Luận văn: Thực trạng quy chế công chứng viên ở Việt Nam

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng quy chế công chứng viên ở Việt Nam hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Quy chế công chứng viên theo pháp luật Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.2. Quy chế công chứng viên sau khi có Luật Công chứng (2006 )

2.2.1. Một số điểm nổi bật của quy chế công chứng viên từ khi có Luật Công chứng 2006 đến trước khi có Luật Công chứng 2014

Ngày 29/11/2006, Luật công chứng đã được Quốc Hội khóa 11 kỳ họp thứ 10 thông qua có hiệu lực từ 01/07/2007 – là một văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao, điều chỉnh một cách toàn diện và đồng bộ lĩnh vực công chứng nói chung và công chứng viên nói riêng. Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta đã có một Luật đầy đủ quy định về công chứng và công chứng viên, đồng thời đây cũng là lần đầu tiên, là mốc thời gian rất đáng nhớ đánh dấu việc xã hội hoá nền công chứng Việt Nam, trong đó tất nhiên bao gồm luân cả xã hội hoá chức danh công chứng viên. Từ thời điểm này trở đi, khái niệm công chứng Nhà nước sau bao nhiêu năm tồn tại, từ chế độ phong kiến, đến thời Pháp thuộc, đến cả chính quyền miền Nam Việt Nam, cho đến thời kỳ Việt Nam dân chủ Cộng hoà, rồi Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, trên lãnh thổ nước ta đã xuất hiện loại hình “Văn phòng công chứng” tư nhân đầu tiên cùng song song tồn tại với các Phòng công chứng Nhà nước và sau đó sẽ dần thay thế hoàn toàn các Phòng Công chứng Nhà nước do Nhà nước thành lập ra này.

Và cũng chính vì tầm quan trọng của công chứng viên theo chế định mới này nên lần đầu tiên, trong Luật Công chứng 2006, chức danh công chứng viên được đặt ở vị trí trọng tâm của Luật, ở ngay những điều đầu tiên của Luật này, thậm chí ngay trong khái niệm công chứng:

“Điều 2. Công chứng

Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.”

Không những thế đây cũng là lần đầu tiên, quy định lớn nhất trong quy chế về công chứng viên được đưa lên phần đầu của Luật, đó là “nguyên tắc hành nghề công chứng” – là nguyên tắc xuyên suốt, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của công chứng viên:

“Điều 3. Nguyên tắc hành nghề công chứng

  • Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
  • Khách quan, trung thực.
  • Chịu trách nhiệm trước pháp luật về văn bản công chứng.
  • Tuân theo quy tắc đạo đức hành nghề công chứng”.

Ngay sau nguyên tắc đối với công chứng viên và những người hành nghề công chứng nói chung ở trên thì các quy định tiếp theo của Luật này đã tạo nên một bộ khung quy chế mới cho công chứng viên. Cụ thể chúng ta sẽ phân tích sau đây.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Luật Học

2.2.1.1. Quy định về điều kiện được hành nghề công chứng: Luận văn: Thực trạng quy chế công chứng viên ở Việt Nam

Điều kiện đầu tiên của người muốn được hành nghề công chứng là phải có bằng cử nhân Luật và đương nhiên phải tuân theo Điều 3 của Luật này – tức nguyên tắc hành nghề công chứng: “Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật”, “Khách quan, trung thực”.

Tuy điều kiện hành nghề này nghe có vẻ chỉ mang tính nguyên tắc chung chung, nhưng đây lại là một điều kiện vô cùng cần thiết cho người được quyền hành nghề công chứng. Vì nếu như áp dụng một cách triệt để điều kiện này thì tất cả những người đã từng vi phạm hiến pháp, pháp luật, hoặc đã từng bị kết án hoạc quy trách nhiệm một cách chính thức là “thiếu khách quan, thiếu trung thực” thì sẽ rất khó được hành nghề hoặc được trở thành công chứng viên.

2.2.1.2. Quy định việc mới vào hành nghề công chứng:

Việc mới vào hành nghề công chứng của một người muốn trở thành công chứng viên tất nhiên phải có bằng cử nhân Luật và phải có đầy đủ các phẩm chất cá nhân đáp ứng được nguyên tắc hành nghề công chứng như Điều 3 của Luật công chứng 2006 đã quy định. Thêm vào đó, người mới vào hành nghề công chứng đương nhiên phải được một tổ chức, một cơ quan pháp luật nhận vào làm việc, bởi lẽ theo quy định, muốn được bổ nhiệm công chứng viên phải “có thời gian công tác pháp luật từ 05 năm trở lên”.

2.2.1.3. Quy định về điều kiện được tham gia khoá đào tạo nghiệp vụ công chứng viên:

Theo Điều 14, Luật Công chứng 2006 thì quy định này rõ ràng như sau:

“Điều 14. Đào tạo nghề công chứng

Người có bằng cử nhân luật được đăng ký tham dự khoá đào tạo nghề công chứng tại cơ sở đào tạo nghề công chứng.”

Tức là, chỉ có những người đã có bằng cử nhân Luật rồi mới được tham gia khoá đào tạo nghiệp vụ công chứng – có thể hiểu là đào tạo nghề công chứng viên. Chỉ qua quy định này cũng có thể thấy việc muốn trở thành một công chứng viên thì phải trải qua một quy trình chặt chẽ và có yêu cầu rất cao về trình độ, chất lượng, mà có thể nói là yêu cầu cao nhất về quy định đối với một nghề nghiệp (cao như đối với yêu cầu về thẩm phán vậy). Đó là chưa kể, trên thực tế, các cử nhân này còn phải được các cơ sở đào tạo nghề công chứng chiêu sinh theo từng đợt, từng năm, phải được kiểm tra bằng cấp cẩn thận, kỹ lưỡng theo quy định của Bộ Tư pháp.

Tuy nhiên, cũng có một số đối tượng được miễn đào tạo khoá nghiệp vụ công chứng do đã có trình độ chuyên môn hoặc trình độ nghiệp pháp luật cao, cụ thể là:

“Điều 15. Người được miễn đào tạo nghề công chứng

  • Đã là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên; luật sư đã hành nghề từ ba năm trở lên.
  • Giáo sư, phó giáo sư chuyên ngành luật, tiến sỹ luật.
  • Đã là thẩm tra viên cao cấp ngành toà án, kiểm tra viên cao cấp ngành kiểm sát; chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên cao cấp trong lĩnh vực pháp luật”.

Về mặt khoa học pháp lý, quy định này là phù hợp vì trên lý thuyết, những đối tượng này đã hội tụ được khá đầy đủ những kiến thức pháp luật. Nhưng trên thực tế, rất nhiều công chứng viên thuộc đối tượng này đã mắc phải những lỗi nghiệp vụ công chứng nghiêm trọng, gây hậu quả pháp lý rất nặng nề, còn bản thân công chứng viên thậm chí đã phải rơi vào vòng lao lý rất đáng buồn, trong khi những lỗi này các công chứng viên được đào tạo trước đây gần như không bao giờ mắc phải. Do vậy, có thể nói đây chính là một trong những khiếm khuyết đáng tiếc của quy chế công chứng viên giai đoạn này. Dễ thấy lý do của khiếm khuyết này là việc “sơ hở”, việc đánh giá chưa đúng thực tế tính phức tạp, tính “nguy hiểm” trong nghề công chứng của những cơ quan ban hành pháp luật.

2.2.1.4. Quy định về việc đào tạo nghiệp vụ công chứng viên: Luận văn: Thực trạng quy chế công chứng viên ở Việt Nam

Quy định này cụ thể như sau:

“Điều 14. Đào tạo nghề công chứng

  • Người có bằng cử nhân luật được đăng ký tham dự khoá đào tạo nghề công chứng tại cơ sở đào tạo nghề công chứng.”
  • Thời gian của khoá đào tạo nghề công chứng là sáu tháng.
  • Người hoàn thành chương trình đào tạo nghề công chứng được cơ sở đào tạo nghề công chứng cấp Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề công chứng.
  • Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định về chương trình khung của khoá đào tạo nghề công chứng và quy định việc công nhận đào tạo nghề công chứng ở nước ngoài”.

2.2.1.5. Quy định về tập sự hành nghề công chứng viên:

Theo Điều 16 của Luật:

“Điều 16. Tập sự hành nghề công chứng

  • Người có Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề công chứng thì được tập sự tại một tổ chức hành nghề công chứng. Thời gian tập sự hành nghề công chứng là mười hai tháng, kể từ ngày tập sự tại tổ chức hành nghề công chứng. Người tập sự hành nghề công chứng phải đăng ký tại Sở Tư pháp nơi có tổ chức hành nghề công chứng mà mình tập sự.
  • Người tập sự có thể tự liên hệ tập sự hành nghề công chứng tại một tổ chức hành nghề công chứng hoặc đề nghị Sở Tư pháp bố trí tập sự tại một tổ chức hành nghề công chứng.
  • Người tập sự hành nghề công chứng được thực hiện các công việc liên quan đến công chứng do công chứng viên hướng dẫn phân công và chịu trách nhiệm trước công chứng viên hướng dẫn về những công việc đó; không được ký văn bản công chứng.

Khi hết thời gian tập sự, người tập sự hành nghề công chứng phải báo cáo kết quả tập sự bằng văn bản có nhận xét của công chứng viên hướng dẫn về năng lực chuyên môn, tư cách đạo đức gửi Sở Tư pháp nơi đăng ký tập sự”.

Tuy nhiên, cũng có một số đối tượng được miễn phải trải qua giai đoạn tập sự hành nghề công chứng này:

“Điều 17. Người được miễn tập sự hành nghề công chứng

Người được miễn đào tạo nghề công chứng quy định tại Điều 15 của Luật này được miễn tập sự hành nghề công chứng”.

2.2.1.6. Quy định về điều kiện bổ nhiệm công chứng viên: Luận văn: Thực trạng quy chế công chứng viên ở Việt Nam

Đây điều quan trọng nhất trong toàn bộ các điều quy định trong quy chế về công chứng viên:

“Điều 13. Tiêu chuẩn công chứng viên

Công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt và có đủ các tiêu chuẩn sau đây thì được xem xét, bổ nhiệm làm công chứng viên:

  • Có bằng cử nhân luật;
  • Có thời gian công tác pháp luật từ năm năm trở lên tại các cơ quan, tổ chức;
  • Có Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề công chứng;
  • Đã qua thời gian tập sự hành nghề công chứng;
  • Có sức khoẻ bảo đảm hành nghề công chứng.
  • Thời gian đào tạo nghề công chứng và tập sự hành nghề công chứng được tính vào thời gian công tác pháp luật”.

Qua quy định này có thể thấy rõ là không phải bất kỳ ai có bằng cử nhân Luật, thậm chí có bằng cấp cao hơn, thậm chí đã qua khoá đào tạo, đã qua thời gian tập sự là cũng có thể được Nhà nước cho phép hành nghề công chứng. Bởi ngoài quy định về quốc tịch và các yếu tố nêu trên còn có quy chế về mặt pháp luật (phải “tuân thủ hiến pháp và pháp luật”, cũng có thể hiểu là không hoặc chưa bao giờ vi phạm Hiến pháp và pháp luật), nhưng đặc biệt hơn phải là người “có phẩm chất đạo đức tốt”. Đây là một quy định xét về mặt pháp lý thì có vẻ chung chung nhưng nếu áp dụng một cách triệt để thì cũng là một quy định mang tính pháp chế rất cao, bởi lẽ “phẩm chất đạo đức” ở đây sẽ vừa là một bộ quy chế do Nhà nước ban hành để các công chứng viên buộc phải áp dụng, nhưng đồng thời cũng vừa là một phạm trù được cả xã hội quan tâm theo dõi thông qua dư luận xã hội. Mà đã thông qua dư luận xã hội thì tính khách quan sẽ cao hơn, đòi hỏi của người dân và toàn xã hội đối với công chứng viên cũng chặt chẽ và sát sao hơn nên không phải ai cũng có thể đáp ứng được một cách triệt để quy định này. Nhưng rất đáng tiếc, trên thực tế, rất nhiều công chứng viên không đáp ứng được tiêu chuẩn về đạo đức này, dư luận xã hội đã có nhiều bất bình liên quan đến việc nhiều công chứng viên vi phạm tiêu chuẩn này trong quy chế chung về công chứng viên.

2.2.1.7. Quy định về thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiêm, tạm đình chỉ công chứng viên:

“Điều 18. Bổ nhiệm công chứng viên

Người hoàn thành tập sự hành nghề công chứng có quyền đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm công chứng viên. Hồ sơ đề nghị bổ nhiệm công chứng viên gửi Sở Tư pháp ở địa phương nơi đăng ký tập sự, gồm có:

  • Đơn đề nghị bổ nhiệm công chứng viên;
  • Bản sao bằng cử nhân luật hoặc bằng thạc sỹ luật; c) Giấy tờ chứng minh về thời gian công tác pháp luật;
  • Bản sao Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề công chứng;
  • Báo cáo kết quả tập sự hành nghề công chứng có nhận xét của công chứng viên hướng dẫn;
  • Sơ yếu lý lịch;
  • Giấy chứng nhận sức khoẻ.

Người được miễn đào tạo nghề công chứng, người được miễn tập sự hành nghề công chứng có quyền đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm công chứng viên. Hồ sơ đề nghị bổ nhiệm công chứng viên gửi Bộ Tư pháp, gồm có: Luận văn: Thực trạng quy chế công chứng viên ở Việt Nam

  • Đơn đề nghị bổ nhiệm công chứng viên;
  • Bản sao bằng cử nhân luật hoặc bằng thạc sỹ luật hoặc bằng tiến sỹ luật; c) Giấy tờ chứng minh là người được miễn đào tạo nghề công chứng, miễn tập sự hành nghề công chứng;
  •  Giấy tờ chứng minh về thời gian công tác pháp luật;
  • Sơ yếu lý lịch;
  • Giấy chứng nhận sức khoẻ.
  • Trong thời hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị bổ nhiệm công chứng viên quy định tại khoản 1 Điều này, Sở Tư pháp phải có văn bản đề nghị bổ nhiệm công chứng viên kèm theo hồ sơ gửi Bộ trưởng Bộ Tư pháp; trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người nộp hồ sơ. Người bị từ chối có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật.
  • Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị bổ nhiệm công chứng viên, Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét, quyết định bổ nhiệm công chứng viên; trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho Sở Tư pháp, người nộp hồ sơ. Người bị từ chối có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật.

Người được bổ nhiệm công chứng viên thì được Bộ trưởng Bộ Tư pháp cấp thẻ công chứng viên.

Điều 19. Những trường hợp không được bổ nhiệm công chứng viên

  • Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đã bị kết án mà chưa được xoá án tích về tội phạm do vô ý; đã bị kết án về tội phạm do cố ý.
  • Người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính khác theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
  • Người bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
  • Cán bộ, công chức, viên chức bị buộc thôi việc.
  • Người bị thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư do bị xử lý kỷ luật bằng hình thức xoá tên khỏi danh sách của Đoàn luật sư, bị tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề luật sư

Điều 20. Miễn nhiệm công chứng viên

  • Công chứng viên được miễn nhiệm theo nguyện vọng của cá nhân hoặc chuyển làm công việc khác.
  • Công chứng viên bị miễn nhiệm trong các trường hợp sau đây:
  • Không còn đủ tiêu chuẩn công chứng viên theo quy định tại Điều 13 của Luật này;
  • Bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
  • Kiêm nhiệm công việc khác;
  • Không hành nghề công chứng kể từ ngày được bổ nhiệm công chứng viên từ hai năm trở lên hoặc không hành nghề công chứng liên tục từ một năm trở lên;

Đã bị xử phạt hành chính đến lần thứ hai trong hoạt động hành nghề công chứng mà còn tiếp tục vi phạm hoặc bị xử lý kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo trở lên đến lần thứ hai mà còn tiếp tục vi phạm hoặc bị kỷ luật buộc thôi việc;

  • Bị kết tội bằng bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
  • Bộ trưởng Bộ Tư pháp tự mình hoặc theo đề nghị của Sở Tư pháp ở địa phương nơi công chứng viên đang hành nghề công chứng, của Sở Tư pháp nơi đề nghị bổ nhiệm công chứng viên trong trường hợp công chứng viên chưa hành nghề công chứng quyết định miễn nhiệm công chứng viên.

Hồ sơ đề nghị miễn nhiệm công chứng viên trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này phải có đơn xin miễn nhiệm của công chứng viên, văn bản đề nghị của Sở Tư pháp.

Hồ sơ của Sở Tư pháp đề nghị miễn nhiệm công chứng viên trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này phải có văn bản đề nghị của Sở Tư pháp và các tài liệu liên quan làm căn cứ cho việc đề nghị miễn nhiệm.

Trong thời hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị miễn nhiệm công chứng viên, Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét, quyết định miễn nhiệm công chứng viên và quyết định thu hồi thẻ công chứng viên.

Điều 21. Tạm đình chỉ hành nghề công chứng

Sở Tư pháp quyết định tạm đình chỉ hành nghề công chứng đối với công chứng viên thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 2 Điều 20 của Luật này hoặc công chứng viên đang bị truy cứu trách  nhiệm hình sự, đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính khác theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

  • Sở Tư pháp quyết định huỷ bỏ quyết định tạm đình chỉ hành nghề công chứng đối với công chứng viên trong các trường hợp sau đây:
  • Không còn thuộc các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và đ khoản 2 Điều 20 của Luật này;
  • Có quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án hoặc khi có bản án đã có hiệu lực của Toà án tuyên không có tội;
  • Không còn bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính khác theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
  • Quyết định tạm đình chỉ và quyết định huỷ bỏ quyết định tạm đình chỉ hành nghề công chứng phải được gửi cho công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng nơi công chứng viên làm việc, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Bộ Tư pháp”.

Về mặt pháp chế, những quy định này cũng tương đồng, phù hợp với một số chức danh tư pháp khác cũng như phù hợp chung với hệ thống pháp luật về hành chính, hình sự, … đang hiện hành.

2.2.1.8. Quy định về điều kiện làm việc, quyền và nghĩa vụ của công chứng viên: Luận văn: Thực trạng quy chế công chứng viên ở Việt Nam

Điều kiện làm việc, quyền, nghĩa vụ của công chứng viên đươc quy định tại Điều 22, Luật Công chứng 2006, cụ thể như sau:

“Điều 22. Quyền và nghĩa vụ của công chứng viên

  • Công chứng viên có các quyền sau đây:
  • Được lựa chọn nơi để hành nghề công chứng, trừ công chứng viên của Phòng công chứng;
  • Đề nghị cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu để thực hiện việc công chứng;
  • Các quyền khác quy định tại Luật này.
  • Công chứng viên có các nghĩa vụ sau đây: a) Tuân thủ nguyên tắc hành nghề công chứng;
  •  Tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người yêu cầu công chứng;
  • Giữ bí mật về nội dung công chứng, trừ trường hợp được người yêu cầu công chứng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác;
  • Hành nghề tại một tổ chức hành nghề công chứng”.

Đây cũng là một quy định rõ ràng và phù hợp với hệ thống pháp luật chung.

2.2.1.9. Quy định về các trách nhiệm của công chứng viên (đối với văn bản công chứng, đối với người yêu cầu công chứng, đối với tổ chức hành nghề công chứng, đối với tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên, đối với các cá nhân, tổ chức và các cơ quan nhà nước có liên quan (phát sinh thông qua các văn bản công chứng), các hành vi bị nghiêm cấm của công chứng viên, xử lý phạm đối với công chứng viên:

  • “Chịu trách nhiệm trước pháp luật về văn bản công chứng” (Điều 3, khoản 3).
  • Ngoài ra công chứng viên còn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật đối với người yêu cầu công chứng, với tổ chức hành nghề công chứng mà mình đang làm việc và với cả các cơ có quan liên quan thông qua hậu quả pháp lý mà văn bản công chứng do mình thực hiện.
  • Luật còn quy định các hành vi bị nghiêm cấm đối với công chứng viên:

“Điều 12. Các hành vi bị nghiêm cấm

Nghiêm cấm công chứng viên thực hiện các hành vi sau đây:

Tiết lộ thông tin về nội dung công chứng mà mình biết được khi hành nghề, trừ trường hợp được người yêu cầu công chứng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác; sử dụng thông tin đó để xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;

Sách nhiễu, gây khó khăn cho người yêu cầu công chứng;

Nhận, đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích nào khác từ người yêu cầu công chứng ngoài phí công chứng, thù lao công chứng và chi phí khác đã được xác định, thoả thuận;

 Thực hiện công chứng trong trường hợp mục đích và nội dung của hợp đồng, giao dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội; công chứng liên quan đến tài sản, lợi ích của bản thân mình hoặc của những người thân thích là vợ hoặc chồng, cha mẹ đẻ, cha mẹ vợ hoặc cha mẹ chồng, cha mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, con dâu, con rể, ông bà nội, ông bà ngoại, anh chị em ruột của mình, của vợ hoặc chồng, cháu là con của con trai, con gái, con nuôi”.

Đây là một quy định khoa học, phù hợp với hệ thống pháp luật về tố tụng trong hệ thống phápl uật nước ta.

Luật còn quy định cho các công chứng viên có quyền từ chối công chứng (ví dụ tại Điều 35), nhưng cũng quy định công chứng viên cũng có thể bị khiếu nại và hành vi từ chối công chứng (Điều 63). Trên thực tế đã xảy ra những vụ kiện mà hành vi từ chối công chứng của công chứng viên không đúng với quy định của pháp luật và đã bị Toà án có thẩm quyền tuyên là đó là hành vi từ chối sai và đã phải bồi thường cho người yêu cầu công chứng. Đây là một điểm rất đặc thù trong quy chế công chứng viên hiện đại, tuy là hành nghề trong khuôn khổ nghề tự do nhưng vẫn bị ràng buộc trách nhiệm khi từ chối thực hiện công việc mà mình đăng ký hoạt động khi có người yêu cầu. Tuy nhiên, khoa học pháp lý còn phải nghiên cứu sâu thêm về quy định này vì đây là vấn đề rất phức tạp phát sinh từ sự “chồng chéo” trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay.

2.2.2. Quy chế công chứng viên từ khi có Luật Công chứng 2014 (quy chế công chứng viên hiện hành)

Ngày 20/06/2014, Luật Công chứng mới (số: 53/2014/QH13) đã được Quốc Hội khóa 13 thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/01/2015 – đã thay thế hoàn toàn cho Luật Công chứng 2006. Đây là Luật về cơ bản vẫn mang tinh thần chung là chuyên nghiệp hoá và xã hội hoá cao về công chứng giống như Luật Công chứng 2006 nhưng đã được sửa đổi, bổ sung rất nhiều (nên mới có tên là Luật công chứng 2014 chứ không phải là Luật công chứng sửa đổi). Sự ra đời của Luật này nhằm khắc phục tốt nhất những nhược điểm của Luật Công chứng 2006 và để phù hợp với sự phát triển của cả hệ thống luật pháp, phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội trong giai đoạn mới, trong đó đặc biệt nhất là nhằm nâng cao chất lượng công chứng viên, mở rộng phạm vi công việc cho công chứng viên, quy hoạch tổng thể số lượng công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng, xã hội hoá hoàn toàn nghề công chứng trong thời gian sớm nhất. Luận văn: Thực trạng quy chế công chứng viên ở Việt Nam

Về mặt phạm vi công việc được hành nghề, điều đáng chú ý là Luật Công chứng 2014 quy định thêm (so với Luật Công chứng 2006) cho công chứng viên có thêm chức năng chứng thực sao y bản chính và chứng thực chữ ký người yêu cầu chứng thực và chữ ký người dịch văn bản (tức quay lại phần phạm vi công việc gần giống như giai đoạn do Nghị định 75/2000/NĐ-CP quy định).

Riêng về công chứng viên, Luật Công chứng 2014 đã cố gắng hoàn chỉnh tốt nhất theo xu hướng xã hội hoá, chất lượng hoá và quy hoạch hoá một cách tốt nhất có thể nhằm đáp ứng cho toàn bộ xã hội trong giai đoạn chuyển mình hội nhập quốc tế mà trong đó bản thân nền công chứng Việt Nam cũng đã chính thức là thành viên của Liên minh công chứng Quốc tế. Ngoài những điểm chính vẫn được giữ lại từ Luật Công chứng 2006, Luật Công chứng mới (2014) này còn bổ sung một số điểm mới đáng chú ý sau đây về công chứng viên:

Quy định mang tính tổng quát về “Chức năng xã hội của công chứng viên” (Điều 3):

“Điều 3. Chức năng xã hội của công chứng viên

Công chứng viên cung cấp dịch vụ công do Nhà nước ủy nhiệm thực hiện nhằm bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên tham gia hợp đồng, giao dịch; phòng ngừa tranh chấp; góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; ổn định và phát triển kinh tế – xã hội”.

Đây là một quy định mang tính khái quát cao, một khái niệm về mặt xã hội của công chứng viên, nhưng vẫn chưa phải là một khái niệm và quy định cụ thể, nhưng dù sao cũng cho thấy tầm quan trọng của công chứng viên trong xã hội.

Tiếp theo, cụ thể hơn, công chứng viên được bổ sung thêm về phạm vi công việc hành nghề so với Luật Công chứng trước đây, đây cũng là một điều hợp lý, vì trên thực tế các công chứng viên là những “chuyên gia” về pháp luật nên đủ sức đảm đương thêm được các công việc này tốt hơn những đối tượng làm việc “kiêm nhiệm” trước đây (Điều 2, khoản 1):

“1. Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”.

Nhưng công chứng viên lại phải chịu thêm trách nhiệm trước pháp luật về người yêu cầu công chứng so với Luật trước đây (Điều 4, khoản 4):

“4. Chịu trách nhiệm trước pháp luật và người yêu cầu công chứng về văn bản công chứng”.

2.2.1.1. Quy định về điều kiện được hành nghề công chứng:

Quy định này vẫn được giữ nguyên như quy định tại Luật Công chứng 2006: phải có bằng cử nhân Luật (Điều 8, khoản 1) và phải là người có phẩm chất “Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật”, “Khách quan, trung thực” (Điều 4).

2.2.1.2. Quy định về việc người mới bước vào hành nghề công chứng : Luận văn: Thực trạng quy chế công chứng viên ở Việt Nam

Cũng giống như Luật Công chứng 2006: Việc mới vào hành nghề công chứng của một người muốn trở thành công chứng viên phải có bằng cử nhân Luật và phải có đầy đủ các phẩm chất cá nhân đáp ứng được nguyên tắc hành nghề công chứng như Điều 8 của Luật công chứng năm 2014 đã quy định. Thêm vào đó, người mới vào hành nghề công chứng đương nhiên phải được một tổ chức, một cơ quan pháp luật nhận vào làm việc, bởi lẽ theo quy định, muốn được bổ nhiệm công chứng viên phải “có thời gian công tác pháp luật từ 05 năm trở lên”.

2.2.1.3. Quy định về điều kiện được tham gia khoá đào tạo nghiệp vụ công chứng viên:

Quy định về điều kiện tham gia khoá đào tạo cũng giống theo Luật Công chứng 2006 nhưng một số đối tượng được miễn đào tạo thì phải có 05 (năm) năm hành nghề tư pháp khác thay vì 03 (ba) năm như Luật Công chứng 2006 và dù có trong đối tượng được miễn đào tạo nghề công chứng thì vẫn phải tham gia một khoá bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng là 03 (ba) tháng (Điều 10, khoản 1., mục a), b), khoản 2.):

“a) Người đã có thời gian làm thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên từ 05 năm trở lên;

b) Luật sư đã hành nghề từ 05 năm trở lên;

Người được miễn đào tạo nghề công chứng quy định tại khoản 1 Điều này phải tham gia khóa bồi dưỡng kỹ năng hành nghề công chứng và quy tắc đạo đức hành nghề công chứng tại cơ sở đào tạo nghề công chứng trước khi đề nghị bổ nhiệm công chứng viên. Thời gian bồi dưỡng nghề công chứng là 03 tháng”.

Những đổi mới trong quy định này so với Luật công chứng cũ năm 2006 thực sự đã chặt chẽ hơn, “siết chặt” hơn việc được miễn đào tạo đối với các đối tượng được miễn đào tạo. Quy định này đã được nghiên cứu rất kỹ lưỡng bởi những nhà lập pháp sau khi nhận được sự phản hồi từ dư luận xã hội và nhất là từ hậu quả thực tiễn khi thi hành Luật Công chứng năm 2006, đó là, có quá nhiều sai phạm trong việc hành nghề công chứng của những công chứng viên được miễn đào tạo theo quy định tại Luật Công chứng năm 2006 (số lượng các vụ sai phạm do các công chứng viên được miễn đào tạo chiếm đến 80% toàn bộ tổng số vụ sai phạm về lĩnh vực công chứng, tính đến năm 2012 như sẽ trích dẫn ở phần dưới đây).

2.2.1.4. Quy định về việc đào tạo nghiệp vụ công chứng viên: Luận văn: Thực trạng quy chế công chứng viên ở Việt Nam

Quy định này về “Thời gian đào tạo là 12 (mười hai) tháng” (Điều 9, khoản 2), đã tăng thêm thời gian đào tạo so với Luật Công chứng năm 2006 thời gian đào tạo chỉ là 06 (sáu tháng) góp phần củng cố thêm nghiệp vụ cho công chứng viên, nâng cao chất lượng công chứng viên khi bước vào hành nghề chính thức.

2.2.1.5. Quy định về tập sự hành nghề công chứng viên:

Quy định này về thời gian tập sự là 12 tháng đối với người có giấy chứng nhận tốt nghiệp khoá đào tạo nghiệp vụ hành nghề công chứng và là 06 tháng đối với người đã có giấy chứng nhận tốt nghiệp lớp bồi dường nghiệp vụ công chứng (Điều 11, khoản 1) là cũng đã tăng thêm và quy định thêm về thời gian cho người tập sự công chứng viên.

Ngoài ra chi tiết nội dung tập sự phải theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp (Điều 11, khoản 6), đây cũng là một điểm mới so với năm 2006.

Như vậy, theo Luật Công chứng 2014, việc tập sự hành nghề công chứng là bắt buộc đối với mọi đối tượng, kể cả những đối tượng được miễn đào tạo nghiệp vụ. Tất cả những điểm mới trong các quy định nói trên đều nhắm tới một mục đích là tăng thêm chất lượng nghiệp vụ cho các công chứng viên trong tương lai khi hành nghề.

2.2.1.6. Quy định về điều kiện bổ nhiệm công chứng viên: Luận văn: Thực trạng quy chế công chứng viên ở Việt Nam

Quy định này chủ yếu theo Điều 8. (Tiêu chuẩn bổ nhiệm công chứng viên). Về hình thức quy định này vẫn giữ giống như Luật Công chứng 2006 nhưng đã có một số thay đổi về nội dung để phù hợp với hệ thống pháp luật nói chung. Cụ thể:

  • Về từ ngữ, đã bỏ đi cụm từ “trung thành với Tổ quốc” vì đây là điều kiện đương nhiên, bắt buộc phải có đối với mỗi công dân nói chung. và thắt chặt hơn điều kiện bổ nhiệm nhằm nâng cao chất lượng công chứng viên.
  • Về tiêu chuẩn bổ nhiệm:
  • Đã bổ sung thêm điều kiện “sau khi có bằng cử nhân Luật” vào sau điều kiện “Có thời gian công tác pháp luật từ 05 năm trở lên tại các cơ quan, tổ chức” của Luật Công chứng 2006. (Điều 5, khoản 2 – Luật Công chứng 2014). Đây là quy định thắt chặt hơn nhằm nâng cao chất lượng công chứng viên so với Luật Công chứng 2006: Thời gian công tác pháp luật phải từ 05 năm trở lên kể từ khi “có bằng cử nhân Luật”, còn khoảng thời gian công tác pháp luật khi chưa có bằng cử nhân Luật thì không được tính.
  • Bổ sung thêm điều kiện “… hoàn thành khoá bồi dưỡng nghề công chứng” đối với những người được miễn đào tạo nghề công chứng (theo khoản 2, Điều 10) tại Điều 8. Và bổ sung thêm khoản 4, Điều 8: “4. Đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng”.

Xét về mặt khoa học pháp lý, những bổ sung mới này của Luật Công chứng 2014 là hoàn toàn lô gích, hợp lý. Bởi lẽ, như đã phân tích tại phần tổng quan về nghề công chứng thì nghề công chứng là một nghề đòi hỏi không những phải đủ kiến thức của một ngành luật cụ thể nào trong hệ thống luật dân sự mà nó còn đòi hỏi phải biết khá nhiều các kiến thức trong rất nhiều ngành luật khác có liên quan trong hệ thống pháp luật (thậm chí còn liên quan đến các văn bản quy phạm pháp luật khác hẳn dân sự như Luật hành chính, Tố tụng hành chính, Tố tụng hình sự, Luật quốc tế, …). Trong khí đó, việc tiếp nhận và giải quyết công việc công chứng của các chủ thể yêu cầu lại đòi hỏi rất nhanh, gần như là phải giải quyết tức thời, hoặc chỉ trong một, hai ngày như thực tế yêu cầu đặt ra như trong Luật Công chứng đã dự liệu và quy định. Xét về mặt thực tiễn, hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa hoàn toàn đồng bộ, các văn bản quy phạm do các cơ quan ban hành còn có nhiều điểm bất cập, chồng chéo nhau, cách áp dụng pháp luật của các cơ quan còn chưa hoàn toàn thống nhất trong khi các nhu cầu công chứng của người dân lại vô cùng đa dạng và ngày càng phức tạp do xã hội ngày càng phát triển, nhất là trong xu thế kinh tế thị trường, tất cả đều có những sự cạnh tranh, tiềm ẩn những nguy cơ nhất định nên việc công chứng viên phải nắm bắt được phương thức giải quyết và lựa chọn giải pháp thực hiện các yêu cầu công chứng của người dân phải đòi hỏi có một sự “cọ sát” thực tế nhất định.

Theo “Báo cáo đánh giá tác động của dự thảo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật công chứng” do Bộ Tư pháp thực hiện năm 2012 (theo khung phân tích đánh giá tác động pháp luật (gọi tắt là RIA) tối thiểu dựa trên tài liệu hướng dẫn thực hiện đánh giá RIA ở Việt Nam do GTZ biên soạn) để trình Chính phủ và Quốc Hội sửa đổi Luật Công chứng 2006 thì: “… tỷ lệ sai phạm trong hoạt động công chứng chủ yếu tập trung ở nhóm công chứng viên miễn đào tạo, miễn tập sự (chiếm tới hơn 80% tổng số sai phạm)” trong toàn bộ các sai phạm về công chứng của công chứng viên thực hiện trong giai đoạn từ khi Luật Công chứng năm 2006 có hiệu lực cho đến năm 2012.

Chỉ riêng qua con số thống kê trên cũng đủ để thấy việc Luật công chứng 2014 qui định bổ sung việc bắt buộc phải tập sự đối với những đối tượng được miễn đào tạo nghề công chứng, hay phải đạt kết quả tập sự hành nghề công chứng là vô cùng cần thiết và cấp bách.

2.2.1.7. Quy định về thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm, tạm đình chỉ công chứng viên: Luận văn: Thực trạng quy chế công chứng viên ở Việt Nam

Quy định về thời gian chờ bổ nhiệm công chứng viên cũng kéo dài hơn, tăng lên từ 20 ngày lên thành 30 ngày so với Luật Công chứng 2006 (Điều 12, khoản 4).

Những trường hợp không được bổ nhiệm công chứng viên cũng được quy định rộng hơn so với năm 2006, còn về cơ bản thì vẫn giữ nguyên:

“Điều 13. Những trường hợp không được bổ nhiệm công chứng viên

Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, đã bị kết tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về tội phạm do vô ý mà chưa được xóa án tích hoặc về tội phạm do cố ý.

Người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

Người bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Cán bộ bị kỷ luật bằng hình thức bãi nhiệm, công chức, viên chức bị kỷ luật bằng hình thức buộc thôi việc hoặc sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân, sỹ quan, hạ sỹ quan, công nhân, viên chức trong đơn vị thuộc Công an nhân dân bị kỷ luật bằng hình thức tước danh hiệu quân nhân, danh hiệu Công an nhân dân hoặc đưa ra khỏi ngành.

Người bị thu hồi chứng chỉ hành nghề luật sư do bị xử lý kỷ luật bằng hình thức xóa tên khỏi danh sách của Đoàn luật sư, người bị tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề luật sư mà chưa hết thời hạn 03 năm kể từ ngày quyết định thu hồi chứng chỉ hành nghề luật sư có hiệu lực hoặc kể từ ngày chấp hành xong quyết định tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề luật sư”.

Như vậy, có thể thấy Luật Công chứng 2014 đã quy định có phần chặt chẽ và nhất là đã “phù hợp với thực tế” hơn so với Luật Công chứng 2006 về việc bổ nhiệm công chứng viên, việc này – theo lý giải của những người xây dựng dự thảo pháp luật – là nhằm góp phần củng cố và tăng cường chất lượng, phẩm chất đạo đức của công chứng viên được bổ nhiệm. Điều này thực sự là cần thiết và cũng mang tính khoa học cao.

Vể miễn nhiệm và tạm đình chỉ hành nghề công chứng:

Điều 15. Miễn nhiệm công chứng viên

Công chứng viên được miễn nhiệm theo nguyện vọng của cá nhân hoặc chuyển làm công việc khác.

Công chứng viên nộp đơn đề nghị miễn nhiệm tại Sở Tư pháp ở nơi mình đăng ký hành nghề. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được đơn đề nghị miễn nhiệm của công chứng viên, Sở Tư pháp có văn bản đề nghị kèm theo đơn đề nghị miễn nhiệm của công chứng viên gửi Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

  • Công chứng viên bị miễn nhiệm trong các trường hợp sau đây:
  • Không còn đủ tiêu chuẩn công chứng viên theo quy định tại Điều 8 của Luật này;
  • Bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
  • Kiêm nhiệm công việc thường xuyên khác;
  • Không hành nghề công chứng trong thời hạn 02 năm kể từ ngày được bổ nhiệm công chứng viên hoặc không hành nghề công chứng liên tục từ 12 tháng trở lên;

Hết thời hạn tạm đình chỉ hành nghề công chứng quy định tại khoản 2 Điều 14 của Luật này mà lý do tạm đình chỉ hành nghề công chứng vẫn còn;

 Đã bị xử phạt vi phạm hành chính đến lần thứ hai trong hoạt động hành nghề công chứng mà còn tiếp tục vi phạm; bị xử lý kỷ luật bằng hình thức từ cảnh cáo trở lên đến lần thứ hai mà còn tiếp tục vi phạm hoặc bị kỷ luật buộc thôi việc;

  • Bị kết tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án;
  • Thuộc các trường hợp không được bổ nhiệm công chứng viên quy định tại Điều 13 của Luật này tại thời điểm được bổ nhiệm.
  • Sở Tư pháp có trách nhiệm rà soát, kiểm tra việc bảo đảm tiêu chuẩn hành nghề của công chứng viên tại địa phương mình.

Khi có căn cứ cho rằng công chứng viên thuộc trường hợp bị miễn nhiệm quy định tại khoản 2 Điều này, Sở Tư pháp có văn bản đề nghị miễn nhiệm công chứng viên kèm theo các tài liệu liên quan làm căn cứ cho việc đề nghị miễn nhiệm gửi Bộ trưởng Bộ Tư phápTrong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị miễn nhiệm công chứng viên, Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét, quyết định việc miễn nhiệm công chứng viên”.

Như vậy, so với Luật Công chứng 2006, Luật công chứng hiện tại đã thêm 02 quy định miễn nhiệm công chứng viên là khoản là mục đ) và mục h) tại khoản 2, Điều 15, đó miễn nhiệm trong các trường hợp: “đ) Hết thời hạn tạm đình chỉ hành nghề công chứng quy định tại khoản 2 Điều 14 của Luật này mà lý do tạm đình chỉ hành nghề công chứng vẫn còn”, và: “h) Thuộc các trường hợp không được bổ nhiệm công chứng viên quy định tại Điều 13 của Luật này tại thời điểm được bổ nhiệm”. Và tất nhiên, đó cũng là những quy định nhằm thắt chặt hơn về tiêu chuẩn bổ nhiệm công chứng viên. Luận văn: Thực trạng quy chế công chứng viên ở Việt Nam

Nhưng khoa học hơn và tiến bộ hơn so với Luật Công chứng năm 2006, Luật công chứng năm 2014 đã quy định về việc tái bổ nhiệm và những trường hợp không được tái bổ nhiệm công chứng viên nhằm tạo ra một khuôn khổ mềm dẻo hơn cho những trường hợp tạm thời phải xin miễn nhiệm công chứng viên để làm việc khác, sau đó sẽ yêu cầu bổ nhiệm lại, nhưng cũng có những quy định chặt chẽ đối với những trường hợp này để loại trừ những đối tượng không thể được bổ nhiệm lại (Điều 15, Điều 16 – Luật công chứng 2014):

“Điều 16. Bổ nhiệm lại công chứng viên

  • Người được miễn nhiệm công chứng viên theo quy định tại khoản 1 Điều 15 của Luật này được xem xét bổ nhiệm lại công chứng viên khi có đề nghị bổ nhiệm lại.
  • Người bị miễn nhiệm công chứng viên theo quy định tại khoản 2 Điều 15 của Luật này được xem xét bổ nhiệm lại công chứng viên khi đáp ứng đủ tiêu chuẩn công chứng viên quy định tại Điều 8 của Luật này và lý do miễn nhiệm không còn, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này.
  • Người bị miễn nhiệm công chứng viên do bị kết tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về tội phạm do cố ý, bị xử phạt vi phạm hành chính đến lần thứ hai trong hoạt động hành nghề công chứng mà còn tiếp tục vi phạm, bị xử lý kỷ luật bằng hình thức từ cảnh cáo trở lên đến lần thứ hai mà còn tiếp tục vi phạm hoặc bị kỷ luật buộc thôi việc thì không được bổ nhiệm lại công chứng viên.

Thủ tục bổ nhiệm lại công chứng viên được thực hiện theo quy định tại Điều 12 của Luật này. Hồ sơ đề nghị bổ nhiệm lại công chứng viên gồm:

  • Đơn đề nghị bổ nhiệm lại công chứng viên theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định;
  • Phiếu lý lịch tư pháp;
  • Giấy chứng nhận sức khỏe do cơ quan y tế có thẩm quyền cấp;
  • Bản sao quyết định miễn nhiệm công chứng viên;
  • Bản sao các giấy tờ chứng minh lý do miễn nhiệm không còn, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này”.

2.2.1.8. Quy định về điều kiện làm việc, quyền và nghĩa vụ của công chứng viên:

Điều kiện làm việc, quyền, nghĩa vụ của công chứng viên đươc quy định tại Điều 17, Luật Công chứng 2014, vẫn giống như Luật năm 2006.

2.2.1.9. Quy định về các trách nhiệm của công chứng viên (đối với văn bản công chứng, đối với người yêu cầu công chứng, đối với tổ chức hành nghề công chứng, đối với tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên, đối với các cá nhân, tổ chức và các cơ quan nhà nước có liên quan (phát sinh thông qua các văn bản công chứng), các hành vi bị nghiêm cấm của công chứng viên, xử lý phạm đối với công chứng viên:

  • Cũng giống như Luật Công chứng năm 2006, trách nhiệm của công chứng viên là rất cao đối với văn bản công chứng của mình (gần như là phải chịu trách nhiệm hoàn toàn với tư cách cá nhân), trừ những trường hợp bất khả kháng đối với công chứng viên mà thôi.
  • Trách nhiệm mua bảo hiểm, bồi thường thiệt hại và tham gia vào tổ chứng xã hội nghề nghiệp của công chứng viên:

So với Luật Công chứng 2006, Luật Công chứng 2014 đã quy định cụ thể hơn và chặt chẽ hơn về các trách nhiệm này của công chứng viên (Điều 37, Điều 38), thậm chí còn quy định thêm cả “bồi hoàn” trong hoạt động công chứng, nghĩa là công chứng viên phải bồi hoàn lại cho Tổ chức hành nghề công chứng nơi mình đang làm việc một khoản chi phí mà Tổ chức hành nghề công chứng đó đã phải chi ra để bồi thường cho các bên liên quan do hành vi công chứng của công chứng viên gây thiệt hại cho họ.

Các hành vi bị nghiêm cấm: Ngoài các hành vi bị nghiêm cấm chặt chẽ hơn trong Luật năm 2006, Luật công chứng 2014 còn quy định thêm một số hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực chứng thực (Điều 7).

Cuối cùng, công chứng viên chứng viên còn có thể phải chịu các mức phạt do hành vi vi phạm hành chính, hay hành vi vi phạm quy định về công chứng viên theo quy định của Chính phủ thông qua Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ban hành ngày 24/09/2013 (tại Mục 3 – các điều: Điều 12, Điều 13, Điều 14) và Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ban hành ngày 14/08/2015 (để sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 110/2013/NĐ-CP).

2.2.2.10. Quy tắc đạo đức hành nghề hiện hành của công chứng viên Luận văn: Thực trạng quy chế công chứng viên ở Việt Nam

Sau một thời gian nghiên cứu và tổng hợp các ý kiến từ nhiều đối tượng khác nhau trong trong xã hội, ngày 30/10/2012 Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số: 11/2012/TT-BTP để lần đầu tiên chính thức quy định về “Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng”, trong đó chủ yếu quy định về quy tắc đạo đức hành nghề của công chứng viên.

Ngoài các văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn, thì bộ quy tắc này sau khi có hiệu lực như các văn bản quy phạm pháp luật khác, chính thức trở thành một thành phần quan trọng trong toàn bộ quy chế công chứng viên hiện hành theo pháp luật Việt Nam.

Các số điểm chính liên quan đến công chứng viên trong bộ quy tắc này cụ thể như sau:

“Công chứng là một nghề cao quý, bởi hoạt động công chứng bảo đảm  tính an toàn pháp lý, ngăn ngừa tranh chấp, giảm thiểu rủi ro cho các hợp đồng, giao dịch, qua đó bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.

Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng quy định các chuẩn mực đạo đức,  hành vi ứng xử của công chứng viên trong hành nghề công chứng, là cơ sở để công chứng viên tự giác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức trong hành nghề và trong đời sống xã hội nhằm nâng cao trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên, nâng cao uy tín của công chứng viên, góp phần tôn vinh nghề công chứng trong xã hội.

Đi vào cụ thể của bộ quy tắc trên, tại Chương I – Quy tắc chung quy định: “Điều 1. Bảo vệ quyền, lợi ích Nhà nước, lợi ích hợp pháp của cá nhân,  tổ chức

Công chứng viên có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc, vì lợi ích của nhân dân, bằng hoạt động nghề nghiệp của mình góp phần bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xã hội.

Điều 2. Nguyên tắc hành nghề công chứng

Công chứng viên phải tuân thủ những nguyên tắc sau đây:

  • Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
  • Khách quan, trung thực khi thực hiện công chứng, không vì bất kỳ lý do nào mà làm ảnh hưởng đến chất lượng việc công chứng cũng như phân biệt đối xử với người yêu cầu công chứng.
  • Chịu trách nhiệm trước pháp luật về văn bản công chứng, bồi thường thiệt hại do lỗi của mình trong trường hợp việc công chứng dẫn đến thiệt hại cho người yêu cầu công chứng.
  • Tuân thủ các quy định của Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng này và các quy định của tổ chức xã hội nghề nghiệp công chứng.

Điều 3. Tôn trọng, bảo vệ uy tín, thanh danh nghề nghiệp

Công chứng viên có trách nhiệm coi trọng, giữ gìn uy tín nghề nghiệp, không được có hành vi làm tổn hại đến danh dự, uy tín cá nhân, thanh danh nghề nghiệp.

Công chứng viên cần phải ứng xử văn minh, lịch sự trong hành nghề; lành mạnh trong lối sống để nhận được sự yêu quý, tôn trọng, tin cậy và vinh danh của đồng nghiệp, người yêu cầu công chứng và toàn thể xã hội.

Điều 4. Rèn luyện, tu dưỡng bản thân

Công chứng viên phải không ngừng trau dồi đạo đức, nâng cao trình độ chuyên môn, tích cực tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và nỗ lực tìm tòi để nâng cao chất lượng công việc và phục vụ người yêu cầu công chứng.”

Còn về đạo đức của công chứng viên đối với những người yêu cầu công chứng được quy định tại Chương II – Quan hệ với người yêu cầu công chứng của bộ quy tắc này, cụ thể có thể trích dẫn: Luận văn: Thực trạng quy chế công chứng viên ở Việt Nam

“Điều 5. Trách nhiệm nghề nghiệp

Công chứng viên phải tận tâm với công việc, phát huy năng lực, sử dụng kiến thức chuyên môn, các kỹ năng nghề nghiệp để bảo đảm tốt nhất tính an toàn pháp lý cho hợp đồng, giao dịch; có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết yêu cầu

Formatted: Font: 13.5 pt, Italic, Condensed by 0.15 pt công chứng của cá nhân, tổ chức một cách nhanh chóng, kịp thời khi yêu cầu công chứng đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội.

Công chứng viên sẵn sàng tiếp nhận và giải quyết kịp thời yêu cầu công chứng của người yêu cầu công chứng bằng cách luôn có mặt tại trụ sở tổ chức hành nghề công chứng trong giờ làm việc theo quy định của pháp luật.

Công chứng viên có nghĩa vụ giải thích cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ về quyền, nghĩa vụ, hậu quả pháp lý phát sinh của hợp đồng, giao dịch được yêu cầu công chứng; giải đáp một cách rõ ràng những thắc mắc của người yêu cầu công chứng nhằm đảm bảo cho hợp đồng, giao dịch đúng với ý chí của các bên giao kết hợp đồng, giao dịch; đảm bảo các bên có nhận thức đúng về pháp luật có liên quan và giá trị pháp lý của văn bản công chứng trước khi công chứng viên công chứng.

Công chứng viên có trách nhiệm cung cấp cho người yêu cầu công chứng các thông tin có liên quan về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên trong hành nghề công chứng theo yêu cầu của người yêu cầu công chứng.

Điều 6. Bảo mật thông tin, bảo quản hồ sơ công chứng

  • Công chứng viên có trách nhiệm giữ bí mật các thông tin trong hồ sơ yêu cầu công chứng, hồ sơ công chứng và tất cả thông tin biết được về nội dung công chứng trong quá trình hành nghề cũng như khi không còn là công chứng viên; trừ trường hợp được sự đồng ý bằng văn bản của người yêu cầu công chứng hoặc pháp luật có quy định khác.
  • Công chứng viên có trách nhiệm bảo quản hồ sơ công chứng trong quá trình giải quyết yêu cầu công chứng và bàn giao đầy đủ hồ sơ công chứng để lưu trữ theo quy định của pháp luật.
  • Công chứng viên có trách nhiệm hướng dẫn nhân viên thuộc tổ chức hành nghề công chứng của mình không được tiết lộ bí mật thông tin về việc công chứng mà họ biết theo nội quy, quy chế của tổ chức hành nghề công chứng, quy

Điều 7. Đối xử bình đẳng giữa những người yêu cầu công chứng

Công chứng viên không được phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, địa vị xã hội, khả năng tài chính, tuổi tác giữa những người yêu cầu công chứng khi họ đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định pháp luật để thực hiện việc công chứng, bảo đảm đối xử bình đẳng giữa những người yêu cầu công chứng.

Điều 8. Thu phí, thù lao công chứng

Công chứng viên có trách nhiệm thu đúng, thu đủ và công khai phí, thù lao công chứng theo quy định đã được niêm yết; khi thu phí, thù lao công chứng phải ghi hóa đơn, chứng từ đầy đủ và thông báo cho người yêu cầu công chứng biết rõ về các khoản thu và số tiền mà họ phải nộp.

Điều 9. Những việc công chứng viên không được làm trong quan hệ với  người yêu cầu công chứng

  • Sách nhiễu, gây khó khăn cho người yêu cầu công chứng.
  • Nhận, đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích nào khác từ người yêu cầu công chứng ngoài phí công chứng, thù lao công chứng và chi phí khác đã được quy định, xác định, thoả thuận.
  • Nhận tiền hoặc bất kỳ lợi ích vật chất nào khác từ người thứ ba để thực hiện hoặc không thực hiện việc công chứng dẫn tới hậu quả gây thiệt hại đến lợi ích chính đáng của người yêu cầu công chứng và các bên liên quan.
  • Sử dụng thông tin biết được từ việc công chứng để mưu cầu lợi ích cá nhân.
  • Thực hiện công chứng trong trường hợp mục đích và nội dung của hợp đồng, giao dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội.
  • Đưa ra những lời hứa hẹn nhằm lôi kéo người yêu cầu công chứng hoặc tự ý thu tăng hoặc giảm phí công chứng, thù lao công chứng so với quy định và sự thoả thuận.
  • Công chứng các hợp đồng, giao dịch có liên quan về mặt lợi ích giữa công chứng viên và người yêu cầu công chứng.
  • Thông đồng, tạo điều kiện cho người yêu cầu công chứng xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác.
  • Trả tiền hoa hồng, chiết khấu cho người yêu cầu công chứng hoặc người môi giới.
  • Câu kết với người yêu cầu công chứng, những người có liên quan làm sai lệch nội dung của văn bản công chứng và hồ sơ đã công chứng.”

Đây là những quy định khá rõ ràng và chặt chẽ đối với công chứng viên khi tiếp xúc và làm việc với người yêu cầu công chứng, cũng là những quy định nhằm bảo đảm tính “cao quý” của người công chứng viên. Nhưng trên thực tế thì phải kiểm nghiệm kết quả của những quy định này thì mới đạt được mục đích của quy định. Luận văn: Thực trạng quy chế công chứng viên ở Việt Nam

Còn đạo đức công chứng viên trong quan hệ với đồng nghiệp, với tổ chức hành nghề công chứng, tổ chức xã hội nghề nghiệp công chứng, tổ chức, cá nhân khác thì bộ quy tắc này quy định tại Chương III, cụ thể như sau:

“Điều 10. Quan hệ của công chứng viên với đồng nghiệp, tổ chức hành nghề công chứng, tổ chức xã hội nghề nghiệp công chứng

  • Tôn trọng, bảo vệ danh dự của đồng nghiệp; giữ gìn và phát huy tinh thần đoàn kết, thân thiện, hợp tác giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ.
  • Công chứng viên có trách nhiệm giám sát lẫn nhau trong hành nghề, tận tâm và kiên quyết đấu tranh loại bỏ những hành vi sai trái trong hoạt động công chứng trên cơ sở tôn trọng đồng nghiệp, bảo đảm bí mật nghề nghiệp, vì sự phát triển bền vững của nghề công chứng.
  • Khi phát hiện đồng nghiệp có sai sót trong hành nghề, công chứng viên có nghĩa vụ góp ý thẳng thắn nhưng không được hạ thấp danh dự, uy tín của đồng nghiệp và báo cáo với người có trách nhiệm nếu đó là hành vi vi phạm pháp luật hoặc gây tổn hại đến nghề nghiệp.
  • Chấp hành các nội quy, quy chế của tổ chức hành nghề công chứng, tổ chức xã hội nghề nghiệp công chứng.
  • Hướng dẫn, giúp đỡ những đồng nghiệp mới vào nghề.
  • Tham gia vào các hoạt động nghề nghiệp và hoạt động xã hội khác do Nhà nước, tổ chức hành nghề công chứng, tổ chức xã hội nghề nghiệp tổ chức hoặc phát động nhằm đóng góp vào sự phát triển chung của nghề công chứng.
  • Đóng phí thành viên tổ chức xã hội nghề nghiệp theo quy định.
  • Phối hợp với tổ chức hành nghề công chứng mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp để dự phòng giải quyết rủi ro, tai nạn nghề nghiệp.

Điều 11. Quan hệ với người tập sự hành nghề công chứng

Công chứng viên có bổn phận tham gia vào công tác hướng dẫn tập sự hành nghề công chứng; nêu cao trách nhiệm, tận tâm truyền đạt kiến thức và kinh nghiệm nghề nghiệp đối với người tập sự hành nghề công chứng.

Công chứng viên hướng dẫn tập sự không được thực hiện những việc sau: Phân biệt, đối xử mang tính cá nhân với những người đang tập sự hành nghề công chứng do mình hướng dẫn.Đòi hỏi lợi ích vật chất, tiền bạc từ người tập sự hành nghề công chứng. c. Thông đồng với người tập sự hành nghề công chứng để báo cáo sai sự thật, báo cáo khống về kết quả tập sự hành nghề công chứng.

Lợi dụng tư cách là công chứng viên hướng dẫn để buộc người tập sự phải làm những việc không thuộc phạm vi tập sự hoặc những hành vi vi phạm pháp luật trái đạo đức xã hội nhằm đạt được những lợi ích cho mình.

Điều 12. Những việc công chứng viên không được làm trong quan hệ  với đồng nghiệp, tổ chức hành nghề công chứng

  • Xúc phạm hoặc có hành vi làm tổn hại uy tín của đồng nghiệp, tổ chức hành nghề công chứng.
  • Gây áp lực, đe dọa hoặc thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội với đồng nghiệp để giành lợi thế cho mình trong hành nghề.
  • Hợp tác với cá nhân, tổ chức có khả năng gây áp lực buộc người yêu cầu công chứng phải đến tổ chức hành nghề công chứng của mình để công chứng vì mục đích lợi nhuận.
  • Tiến hành bất kỳ hành vi quảng cáo bản thân và tổ chức hành nghề công chứng của mình dưới mọi hình thức không đúng quy định của pháp luật.
  • Hoạt động môi giới, nhận hoặc đòi tiền hoa hồng khi giới thiệu cho đồng nghiệp về yêu cầu công chứng mà mình không đảm nhận.
  • Mở chi nhánh, văn phòng đại diện, cơ sở, địa điểm giao dịch khác ngoài trụ sở tổ chức hành nghề công chứng.
  • Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác.

Điều 13. Quan hệ với cá nhân, tổ chức khác

Công chứng viên phải tuân thủ quy định của pháp luật trong khi làm việc với các cơ quan nhà nước, cá nhân tổ chức khác; có thái độ lịch sự, tôn trọng công chức nhà nước, cá nhân, tổ chức khác khi hợp tác với công chứng viên trong quá trình thi hành công vụ, liên hệ công tác.”

Những quy định này cũng làm cho đội ngũ công chứng viên Việt Nam hướng tới trở thành một đội ngũ thực thi pháp luật một cách văn minh, lịch sự, vô tư, khách quan và có trách nhiệm tích cực với xã hội.

Ngoài ra, vì vị trí chức năng là thực hiện công tác “bổ trợ tư pháp” trong bộ máy hành pháp nên công chứng viên còn phải chịu sự kiểm tra, giám sát, khen thưởng vả xử lý vi phạm của các cơ quan hành pháp có thẩm quyền. Vấn đề này được quy định tại Chương IV của bộ quy tắc đạo đức hành nghề công chứng. Đó là:

“Điều 14. Kiểm tra, giám sát việc tuân thủ Quy tắc đạo đức hành nghề  công chứng

  • Vụ trưởng Vụ Bổ trợ tư pháp, Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp trong phạm chức năng, nhiệm vụ được giao có trách nhiệm tổ chức kiểm tra, thanh tra, giám sát việc tuân thủ Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng trong phạm vi toàn quốc.
  • Giám đốc Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc thực hiện Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng đối với công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng trong phạm vi địa phương quản lý.
  • Tổ chức xã hội nghề nghiệp công chứng có trách nhiệm giám sát việc thực hiện Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng đối với công chứng viên trong tổ chức mình.
  • Tổ chức hành nghề công chứng có trách nhiệm giám sát việc thực hiện Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng đối với công chứng viên tại tổ chức mình.

Điều 15. Khen thưởng và xử lý vi phạm

Công chứng viên gương mẫu trong thực hiện Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng thì được Nhà nước, tổ chức xã hội nghề nghiệp công chứng viên ghi nhận và vinh danh.

Công chứng viên thực hiện không đúng Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị nhắc nhở, phê bình, khiển trách, xử lý kỷ luật theo Điều lệ của tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên, bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật”.

Đây cũng là một đặc thù trong hệ thống pháp luật nước ta.

Để bình luận về ưu và nhược điểm của quy tắc đạo đức công chứng viên hiện hành, chúng ta thấy, tuy rằng hầu như với những quy định chỉ mang nặng tính nguyên tắc, chưa hoàn toàn cụ thể, nhưng bộ quy tắc hành nghề công chứng này đã lần đầu tiên chính thức quy định vấn đề đạo đức của công chứng viên phải được đảm bảo thể hiện, phải được thực hiện một cách triệt để, nghiêm túc như việc thực hiện áp dụng các điều luật khi hành nghề công chứng vậy. Điều này sẽ góp phần làm cho đội ngũ công chứng viên Việt Nam tăng cao được uy tín về nghề nghiệp trong tương lai. Luận văn: Thực trạng quy chế công chứng viên ở Việt Nam

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY   

===>>> Luận văn: Giải pháp hoàn thiện về quy chế công chứng viên

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x