Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng xã hội hóa công chứng tại Việt Nam hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay, thực trạng và giải pháp dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.1. THỰC TRẠNG XÃ HỘI HOÁ CÔNG CHỨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1.1. Thực trạng về pháp luật công chứng.
Ngay khi mới giành được độc lập, vào ngày 01/10/1945 Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Trọng Khánh đã ký quyết định về một số vấn đề liên quan đến hoạt động công chứng, như bãi chức công chứng viên người Pháp tại văn phòng công chứng; bổ nhiệm một công chứng viên người Việt Nam thay thế công chứng viên người Pháp tại Hà Nội; những luật lệ cũ về công chứng vẫn được áp dụng, trừ những quy định trái với chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 15/11/1945, Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh 59/SL, quy định về thể lệ thị thực các giấy tờ với nội dung trình tự, thủ tục thị thực giấy tờ cho công dân trong giao lưu dân sự như mua bán, trao đổi, chứng nhận địa chỉ cụ thể của một người tại địa phương. Xét về nội dung đây chỉ là một thủ tục hành chính, càng về sau việc áp dụng Sắc lệnh 59/SL càng mang tính hình thức, chủ yếu xác nhận ngày tháng năm, chữ ký và địa chỉ thường trú của đương sự. Ngày 29/2/1952, Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh 85/SL quy định về thể lệ trước bạ về các việc mua, bán, cho, đổi nhà cửa, ruộng đất. Do hoàn cảnh lịch sử bấy giờ nên Sắc lệnh 85/SL chỉ áp dụng đối với những vùng tự do hoặc những vùng thuộc Uỷ ban kháng chiến. Cũng theo Sắc lệnh này, Uỷ ban kháng chiến cấp xã được nhận thực vào văn tự theo hai nội dung: nhận thực chữ ký của các bên mua, bán, cho, đổi nhà cửa, ruộng đất, và nhận thực người đứng ra bán, cho, đổi là chủ của những nhà cửa, ruộng đất đem bán, trao đổi. Luận văn: Thực trạng xã hội hóa công chứng tại Việt Nam
Giai đoạn từ năm 1954-1981 có rất ít quy phạm điều chỉnh hoạt động công chứng, chứng thực. Đến năm 1981, có Nghị định 143/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp. Trên cơ sở của Nghị định 143/HĐBT, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 quy định về công tác công chứng nhà nước – Đây là Thông tư có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, khai sinh hệ thống công chứng nhà nước ở Việt Nam. Theo đó, công chứng nhà nước được xác định là một hoạt động của Nhà nước với mục đích giúp các công dân, cơ quan, tổ chức lập và xác nhận các văn bản, sự kiện có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản, sự kiện đó, làm cho các văn bản, sự kiện đó có hiệu lực thực hiện. Cùng với Thông tư này là sự ra đời của Phòng Công chứng nhà nước thành phố Hồ Chí Minh, Phòng Công chứng nhà nước thành phố Hà Nội, Phòng Công chứng nhà nước tỉnh An Giang và một số Phòng Công chứng ở các tỉnh, thành phố khác và song song với công tác công chứng, công tác chứng thực của Uỷ ban nhân dân cũng được kiện toàn. Tuy nhiên đây là văn bản pháp lý đầu tiên về công chứng trong giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới nên văn bản này không thể tránh hết được các hạn chế đó là: chưa xác định được chủ thể, đối tượng của hoạt động công chứng cũng như nội dung việc công chứng, chưa phân biệt rõ hoạt động công chứng với hoạt động của các cơ quan nhà nước khác. Và sau đó tiếp tục ra đời Thông tư số 858/QLTPK ngày 15/10/1987 của Bộ Tư pháp về hướng dẫn thực hiện các việc công chứng; Quyết định số 90/HĐBT ngày 19/7/1989 của Hội đồng Bộ trưởng về con dấu của phòng công chứng nhà nước. Tính đến thời điểm 27/2/1991 – thời điểm ban hành Nghị định số 45/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước, trên cả nước đã thí điểm thành lập 29 phòng công chứng nhà nước ở 29 tỉnh, thành phố.
Ngày 27/02/1991, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 45/HĐBT về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước (đây là văn bản pháp quy đầu tiên về công chứng ở nước ta), đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo giá trị pháp lý của các văn bản. Tại Điều 1 quy định: “Công chứng nhà nước là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là các tổ chức) góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng có giá trị chứng cứ”. Theo Nghị định này, khái niệm công chứng đã được xác định cụ thể, rõ ràng.
Sau đó ngày 18/5/1996, Chính phủ ban hành Nghị định 31/CP về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước, theo tinh thần của Nghị định này, phòng công chứng thuộc Sở Tư pháp (trước đây theo Nghị định 45/HĐBT thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh) nhằm chuyên môn hoá hoạt động công chứng và giảm tình trạng quá tải cho Uỷ ban nhân dân. Cũng tại Điều 1, công chứng nhà nước được xác định: “Công chứng là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là các tổ chức) góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các hợp đồng, giấy tờ đã được công chứng nhà nước chứng nhận hoặc ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền chứng thực có giá trị chứng cứ, trừ trường hợp bị tòa án nhân dân tuyên bố là vô hiệu”. Ở đây, khái niệm “công chứng nhà nước” đã không còn mà chỉ là khái niệm “công chứng” được xác định rõ ràng, cụ thể và bước đầu đã có sự phân biệt hành vi công chứng và hành vi chứng thực, tuy nhiên ý nghĩa pháp lý của hành vi công chứng và hành vi chứng thực chưa được phân biệt. Luận văn: Thực trạng xã hội hóa công chứng tại Việt Nam
Ngày 08/12/2000, Chính phủ ban hành Nghị định số 75/2000/NĐ-CP về công chứng, chứng thực, có hiệu lực từ ngày 01/4/2001. Nghị định này quy định về phạm vi công chứng, chứng thực, nguyên tắc hoạt động, thủ tục, trình tự thực hiện việc công chứng, chứng thực, tổ chức phòng công chứng và công tác chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Bằng hoạt động công chứng, chứng thực của mình, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện công tác công chứng, chứng thực đã góp phần cho việc bảo đảm an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và các quan hệ xã hội khác, phòng ngừa hành vi vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Theo Nghị định này, khái niệm công chứng mới theo đó đã được tách bạch khỏi khái niệm chứng thực: “Công chứng là việc phòng công chứng chứng nhận tính xác thực của hợp đồng được giao kết hoặc giao dịch khác được xác lập trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và quan hệ xã hội khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) và thực hiện các việc khác theo quy định của Nghị định này” (khoản 1 Điều 2) và khái niệm chứng thực “ là việc ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã xác nhận sao y giấy tờ, hợp đồng, giao dịch và chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch của họ theo quy định của Nghị định này” (khoản 2 Điều 2 ).
Đây là Nghị định có nhiều điểm mới so với các văn bản trước đây như khái niệm công chứng, chứng thực được phân biệt rạch ròi; phạm vi công chứng, chứng thực được quy định rộng hơn; trình tự, thủ tục được quy định rõ ràng, cụ thể… Tuy nhiên, mặc dù Nghị định đã có sự phân biệt hành vi công chứng và hành vi chứng thực bằng hai khái niệm khác nhau, song xem xét tổng thể Nghị định số 75/2000/NĐ-CP, có thể thấy, hoạt động công chứng và hoạt động chứng thực vẫn được đồng nhất cả về chủ thể, đối tượng và ý nghĩa pháp lý. Mặc dù sử dụng thuật ngữ “Công chứng nhà nước” hay “Công chứng” thì quan niệm về công chứng của nước ta vẫn là hoạt động của Nhà nước, do Nhà nước trực tiếp thực hiện. Phòng công chứng là cơ quan nhà nước, công chứng viên là công chức nhà nước, hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Ở những nơi chưa thành lập phòng công chứng, những việc mang tính chất công chứng được giao cho Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã thực hiện. Ở nước ngoài, việc công chứng được giao cho cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài thực hiện.
Do nhu cầu kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trước xu thế hội nhập và yêu cầu của cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, mô hình công chứng nhà nước đã không còn phù hợp và bộc lộ những bất cập đòi hỏi phải cải cách.
Ngày 29/11/2006, Luật Công chứng đã ra đời và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2007 và ngày 18/5/2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 79/2007/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký cũng được triển khai, từ đây hai hành vi công chứng, chứng thực được phân biệt rõ ràng, cụ thể. Ngay sau đó ngày 04/01/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số 02/2008/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều trong Luật Công chứng năm 2006. Luật Công chứng là bộ luật đầu tiên quy định về hoạt động công chứng ở nước ta, gồm 8 chương, 67 điều với các nội dung về công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng, thủ tục công chứng hợp đồng- giao dịch, lưu trữ hồ sơ, phí công chứng, thù lao công chứng, xử lý vi phạm, khiếu nại, giải quyết tranh chấp.
Điểm mới của Luật Công chứng so với các văn bản trước đây là Luật chỉ quy định các vấn đề về công chứng, không quy định các vấn đề liên quan đến chứng thực. Việc tách biệt công chứng và chứng thực như vậy vừa đáp ứng được yêu cầu về cải cách hành chính, vừa tạo điều kiện để chuyển tổ chức công chứng sang chế độ dịch vụ công. Kể từ đây, nhiệm vụ của các tổ chức hành nghề công chứng chỉ còn thẩm quyền công chứng các hợp đồng, giao dịch bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng. Một nội dung mới của Luật Công chứng nữa là quy định về các tổ chức hành nghề công chứng và chế định công chứng viên. Theo đó, công chứng viên không nhất thiết phải là công chức nhà nước. Theo Luật Công chứng, có hai hình thức tổ chức hành nghề công chứng song hành hoạt động dưới sự quản lý của Sở Tư pháp là Phòng Công chứng do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thành lập và Văn phòng Công chứng do các công chứng viên thành lập, được Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cho phép thành lập thì sẽ tồn tại hai loại công chứng viên: công chứng viên làm việc trong các Phòng Công chứng (nhà nước) và công chứng viên làm việc tại Văn phòng Công chứng do các công chứng viên tự thành lập, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp hoặc tổ chức dưới hình thức công ty hợp danh. Mô hình Văn phòng Công chứng là một hình thức mới của tổ chức hành nghề công chứng. Những quy định về tổ chức hành nghề công chứng thể hiện rõ nét tinh thần đổi mới các tổ chức hành nghề công chứng theo hướng xã hội hóa và dịch vụ.
Để triển khai thi hành Luật Công chứng, Bộ Tư pháp đã tham mưu cho các cơ quan có thẩm quyền ban hành và ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật sau đây quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Công chứng:
- Nghị định số 02/2008/NĐ-CP ngày 04/01/2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng.
- Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, trong đó có quy định về trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc phát triển tổ chức hành nghề công chứng ở địa phương, xem xét, quyết định chuyển giao việc chứng thực các hợp đồng, giao dịch mà Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã đang thực hiện sang cho tổ chức hành nghề công chứng ở những địa bàn cấp huyện mà tổ chức hành nghề công chứng đảm đương được hoạt động công chứng nhằm tăng cường bảo đảm an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch của người dân.
- Nghị định số 60/2009/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp (sửa đổi, bổ sung các chế tài xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động công chứng).
- Quyết định số 01/2008/QĐ-BTP ngày 20/02/2008 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành một số mẫu giấy tờ dùng trong hoạt động công chứng.
- Thông tư liên tịch số 91/2008/TTLT-BTC-BTP ngày 17/10/2008 của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp ban hành hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí công chứng.
Ngoài ra, để chỉ đạo kịp thời và tháo gỡ những vướng mắc về nhận thức pháp lý và việc triển khai thực hiện Luật Công chứng, Bộ Tư pháp đã ban hành nhiều công văn để thống nhất cách hiểu cụm từ “công chứng nhà nước trong Luật Đất đai 2003, chỉ đạo sát sao việc phát triển tổ chức hành nghề công chứng và chuyển giao các hợp đồng, giao dịch cho tổ chức hành nghề công chứng, hướng dẫn các vấn đề nghiệp vụ liên quan đến công chứng như:
- Công văn số 4282/BTP-HCTP ngày 10/10/2007 của Bộ Tư pháp về việc chuyển đổi Phòng Công chứng sang đơn vị sự nghiệp.
- Công văn số 222/BTP-HCTP ngày 24/01/2008 của Bộ Tư pháp gửi Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc triển khai thực hiện Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Công chứng.
- Công văn số 978/BTP-HCTP ngày 02/4/2009 về việc giao các hợp đồng, giao dịch cho các tổ chức hành nghề công chứng thực hiện.
- Công văn số 812/C11(C13) ngày 28/2/2007 của Tổng Cục Cảnh sát Bộ Công an về mẫu dấu của Tổ chức hành nghề công chứng.
- Công văn số 1939/BTP-BTTP ngày 18/6/2009 của Bộ Tư pháp gửi Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Sở Tư pháp trên cả nước về một số nội dung liên quan đến công chứng. Luận văn: Thực trạng xã hội hóa công chứng tại Việt Nam
Sau hơn ba năm thực hiện Luật Công chứng và các văn bản hướng dẫn có hiệu lực thi hành, thực hiện các quy định của pháp luật, đặc biệt quy định việc cho phép thành lập các Văn phòng công chứng và cùng với các Phòng Công chứng đã tạo ra một sự đổi mới trong hoạt động công chứng cũng như đời sống xã hội dân cư, đã góp phần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính một cách đáng kể.
Có thể nói, một trong những điểm đổi mới căn bản, quan trọng hàng đầu của Luật Công chứng và Nghị định số 79 là việc tách bạch và phân biệt công chứng và chứng thực mà trước đó còn bị lẫn lộn. Theo đó, công chứng từ chỗ bị hiểu như là một hoạt động mang tính chất thủ tục hành chính đơn thuần thì nay được coi là một nghề, một ngành chuyên môn sâu có chức năng bảo đảm sự an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, đặc biệt là các hợp đồng, giao dịch về bất động sản. Sự tách bạch giữa công chứng và chứng thực theo tinh thần nói trên đã tạo điều kiện cho các tổ chức hành nghề công chứng tập trung thực hiện đúng chức năng của mình theo hướng chuyên nghiệp hóa; nhiệm vụ chứng nhận hợp đồng, giao dịch giờ đã trở thành nhiệm vụ chủ yếu của các tổ chức hành nghề công chứng. Các công chứng viên có thời gian tập trung vào việc nghiên cứu và thực hiện tốt việc công chứng hợp đồng, giao dịch góp phần tạo tính chuyên nghiệp đúng nghĩa cho nghề công chứng. Giá trị của hoạt động công chứng trong xã hội được nâng cao, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước, là bước đi quan trọng trong việc đưa hoạt động công chứng phát triển theo xu hướng hội nhập với khu vực và thế giới.
Thực hiện chủ trương tách bạch công tác công chứng và chứng thực theo tinh thần của Luật Công chứng, trong thời gian qua, Bộ Tư pháp đã chỉ đạo quyết liệt việc chuyển giao các hợp đồng, giao dịch từ Ủy ban nhân dân cấp xã sang cho các tổ chức hành nghề công chứng, tăng cường bảo đảm an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch của người dân. Nhiều địa phương đã tích cực triển khai, đặc biệt là sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009, trong đó quy định rõ trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc xem xét, quyết định chuyển giao việc chứng thực các hợp đồng, giao dịch mà Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã đang thực hiện sang cho tổ chức hành nghề công chứng, thì việc chuyển giao đã diễn ra nhanh và thuận lợi hơn.
Có thể đánh giá chủ trương chuyển giao đã được thực hiện khá hiệu quả, các tỉnh, thành phố trên cả nước đã thực hiện tốt chủ trương này, mặc dù trong quá trình chuyển giao cũng gặp một số khó khăn nhất định như tại một số nơi, nhận thức về việc chuyển giao chưa thống nhất, nhân dân chưa được tuyên truyền, quán triệt đầy đủ về lợi ích của hoạt động công chứng và chủ trương chuyển giao dẫn đến những phản ứng nhất định, cá biệt có nơi thực hiện chuyển giao cả ở những địa bàn cấp huyện chưa có tổ chức hành nghề công chứng… Mặc dù vậy, những khó khăn này đã được khắc phục kịp thời nhờ có sự củng cố về mặt thể chế, sự chỉ đạo sát sao từ trung ương và sự tích cực phối hợp từ các địa phương.
Nguyên nhân của vấn đề đó là do hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động công chứng còn bất cập, chưa đồng bộ. Các quy định liên quan đến công chứng trong Luật Đất đai, Luật Nhà ở và các văn bản hướng dẫn thi hành có điểm chưa đồng bộ với Luật Công chứng như: Chưa được sửa đổi, bổ sung như các quy định liên quan đến cụm từ “công chứng nhà nước”; thẩm quyền chứng nhận các hợp đồng, giao dịch về đất đai, nhà ở của Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã; thẩm quyền xác nhận hợp đồng, giao dịch của Ban Quản lý khu công nghiệp, chưa tạo được cơ chế liên thông giữa tổ chức hành nghề công chứng, cơ quan thuế, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm khi thực hiện các thủ tục hành chính đối với các giao dịch về bất động sản.
Một số quy định của Luật Công chứng vẫn còn chung chung, chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện kịp thời hoặc Luật Công chứng còn chưa dự liệu hết một số vấn đề hiện đang phát sinh trong thực tiễn thi hành như việc chuyển đổi loại hình Văn phòng Công chứng một công chứng viên sang loại hình Văn phòng Công chứng từ hai công chứng viên trở lên hoặc ngược lại, chấm dứt hoạt động của Văn phòng Công chứng trong trường hợp công chứng viên chết và tạm ngừng hoạt động Văn phòng Công chứng. Việc thành lập Văn phòng Công chứng phải tuân theo quy hoạch tổng thể tổ chức hành nghề công chứng của Việt Nam đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong từng giai đoạn và giao cho Bộ Tư pháp ban hành các tiêu chí lựa chọn hồ sơ cấp phép thành lập Văn phòng Công chứng nhằm bảo đảm việc thành lập, phát triển mạng lưới Văn phòng Công chứng hợp lý, phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội và nhu cầu công chứng trong từng giai đoạn của từng địa phương, vùng miền. Việc thay đổi trụ sở của Văn phòng Công chứng thì thế nào và phải phù hợp với quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề công chứng đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt tránh việc tùy tiện thay đổi trụ sở của Văn phòng Công chứng cũng như để bảo đảm tính chặt chẽ của việc hành nghề công chứng. Quy định về tiêu chuẩn bổ nhiệm công chứng viên trong Luật công chứng còn đơn giản, có quy định các trường hợp được miễn đào tạo nghề công chứng, miễn tập sự hành nghề công chứng tuy nhiên trên thực tế người được miễn đào tạo nghề công chứng, miễn tập sự hành nghề công chứng rất đa dạng như sau khi nghỉ hưu một thời gian dài mới đề nghị bổ nhiệm làm công chứng viên thì tuổi đã cao, thời gian cách xa các kiến thức về nghiệp vụ đã bị mai một, trong khi đó việc hành nghề công chứng đòi hỏi phải có sức khỏe tốt, minh mẫn, phải cập nhật, nắm bắt thường xuyên các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công chứng và phải có chuyên môn nghiệp vụ sâu bảo đảm chất lượng đội ngũ công chứng viên và tính chuyên nghiệp hóa của hành nghề công chứng trong điều kiện xã hội hóa hoạt động công chứng; tiếng nói và chữ viết trong công chứng nếu người yêu cầu công chứng là người nước ngoài; về khiếu nại, tố cáo trong hoạt động công chứng; bổ sung các quy định về công chứng hợp đồng, giao dịch như công chứng các giao dịch về ủy quyền, thừa kế, thế chấp tài sản hình thành trong tương lai; nơi hành nghề công chứng; Chưa có quy định cụ thể về bảo hiểm trách nhiệm nghề công chứng …
Một số quy định pháp luật nội dung trong Bộ luật dân sự và các văn bản có liên quan chưa cụ thể cũng dẫn đến khó khăn trong hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ công chứng ví dụ như: quy định về hộ gia đình và cách xác định các thành viên của hộ gia đình.
Chưa ban hành kịp thời bộ quy tắc đạo đức hành nghề công chứng để áp dụng cho các công chứng viên của tất cả các tổ chức hành nghề công chứng.
Về bản chất, hoạt động công chứng là một hoạt động công quyền của Nhà nước, công chứng là hoạt động được Nhà nước ủy quyền để chứng nhận tính hợp pháp, tính xác thực của hợp đồng, giao dịch. Công chứng tạo ra những bảo đảm pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức phù hợp với Hiến pháp và pháp luật, ngăn ngừa rủi ro, tranh chấp hoặc khi có tranh chấp các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền dựa vào hình thức chứng nhận của công chứng để chứng minh sự thật, lấy đó làm cơ sở để giải quyết vụ việc tranh chấp. Cũng do chưa có xây dựng được cớ chế phối hợp nghiệp vụ và chia sẻ thông tin giữa các tổ chức hành nghề công chứng, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất về tài sản giao dịch nên đã phát sinh những rủi ro đối với xã hội, đối với công chứng viên.
Có thể nói, Luật Công chứng được ban hành và tổ chức thực hiện đã tạo ra sự đổi mới có tính bước ngoặt trong hoạt động công chứng ở nước ta. Qua kết quả hơn ba năm thực hiện đã khẳng định chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng là hết sức đúng đắn, tạo điều kiện cho việc phát triển tổ chức và hoạt động công chứng của Việt Nam theo hướng chuyên nghiệp hóa, phù hợp với chuẩn mực và thông lệ của hoạt động công chứng khu vực và thế giới, góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, thu hút đầu tư nước ngoài. Mặc dù còn những hạn chế, bất cập cần được khắc phục nhưng những kết quả đạt được và sự hài lòng của nhân dân là thước đo chủ trương xã hội hóa công chứng.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Luật học
2.1.2. Thực trạng về hành nghề công chứng. Luận văn: Thực trạng xã hội hóa công chứng tại Việt Nam
Với chủ trương xã hội hóa kể từ khi Luật Công chứng được ban hành và có hiệu lực, lần đầu tiên Luật Công chứng đã cho phép thành lập các Văn phòng Công chứng bên cạnh các Phòng Công chứng trước kia. Và đây là cơ hội để các tổ chức hành nghề công chứng ra đời, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Tính đến thời điểm tháng 9/2010, cả nước có hơn 300 tổ chức hành nghề công chứng, trong đó có 132 Văn phòng Công chứng và 176 Phòng Công chứng với 795 Công chứng viên.
Luật Công chứng thể hiện rất rõ tinh thần đổi mới hình thức tổ chức và hoạt động công chứng theo hướng xã hội hoá và dịch vụ hoá. Đối với Phòng Công chứng của Nhà nước thì chuyển sang chế độ đơn vị sự nghiệp có thu, tự chủ về tài chính. Đối với Văn phòng Công chứng thì hoạt động theo chế độ công ty hợp danh (nếu là hai công chứng viên trở lên thành lập) hoặc doanh nghiệp tư nhân (nếu một công chứng viên thành lập), tự chủ về tài chính, tự chịu trách nhiệm về bồi thường thiệt hại cho khách hàng. Văn phòng Công chứng và Phòng Công chứng nhà nước bình đẳng về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền ký văn bản công chứng. Quan hệ giữa người yêu cầu công chứng với cả hai tổ chức hành nghề công chứng trên là quan hệ dân sự mang tính chất dịch vụ có thu phí theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Nhà nước quy định mức phí chung cho cả hai mô hình tổ chức hành nghề công chứng. Việc làm và thu nhập của công chứng viên phụ thuộc vào số lượng và chất lượng dịch vụ công chứng mà họ cung cấp cho người yêu cầu công chứng. Nếu gây thiệt hại cho khách hàng thì công chứng viên phải bồi thường thông qua tổ chức hành nghề công chứng.
Mô hình Văn phòng Công chứng là một hình thức mới của tổ chức hành nghề công chứng. Về lâu dài, Văn phòng Công chứng sẽ là hình thức phổ biến của tổ chức hành nghề công chứng ở nước ta. Mô hình Phòng Công chứng nhà nước trước mắt là cần thiết, đặc biệt là ở các địa phương miền núi, vùng sâu, vùng xa, nhưng trong tương lai khi nền kinh tế thị trường ở nước ta phát triển mạnh thì mô hình này sẽ thu hẹp dần. Đây cũng là kinh nghiệm chuyển đổi từ hệ thống công chứng nhà nước sang công chứng phi nhà nước hoá của các nước như Trung Quốc, Liên bang Nga…
Chế định công chứng viên được quy định tại chương II (từ Điều 13 đến Điều 22) của Luật Công chứng có nhiều nội dung mới. Trước hết, công chứng viên là chủ thể thực hiện hành vi công chứng chứ không phải là Phòng Công chứng hay Văn phòng Công chứng. Luật đã đề cao trách nhiệm và nghĩa vụ của công chứng viên. Công chứng viên là người có đủ tiêu chuẩn được quy định trong luật và được Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm để hành nghề công chứng. Công chứng viên không nhất thiết phải là công chức nhà nước. Đây là điểm rất mới ở nước ta trong khi ở nước ngoài, điều này đã trở nên phổ biến từ lâu. Trong lịch sử phát triển nghề công chứng ở châu Âu, công chứng viên chưa bao giờ là công chức nhà nước. Công chứng viên được Nhà nước bổ nhiệm chức danh, được thay mặt Nhà nước nhưng không hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Luật Công chứng hiện hành cũng không quy định công chứng viên là công chức nhà nước. Trên thực tế hiện nay tồn tại hai loại công chứng viên: Công chứng viên nhà nước làm việc trong các Phòng Công chứng nhà nước và công chứng viên không phải là công chức nhà nước làm việc trong các Văn phòng Công chứng. Mặc dù có hai loại công chứng viên làm việc ở hai hình thức tổ chức hành nghề công chứng khác nhau, nhưng về địa vị pháp lý của họ trong hành nghề công chứng hoàn toàn như nhau. Luận văn: Thực trạng xã hội hóa công chứng tại Việt Nam
Luật Công chứng không phân biệt giá trị pháp lý của văn bản công chứng của hai loại công chứng viên hoạt động ở hai mô hình tổ chức hành nghề công chứng. Hai loại công chứng viên này có quyền công chứng các loại hợp đồng, giao dịch như nhau và giá trị pháp lý của văn bản công chứng do họ lập ra là như nhau. Các cơ quan công quyền đối xử với văn bản công chứng do hai loại công chứng viên này ký là như nhau. Điều 4 Luật Công chứng quy định chung về giá trị pháp lý của văn bản công chứng: Văn bản công chứng có hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên ký và có đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng. Điều 6 Luật Công chứng quy định: Văn bản công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan… Văn bản công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong văn bản công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Toà án tuyên bố là vô hiệu. Việc Luật Công chứng quy định giá trị pháp lý như nhau của văn bản công chứng thuộc hai mô hình tổ chức hành nghề công chứng có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình thúc đẩy xã hội hoá hoạt động công chứng.
Đứng trước chủ trương xã hội hóa công chứng, các tổ chức hành nghề công chứng đặc biệt là các Phòng Công chứng đã có nhiều sáng tạo, cải cách, đổi mới về tổ chức và hoạt động của Phòng cho phù hợp với Luật Công chứng và chủ trương xã hội hóa công chứng. Lãnh đạo cũng như tất cả cán bộ, công chức, nhân viên của các Phòng Công chứng đã được tăng cường giáo dục về mặt tư tưởng, nhận thức rõ về chủ trương, chính sách xã hội hóa công chứng của Đảng và Nhà nước, sự cạnh tranh trong việc thu hút khách hàng, sự tự chủ về tài chính…do đó tất yếu phải đổi mới tổ chức, hoạt động, thay đổi phong cách, thái độ tiếp dân để tăng hiệu quả công việc, nâng cao chất lượng dịch vụ công chứng cung cấp cho khách hàng.
Cùng với việc cải cách hành chính trong lĩnh vực công chứng và việc thực hiện Quyết định 127 của Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức ngày làm việc thứ bẩy hàng tuần, các tổ chức hành nghề công chứng đã bố trí làm việc vào ngày thứ bẩy để tiếp nhận và giải quyết nhu cầu công chứng của các tổ chức và cá nhân được thuận tiện, kịp thời và nhanh chóng. Ngoài ra, nhiều Văn phòng Công chứng đã đưa ra những dịch vụ hỗ trợ khách hàng, từ đó tạo áp lực cạnh tranh buộc các tổ chức hành nghề công chứng, kể cả các Phòng Công chứng phải nâng cao trách nhiệm, hiệu quả phục vụ.
Việc phát triển các tổ chức hành nghề công chứng tại các địa phương với số lượng nhiều hơn hẳn so với trước đây, tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức hành nghề công chứng, nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ pháp lý, đáp ứng nhu cầu công chứng ngày càng cao của công dân và tổ chức, góp phần làm lành mạnh hóa các quan hệ, giao dịch trên địa bàn. Do đó các tổ chức, cá nhân có quyền lựa chọn những tổ chức hành nghề công chứng có dịch vụ tốt, có phong cách phục vụ tốt. Đây là điều mà trước khi có Luật Công chứng không có được.
Số lượng các tổ chức hành nghề công chứng không ngừng gia tăng ở các địa phương. Mặc dù bị hạn chế về mặt biên chế nhưng do nhu cầu của xã hội, số
lượng các công chứng viên không ngừng tăng trong các năm. Trình độ các công chứng viên tương đối đồng đều (100% đều có bằng cử nhân Luật trở lên). Cơ sở vật chất của các tổ chức hành nghề công chứng ngày càng khang trang, với hệ thống trang thiết bị đầy đủ, lịch sự, văn minh, đáp ứng được nhu cầu làm việc cho cán bộ, nhân viên và nhu cầu của khách hàng đến giao dịch. Trước khi Luật Công chứng có hiệu lực, khối lượng công việc tại các Phòng Công chứng luôn trong tình trạng quá tải bởi nhu cầu công chứng các hợp đồng, giao dịch và chứng thực các bản sao quá lớn. Sau khi Luật Công chứng và Nghị định số 02/2008/NĐ-CP về việc Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng được thông qua và có hiệu lực, thêm nữa lại có các Văn phòng Công chứng ra đời, hoạt động của các Phòng Công chứng đã giảm thiểu được sự quá tải. Tuy nhiên, theo báo cáo của các Phòng Công chứng, sau khi đã giảm được một số lượng lớn khách hàng do phòng không còn chức năng chứng thực, số lượng khách hàng đến làm giao dịch hợp đồng dân sự ngày càng tăng, đặc biệt là ở các tỉnh, thành phố lớn. Như ở trên địa bàn thành phố Hà Nội, trước ngày 01/7/2007, chỉ có khoảng 10-60 hợp đồng mỗi ngày thì sau 01/7/2007, những quy định mới của Luật Công chứng, cùng với uy tín, kinh nghiệm trong hoạt động hành nghề của công chứng viên các tổ chức hành nghề công chứng, con số đó đã tăng lên gấp đôi, có những Phòng Công chứng đã tiếp nhận 100-200 hợp đồng, giao dịch mỗi ngày (Phòng Công chứng số 1, số 6 thành phố Hà Nội). Đó là chưa kể số lượng khách đến tư vấn, tham khảo thủ tục thực hiện hợp đồng…Vì vậy, với đội ngũ công chứng viên và số lượng hợp đồng, giao dịch ngày một nhiều như hiện nay, có tổ chức hành nghề công chứng phải làm việc hết “công suất” và phải làm thêm giờ mới hoàn tất công việc.
Một trong những tư tưởng quan trọng của Luật Công chứng là trên cơ sở chuyên nghiệp hoá và xã hội hoá hoạt động công chứng thì đồng thời hoạt động công chứng cũng được chuyển sang chế độ dịch vụ công thay thế cho chế độ hành chính công trước đây trong lĩnh vực này. Nếu như trước đây chế độ lương của các công chứng viên không phụ thuộc vào số lượng và chất lượng các hợp đồng, giao dịch mà họ chứng nhận và do đó không khuyến khích các việc họ làm được thì nay tình hình đã khác hẳn. Trong điều kiện hoạt động theo chế độ dịch vụ công, các tổ chức hành nghề công chứng luôn có sự cải tiến về phong cách phục vụ khách hàng, tệ quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu của một bộ phận cán bộ, nhân viên của Phòng Công chứng trước đây giảm hẳn. Thay vào đó là sự phục vụ tận tình, chu đáo, sẵn sàng làm thêm giờ để đáp ứng kịp thời, đầy đủ nhu cầu công chứng của nhân dân của các tổ chức hành nghề công chứng, vì sự tồn tại và phát triển của các tổ chức hành nghề công chứng phụ thuộc vào sản phẩm và chất lượng dịch vụ, sự nhanh chóng, thuận tiện, chính xác của hoạt động công chứng, thu nhập của công chứng viên, của nhân viên công chứng phụ thuộc vào khách hàng, điều này đã tạo ra động lực khuyến khích tính chủ động, tích cực và thức trách nhiệm của công chứng viên khi thực hiện nhiệm vụ. Các tổ chức hành nghề công chứng đều lấy yếu tố “phục vụ khách hàng” là tiêu chí phục vụ hàng đầu và là một trong những yếu tố để cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động công chứng.
Chỉ tính trong 2 năm gần đây, các tổ chức hành nghề công chứng trên cả nước đã công chứng được 1.485.550 việc, trong đó, hợp đồng chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản là 428.760 việc; hợp đồng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là 677.049 việc; di chúc và các việc thừa kế khác 71.107 việc; hợp đồng, giao dịch khác 325.792 việc; tổng số phí công chứng thu được là 549.456.407.359 đồng (năm trăm bốn mươi chín tỷ, bốn trăm năm mươi sáu triệu, bốn trăm linh bảy nghìn, ba trăm năm mươi chín đồng); tổng số thù lao công chứng thu được là 39.456.878.465 đồng (ba mươi chín tỷ, bốn trăm năm mươi sáu triệu, tám trăm bảy mươi tám nghìn, bốn trăm sáu mươi lăm đồng); tổng số tiền nôp thuế và nộp ngân sách nhà nước là 256.658.098.145 đồng (hai trăm năm mươi sáu tỷ, sáu trăm năm mươi tám triệu, không trăm chín mươi tám nghìn, một trăm bốn mươi lăm đồng)(có các bảng kèm theo).
Số lượng các hợp đồng, giao dịch được thực hiện tại các tổ chức hành nghề công chứng tăng cao hơn so với trước khi thực hiện Luật, các hợp đồng, giao dịch tăng không chỉ về số lượng mà cả tính phức tạp, với giá trị hợp đồng lớn, nhiều hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Ngoài các giao dịch mà pháp luật quy định bắt buộc phải công chứng thì số lượng các giao dịch mà cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng như các giao dịch về uỷ quyền, về mua bán tài sản, thừa kế… cũng tăng và trở nên phổ biến. Điều này chứng tỏ nhận thức của nhân dân về tầm quan trọng của công chứng đối với hợp đồng, giao dịch đã tăng lên.
Tuy nhiên, số lượng việc công chứng hợp đồng, giao dịch sau ba năm triển khai thực hiện Luật Công chứng không đồng đều giữa các địa phương. Ở một số tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng… thì số lượng yêu cầu công chứng hợp đồng, giao dịch là tương đối lớn. Trong khi đó, ở một số địa phương khác, yêu cầu công chứng các hợp đồng, giao dịch lại không nhiều, chưa tạo được động lực xã hội hóa hoạt động công chứng.
Trình tự, thủ tục giải quyết các việc công chứng tại các tổ chức hành nghề công chứng cơ bản được thực hiện đúng pháp luật; bảo đảm thời hạn công chứng và ngày càng được cải cách, đổi mới để đáp ứng yêu cầu của nhân dân. Tuy nhiên, vẫn còn một số sai sót trong hoạt động công chứng như: công chứng mua bán, chuyển nhượng, thế chấp nhiều lần trên một bất động sản, công chứng ngoài trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng mà không có lý do chính đáng, giảm phí công chứng để lôi kéo khách hàng và những biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh khác.
Kết quả hoạt động công chứng trong thời gian vừa qua đã khẳng định rõ rệt vai trò của công chứng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp công dân, cơ quan tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bằng việc chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch, công chứng đã góp phần tích cực vào việc quản lý các hợp đồng, giao dịch, phòng ngừa, hạn chế các tranh chấp, vi phạm pháp luật, tạo sự ổn định cho các hoạt động giao dịch, hạn chế tối đa hậu quả đáng tiếc và không đáng có xảy ra trong các quan hệ dân sự, làm lành mạnh các quan hệ xã hội, bảo đảm dân chủ, công bằng, giữ vững ổn định trong giao lưu dân sự, đồng thời bảo đảm cho các tranh chấp phát sinh một cơ sở pháp lý đáng tin cậy để giải quyết theo hướng tích cực, tạo lối ra an toàn cho các tranh chấp đó. Các cơ quan xét xử lấy đó làm cơ sở pháp lý để giải quyết vụ tranh chấp được an toàn, nhanh chóng. Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là khi Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO và trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN, tăng cường tham gia các khu vực mậu dịch tự do trên thế giới thì hoạt động công chứng càng trở nên cần thiết đối với người dân và doanh nghiệp. Xét trên góc độ xây dựng Nhà nước pháp quyền, xã hội công dân và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì công chứng vừa là công cụ hữu hiệu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, vừa là công cụ quản lý, vừa là công cụ hỗ trợ quan trọng cho các hoạt động tư pháp và là một trong những điều kiện cơ bản góp phần đẩy nhanh việc phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam. Luận văn: Thực trạng xã hội hóa công chứng tại Việt Nam
Sau khi Luật Công chứng được áp dụng các Văn phòng Công chứng được thành lập và đi vào hoạt động đã giải quyết được vấn đề quá tải của các Phòng Công chứng. Tuy nhiên việc thành lập các Văn phòng Công chứng ở các địa phương trên cả nước không được đồng đều. Thời gian đầu các Văn phòng Công chứng chủ yếu tập trung tại các địa bàn ở trung tâm tỉnh, thành phố do nhu cầu công chứng của nhân dân ở khu vực này là rất lớn, mật độ dày trong khi đó có những nơi thì mật độ thưa thớt dẫn đến tình trạng chưa đáp ứng được nhu cầu công chứng các hợp đồng, giao dịch cho người dân ở các địa phương đó.
Mặt khác, vấn đề tâm lý của khách hàng đối với loại hình Văn phòng Công chứng còn e dè, chưa tin tưởng, hoài nghi, phân biệt giữa Phòng Công chứng và Văn phòng Công chứng, ngay cả các doanh nghiệp, các ngân hàng (là những khách hàng thường xuyên của dịch vụ công chứng)…cũng bị ảnh hưởng của tâm lý nói trên. Ngoài ra, do trong các văn bản luật ra đời trước khi có Luật Công chứng 2006 sử dụng khái niệm “công chứng Nhà nước” nên lãnh đạo các cơ quan nói trên vẫn có tâm lý sử dụng dịch vụ của “Phòng Công chứng” được chuyển đổi từ “công chứng nhà nước” cho “chắc ăn” và đỡ “trách nhiệm”; sự nhìn nhận, đánh giá chưa thỏa đáng của một số cơ quan nhà nước; chưa có sự hỗ trợ, hợp tác của các cơ quan liên quan trong xử lý công việc và trao đổi thông tin; chưa có sự phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các tổ chức hành nghề công chứng; nguồn tài chính, nhân sự (đặc biệt là chuyên viên nghiệp vụ của các tổ chức hành nghề công chứng mà chủ yếu là các Văn phòng Công chứng) còn hạn chế.
Tuy nhiên sự phát triển tổ chức hành nghề công chứng chưa có quy hoạch tổng thể, hợp lý trên cả nước và trên từng địa phương. Sau ba năm triển khai Luật Công chứng, chủ trương xã hội hoá công chứng được triển khai chưa đồng bộ và hợp lý tại các địa phương trong cả nước. Mới chỉ có 40/63 địa phương trên cả nước có Văn phòng Công chứng theo mô hình xã hội hóa. Hiện có tình trạng trái ngược trong phát triển các tổ chức hành nghề công chứng, có địa phương cho phép thành lập các Văn phòng Công chứng một cách tràn lan, phân bố không hợp lý. Có địa phương lại không phát triển Văn phòng Công chứng. Nhìn chung, nhận thức về xã hội hóa công chứng gắn với quản lý việc thành lập, phát triển tổ chức hành nghề công chứng theo quy hoạch ở nhiều địa phương còn rất bất cập.
Văn phòng Công chứng thành lập theo Luật Công chứng là một loại hình mới ở nước ta, nên có rất nhiều khó khăn nhưng chưa có chính sách ưu đãi, miễn giảm thuế để khuyến khích các Văn phòng Công chứng có điều kiện phục vụ người dân tốt hơn, chưa khuyến khích được việc phát triển các Văn phòng Công chứng ở các địa bàn khó khăn.
Việc phát triển các tổ chức hành nghề công chứng chưa theo quy hoạch ở các tỉnh, thành phố lớn trong thời gian qua thực sự chưa hợp lý và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế về công chứng.
Chất lượng và số lượng đội ngũ công chứng viên còn bất cập: Việc đào tạo, bổ nhiệm công chứng viên còn căn cứ vào nhu cầu vụ việc của từng địa phương. Chất lượng đội ngũ công chứng viên còn nhiều bất cập. Trình độ công chứng viên tại các Phòng Công chứng chưa đồng đều. Đội ngũ công chứng viên mới được bổ nhiệm cho các Văn phòng Công chứng trong thời gian qua đa phần là những người thuộc diện được miễn đào tạo nghề và tập sự hành nghề công chứng, nhiều trường hợp năng lực chuyên môn trong hoạt động công chứng của đội ngũ này còn rất hạn chế do chưa qua đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ công chứng dẫn đến sai sót trong hoạt động công chứng.
Việc tạo nguồn để bổ nhiệm công chứng viên còn rất hạn chế, đặc biệt là các Phòng Công chứng. Việc đào tạo công chứng viên còn chưa đạt quy mô cần thiết nên nhiều người có nhu cầu được bổ nhiệm công chứng viên chưa có điều kiện tham gia học tập. Việc bồi dưỡng đối với công chứng viên đã được bổ nhiệm cũng chưa được thực hiện thường xuyên.
Do đội ngũ công chứng viên còn rất mỏng nên Luật Công chứng năm 2006 quy định đối tượng được miễn đào tạo nghề công chứng, miễn thời gian tập sự hành nghề công chứng có phần dễ dãi dẫn đến chất lượng chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp công chứng viên không đồng đều thậm chí công chứng nhầm, công chứng sai.
Mặc dù vậy, không thể phủ nhận rằng hoạt động công chứng đã góp phần tích cực bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các công dân, tổ chức khi tham gia giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại; phòng ngừa tranh chấp và vi phạm pháp luật, làm giảm đáng kể các tranh chấp; đảm bảo an toàn pháp lý cho các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại; đảm bảo ổn định, trật tự xã hội, làm lành mạnh hóa các giao dịch, góp phần thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển. Đồng thời, góp phần giúp cho Nhà nước quản lý tốt các hợp đồng, giao dịch, cung cấp chứng cứ cho hoạt động xét xử khi có tranh chấp xảy ra, tạo điều kiện để tòa án xét xử khách quan, nhanh chóng, nâng cao hiệu quả xét xử.
Điều quan trọng hơn là hoạt động công chứng đã góp phần quan trọng nâng cao dân trí pháp lý, ý thức pháp luật của người dân, tạo cho người dân có ý thức, trách nhiệm tốt hơn khi tham gia các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại. Đồng thời, góp phần mở rộng dân chủ, giúp cho người dân hình thành ý thức, thói quen sử dụng các công cụ hợp pháp để bảo vệ mình khi tham gia hợp đồng, giao dịch.
Với các kết quả quan trọng trên, có thể nói, vai trò công chứng trong đời sống xã hội ngày càng được khẳng định; công chứng đã trở thành thiết chế không thể thiếu trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2.1.3. Thực trạng quản lý về công chứng. Luận văn: Thực trạng xã hội hóa công chứng tại Việt Nam
Theo quy định tại Luật Công chứng ngày 29/11/2006, cơ chế quản lý công chứng được xây dựng theo trục dọc Chính phủ – Bộ Tư pháp (Bộ Ngoại giao cũng như các bộ, cơ quan ngang bộ) – Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Trách nhiệm cụ thể của từng cơ quan nói trên được quy định tại Điều 11, Luật Công chứng ngày 29/11/2006. Nội dung mới nhất về cơ chế quản lý công chứng trong đạo luật trên chính là quy định “Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc thực hiện quản lý nhà nước về công chứng”(Khoản 4,
Điều 11, Luật Công chứng). Và mặc dù không được quy định là một cấp quản lý độc lập nhưng Sở Tư pháp có nhiệm vụ giúp việc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công chứng trong phạm vi địa phương mình (Điều 2, Nghị định số 02/2008/NĐ-CP ngày 04/01/2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng). Trách nhiệm quản lý công chứng của Sở Tư pháp rất rộng lớn bao gồm cả việc hoạch định chính sách, thực hiện chính sách cũng như thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo…
Trong thời gian vừa qua, công tác chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra hoạt động công chứng cũng được quan tâm, tăng cường, nhằm chấn chỉnh những tiêu cực, sai sót trong hoạt động này, đưa hoạt động công chứng hoạt động đúng hướng và đúng tinh thần của Luật Công chứng.
Tại các địa phương, ngay sau khi Luật Công chứng được Quốc hội thông qua, Sở Tư pháp các tỉnh đã tham mưu cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành các Chỉ thị, Kế hoạch về triển khai thực hiện Luật Công chứng trong đó nêu rõ trách nhiệm của Sở Tư pháp và của các Sở Ban, ngành có liên quan ở cấp tỉnh, trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã trong việc triển khai thực hiện Luật Công chứng. Sở Tư pháp các tỉnh đã tập trung chỉ đạo các Phòng Công chứng đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực công chứng, chấn chỉnh hoạt động công chứng, không để hiện tượng ùn tắc, quá tải, niêm yết công khai trình tự thủ tục công chứng và Sở Tư pháp phối hợp với các cơ quan báo chí tuyên truyền đến các tổ chức và công dân về Luật Công chứng và công tác cải cách hành chính trong lĩnh vực công chứng, tuyên truyền để người dân hiểu, tin cậy vào dịch vụ công chứng, trong đó, đặc biệt chú trọng tới việc tuyên truyền tới người dân về các hình thức hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng, xóa dần đi sự phân biệt giữa “công chứng nhà nước” và “công chứng tư”.
Có thể nói công tác hướng dẫn, chỉ đạo chung về triển khai thực hiện Luật Công chứng đã được cơ quan tư pháp ở trung ương và địa phương rất quan tâm, thực hiện đồng bộ và tương đối kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đưa Luật Công chứng đi vào cuộc sống.
Công tác tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ về công chứng cũng được quan tâm, tổ chức thực hiện. Bộ Tư pháp đã tổ chức Lớp tập huấn về nghiệp vụ cho hơn 100 công chứng viên trong cả nước, tập trung vào đối tượng công chứng viên mới được bổ nhiệm, nhất là ở các Văn phòng Công chứng.
Công tác tuyên truyền, phổ biến Luật Công chứng đã được triển khai tương đối rộng khắp trong cả nước với nhiều hình thức khác nhau. Bộ Tư pháp đã phát hành Đề cương mẫu về giới thiệu những nội dung cơ bản của Luật Công chứng; Tạp chí Dân chủ và pháp luật đã phát hành số chuyên đề về công chứng để giúp cho các địa phương trong việc tuyên truyền phổ biến các văn bản này theo chiều rộng và chiều sâu. Đài truyền hình Trung ương, Đài tiếng nói Việt Nam đã có nhiều buổi giới thiệu, phỏng vấn, phóng sự …về đề tài công chứng. Rất nhiều báo viết của Trung ương và địa phương, những bài báo trên mạng Internet đã dành số lượng trang, bài nói về Luật Công chứng. Tại một số cơ quan, tổ chức ở Trung ương đã tổ chức những buổi nghe báo cáo viên của Bộ Tư pháp trực tiếp báo cáo về nội dung của Luật Công chứng cho cán bộ, công chức, viên chức. Nhiều tổ chức kinh tế, điển hình là các ngân hàng đã tổ chức nhiều lớp nghiên cứu tìm hiểu sâu về Luật Công chứng để phục vụ cho hoạt động chuyên môn của mình. Có thể nói, công tác tuyên truyền, phổ biến Luật Công chứng tại thời điểm trước và sau ngày các văn bản này có hiệu lực đã từng nổi lên như một đề tài thu hút nhiều sự quan tâm sâu sắc của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, đã góp phần làm tăng cường một bước nhận thức của xã hội về công tác công chứng.
Để bảo đảm thực hiện tốt Luật Công chứng, một số địa phương đã quan tâm kiện toàn tổ chức Phòng Công chứng, đề xuất bổ nhiệm thêm công chứng viên, kiện toàn trưởng, phó phòng công chứng, chỉ đạo đổi mới cách thức làm việc của công chứng viên, nhất là trong việc tiếp dân, tiếp nhận giấy tờ đối với yêu cầu công chứng. Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Tư pháp, các địa phương đã chuyển đổi Phòng Công chứng sang đơn vị sự nghiệp. Nhiều địa phương đã quan tâm, bố trí cán bộ có khả năng và kinh nghiệm để tiếp nhận, thẩm định hồ sơ cho phép thành lập, đăng ký hoạt động Văn phòng Công chứng, đáp ứng tốt việc cho phép thành lập Văn phòng Công chứng ngay từ thời gian đầu Luật Công chứng có hiệu lực. Luận văn: Thực trạng xã hội hóa công chứng tại Việt Nam
Học viện Tư pháp đã có những cố gắng trong việc cải tiến chương trình đào tạo công chứng viên và tăng cường năng lực đội ngũ giảng viên để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đào tạo công chứng viên trong điều kiện mới.
Mặc dầu vậy, đối với nhiều địa phương việc tăng cường năng lực cho đội ngũ công chứng viên chưa được các cơ quan quản lý nhà nước quan tâm đúng mức, do nhận thức không đúng về tinh thần của Luật Công chứng. Cá biệt có địa phương đã giải thể bớt Phòng Công chứng. Ngoài ra có một số cán bộ lãnh đạo Phòng Công chứng do bi quan trước thực tế thiếu việc làm trong thời gian đầu sau khi Luật Công chứng có hiệu lực nên đã chủ động xin chuyển sang làm công tác khác. Trong khi đó việc khuyến khích thành lập Văn phòng Công chứng ở nhiều địa phương, việc tạo nguồn công chứng viên chưa được quan tâm đầy đủ, nên chưa phát huy được thế mạnh của chính sách xã hội hóa hoạt động công chứng.
Mặc dù có rất nhiều nội dung mới trong Luật Công chứng, mà trước hết và quan trọng nhất là cho phép thành lập Văn phòng Công chứng ngoài nhà nước, xác định công chứng là một nghề nhưng vai trò quản lý công chứng của tổ chức, cá nhân nằm ngoài hệ thống cơ quan hành pháp vẫn không có gì thay đổi. Điểm mới đáng kể nhất trong vai trò quản lý của Tòa án đối với công chứng chính là quy định “trong trường hợp giữa người yêu cầu công chứng và công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng có tranh chấp liên quan đến hoạt động hành nghề công chứng thì các bên có quyền khởi kiện vụ việc ra Tòa án để giải quyết tranh chấp đó” (Điều 64). Tuy đã được cải thiện một cách đáng kể nhưng rõ ràng, vai trò quản lý nhà nước của Tòa án đối với công chứng vẫn còn mờ nhạt và ở trong thế bị động, hướng tới giải quyết tranh chấp nhiều hơn là phòng ngừa xảy ra tranh chấp. Ngoài ra, công tác thanh tra, kiểm tra công chứng được quy định rõ trong Nghị định số 74/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 01/8/2006 quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tư pháp thì cả thanh tra Bộ Tư pháp và thanh tra Sở Tư pháp đều có nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra, kiểm tra công chứng.
Công chứng là hoạt động xã hội nghề nghiệp, là dịch vụ vừa mang tính pháp lý, vừa mang tính dân sự; liên quan trực tiếp đến quyền – nghĩa vụ dân sự, lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại. Cơ chế quản lý công chứng thuần túy mang tính quản lý nhà nước. Tuy nhiên, khi chúng ta xác định công chứng là một nghề có tính chất dịch vụ với nhiều thành phần, đối tượng tham gia cung cấp, vấn đề tổ chức hiệp hội nghề nghiệp công chứng trở nên vô cùng cấp thiết. Xây dựng quy định về tổ chức hiệp hội nghề nghiệp công chứng và kèm theo đó là cơ chế tự quản sẽ giúp nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động bổ trợ tư pháp mà không cần tăng biên chế đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác quản lý. Bên cạnh đó, hiệp hội nghề nghiệp công chứng cũng chính là tổ chức đóng vai trò trung gian nhằm dung hòa và hơn nữa, tạo ra sân chơi bình đẳng cho các hình thức tổ chức hành nghề công chứng, dù đó là Phòng Công chứng hay Văn phòng Công chứng; cho công chứng viên là viên chức nhà nước và công chứng viên không phải là viên chức nhà nước. Có sự quản lý chặt chẽ không chỉ của Nhà nước mà còn của cả tổ chức tự quản nghề nghiệp, đảm bảo sự phát triển đúng định hướng, trong khuôn khổ luật định, đồng thời, đảm bảo chất lượng, hiệu quả hoạt động. Hiện nay, ở các nước có tổ chức công chứng kiểu Latinh và các nước có nền kinh tế chuyển đổi đang thực hiện cải cách công chứng, đều thành lập hệ thống tổ chức tự quản nghề công chứng bên cạnh hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về công chứng.
Mặc dù quản lý nhà nước về công chứng được thực hiện theo hai cấp: Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thực hiện quản lý thống nhất về công chứng trong cả nước và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về công chứng trong địa phương mình (Bộ Ngoại giao thực hiện quản lý nhà nước về công chứng của cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài); song việc quản lý nhà nước ngành và cấp dường như bị cắt khúc, tạo ra sự biệt lập, thiếu cơ chế phối hợp giữa cấp và ngành, chức năng quản lý được quy định chung chung, chồng chéo.
Công tác bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng của Bộ Tư pháp chưa được chú trọng, chưa được tiến hành thường xuyên, trong khi nghề công chứng đòi hỏi công chứng viên phải thường xuyên cập nhật một cách hệ thống với sự đổi mới của hệ thống pháp luật; phải được đào tạo, đào tạo lại để tránh bệnh kinh nghiệm, chủ quan trong hoạt động; phải được trang bị kiến thức một cách toàn diện để theo kịp sự vận động, phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của kinh tế thị trường, đáp ứng yêu cầu trong nước cũng như quốc tế.
Công tác đào tạo nghề công chứng mới được tiến hành trong một số năm gần đây (do Học viện Tư pháp đảm nhiệm), song còn nhiều bất cập cả về chương trình, giáo trình, giáo viên, phương pháp giảng dạy.
Thực hiện Luật Công chứng; Nghị định số 02/2008/NĐ-CP ngày 04/01/2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật công chứng, nhiều Sở Tư pháp đã chủ động xây dựng, tham mưu cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc ban hành Đề án quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề công chứng có kết quả. Tính đến nay, đã có 40/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phê duyệt Đề án. Đây là cơ sở thuận lợi để các địa phương đẩy nhanh tiến độ xã hội hóa công chứng, đáp ứng nhu cầu công chứng ngày càng cao của nhân dân trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Một số địa phương xây dựng đề án phát triển tổ chức hành nghề công chứng đáp ứng được yêu cầu, đánh giá được thực trạng về tổ chức và hoạt động công chứng, đồng thời dự báo được nhu cầu hoạt động công chứng, từ đó xác định mục tiêu, các nguyên tắc và xây dựng lộ trình và mạng lưới phát triển công chứng phù hợp với tình hình kinh tế-xã hội của địa phương mình, làm căn cứ để phát triển tổ chức hành nghề công chứng.
Tuy nhiên, nhiều địa phương xây dựng đề án phát triển tổ chức hành nghề công chứng còn chung chung, chưa rõ được chủ trương và chưa xây dựng được bản đồ phát triển các tổ chức hành nghề công chứng ở địa phương mình. Bên cạnh đó, vẫn còn gần một nửa số tỉnh, thành phố trên cả nước chưa xây dựng Đề án, dẫn đến việc phát triển tổ chức hành nghề công chứng gặp khó khăn.
Tuy nhiên, hoạt động quản lý Nhà nước về công chứng còn nhiều hạn chế. Thời gian đầu khi Luật Công chứng có hiệu lực thi hành, các địa phương còn thụ động, lúng túng trong công tác triển khai thực hiện Luật Công chứng. Hoạt động quản lý Nhà nước đối với công tác này ở nhiều địa phương còn mờ nhạt. Hiện tượng buông lỏng quản lý nhà nước hoặc quản lý nhà nước chưa theo kịp tình hình đã dẫn đến việc phát sinh những hiện tượng tiêu cực, cạnh tranh không lành mạnh giữa các tổ chức hành nghề công chứng không được chỉnh đốn kịp thời; cơ sở dữ liệu thông tin chung về công chứng chưa được triển khai xây dựng ở hầu hết các địa phương; công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm chưa được đẩy mạnh ngang tầm nhiệm vụ.
Trong giai đoạn hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ, sự sôi động của các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại; sự tăng nhanh của nhu cầu công chứng với các yêu cầu nhanh chóng, thuận lợi, kịp thời, chính xác, đúng pháp luật; cần có một cơ chế quản lý chặt chẽ để các tổ chức hành nghề công chứng hoạt động đáp ứng kịp thời yêu cầu của xã hội, đồng thời, đảm bảo sự phù hợp với thông lệ quốc tế là thực sự cần thiết. Luận văn: Thực trạng xã hội hóa công chứng tại Việt Nam
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận văn: Giải pháp hoàn thiện xã hội hóa tại Việt Nam