gian trước đây.
Nghĩa vụ của tổ chức phát hành cổ phiếu riêng lẻ
Khác với chào bán cổ phiếu ra công chúng, CNCKRL giới hạn phạm vi số lượng Nhà đầu tư nhất định nên không được quảng bá rộng rãi, vì vậy “tổ chức phát hành cổ phiếu riêng lẻ và các cá nhân, tổ chức có liên quan khác không được quảng cáo việc chào bán trên các phương tiện thông tin đại chúng. Việc công bố thông tin không được chứa đựng nội dung có tính chất quảng cáo hoặc mời chào mua cổ phiếu” (khoản 1 Điều 7 Nghị định 58/2012/NĐ-CP).
Trong quá trình nộp hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu riêng lẻ tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, tổ chức phát hành có trách nhiệm theo dõi tình hình hồ sơ, và phải sửa đổi, bổ sung, giải trình các hồ sơ theo yêu cầu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Sau khi được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chấp thuận hồ sơ đăng ký chào bán, tổ chức phát hành có nghĩa vụ tổ chức thực hiện chào bán cổ phiếu riêng lẻ theo phương án đã đăng ký.
Kết thúc đợt chào bán cổ phiếu riêng lẻ, tổ chức phát hành phải báo cáo kết quả chào bán lên cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, đồng thời tiến hành công bố thông tin kết quả đợt chào bán cổ phiếu riêng lẻ. Riêng công ty cổ phần đại chúng phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ công bố thông tin theo quy định của pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán đối với công ty đại chúng.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Luật Học
2.1.2 Quy định về chào bán trái phiếu riêng lẻ của công ty cổ phần Luận văn: Tổng quan về bán cổ phiếu lẻ tại các Cty Cổ phần
Chào bán trái phiếu riêng lẻ được quy định tại Luật Chứng khoán 2006, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật chứng khoán, các văn bản, nghị định hướng dẫn thi hành Luật chứng khoán và được cụ thể hóa tại Nghị định số 52/2005/NĐ-CP về phát hành TPDN, Nghị định 53/2009/NĐ – CP ngày 04/06/2009 về phát hành trái phiếu quốc tế. Văn bản mới nhất điều chỉnh về hoạt động chào bán trái phiếu riêng lẻ là Nghị định 90/2011/NĐ-CP ngày 14 tháng 10 năm 2011 của Chính phủ về phát hành TPDN, Nghị định 90/2011/NĐ-CP thay thế cho Nghị định 52/2005/NĐ-CP và 53/2009/NĐ – CP, thống nhất các quy định về chào bán trái phiếu.
Trái phiếu công ty là hình thức thông dụng nhất của chứng khoán nợ công ty. Về thực chất, trái phiếu công ty được xem như là một chứng chỉ ghi nhận sự cam kết của công ty về việc sẽ thanh toán số tiền mà nhà đầu tư đã cho công ty vay vào một ngày xác định. Để sử dụng được số tiền mà nhà đầu tư đã cho vay, công ty phải trả cho người cầm giữ trái phiếu một số “lãi” nhất định hàng năm. “Lãi” này được xác định theo tỷ lệ phần trăm so với số tiền mà người đầu tư cho công ty vay. Vì người cầm giữ trái phiếu không phải là chủ sở hữu công ty nên họ không được chia cổ tức hay không có quyền bầu cử cũng như tham gia quản lý công ty.
Vào năm 1994, một số DNNN thuộc ngành điện, xi măng đã được Bộ Tài chính cho phép phát hành trái phiếu DNNN. Và cũng kể từ đây các doanh nghiệp bắt đầu làm quen với phương thức huy động vốn mới nhưng chủ yếu trong phạm vi hẹp và chưa phổ biến. Nhiều doanh nghiệp không đáp ứng yêu cầu vay vốn qua ngân hàng đã tìm được phương thức huy động vốn linh hoạt và chủ động hơn. Hoạt động này khi đó chịu sự điều chỉnh của Nghị định 120/1994/NĐ-CP ngày 18/9/1994 của Chính phủ ban hành quy chế tạm thời về việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu của DNNN. Nhưng Nghị định này tồn tại nhiều bất cập, không phù hợp với thực tế. Ví dụ như quy định về phương thức phát hành trực tiếp tại doanh nghiệp, chủ thể phát hành này chỉ giới hạn cho những DNNN…
Hiện nay, các doanh nghiệp thực hiện phát hành trái phiếu để huy động vốn vay nhưng kết quả đạt được chưa cao, chưa thực sự là một kênh huy động vốn tiên tiến cho doanh nghiệp. Thị trường TPDN của Việt Nam hiện nay vẫn còn ở giai đoạn sơ khai, quy mô còn nhỏ, mang tính riêng lẻ, chưa phát huy hết tiềm năng và nhu cầu của doanh nghiệp. Số lượng doanh nghiệp phát hành trái phiếu trái phiếu chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Trái phiếu chào bán trên thị trường ở mức khiêm tốn và chất lượng chưa cao, tập trung chủ yếu ở trái phiếu ngân hàng và trái phiếu bất động sản. Quy mô của thị trường trái phiếu Việt Nam (gồm cả trái phiếu Chính phủ) hiện ở mức 17% GDP (thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực: tỷ lệ này ở Singapore là 74%, Trung Quốc là 53%, Malaysia là 82%, Thái Lan là 58%). Phát hành TPDN chưa được sử dụng như một cách thức huy động vốn dài hạn hữu hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam mặc dù phát hành TPDN thường có những lợi thế hơn hẳn so với các kênh huy động vốn khác như không phải chịu sức ép chi phối từ cổ đông mới như phát hành cổ phiếu, được hưởng lợi từ chính sách thuế đối với khoản lãi trả trái phiếu, hình thức vay vốn thông qua phát hành trái phiếu không phải tuân thủ các điều kiện vay vốn khắt khe của các ngân hàng thương mại.
Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân như tâm lý của nhà đầu tư không thích đầu tư vào TPDN vì sợ rủi ro cao, lãi suất trái phiếu thấp, vấn đề công bố thông tin của doanh nghiệp phát hành, quản lý nhà nước đối với hoạt động phát hành TPDN còn chưa thích hợp… Tuy nhiên, nguyên nhân sâu xa ở đây phải kể đến là nguyên nhân pháp luật, văn bản pháp luật quy định về vấn đề phát hành trái phiếu còn nhiều hạn chế và bất cập. Ngày 19/5/2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định 52/2006/NĐ-CP về phát hành TPDN tạo cơ sở pháp lý chung cho các doanh nghiệp phát hành trái phiếu riêng lẻ để tăng vốn. Nghị định 52/2006/NĐ-CP ra đời tạo hành lang pháp lý cho doanh nghiệp trong hoạt động huy động vốn thông qua phương thức phát hành trái phiếu. Trên thực tế, Nghị định 52/2006/NĐ-CP với các quy định thoáng và cởi mở hơn về điều kiện, thủ tục chào bán đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam thu hút nhà đầu tư và nâng cao khả năng huy động vốn từ việc phát hành trái phiếu. Tuy nhiên sau một thời gian dài áp dụng, Nghị định 52/2006/NĐ-CP năm 2006 về phát hành TPDN không còn phù hợp với thực tiễn phát triển TTCK, nhiều quy định mâu thuẫn với các văn bản pháp lý khác và không phù hợp với thông lệ quốc tế.
Nhằm khơi thông dòng vốn trên thị trường này, ngày 14/10/2011, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/2011/NĐ-CP (Nghị định 90/2011/NĐ-CP) thay thế Nghị định số 52/2006/NĐ-CP về phát hành TPDN và nội dung phát hành TPDN ra thị trường vốn quốc tế quy định tại Nghị định số 53/2009/NĐ-CP ngày 04/6/2009 của Chính phủ về phát hành trái phiếu quốc tế. Nghị định 90/2011/NĐ-CP ra đời có hiệu lực thi hành từ ngày 01/12/2011 nhằm bảo đảm quyền của doanh nghiệp trong việc chủ động tiếp cận nguồn vốn trong xã hội và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư TPDN.
Pháp luật về chào bán trái phiếu riêng lẻ của CTCP được thể hiện tại Nghị định 90/2011/NĐ – CP với các nội dung cơ bản như sau:
Điều kiện chào bán trái phiếu riêng lẻ
Trước đây hầu như pháp luật không có quy định về việc chào bán trái phiếu riêng lẻ của doanh nghiệp nói chung ngoài Nghị định 120/1994/NĐ-CP ngày 17/09/1995 ban hành quy chế tạm thời về việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu của DNNN. Như vậy việc phát hành trái phiếu của CTCP, công ty TNHH không có cơ sở pháp lý, từ đó hạn chế khả năng huy động vốn của chủ thể này. Điều này đã được khắc phục cùng với sự ra đời của Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19/05/2006 và được thay thế bằng Nghị định 90/2011/NĐ-CP. Theo cách phân loại trái phiếu tại Nghị định 90/2011/NĐ-CP thì trái phiếu gồm 2 loại: trái phiếu chuyển đổi và trái phiếu không chuyển đổi. Điều kiện phát hành hai loại trái phiếu này là khác nhau, cụ thể:
- Đối với trái phiếu không chuyển đổi
- Doanh nghiệp có thời gian hoạt động tối thiểu là một (01) năm kể từ ngày
doanh nghiệp chính thức đi vào hoạt động. Quy định này là hoàn toàn hợp lý để đảm bảo quyền của nhà đầu tư. Với bản chất là chứng khoán nợ, khi nhà đầu tư sở hữu trái phiếu này trong tay họ phải được đảm bảo về khả năng trả nợ. Việc quy định thời gian hoạt động tối thiểu như trên vừa thúc đẩy nhà đầu tư trái phiếu, tăng khả năng về vốn cho doanh nghiệp vừa phù hợp nguyên tắc phát hành TPDN “tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn vay”.
Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của năm liền kề trước năm phát hành phải có lãi theo báo cáo tài chính được kiểm toán bởi Kiểm toán Nhà nước hoặc tổ chức kiểm toán độc lập được phép hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.
Báo cáo tài chính được kiểm toán của doanh nghiệp phát hành phải là báo cáo kiểm toán nêu ý kiến chấp nhận toàn phần.
Trường hợp doanh nghiệp phát hành trái phiếu trước ngày 01 tháng 4 hàng năm chưa có báo cáo tài chính năm của năm liền kề được kiểm toán thì phải có: Báo cáo tài chính được kiểm toán của năm trước năm liền kề với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi; Báo cáo tài chính quý gần nhất với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi được kiểm toán (nếu có); Báo cáo tài chính của năm liền kề với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi được Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty phê duyệt theo Điều lệ hoạt động của công ty; Đáp ứng yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn và các hạn chế khác về đảm bảo an toàn trong hoạt động đối với các ngành nghề kinh doanh có điều kiện quy định tại pháp luật chuyên ngành; Có phương án phát hành trái phiếu được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và chấp thuận quy định tại Điều 14, Điều 15 Nghị định 90/2011/NĐ-CP.
Đối với phát hành trái phiếu chuyển đổi hoặc trái phiếu kèm chứng quyền, doanh nghiệp phát hành ngoài việc đáp ứng các điều kiện như phát hành trái phiếu không chuyển đổi còn phải đáp ứng các điều kiện sau:
Thuộc đối tượng được phát hành trái phiếu chuyển đổi hoặc trái phiếu kèm theo chứng quyền;
Đảm bảo tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam theo quy định của pháp luật hiện hành;
Các đợt phát hành trái phiếu chuyển đổi phải cách nhau ít nhất sáu (06) tháng.
Mục đích của những quy định về điều kiện chào bán trái phiếu riêng lẻ là nhằm đảm bảo tính thanh khoản cũng như chất lượng của trái phiếu. Nếu so sánh với quy định về chào bán trái phiếu ra công chúng tại Luật chứng khoán 2006 thì điều kiện chào bán trái phiếu riêng lẻ có một điểm khác cơ bản là không quy định mức vốn tối thiểu của doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Đây là một điểm khá phù hợp với thực tế ở Việt Nam, chủ yếu các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, mức vốn điều lệ thấp nên nếu quy định điều kiện trên thì các chủ thể này khó có khả năng huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu. Luận văn: Tổng quan về bán cổ phiếu lẻ tại các Cty Cổ phần
Nhằm nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp khi huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu và bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư mua trái phiếu của doanh nghiệp, Nghị định 90/2011/NĐ-CP đã quy định các điều kiện phát hành trái phiếu doanh nghiệp theo hướng chặt chẽ hơn so với quy định trước đây: “Đối với việc phát hành trái phiếu để đầu tư cho các chương trình, dự án, doanh nghiệp phát hành phải đảm bảo duy trì tỷ lệ vốn chủ sở hữu tối thiểu là 20% trong tổng mức đầu tư của chương trình, dự án” (khoản 4 Điều 4). Quy định này nhằm bảo đảm các doanh nghiệp phải có năng lực tài chính, có khả năng trả nợ mới được phát hành trái phiếu để huy động vốn.
Đối với trường hợp doanh nghiệp phát hành trái phiếu trước ngày 01/4 hàng năm chưa có báo cáo tài chính được kiểm toán của năm trước, trường hợp này, doanh nghiệp phải có: (i) báo cáo tài chính được kiểm toán của năm trước năm liền kề với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi; (ii) báo cáo tài chính quý gần nhất với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi được kiểm toán (nếu có); (iii) báo cáo tài chính của năm liền kề với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi được Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty phê duyệt.
Đối với doanh nghiệp phát hành trái phiếu tại thị trường trong nước, kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của năm liền kề trước năm phát hành phải có lãi và phải có báo cáo tài chính được kiểm toán của năm liền kề đó. Đối với việc phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế, Nghị định 90/2011/NĐ-CP quy định kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh ba năm liên tiếp liền kề trước năm phát hành của doanh nghiệp phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế phải có lãi theo báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Mặt khác, Nghị định 90/2011/NĐ-CP quy định báo cáo tài chính được kiểm toán của doanh nghiệp (cả trong trường hợp phát hành trái phiếu trong nước và phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế) phải là báo cáo kiểm toán nêu ý kiến chấp nhận toàn phần (Điều 13 và Điều 23), doanh nghiệp không được phát hành trái phiếu trong trường hợp báo cáo tài chính được kiểm toán có ý kiến ngoại trừ của tổ chức kiểm toán. Luận văn: Tổng quan về bán cổ phiếu lẻ tại các Cty Cổ phần
Đối với việc phát hành trái phiểu chuyển đổi thì các đợt phát hành trái phiếu chuyển đổi phải cách nhau ít nhất 06 tháng để phù hợp với quy định của Luật Chứng khoán.
Tuy nhiên, điều kiện chào bán trái phiếu của CTCP có một số điểm cần lưu như sau : Khoản 2 Điều 88 Luật doanh nghiệp 2005 quy định CTCP không được quyền phát hành trái phiếu trong hai trường hợp sau:
- Không thanh toán đủ gốc và lãi trái phiếu đã phát hành hoặc không thanh toán đủ các khoản nợ đến hạn trong ba năm liên tiếp;
- Tỷ suất lợi nhuận sau thuế bình quân của ba năm liên tiếp trước đó không cao hơn mức lãi suất dự kiến trả cho trái phiếu định phát hành.
CTCP là loại hình doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp 2005. Nghị định 90/2011/NĐ-CP là văn bản điều chỉnh hoạt động phát hành trái phiếu riêng lẻ của CTCP. Do đó, CTCP phải tuân thủ những điều kiện phát hành theo Điều 13 Nghị định 90/2011/NĐ-CP và Luật Doanh nghiệp 2005. Tuy nhiên, hai văn bản này có sự quy định khác nhau về điều kiện chào bán trái phiếu riêng lẻ của CTCP. Đây là điểm mâu thuẫn trong quy định về điều kiện phát hành trái phiếu trong các văn bản Luật, điều này gây ra khó khăn trong việc xác định điều kiện phát hành trái phiếu của CTCP phải tuân theo quy định nào mới là chính xác. Điều kiện theo Nghị định 90/NĐ-CP có tính khả thi và thuận lợi hơn cho CTCP chào bán trái phiếu riêng lẻ. Tuy nhiên, cũng không thể bỏ qua quy định của Luật Doanh nghiệp vì đây là văn bản luật điều chỉnh tổ chức, hoạt động của CTCP và quy định tại Luật doanh nghiệp này để nhằm mục đích bảo đảm khả năng thanh toán của chủ thể phát hành, đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư vì vậy không thể không xem xét và áp dụng.
Hồ sơ và phương thức chào bán trái phiếu riêng lẻ
Hồ sơ phát hành trái phiếu do doanh nghiệp phát hành chuẩn bị để đăng ký phát hành trái phiếu và công bố cho các đối tượng mua trái phiếu. Hồ sơ phát hành trái phiếu bao gồm:
- Phương án phát hành trái phiếu và quyết định phê duyệt, chấp thuận phương án phát hành trái phiếu của các cấp có thẩm quyền;
- Các tài liệu và văn bản pháp lý chứng minh doanh nghiệp đủ điều kiện để phát hành trái phiếu;
- Kết quả xếp loại của tổ chức định mức tín nhiệm đối với tổ chức phát hành trái phiếu và loại trái phiếu phát hành (nếu có);
- Các hợp đồng bảo lãnh phát hành, bảo lãnh thanh toán, hợp đồng đại lý và các tài liệu liên quan khác (nếu có).
- Văn bản pháp lý chứng minh các dự án sử dụng nguồn vốn trái phiếu đã hoàn thành các thủ tục về đầu tư và đã có quyết định đầu tư của cấp có thẩm quyền trong trường hợp phát hành trái phiếu để thực hiện các chương trình, dự án đầu tư của doanh nghiệp.
Thông thường và trong thực tế, để có thêm tính thuyết phục đối với các nhà đầu tư, CTCP khi phát hành trái phiếu riêng lẻ thường chuẩn bị thêm các tài liệu sau : Bản cáo bạch ; Hợp đồng tư vấn pháp lý và ý kiến pháp lý về việc phát hành trái phiếu với một tổ chức hành nghề luật sư hoặc tổ chức có chức năng bảo lãnh phát hành mà có uy tín và kinh nghiệm trong việc tư vấn phát hành
Trái phiếu được phát hành thông qua các công ty chứng khoán, tổ chức tín dụng và các định chế tài chính được phép cung cấp dịch vụ đấu thầu, bảo lãnh và đại lý phát hành trái phiếu theo quy định của pháp luật theo các phương thức : đấu thầu phát hành trái phiếu, bảo lãnh phát hành trái phiếu, đại lý phát hành trái phiếu và bán trực tiếp cho nhà đầu tư mua trái phiếu (đối với doanh nghiệp phát hành là tổ chức tín dụng). Luận văn: Tổng quan về bán cổ phiếu lẻ tại các Cty Cổ phần
Thủ tục chào bán trái phiếu riêng lẻ
Theo quy định tại Nghị định 90/2011/NĐ-CP, thủ tục chào bán trái phiếu riêng lẻ của CTCP bao gồm 2 bước :
- CTCP chào bán trái phiếu riêng lẻ phải thông báo bằng văn bản về việc phát hành trái phiếu với Bộ Tài chính
- Đối với doanh nghiệp phát hành là công ty đại chúng, phương án phát hành trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm theo chứng quyền sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt và chấp thuận phải đăng ký với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và chỉ được phát hành trái phiếu khi có ý kiến bằng văn bản của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.
Doanh nghiệp phát hành có trách nhiệm công bố thông tin cho các nhà đầu tư đăng ký mua trái phiếu.
Công bố thông tin trước đợt phát hành trái phiếu riêng lẻ: Việc công bố thông tin không được chứa đựng nội dung có tính chất quảng cáo, mời chào và không được đăng tải công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, trừ trường hợp công bố thông tin theo pháp luật về chứng khoán và các văn bản pháp luật có liên quan. Nội dung công bố thông tin bao gồm: Tổng giá trị trái phiếu và kỳ hạn phát hành; Tình hình tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm phát hành; Phương án phát hành trái phiếu, kế hoạch sử dụng tiền thu được từ phát hành trái phiếu, phương án trả nợ gốc, lãi trái phiếu đã được cấp có thẩm quyền thông qua; Kết quả xếp loại của tổ chức định mức tín nhiệm (nếu có).
Công bố thông tin sau đợt chào bán: Sau mười lăm (15) ngày kể từ khi hoàn tất đợt phát hành trái phiếu, doanh nghiệp phát hành phải thực hiện công bố thông tin về kết quả đợt phát hành với các nội dung cơ bản sau: Khối lượng trái phiếu phát hành thành công; Kỳ hạn và lãi suất trái phiếu.
Thủ tục cuối cùng hoàn tất đợt chào bán trái phiếu là doanh nghiệp phải Báo cáo cho cơ quan quản lý Nhà nước: Chậm nhất là mười lăm (15) ngày sau khi hoàn tất toàn bộ đợt phát hành trái phiếu, doanh nghiệp phát hành có trách nhiệm báo cáo cơ quan phê duyệt, chấp thuận phương án phát hành trái phiếu kết quả phát hành, đồng gửi Bộ Tài chính và chậm nhất sau mười lăm (15) ngày, kể từ ngày đến hạn thanh toán toàn bộ gốc, lãi trái phiếu, doanh nghiệp phát hành có trách nhiệm báo cáo cơ quan phê duyệt, chấp thuận phương án phát hành trái phiếu về tình hình thanh toán gốc, lãi trái phiếu và tình hình sử dụng vốn từ phát hành trái phiếu, đồng gửi Bộ Tài chính.
Riêng đối với trái phiếu chuyển đổi hoặc trái phiếu kèm theo chứng quyền, trong vòng mười (10) ngày kể từ ngày hoàn tất việc chuyển đổi trái phiếu chuyển đổi thành cổ phiếu hoặc ngày thực hiện quyền mua cổ phiếu của người sở hữu trái phiếu kèm theo chứng quyền, doanh nghiệp phát hành có trách nhiệm báo cáo cơ quan phê duyệt, chấp thuận phương án phát hành trái phiếu đồng gửi Bộ Tài chính.
2.1.3 Quy định về quản lý Nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty cổ phần Luận văn: Tổng quan về bán cổ phiếu lẻ tại các Cty Cổ phần
Cơ quan quản lý Nhà nước
Nếu như hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng chịu sự quản lý thống nhất của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước thì hoạt động CBCKRL có sự tham gia quản lý của nhiều cơ quan có thẩm quyền khác nhau, không có cơ quan quản lý chung. Mỗi cơ quan quản lý hoạt động CBCKRL của chủ thể nhất định dưới những góc độ khác nhau.
Theo quy định tại Chương IX Luật doanh nghiệp 2005, Chính phủ là cơ quan có trách nhiệm thống nhất quản lý nhà nước đối với mọi hoạt động của doanh nghiệp. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ chịu trách nhiệm trước Chính phủ về nhiệm vụ được phân công. Uỷ ban nhân dân tỉnh thực hiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp trong phạm vi địa phương. Do đó, những cơ quan này có thẩm quyền quản lý nhất định đối với hoạt động CBCKRL.
Đối với hoạt động chào bán cổ phiếu riêng lẻ của CTCP, cơ quan quản lý Nhà nước được phân chia cụ thể cho hai loại hình CTCP chưa đại chúng và CTCP đại chúng, cụ thể theo quy định tại Điều 8 Nghị định 58/2012/NĐ-CP thì đối với CTCP là công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ và công ty đại chúng chịu sự quản lý của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Đối với các CTCP chưa đại chúng không phải là doanh nghiệp bảo hiểm, tổ chức tín dụng, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ chịu sự quản lý của Sở Kế hoạch và Đầu tư và Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế.
Đối với các doanh nghiệp chào bán trái phiếu riêng lẻ theo Nghị định 90/2011/NĐ-CP, Bộ Tài chính thống nhất quản lý và có quyền đình chỉ việc chào bán trái phiếu của các doanh nghiệp có hành vi vi phạm. Bộ Tài chính phối hợp với Ngân hàng Nhà nước trong quản lý nhà nước đối với hoạt động phát hành trái phiếu riêng lẻ của các tổ chức tín dụng thuộc sở hữu nhà nước.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành CTCP theo Nghị định 38/2003/NĐ-CP chịu sự quản lý chủ yếu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc xin phép chuyển đổi, lập hồ sơ để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Thủ tướng Chính phủ là người quyết định cho phép chuyển đổi.
Các DNNN thực hiện chuyển đổi sang hình thức CTCP theo Nghị định 187/2004/NĐ-CP, hoạt động quản lý nhà nước thuộc về rất nhiều Bộ, ngành, địa phương khác nhau, chủ yếu theo cơ quan chủ quản của doanh nghiệp. Theo Điều 40 Nghị định 187/2004/NĐ-CP thì Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, Bộ Tài chính có trách nhiệm chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, đôn đốc các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính Phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các tổng công ty thực hiện công tác cổ phần hoá theo quy định của pháp luật.
Nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ
Quản lý nhà nước đối với CBCKRL nhằm đảm bảo hoạt động chào bán diễn ra đúng trình tự, thủ tục theo quy định pháp luật, cụ thể theo quy định tại Nghị định 58/2012/NĐ-CP, cơ quan Nhà nước có trách nhiệm: Tiếp nhận và xử lý hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu riêng lẻ; Giám sát hoạt động chào bán cổ phiếu riêng lẻ và xử lý theo thẩm quyền các hành vi vi phạm quy định về chào bán cổ phiếu riêng lẻ.
Nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động CBCKRL ở Việt Nam hiện nay chủ yếu là quản lý hoạt động chào bán chứng khoán của chủ thể chào bán, tổ chức trung gian và các nhà đầu tư.
Đối với chủ thể chào bán chứng khoán riêng lẻ
Doanh nghiệp khi thực hiện CBCKRL để huy động vốn phải bảo đảm khả năng thanh toán, công khai, công bằng giữa các nhà đầu tư và tuân thủ những quy định của pháp luật về công bố thông tin.
Nghị định 90/2011/NĐ-CP quy định khá cụ thể trách nhiệm của doanh nghiệp khi chào bán trái phiếu. Doanh nghiệp sử dụng lượng vốn thu được theo mục đích đã cam kết với nhà đầu tư, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh toán, cam kết với tổ chức đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành.
Ngoài ra, pháp luật còn yêu cầu các doanh nghiệp khi CBCKRL phải thực hiện công bố thông tin để đảm bảo tính công khai và minh bạch. Tuy mức độ công khai thông tin không chặt chẽ, đầy đủ như chào bán chứng khoán ra công chúng nhưng chủ thể chào bán phải đảm bảo cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông tin cần thiết cho nhà đầu tư và chịu trách nhiệm về tính trung thực của thông tin.
Theo Điều 31 Nghị định 90/2011/NĐ-CP, Doanh nghiệp phát hành có trách nhiệm công bố thông tin cho các nhà đầu tư đăng ký mua trái phiếu. Việc công bố thông tin không được chứa đựng nội dung có tính chất quảng cáo, mời chào và không được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng, trừ trường hợp công bố thông tin theo pháp luật về chứng khoán và các văn bản pháp luật có liên quan. Nội dung công bố thông tin bao gồm: tổng giá trị trái phiếu và kỳ hạn phát hành, tình hình tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm phát hành, phương án phát hành trái phiếu, kế hoạch sử dụng tiền thu được từ phát hành trái phiếu, phương án trả nợ gốc, lãi trí phiếu đã được cơ quan có thẩm quyền thông qua, kết quả xếp loại của tổ chức định mức tín nhiệm (nếu có). Quy định về công bố thông tin đã hạn chế tình trạng doanh nghiệp không muốn công khai thông tin, bảo đảm thị trường vận hành an toàn.
Đối với tổ chức trung gian và nhà đầu tư:
Hiện nay, chưa có văn bản pháp luật đề cập chính thức đến trách nhiệm của tổ chức trung gian và quản lý nhà nước đối với chủ thể này trong hoạt động CBCKRL. Với vai trò bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành… tổ chức trung gian phải bảo đảm thực hiện đúng cam kết với chủ thể phát hành và tuân thủ quy định của pháp luật về CBCKRL.
TTCK Việt Nam những năm qua thu hút sự tham gia đông đảo của công chúng đầu tư. Tuy nhiên, các quy định pháp luật hiện hành chưa có nhiều quy định điều chỉnh hoạt động của các nhà đầu tư khi tham gia mua bán chứng khoán được chào bán riêng lẻ.
Như vậy, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thực trạng pháp luật về hoạt động CBCKRL của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn còn những tồn tại và hạn chế cần được hoàn thiện. Luận văn: Tổng quan về bán cổ phiếu lẻ tại các Cty Cổ phần
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Thực trạng về HĐ bán cổ phiếu tại các Cty cổ phần