Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý thuế doanh nghiệp hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý thuế doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Chi cục thuế Thành phố Huế dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước và là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Ngày nay toàn cầu hóa kinh tế đang trở thành xu hướng tất yếu khách quan, là xu thế mới của quá trình phát triển nền kinh tế thị trường. Hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế trở nên bức bách. Đảng ta đã chủ trương “ Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế”[45] nhằm đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý thuế doanh nghiệp
Hoạt động sản xuất kinh doanh, thương mại và đầu tư của các thành phần kinh tế ngày càng tăng cả về quy mô vốn và số lượng. oạt động kinh tế diễn ra hết sức phức tạp, đa dạng, nhà đầu tư tìm mọi cách tối đa hóa lợi nhuận của mình bằng nhiều cách, trong đó vấn đề trốn thuế và tránh thuế luôn được chú trọng. Mặc khác, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới diễn ra với tốc độ ngày càng cao điều đó đặt ra cho chúng ta phải đổi mới cơ chế chính sách, cách thức quản lý nhà nước về thuế phải cho phù hợp với sự vận hành của nền kinh tế thị trường trong điều kiện hội nhập.
Một trong những bước đột phá trong công tác quản lý thuế đó là Luật quản lý thuế được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 29/11/2006, có hiệu lực từ ngày 1/7/2007. Theo đó, cơ quan thuế quản lý thuế theo cơ chế tự khai, tự tính tự nộp thuế. Đây là phương thức quản lý tiên tiến, hiện đại đang được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng. Theo cơ chế quản lý thuế này các tổ chức, cá nhân nộp thuế căn cứ vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình tự kê khai, tự nộp tiền thuế vào ngân sách Nhà nước. Cơ quan thuế không can thiệp vào quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế của tổ chức cá nhân kinh doanh, vì thế nâng cao vai trò trách nhiệm của tổ chức, cá nhân đối với việc chấp hành pháp luật thuế, giúp cơ sở sở sản xuất kinh doanh hạn chế được các sai sót, các sai phạm do thiếu hiểu biết gây ra, giảm thiểu được những chi phí không cần thiết cho cơ sở sản xuất kinh doanh và cơ quan thuế. Bên cạnh đó, cơ quan thuế sẽ có điều kiện tập trung nguồn lực phục vụ cho việc tư vấn hỗ trợ cho tổ chức, cá nhân nộp thuế, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các cơ sở sản xuất kinh doanh có vi phạm pháp luật thuế, tạo điều kiện cho cơ quan thuế tổ chức quản lý thuế hiệu quả.
Qua thực tiễn thực hiện Luật quản lý thuế đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại thành phố Huế trong những năm qua nhận thấy rằng việc thực hiện đã bộc lộ nhiều khuyết, nhược điểm cả về mặt chính sách và tổ chức quản lý thuế. Tình trạng thất thu thuế ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh diễn ra khá phổ biến; cần thiết phải có giải pháp khắc phục nhằm đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của luật quản lý thuế.
Đối với Thành phố Huế doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DN NQD) có vị trí vô cùng quan trọng; số thu ngân sách hàng năm từ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng hơn 60 % số thu lĩnh vực ngoài quốc doanh của thành phố. Do đó việc quản lý thuế đối với các DN NQD luôn luôn được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo Chi cục Thuế cũng như chính quyền địa phương thành phố Huế.
Mặt khác, quá trình quản lý thuế đối với các DN NQD cũng phát sinh nhiều vấn đề phức tạp như tình hình trốn thuế, gian lận thương mại; nhiều vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện về chính sách chế độ thuế, quy trình quản lý thuế và các thủ tục hành chính… ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của người nộp thuế.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên để góp phần tìm các giải pháp hữu hiệu về quản lý thuế nhằm thu đúng, thu đủ, thu kịp thời các khoản thuế phát sinh vào ngân sách Nhà nước, chống thất thu ngân sách có hiệu quả. Đồng thời, đảm bảo tính công bằng hợp lý trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế nhà nước giữa các thành phần kinh tế; khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn làm ăn lâu dài, phát triển sản xuất-kinh doanh đóng góp ngày càng nhiều cho sự phát triển nền kinh tế thành phố Huế. Chúng tôi chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác quản lý thuế doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Chi cục Thuế thành phố Huế” để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế của mình.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Kinh Doanh
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý thuế doanh nghiệp
Đề tài: “Hoàn thiện công tác quản lý thuế doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại
Chi cục Thuế thành phố Huế” thực hiện nhằm đạt được những mục đích sau đây:
2.1 Mục đích chung
Đánh giá thực hiện Luật quản lý thuế, đề xuất các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Chi cục thuế Thành phố Huế.
2.2 Mục đích cụ thể
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về thuế và công tác quản lý thuế các doanh nghiệp ngoài quốc doanh theo quy trình quản lý thuế của Tổng cục thuế.
- Phân tích, đánh giá thực trạng về công tác quản lý thuế các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn thành phố Huế.
- Kiến nghị, đề xuất những giải pháp để hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế đối với các DN NQD ở Chi cục thuế Thành phố Huế trong thời gian đến.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1 Nội dung nghiên cứu:
Đánh giá công tác quản lý thuế các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn thành phố ở Chi cục thuế Thành phố Huế
3.1 Phạm vi không gian:
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn thành phố Huế.
3.2 Phạm vi thời gian:
Trong thời gian từ năm 2008-2010.
4. PHƯƠNG PHÁP NG IÊN CỨU
4.1 Phương pháp chung
Luận văn vận dụng cách tiếp cận theo phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; vận dụng quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước trong quá trình đổi mới kinh tế để phân tích thực trạng quản lý và thực hiện chính sách thuế ở địa phương nghiên cứu. Từ đó rút ra một số nhận xét và kiến nghị đề xuất các giải pháp để hoàn thiện công tác quản lý thuế đối với các DN NQD tại Chi cục thuế Thành phố Huế.
Phương pháp tiếp cận: xem xét, nghiên cứu dưới góc độ các quy trình nghiệp vụ, các văn bản hướng dẫn thực hiện của Nhà nước, trong đó tập trung vào các quy trình quản lý thuế hiện hành như quy trình kê khai thuế, quy trình thu nợ thuế, quy trình thanh tra, kiểm tra…để phân tích, đánh giá nhằm tìm ra những bất cập, mâu thuẫn hoặc những tồn tại để nhằm đề xuất một số biện pháp có tính khả thi trong tương lai.
4.2 Phương pháp cụ thể Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý thuế doanh nghiệp
4.2.1 Phương pháp thu thập số liệu
- Số liệu thứ cấp cần thiết cho đề tài được thu thập từ các nguồn: Cục thống kê, phòng thống kê, các đội kiểm tra thuế, đội kê khai kế toán tin học, đội cưỡng chế quản lý và thu nợ thuế thuộc Chi cục thuế Thành phố Huế, niên giám thống kê của thành phố, các tài liệu kinh tế – xã hội, Internet… Ngoài ra luận văn còn sử dụng các số liệu từ báo cáo khoa học, luận văn và các công trình nghiên cứu khoa học của nhiều tác giả về lĩnh vực mà đề tài quan tâm.
- Số liệu sơ cấp: Được thu thập bằng cách khảo sát phỏng vấn các doanh nghiệp dựa trên số lượng doanh nghiệp mà Chi cục thuế Thành phố Huế đang quản lý và số lượng cán bộ công chức thuế thuộc Chi cục thuế Thành phố Huế. Cụ thể chọn ngẫu nhiên 90 DN trong tổng số 1400 DN sản xuất kinh doanh do Chi cục thuế Thành phố Huế quản lý và 64 cán bộ công chức thuế công tác tại các đội thuế chức năng ở văn phòng Chi cục thuế Thành phố Huế để tiến hành điều tra.
Phương pháp điều tra bằng cách phát phiếu khảo sát đã được thiết kế sẵn, nhằm đánh giá các quy định về việc kê khai đăng ký thuế, kế toán thuế, mức độ hài lòng của người nộp thuế và cán bộ công chức thuế về công tác hướng dẫn tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế, công tác thu nợ thuế, kiểm tra thuế tại DN của cơ quan thuế.
Mục đích của việc điều tra là để nắm bắt được những khó khăn, vướng mắc, những kiến nghị đề xuất của doanh nghiệp cũng như cán bộ công chức thuế trong việc thực hiện Luật quản lý thuế.
Số liệu sơ cấp và số liệu thứ cấp được thu thập và xử lý trên các phần mềm thông dụng như Micrsoft Excel, SPSS.
4.2.2 Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu
Trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng hệ thống các phương pháp thống kê để thu thập, tổng hợp và phân tích số liệu.
- Tổng hợp số liệu: Từ các số liệu thu thập được, kết hợp phiếu khảo sát điều tra, tiến hành trên cơ sở phương pháp phân tổ thống kê theo các tiêu thức khác nhau, tùy theo nội dung của chỉ tiêu nghiên cứu, xây dựng hệ thống biểu bảng để phân tích, đánh giá tình hình quản lý thuế.
- Phương pháp xữ lý, phân tích số liệu: Trên cơ sở số liệu đã được thu thập, tổng hợp, tiến hành xữ lý và phân tích số liệu theo các phương pháp phân tích thống kê, phân tích kinh tế và các phương pháp phân tích chuyên ngành khác; Đồng thời sử dụng phương pháp phân tích phương sai (ANOVA); sử dụng phần mềm SPSS để thống kê giá trị trung bình, tần số, tần suất và các chỉ tiêu khác; phân tích các nhân tố theo tiêu thức giới tính, trình độ chuyên môn, số năm công tác, đơn vị công tác về đánh giá mức độ hài lòng của NNT về nội dung chính sách thuế, tình hình tổ chức thực hiện Luật quản lý thuế, hiệu quả công tác quản lý thuế.
4.2.3 Phương pháp chuyên gia và chuyên khảo
Để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cũng như các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý thuế trong giai đoạn cải cách và hiện đại hoá hệ thống thuế hiện nay, trong quá trình thực hiện đề tài tôi còn sử dụng phương pháp thu thập thông tin từ các chuyên gia, chuyên viên, các nhà quản lý của Tổng cục thuế, Cục thuế Thừa Thiên Huế để rút ra những kết luận có căn cứ khoa học và thực tiễn.
5. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, kiến nghị, luận văn được chia làm 03 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan lý luận về thuế và công tác quản lý thuế đối với các doanh nghiệp NQD.
Chương 2: Đánh giá thực trạng của công tác quản lý thuế đối với các DN NQD tại Chi cục thuế Thành phố Huế giai đoạn 2008-2010.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thuế DN NQD tại Chi cục thuế Thành phố Huế .
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU VỀ THUẾ, QUẢN LÝ THUẾ
1.1 LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THUẾ Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý thuế doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm
Thuế ra đời và tồn tại từ khi có Nhà nước. Thuế cũng là hình thức tài chính mang tính chất cưỡng chế ngay khi xuất hiện nhà nước đầu tiên trong lịch sử loài người và tồn tại đến ngày nay [30] . Song các lý luận về kinh tế của thế giới, cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất tuyệt đối khái niệm về thuế. Có nhiều quan niệm khác nhau về thuế, tùy thuộc vào các lĩnh vực, góc độ nghiên cứu khác nhau. Marx viết “Thuế là cơ sở kinh tế của bộ máy nhà nước, là thủ đọan đơn giản để kho bạc thu được tiền của người dân để dùng vào việc chi tiêu của nhà nước”[32]. Giáo trình Quản lý Tài chính công của học viện tài chính quan niệm rằng “Thuế là một hình thức động viên bắt buộc của nhà nước theo luật định, thuộc phạm trù phân phối, nhằm tập trung một bộ phận thu nhập của các thể nhân và pháp nhân vào ngân sách nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của nhà nước và phục vụ lợi ích công cộng”[21]. Theo quan điểm cá nhân tác giả thì thuế là khoản thu nộp mang tính bắt buộc mà các tổ chức và cá nhân phải nộp cho Nhà nước khi có đủ các điều kiện nhất định để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của nhà nước.
Trong thực tế, ở nước ta hiện nay khi hình thành quỹ tiền tệ tập trung, Nhà nước thực hiện các chức năng của mình trong đó có chức năng quản lý và xây dựng kinh tế thông qua việc kiến thiết, xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng và các công trình phúc lợi xã hội khác thì người nộp thuế thông qua đó đựơc hưởng một phần kết quả nộp thuế của mình [20]. Như vậy thuế ở nước ta luôn luôn là một khoản thu bắt buộc, không được hoàn trả trực tiếp cho người nộp thuế nhưng họ được gián tiếp hưởng lợi do chính sách đầu tư, phát triển của Nhà nước cho các công trình phúc lợi xã hội khác nhau [36].
1.1.2. Bản chất của thuế
Từ khái niệm thuế nói trên ta có thể thấy được bản chất của thuế được thể hiện bởi các thuộc tính bên trong vốn có của nó, những thuộc tính đó có tính ổn định tương đối qua từng giai đoạn phát triển. Nghiên cứu về thuế, người ta thấy có những đặc điểm riêng biệt để phân biệt với các công cụ tài chính khác như sau [33]:
1.1.2.1 Tính bắt buộc
Thuế là một khoản chuyển giao thu nhập của các tầng lớp trong xã hội cho Nhà nước mang tính bắt buộc phi hình sự. Tính bắt buộc phi hình sự là thuộc tính cơ bản vốn có của thuế, nó phân biệt thuế với các hình thức huy động tài chính khác của ngân sách nhà nước.
Tính cưỡng bức, bắt buộc của việc chuyển giao thu nhập bắt nguồn từ những lý do sau:
Hình thức chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không gắn với lợi ích cụ thể của người nộp thuế, do đó không thể sử dụng phương pháp tự nguyện trong việc chuyển giao. Để đảm bảo nhu cầu chi tiêu công cộng, nhà nước tất yếu phải sử dụng quyền lực chính trị để bắt buộc mọi đối tượng có thu nhập phải chuyển giao.
Trong xã hội hiện đại, các thành viên cộng đồng có nhu cầu càng cao về hàng hoá công cộng. Mà đại bộ phận hàng hoá công cộng do nhà nước sản xuất và cung cấp đều phải bỏ chi phí, các chi phí này được bù đắp từ nguồn thu nhập của những người thụ hưởng hàng hoá công cộng.
1.1.2.2 Tính không hoàn trả trực tiếp
Thuế là một khoản đóng góp không mang tính chất hoàn trả trực tiếp. Nghĩa là khoản đóng góp của công dân bằng hình thức thuế không đòi hỏi phải hoàn đúng số lượng và khoản thu mà nhà nước thu từ công dân đó, như là khoản vay mượn. Nó sẽ được hoàn trả lại cho người nộp thuế thông qua cơ chế đầu tư của NSNN. Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý thuế doanh nghiệp
Tính chất không hoàn trả trực tiếp của thuế được thể hiện ở chỗ: thuế được hoàn trả gián tiếp cho NNT thông qua các dịch vụ công cộng của Nhà nước. Sự không hoàn trả trực tiếp được thể hiện cả trước và sau khi thu thuế. Trước khi thu thuế, Nhà nước không hề cung ứng trực tiếp một dịch vụ công cộng nào cho NNT.
Sau khi nộp thuế, Nhà nước cũng không có sự bồi hoàn trực tiếp nào cho NNT. Cũng như vậy, NNT không hề phản đối việc thực hiện nghĩa vụ thuế với lý do họ không được hoặc ít được sử dụng các dịch vụ công cộng. NNT cũng không có quyền đòi hỏi được thừa hưởng nhiều dịch vụ công cộng hơn so với số thuế mà họ phải trả và họ cũng không thể từ chối nộp thuế với lý do họ đã phải thanh toán cho các khoản chi trái với nguyên tắc này.
Đặc điểm này giúp ta phân biệt sự khác nhau giữa thuế với các khoản phí, lệ phí và tín dụng Nhà nước.
1.1.2.3 Tính pháp lý cao
Đặc điểm này thể hiện thuế là một công cụ tài chính có tính pháp lý cao. Điều này được quyết định bởi quyền lực chính trị của Nhà nước. Nhà nước là một tổ chức chính trị, đại diện cho quyền lợi của giai cấp thống trị, thi hành các chính sách do giai cấp thống trị đặt ra để cai trị xã hội. Vì vậy, để bắt buộc các công dân “ tự nguyện” nộp thuế thì Nhà nước phải sử dụng đến quyền lực của mình, quyền lực ấy được thể hiện bằng luật pháp, Nhà kinh tế học Jóeph E.Stiglitz nói rằng: “Việc chuyển giao bắt buộc này giống như là ăn trộm, chỉ có một điểm khác chủ yếu là: trong khi cả hai cách chuyển đều là không tự nguyện, thì cách chuyển qua Chính phủ có mang tấm áo choàng hợp pháp và sự tôn trọng do các quá trình chính trị ban cho” [28,43]
Tuy nhiên, để sự chuyển giao bắt buộc thông qua thuế diễn ra được “êm thấm”, mặc dù quá trình đó được thực hiện dưới sự bảo vệ của luật pháp, thì những qui định của pháp luật cũng không được mang tính tùy tiện mà phải dựa trên những cơ sở khoa học nhất định. Vì vậy, trong Luật thuế thường xác định trước các yếu tố có tính chất điều chỉnh hành vi nộp thuế như: đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế, mức thuế phải nộp, thời hạn cụ thể và những chế tài mang tính cưỡng chế khác.
Tóm lại, những thuộc tính cơ bản trên đây của thuế đã phản ánh bản chất và nội dung bên trong của thuế. Từ những thuộc tính đó giúp ta phân biệt thuế với các hình thức động viên khác của NSNN trên nhiều phương diện khác nhau.
1.1.3 Chức năng của thuế Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý thuế doanh nghiệp
Thuế là một phạm trù tài chính, nó biểu hiện những thuộc tính chung vốn có của các quan hệ tài chính. Tuy nhiên thuế cũng có những đặc trưng, hình thức vận động và các chức năng riêng bắt nguồn từ tổng thể các mối quan hệ tài chính.
Căn cứ vào nội dung cùng với quá trình ra đời, tồn tại và phát triển của thuế, chúng ta thấy rằng thuế thực hiện các chức năng sau đây
1.1.3.1 Huy động nguồn lực tài chính cho Nhà nước
Ngay từ lúc phát sinh thuế luôn luôn có công dụng là phương tiện động viên nguồn tài chính cho Nhà nước. Người ta gọi công dụng này là chức năng huy động nguồn lực tài chính của thuế.
Đây là chức năng cơ bản của thuế, đặc trưng cho tất cả các dạng Nhà nước. Về mặt lịch sử, chức năng huy động nguồn lực tài chính là chức năng đầu tiên phản ánh nguyên nhân nảy sinh ra thuế.
Nhờ chức năng huy động nguồn lực tài chính mà quỷ tiền tệ tập trung của Nhà nước được hình thành, qua đó đảm bảo cơ sở vật chất cho sự tồn tại và hoạt động của nhà nước. Chính chức năng này đã tạo ra những tiền đề để Nhà nước tiến hành phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm trong nước và thu nhập quốc gia trong xã hội.
Sự phát triển và mở rộng các chức năng của Nhà nước đòi hỏi phải tăng cường chi tiêu tài chính, do đó vai trò của chức năng huy động tập trung nguồn lực của thuế ngày càng được nâng cao. Nhà nước thông qua thuế tiến hành phân phối một bộ phận đáng kể tổng sản phẩm quốc nội. Thuế trở thành nguồn thu chiếm tỷ trọng lớn nhất trong ngân sách các nước có nền kinh tế thị trường.
Chức năng huy động nguồn lực tài chính tạo ra những tiền đề khách quan cho sự điều tiết của Nhà nước đối với nền kinh tế. Nói cách khác, quá trình huy động tập trung nguồn lực thông qua thuế đã tự động làm xuất hiện chức năng điều tiết kinh tế của thuế. Chức năng huy động nguồn lực và chức năng điều tiết kinh tế có mối quan hệ hữu cơ với nhau.
1.1.3.2 Điều tiết kinh tế Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý thuế doanh nghiệp
Chức năng điều tiết của thuế được nhận thức và sử dụng rộng rãi từ những năm đầu của thế kỷ XX và gắn liền với vai trò điều chỉnh của Nhà nước đối với nền kinh tế. Việc tăng cường vai trò kinh tế – xã hội của Nhà nước dẫn đến tốc độ chi tiêu của Nhà nước ngày càng tăng lên và hậu quả tất yếu là đòi hỏi Nhà nước phải mở rộng quỹ tài chính Nhà nước, hình thành chủ yếu từ việc thu thuế. Nhu cầu về nguồn tài chính càng lớn thì Nhà nước cần phải tăng cường các chức năng của thuế để tác động một cách có hiệu quả đến nền kinh tế quốc dân. Chính trong quá trình đó chức năng huy động nguồn lực tài chính cho nhà nước và chức năng điều tiết kinh tế của thuế đã được sử dụng một cách hiện thực. Ðiều đó có nghĩa là nội dung điều tiết theo một mục tiêu nào đó đã được dự liệu trước vào trong quá trình huy động tập trung nguồn tài chính. Bằng cách sử dụng nó để kích thích hoặc kìm hãm tốc độ tăng trưởng, tăng cường hoặc làm yếu đi sự tích luỹ tiết kiệm, mở rộng hoặc thu hẹp nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư, đẩy nhanh hoặc làm chậm lại chu kỳ khủng hoảng kinh tế, Nhà nước đã thực hiện điều tiết các hoạt động kinh tế – xã hội trong phạm vi quốc gia[18].
Thực hiện chức năng điều chỉnh của thuế thông qua việc quy định các hình thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế; xây dựng chính xác, hợp lý các mức thuế phải nộp có tính đến khả năng của người nộp thuế. Trên cơ sở đó Nhà nước kích thích các hoạt động kinh tế đi vào quỹ đạo chung của nền kinh tế quốc dân, phù hợp với lợi ích của toàn xã hội. Trong điều kiện chuyển sang cơ chế thị trường, vai trò kích thích kinh tế thông qua thuế ngày càng được nâng cao. Nhà nước sử dụng thuế để tác động lên lợi ích kinh tế của các chủ thể vì lợi ích của nền kinh tế quốc dân. Với công cụ thuế, sự can thiệp của Nhà nước không mang tính chất mệnh lệnh, bắt buộc các chủ thể phải kinh doanh hay không kinh doanh mà chủ yếu tạo ra sự lựa chọn đối với các chủ thể kinh doanh[4]. Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý thuế doanh nghiệp
Giữa hai chức năng trên của thuế có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Chức năng huy động nguồn lực tài chính cho nhà nước của thuế là nguyên nhân ảnh hưởng đến sự vận động và phát triển của chức năng điều tiết. Nhưng chức năng điều tiết của thuế cũng có tác động ngược lại đến chức năng huy động nguồn lực tài chính cho nhà nước. Nguồn tài chính mà Nhà nước tập trung được dưới dạng thuế là tiền đề của sự can thiệp của Nhà nước trên diện rộng và theo chiều sâu tới quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Ngược lại, việc điều tiết, sắp xếp sản xuất của Nhà nước nhằm vào việc thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện để tăng thu nhập của các tầng lớp nhân dân và đây chính là cơ sở quan trọng để mở rộng phạm vi tác động của chức năng huy động nguồn lực tài chính cho nhà nước[4].
1.1.4 Vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường
Quản lý Nhà nước đối với kinh tế là một chức năng vốn có của Nhà nước, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường thì nhất thiết vai trò đó càng được coi trọng và phát huy. Với vai trò chủ yếu là tạo ra cơ sở pháp lý cho sự phát triển kinh tế – xã hội, sự can thiệp tích cực của Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật tài chính, thuế, ngân hàng, trong đó vai trò của thuế trở nên cực kỳ quan trọng. Thuế được coi là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, là nguồn thu chủ yếu của NSNN, có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển kinh tế – xã hội. Thuế điều tiết thu nhập trong xã hội và góp phần đảm bảo công bằng xã hội.
1.1.4.1 Thuế là công cụ tập trung chủ yếu nguồn thu cho ngân sách Nhà Nước
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu từ nội bộ nền kinh tế quốc dân. Thuế là công cụ quan trọng nhất để phân phối lại các thu nhập theo đường lối xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, nguồn thu từ nước ngoài đã giảm nhiều, kinh tế đối ngoại chịu sức ép của quan hệ “mua bán sòng phẳng”,“có vay, có trả”, thuế phải là công cụ quan trọng góp phần tích cực giảm bội chi Ngân sách, giảm lạm phát, ổn định kinh tế – xã hội, chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho việc phát triển đất nước lâu dài. Thuế phải trở thành nguồn thu chủ yếu, bộ phận cơ bản của nền tài chính quốc gia lành mạnh. Với nền kinh tế nhiều thành phần, hệ thống thuế được áp dụng thống nhất giữa các thành phần kinh tế. Thuế phải bao quát được hầu hết các hoạt động kinh doanh, các nguồn thu nhập trong xã hội …[9].
Mục tiêu của Quốc hội đề ra trong những năm tới là động viên về thuế chiếm khoảng 20 đến 25% GDP và ổn định mức đóng góp về thuế. Mức động viên trên đây là phù hợp với khả năng kinh tế, phù hợp với sức đóng góp của nhân dân, bảo đảm phần lớn các nhu cầu chi tiêu của Ngân sách nhà nước, nguồn vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế theo hướng có lợi cho đất nước. Nhà nước ta luôn coi thuế là nguồn thu chủ yếu và quan trọng nhất của ngân sách Nhà nước[1].
1.1.4.2 Thuế tham gia vào việc điều tiết kinh tế vĩ mô Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý thuế doanh nghiệp
Thông qua việc xây dựng đúng đắn cơ cấu và mối quan hệ giữa các sắc thuế, việc xác định hợp lý người nộp thuế, đối tượng đánh thuế, thuế suất, chế độ miễn giảm, phương pháp quản lý thu thuế dựa trên cơ sở hạch toán kế toán đầy đủ, chính xác, thuế là công cụ điều tiết đối với thu nhập của các tầng lớp xã hội thể hiện trên hai mặt: khuyến khích, nâng đỡ những hoạt động kinh doanh cần thiết làm ăn có hiệu quả; đồng thời thu hẹp, kìm hãm những ngành nghề, mặt hàng cần hạn chế sản xuất, hạn chế tiêu dùng theo hướng tiết kiệm, chống lãng phí. Thuế còn khuyến khích việc bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất, khuyến khích các cơ sở kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật. Thuế góp phần khuyến khích khai thác nguyên liệu, vật tư trong việc tranh thủ vốn hợp tác của nước ngoài để phát triển kinh tế hàng hoá, không ngừng nâng cao khả năng tích luỹ, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu, bảo vệ sản xuất trong nước. Thuế thúc đẩy mở rộng thị trường một cách lành mạnh, vừa khuyến khích giao lưu hàng hoá, vừa đấu tranh hạn chế mua bán lòng vòng qua nhiều khâu trung gian, đầu cơ tích trữ để hưởng chênh lệch giá[18].
1.1.4.3 Thuế là công cụ để điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng xã hội trong phân phối
Hệ thống thuế được áp dụng thống nhất giữa các ngành nghề, các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư theo nguyên tắc đảm bảo công bằng và bình đẳng trong làm nghĩa vụ và quyền lợi. Sự bình đẳng và công bằng được thể hiện thông qua chính sách động viên giống nhau (thuế suất) giữa các tổ chức và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế cùng hoạt động trong một lĩnh vực, bảo đảm sự công bằng và bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ với mọi công dân, không có những đặc quyền, đặc lợi cho bất cứ đối tượng nào. Thuế kích thích mọi công dân, doanh nghiệp cải tiến kỹ thuật, đầu tư vốn, đầu tư chất xám, làm ăn giỏi và có thu nhập cao một cách chính đáng [4].
Thuế còn là công cụ để kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh Vai trò này được xuất hiện chính do quá trình tổ chức thực hiện thuế trong thực tế. Để thu được thuế và thực hiện đúng các luật thuế đã được ban hành, cơ quan thuế và các cơ quan liên quan phải bằng mọi biện pháp nắm vững số lượng, quy mô các cơ sở sản xuất kinh doanh, ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh, mặt hàng họ được phép kinh doanh. Từ công tác thu thuế mà cơ quan thuế sẽ phát hiện những việc làm sai trái, vi phạm luật của các cá nhân, các đơn vị sản xuất kinh doanh, hoặc phát hiện ra những khó khăn mà họ gặp phải để giúp đỡ họtìm biện pháp tháo gỡ. Như vậỵ, do công tác quản lý thu thuế mà có thể kết hợp kiểm tra, kiểm soát toàn diện các mặt hàng, hoạt động của các cơ sở kinh tế đảm bảo thực hiện tốt quản lý Nhà nước về mọi mặt của đời sống kinh tế – xã hội[18].
1.1.5 Chính sách thuế và phân loại thuế
1.1.5.1 Khái niệm Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý thuế doanh nghiệp
Chính sách thuế là tổng hòa phương hướng của Nhà nước trong lĩnh vực thuế và các biện pháp để đạt được những mục tiêu đã định [15,39]
Chính sách thuế thể hiện đường lối và phương hướng động viên thu nhập dưới hình thức thuế trong nền kinh tế quốc dân. Chính sách thuế được thực hiện bằng cách thiết lập các văn bản pháp luật trong lĩnh vực nộp thuế, ban hành các loại thuế và các ưu đãi về thuế trong từng giai đoạn phát triển nhất định. Điều đó có nghĩa là chính sách thuế được thực hiện bằng cách thiết lập hệ thống thuế, cải cách thuế và củng cố hệ thống thuế.
Hệ thống thuế là tổng hợp các hình thức thuế khác nhau mà giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau để thực hiện các nhiệm vụ nhất định của Nhà nước trong từng thời kỳ.[15,39]
Hệ thống thuế bao gồm nhiều hình thức thuế khác nhau, nhưng sự hình thành từng hình thức thuế lại do cơ sở thuế quyết định. Trong nền kinh tế thị trường, thuế suy cho cùng đều lấy từ thu nhập. Do yêu cầu của quá trình tái sản xuất mà thu nhập được vận động trong một chu trình khép kín và luôn thay đổi hình thái biểu hiện của nó. Chính sự biến đổi đa dạng đó đã nảy sinh các cơ sở thuế khác nhau, tạo ra khả năng đánh thuế của Chính phủ trên sự luân chuyển của dòng thu nhập khép kín và hình thành các hình thức thuế khác nhau.
1.1.5.2 Phân loại thuế
Tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước mà hệ thống pháp luật thuế bao gồm nhiều loại thuế khác nhau. Ðể định hướng xây dựng và quản lý hệ thống thuế, việc sắp xếp các Luật thuế có cùng tính chất thành những nhóm khác nhau, gọi là phân loại thuế.
Phân loại thuế là việc sắp xếp các loại thuế trong hệ thống pháp luật thuế thành những nhóm khác nhau theo những tiêu thức nhất định. Tuỳ thuộc vào mục tiêu, yêu cầu của từng giai đoạn phát triển kinh tế – xã hội mà cơ cấu và nội dung các Luật thuế có khác nhau. Cũng tuỳ thuộc vào cơ sở, mục đích phân định, thông thường thuế được phân loại theo các tiêu thức sau:
Căn cứ vào tính chất của nguồn tài chính động viên vào Ngân sách Nhà nước
Theo cách phân loại này thuế được chia thành 2 loại: thuế trực thu và thuế gián thu. Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý thuế doanh nghiệp
Thuế gián thu là loại thuế mà Nhà nước sử dụng nhằm động viên một phần thu nhập của người tiêu dùng hàng hoá, sử dụng dịch vụ thông qua việc thu thuế đối với người sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ. Tính chất gián thu thể hiện ở chỗ người nộp thuế và người chịu thuế không đồng nhất với nhau. Thuế gián thu là một bộ phận cấu thành trong giá cả hàng hoá, dịch vụ do chủ thể hoạt động sản xuất, kinh doanh nộp cho Nhà nước nhưng người tiêu dùng lại là người phải chịu thuế. Ở nước ta thuộc loại thuế này bao gồm: Thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt… [33].
Thuế trực thu là loại thuế mà Nhà nước thu trực tiếp vào phần thu nhập của các pháp nhân hoặc thể nhân. Tính chất trực thu thể hiện ở chỗ người nộp thuế theo quy định của pháp luật đồng thời là người chịu thuế. Thuế trực thu trực tiếp động viên, điều tiết thu nhập của người chịu thuế. Ở nước ta thuộc loại thuế này gồm: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp… [33].
Sự phân loại thuế thành thuế trực thu và thuế gián thu có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng chính sách pháp luật thuế.
Căn cứ vào đối tượng đánh thuế
Theo cách phân loại này thuế được chia thành:
Thuế đánh vào hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ như thuế giá trị gia tăng, thuế đánh vào sản phẩm hàng hoá như thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt.
Thuế đánh vào thu nhập như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân. Thuế đánh vào tài sản như thuế nhà đất, thuế đánh vào việc khai thác hoặc sử dụng một số tài sản quốc gia như thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất, thuế khác và lệ phí, phí.
Các loại thuế trên được áp dụng cho nhiều đối tượng khác nhau để vừa phát huy tác dụng riêng của từng loại thuế, vừa hỗ trợ, bổ sung cho nhau nhằm thực hiện một cách tổng hợp các mục tiêu và vai trò của hệ thống pháp luật thuế [33].
Tóm lại, trong thực tế có nhiều tiêu thức phân loại, tuỳ theo yêu cầu quản lý ở mỗi nước mà có sự lựa chọn khác nhau. Hiện nay, ở nhiều nước người ta thường phân loại thuế chủ yếu dựa vào tiêu thức phương pháp đánh thuế và cơ sở đánh thuế.
1.2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ THUẾ
1.2.1. Khái niệm, mục tiêu và các nguyên tắc của quản lý thuế Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý thuế doanh nghiệp
1.2.1.1 Khái niệm
Quản lý thuế là quá trình tổ chức, quản lý và kiểm tra việc thực hiện những quy định trong luật thuế nhằm huy động đầy đủ những khoản tiền thuế vào ngân sách nhà nước theo luật định [38].
Dưới góc độ chính trị quản lý được hiểu là hành chính, là cai trị; nhưng dưới góc độ xã hội quản lý là điều hành, điều khiển, chỉ huy. Dù dưới góc độ nào đi chăng nữa, quản lý vẫn phải dựa những cơ sở, nguyên tắc đã được định sẵn và nhằm đạt được hiệu quả của việc quản lý, tức là mục đích của quản lý.
Quản lý thuế là hoạt động chấp hành, điều hành của cơ quan thuế Nhà nước các cấp trên cơ sở của luật và để thi hành luật nhằm thực hiện chức năng tổ chức, quản lý, điều hành các hoạt động thu thuế của Nhà nước. Nói cách khác, quản lý thuế chính là quản lý Nhà nước trong lĩnh vực hành pháp – được thực hiện bởi ít nhất một bên có thẩm quyền hành chính Nhà nước trong quan hệ chấp hành, điều hành. Quản lý thuế là hoạt động đảm bảo thực thi chính sách thuế trong thực tế, trong đó vai trò của cơ quan thuế rất quan trọng khi tác động lên ĐTNT để đảm bảo tính hiệu lực – đáp ứng mục đích thu cho NSNN. Quản lý thuế chủ yếu được thực hiện bởi hệ thống cơ quan thuế Nhà nước: Tổng cục thuế ở Trung ương, Cục thuế tỉnh, Chi cục thuế ở các địa phương[38].
1.2.1.2 Mục tiêu và các nguyên tắc của quản lý thuế
Công tác quản lý thuế trong nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được các mục tiêu cơ bản sau đây:
- Tăng cường ý thức chấp hành pháp luật cho NNT
- Tập trung, huy động đầy đủ, kịp thời số thu cho NSNN trên cơ sở không ngừng nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu
Ở hầu hết quốc gia trên thế giới, số thu bằng thuế hàng năm chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng số thu của NSNN. Vì vậy, làm tốt công tác quản lý thuế sẽ có tác dụng lớn trong việc tập trung, huy động đầy đủ, kịp thời số thu cho NSNN.
Mặt khác, các chính sách thuế dù trực tiếp hay gián tiếp đều có tác động đến thu nhập của NNT, qua đó tác động đến quá trình phát triển kinh tế – cơ sở tạo nguồn thu thuế trong tương lai. Để tăng trưởng và ổn định số thu của NSNN trong tương lai, trong công tác quản lý thuế cũng cần chú ý duy trì và phát triển các cơ sở tạo ra nguồn thu thuế. Về vấn đề này, người Pháp có câu nói rất nổi tiếng: “Hãy cắt lông cừu chứ đừng lột gia nó” và câu chuyện ngụ ngôn “Con gà đẻ trứng vàng” đáng để cho chúng ta ghi nhớ[28].
Phát huy tốt vai trò của thuế trong nền kinh tế Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý thuế doanh nghiệp
Vai trò của thuế mang tính toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Song, những vai trò đó không mang tính khách quan mà nó là kết quả của những tác động từ phía con người. Những tác động này được thực hiện thông qua những nội dung, những công việc cụ thể của công tác quản lý thuế.
Trong cơ chế thị trường, Nhà nước thông qua công cụ pháp luật để thực hiện sự tác động vào nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Ý thức chấp hành luật pháp của NNT sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện những tác động của Nhà nước đến nền kinh tế. Qua công tác tổ chức thực hiện và kiểm tra, thanh tra việc chấp hành các luật thuế cùng với việc tăng cường tính pháp chế của các luật thuế, ý thức chấp hành các luật thuế được nâng cao, từ đó tạo thói quen “sống và làm việc theo pháp luật” trong mọi tầng lớp dân cư.
Để đạt được các mục tiêu trên đây, công tác quản lý thuế cần tuân thủ một số nguyên tắc cơ bản sau đây
- Nguyên tắc công bằng
- Nguyên tắc minh bạch, rõ ràng, cụ thể
- Nguyên tắc thuận tiện cho người nộp thuế
- Nguyên tắc đơn giản, dễ tính toán.
- Nguyên tắc hiệu quả.
Việt Nam trong quá trình xây dựng hệ thống thuế đòi hỏi phải bảo đảm các nguyên tắc cơ bản sau:
- Về mặt tài chính thuế phải là phương tiện chủ yếu tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
- Về mặt kinh tế thuế phải là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế
- Về mặt hành thu phương pháp tính toán các loại thuế phải dễ tính, dễ hiểu, dễ kiểm tra
- Về mặt xã hội thuế phải thực hiện công bằng xã hội
- Về mặt pháp lý thuế phải đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong hoạt động thu nộp thuế.
1.2.2 Nội dung cơ bản của Luật quản lý thuế
Luật quản lý thuế đã được Quốc hội Khoá XI thông qua tại Kỳ họp thứ 10 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2007. Việc ban hành Luật quản lý thuế đã tạo nền tảng cho việc áp dụng cơ chế quản lý thuế tiên tiến, hiện đại, theo đó người nộp thuế tự tính, tự khai, tự nộp thuế vào NSNN; cơ quan thuế thực hiện quản lý thuế theo chức năng dựa trên hệ thống thông tin về người nộp thuế. Bên cạnh đó luật cũng đề cao quyền và trách nhiệm của người nộp thuế, tạo điều kiện cho việc cải cách thủ tục hành chính thuế theo hướng đơn giản, rõ ràng, minh bạch, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nâng cao hiệu lực của hệ thống thuế.
1.2.2.1 Mục tiêu cơ bản của Luật quản lý thuế Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý thuế doanh nghiệp
Việc ban hành Luật quản lý thuế nhằm đáp ứng các mục tiêu sau:
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý thuế; tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế nộp đúng, đủ, kịp thời tiền thuế vào NSNN và cơ quan quản lý thuế thu đúng, thu đủ tiền thuế.
- Quy định rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của người nộp thuế, cơ quan quản lý thuế và của các tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc quản lý thuế.
- Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế theo hướng đơn giản, rõ ràng, minh bạch, dễ thực hiện, tăng cường vai trò kiểm tra giám sát của Nhà nước, cộng đồng xã hội trong việc thực hiện luật QLT.
Về tổng thể, luật QLT thiết lập khung pháp lý chung, áp dụng thống nhất trong quá trình thực thi tất cả các chính sách thuế, khắc phục được tình trạng chia cắt tách biệt về phương thức quản lý giữa các loại thuế, tạo nền tảng cho việc áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp.
1.2.2.2. Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng của Luật quản lý thuế
Các quy định của luật QLT áp dụng để thực thi chính sách về thuế (cả thuế nội địa và thuế phát sinh tại cửa khẩu hải quan) và các khoản thu mang tính chất bắt buộc phải nộp NSNN như phí, lệ phí, tiền thuê đất, thuê mặt nước, tiền sử dụng đất, thu từ khai thác tài nguyên khoáng sản…
Đối tượng áp dụng luật QLT bao gồm: Người nộp thuế, cơ quan quản lý thuế và các tổ chức, cá nhân có liên quan.
Người nộp thuế là đối tượng nộp thuế theo quy định của các văn bản pháp luật về chính sách thuế. Các tổ chức có trách nhiệm nộp thuế thay người nộp thuế, tổ chức được giao nhiệm vụ thu phí, lệ phí thuộc NSNN cũng được coi là người nộp thuế, chịu sự điều chỉnh của luật QLT và có các quyền hạn, trách nhiệm như tổ chức, cá nhân nộp thuế.
Cơ quan quản lý thuế bao gồm hệ thống cơ quan thuế và cơ quan hải quan. Cơ quan thuế được tổ chức theo ngành dọc thống nhất theo hệ thống hành chính các cấp từ Trung ương đến địa phương để quản lý thu các khoản thuế, thu NSNN phát sinh trong nội địa. Cơ quan hải quan được tổ chức tập trung tại cấp trung ương và khu vực địa bàn hải quan để quản lý thu các khoản thuế, thu NSNN phát sinh tại cửa khẩu hải quan. Pháp luật giao cho cơ quan quản lý thuế các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn nhất định để tổ chức thực thi chính sách thuế hiệu lực, hiệu quả.
Các tổ chức, cá nhân có liên quan bao gồm các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, doanh nghiệp, cá nhân có liên quan đến hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế, tình hình tuân thủ pháp luật của người nộp thuế hoặc liên quan đến công tác quản lý của cơ quan quản lý thuế.
Việc quy định các tổ chức, cá nhân có liên quan trong đối tượng áp dụng luật QLT nhằm bảo đảm nâng cao vai trò trách nhiệm pháp lý của cộng đồng xã hội trong việc thực thi và giám sát chấp hành nghĩa vụ thuế với Nhà nước. Cơ quan nhà nước, các tổ chức đoàn thể(chính trị, xã hội, nghề nghiệp…) có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ cơ quan thuế trong quản lý thuế; đồng thời giám sát cả cơ quan thuế và người nộp thuế trong việc chấp hành pháp luật về thuế.
1.2.2.3 Nội dung Luật quản lý thuế Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý thuế doanh nghiệp
Theo Điều 3 Luật quản lý thuế được Quốc hội nước CHXHCNVN thông qua tại kỳ họp thứ 10, khoá XI, nội dung quản lý thuế gồm :
- Đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế;
- Thủ tục hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế;
- Xoá nợ tiền thuế, tiền phạt;
- Quản lý thông tin về người nộp thuế;
- Kiểm tra thuế, thanh tra thuế;
- Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế;
- Xử lý vi phạm pháp luật về thuế;
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế.
Các quy định của luật QLT đảm bảo tính pháp lý cho việc thực hiện cơ chế QLT mới, cơ chế tự khai, tự tính, tự nộp thuế và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật của NNT. Cơ quan thuế chuyển sang thực hiện chức năng tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế, kiểm tra thuế, thanh tra thuế [38].
Các nội dung trên được cụ thể hoá bằng các quy trình cụ thể để quản lý thu thuế theo chức năng. Hiện nay ngành thuế đã triển khai thực hiện các quy trình quản lý thuế sau:
- Quy trình quản lý khai thuế, nộp thuế và kế toán thuế (QĐ số 422/QĐ-TCT ngày 22/4/2008), quy trình đăng ký thuế (QĐ 443/QĐ-TCT ngày 29/4/2009)
- Quy trình Quản lý thu nợ và cưỡng chế nợ thuế (QĐ số 477/QĐ-TCT ngày 15/5/2008, bổ sung QĐ số 490/QĐ-TCT ngày 8/5/2009)
- Quy trình Hoàn thuế (QĐ số 490/QĐ-TCT ngày 22/5/2008, bổ sung QĐ số 1458/QĐ-TCT ngày 14/10/2009)
- Quy trình Kiểm tra thuế (QĐ số 528/QĐ-TCT ngày 29/5/2008), quy trình thanh tra thuế (QĐ 460/QĐ-TCT ngày 5/5/2009)
- Quy trình Miễn thuế, giảm thuế (QĐ số 598/QĐ-TCT ngày 29/5/2008) Các quy trình đã quy định rõ vai trò, nhiệm vụ, chức năng của từng phòng, đội thuế trong công tác QLT thuế đối với các DN nhằm hạn chế các tiêu cực cũng như tạo điều kiện thuận lợi nhất cho DN thực hiện đúng chính sách pháp luật thuế, tuy nhiên “Hệ thống mẫu biểu, văn bản, các quy trình hướng dẫn chưa đồng nhất, chưa kịp thời dẫn đến khó khăn trong việc hướng dẫn, hỗ trợ NNT thực hiện tốt nghĩa vụ với NSNN” [7].
Đăng ký, kê khai, nộp thuế + Đăng ký nộp thuế
Cơ sở kinh doanh, kể cả các Công ty, nhà máy, xí nghiệp, chi nhánh, cửa hàng trực thuộc cơ sở kinh doanh chính phải đăng ký nộp thuế với Cục thuế hoặc Chi cục thuế nếu là cá nhân kinh doanh về địa điểm kinh doanh, ngành nghề kinh doanh, lao động, tiền vốn, nơi nộp thuế và các chỉ tiêu liên quan khác theo mẫu đăng ký nộp thuế và hướng dẫn của cơ quan thuế[40].
Đối với cơ sở mới thành lập, thời gian đăng ký nộp thuế chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày cấp Giấy phép đầu tư hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và cấp con dấu; trường hợp cơ sở chưa được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nhưng có hoạt động kinh doanh, cơ sở phải đăng ký nộp thuế trước khi kinh doanh.
Các cơ sở đã đăng ký nộp thuế nếu có thay đổi ngành nghề kinh doanh, chuyển trụ sở kinh doanh sang các địa điểm khác, sáp nhập, giải thể, phá sản, hợp nhất, chia, tách hay thành lập các Công ty, nhà máy, xí nghiệp, chi nhánh, cửa hàng mới… phải đăng ký bổ sung với cơ quan thuế chậm nhất là 5 ngày trước khi có sự thay đổi đó[40].
Cấp mã số thuế cho đối tượng nộp thuế: Các cơ sở kinh doanh đã thực hiện đăng ký nộp thuế với cơ quan thuế, cơ quan thuế có trách nhiệm cấp mã số thuế và giấy chứng nhận đăng ký thuế cho cơ sở kinh doanh. Đối với các chủ dự án (hoặc đại diện được uỷ quyền như ban quản lý công trình), nhà thầu chính nước ngoài là đối tượng được hoàn thuế GTGT chưa có mã số thuế phải làm thủ tục với Cục Thuế nơi đóng trụ sở để được cấp mã số thuế[40].
Kê khai thuế, tính thuế
Nguyên tắc khai thuế, tính thuế
Người nộp thuế tự tính số tiền thuế phải nộp vào Ngân sách Nhà nước, trừ trường hợp:
Người nộp thuế vi phạm pháp luật về thuế thuộc diện bị ấn định thuế (không kê khai và nộp hồ sơ khai thuế; có kê khai nhưng số liệu không đầy đủ, trung thực…);
Cá nhân, hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán thuế;
Hộ gia đình, cá nhân nộp thuế nhà đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp. Đây là nhóm người nộp thuế có điều kiện tự khai thuế nhưng được cơ quan thuế hỗ trợ do cơ quan thuế lưu giữ đủ cơ sở dữ liệu thông tin về căn cứ tính thuế tại cơ quan thuế, đồng thời giảm chi phí tuân thủ cho người nộp thuế và chi phí quản lý cho cơ quan thuế. Hàng năm, đến kỳ nộp thuế cơ quan thuế sẽ tính thuế và ra thông báo nộp thuế cho người nộp thuế biết và thực hiện.
Người nộp thuế phải khai chính xác, trung thực, đầy đủ các nội dung trong tờ khai thuế theo mẫu do Bộ Tài chính quy định và nộp đủ các loại chứng từ, tài liệu quy định trong hồ sơ khai thuế với cơ quan quản lý thuế. Đây là nội dung rất quan trọng do:
Tờ khai thuế là một chứng từ trong hồ sơ thuế, là căn cứ pháp lý, thể hiện hành vi tính toán số thuế phải nộp của chủ thể có nghĩa vụ thuế.
Tờ khai thuế cung cấp những dữ liệu, thông tin cần thiết cho cơ quan thuế thực thi nhiệm vụ quản lý thuế.
Hồ sơ khai thuế
Hồ sơ khai thuế bao gồm tờ khai thuế và các tài liệu liên quan, luật QLT quy định cụ thể hồ sơ khai thuế đối với từng loại thuế khai và nộp theo tháng, theo quý, theo năm và theo từng lần phát sinh để người nộp thuế tự xác định được trách nhiệm của mình và tránh tuỳ tiện của công chức thuế trong khi thi hành công vụ.
Hệ thống mẫu biểu của hồ sơ khai thuế được áp dụng chung cho người nộp thuế và cơ quan thuế, trong đó có hướng dẫn cụ thể cách khai các chỉ tiêu để người nộp thuế dễ thực hiện. Người nộp thuế phải sử dụng đúng mẫu biểu quy định, không được thêm bớt, thay đổi định dạng mẫu biểu.
Các loại hồ sơ khai thuế bao gồm các loại khai và nộp theo tháng, quý, năm và được quy định cụ thể đối với từng loại hồ sơ và tài liệu kèm theo.
Nộp thuế
Đối tượng nộp thuế có trách nhiệm nộp thuế đầy đủ, đúng hạn vào Ngân sách
Nhà nước (NSNN). Trình tự, thủ tục nộp thuế thực hiện như sau:
- Trường hợp NNT tính thuế, thời hạn nộp thuế chậm nhất là ngày cuối cùng của thời hạn nộp hồ sơ khai thuế.
- Trường hợp cơ quan quản lý thuế tính thuế hoặc ấn định thuế, thời hạn nộp thuế là thời hạn ghi trên thông báo của cơ quan quản lý thuế.
Đối với cơ sở kinh doanh có mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng làm thủ tục nộp thuế bằng giấy nộp tiền vào NSNN, thời gian nộp thuế vào NSNN được tính từ ngày Ngân hàng nhận và làm thủ tục trích chuyển tiền từ tài khoản của cơ sở vào NSNN, được Ngân hàng ghi trên giấy nộp tiền vào NSNN. Đối với cơ sở kinh doanh nộp thuế bằng tiền mặt, thời gian nộp thuế vào NSNN là ngày cơ quan Kho bạc hoặc cơ quan Thuế nhận tiền thuế[40]. Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý thuế doanh nghiệp
Cơ sở kinh doanh có trách nhiệm nộp số thuế còn thiếu vào NSNN sau 10 ngày kể từ ngày nộp báo cáo quyết toán thuế, nếu nộp thừa được trừ vào số phải nộp của kỳ tiếp sau, hoặc được hoàn thuế nếu cơ sở thuộc trường hợp và đối tượng được hoàn thuế.
Công tác thanh tra, kiểm tra thuế
Thanh tra, kiểm tra thuế là một trong những nội dung quan trọng của quản lý thuế, thanh tra thuế được thực hiện, trước hết bởi hệ thống các cơ quan thanh tra chuyên ngành về thuế. Ngoài ra, thanh tra thuế còn được thực hiện bởi sự phối hợp của các cơ quan chức năng có liên quan. Thanh tra, kiểm tra thuế nhằm hướng vào các mục đích chủ yếu sau đây:
- Phát hiện để từ đó có biện pháp xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật thuế, như khai man, trốn thuế, nợ động thuế, chiếm dụng tiền thuế…. nhằm hạn chế tới mức thấp nhất tình trạng thất thu thuế cho Nhà nước.
- Đảm bảo nâng cao ý thức chấp hành pháp luật thuế cho NNT và cho người thi hành công vụ trong ngành thuế.
- Phát hiện những nội dung không phù hơp trong các văn bản pháp qui về thuế với thực tiển đời sống, kinh tế, xã hội của đất nước, những điểm không hợp lý về công tác tổ chức hệ thống bộ máy ngành thuế, về qui trình nghiệp vụ từ đó kiến nghị các cơ quan chức năng sửa đổi, bổ sung kịp thời để không ngừng hoàn thiện hệ thống thuế.
Để đạt được các mục đích trên, công tác thanh kiểm tra thuế phải quán triệt một số yêu cầu cơ bản sau:
- Phải đảm bảo tính khách quan, trung thực trong việc xem xét các sự việc và đưa ra các kết luận sau những cuộc thanh kiểm tra. Người làm thanh kiểm tra tuyệt nhiên không được lồng tư tưởng cá nhân, phiến diện, không bị một sức ép quyền lực nào khi xem xét, giải quyết các sự vụ trong thanh tra.
- Thanh kiểm tra thuế nhất thiết phải dựa trên tư tưởng pháp trị, có nghĩa là mọi cuộc thanh tra thuế đều phải dựa trên cơ sở các văn bản pháp quy của Nhà nước, lấy đó là chuẩn mực cho việc đánh giá, suy xét các sự kiện, các việc được thanh tra.
- Các cuộc thanh kiểm tra phải đảm bảo tính chính xác, rõ ràng trong các kết luận về vụ việc thanh kiểm tra.
Nội dung thanh kiểm tra thuế tâp trung vào các vấn đề cơ bản sau đây:
- Thanh kiểm tra việc chấp hành những quy định về đăng ký, kê khai nộp thuế, chế độ thống kê – kế toán, hoá đơn chứng từ; thanh kiểm tra việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước.
Thực hiện cải cách hành chính trong việc kiểm tra thuế từ đó tránh gây phiền nhiễu và tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế phát triển sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ[40].
Thật ra công tác quản lý thu thuế không chỉ là một số nghiệp vụ chủ yếu như nêu trên mà là cả một quy trình quan hệ phối hợp giữa sự lãnh đạo của chính quyền các cấp, giữa các Sở, Ngành và Cơ quan chức năng với cơ quan thuế trong tất cả các khâu công việc của công tác quản lý thu thuế đến từng đối tượng nộp thuế.
1.3 CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ
Thuế không chỉ được sử dụng để tập trung nguồn thu cho NSNN mà còn là một trong những công cụ quan trọng điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế. Để huy động một bộ phận GDP vào NSNN, đáp ứng nhu cầu chi tiêu cần thiết, Nhà nước cần ban hành các chính sách thuế (Hệ thống chính sách thuế). Nhưng muốn đưa các chính sách thuế vào đời sống xã hội phải thông qua hệ thống quản lý thuế để tổ chức thực thi các chính sách thuế. Hệ thống quản lý thuế bao gồm: Cơ cấu tổ chức bộ máy, các quy trình quản lý về nghiệp vụ và lực lượng đội ngũ cán bộ công chức[5].
Trước yêu cầu của sự nghiệp cải cách, hiện đại hoá hệ thống thuế, có rất nhiều chỉ tiêu thống kê phản ánh về chất lượng QLT. Xuất phát từ yêu cầu của công tác QLT, căn cứ vào vai trò, ý nghĩa cũng như đặc điểm của chỉ tiêu, để đánh giá về chất lượng QLT của từng địa phương, cần thiết phải sử dụng 5 chỉ tiêu [5].
Mức độ hoàn thành dự toán được giao. Đây là chỉ tiêu phản ánh mức độ hoàn thành nhiệm vụ chính trị tập trung nhất, tổng quát nhất của từng cơ quan thuế. Trong phạm vi một địa phương, sự biến động của chỉ tiêu này có xu hướng và quan hệ khá chặt chẽ với các chỉ tiêu phát triển kinh tế của địa phương đó. Mức độ hoàn thành dự toán phản ánh khá rõ nét chất lượng QLT của địa phương.
Mức độ hoàn thành (%) = Số thuế thực hiện/ Dự toán được giao. Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý thuế doanh nghiệp
Tốc độ tăng thu. Tốc độ tăng thu của địa phương cao hay thấp không chỉ phản ánh sự tăng lên của từng ngành, từng thành phần kinh tế mà còn phản ánh sự thay đổi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và khả năng khai thác của từng nguồn thu của từng địa phương.
Tỷ lệ thu Ngân sách và GDP hoặc VA tính theo giá thực tế. Chỉ tiêu này đặc trưng cho quan hệ so sánh giữa tổng thu NSNN và chỉ tiêu GDP tính theo giá thực tế. Chỉ tiêu này được xác định là một trong những chỉ tiêu chủ yếu để đánh giá phát triển kinh tế và khả năng động viên NS địa phương.
Tỷ lệ huy động (%) = Số thuế thực hiện / Giá trị tăng thêm (VA)
Tỷ lệ nợ trên tổng số thu NS. Nợ thuế là một tiêu chí, một thước đo QLT và năng lực tài chính của NNT. Với các điều kiện pháp lý, tổ chức bộ máy và nhân lực như hiện nay, công tác QL nợ và cưởng chế nợ thuế có thể gánh vác được nhiệm vụ, trọng trách, đảm bảo số nợ thuế giảm đến mức hợp lý. Đáp ứng yêu cầu của ngành thuế, tỷ lệ nợ dưới 5% trên tổng số thu của ngành thuế.
Tỷ lệ nợ (%) = Số thuế còn nợ / Tổng số phải nộp
Tỷ lệ đối tượng quản lý thu so với số đối tượng đăng ký hoạt động. Theo quy định các đối tượng đã đăng ký KD, được cấp MST phải được vào quản lý đầy đủ, kịp thời.
Tỷ lệ số DN quản lý = Số DN khai thuế / Tổng số DN đăng ký thuế
- Ngoài các chỉ tiêu trên, khi nghiên cứu đánh giá chất lượng QLT, có thể xem xét, phân tích các chỉ tiêu khác như :
- Mức thu bình quân một DN trên từng địa bàn;
- Số thu bình quân cho từng CBCC thuế;
- Tình hình thu từng khu vực.
- Hiệu quả quản lý thuế (H) = Tổng số thuế thu được (M)/ Tổng chi phí (C);
Tính hiệu quả của thuế được thể hiện trên hai góc độ : Hiệu quả về hành thu và hiệu quả về kinh tế – Xã hội.
Hiệu quả về hành thu thể hiện tiết kiệm chi phí tổ chức QL thu và hiệu suất thu cao, hạn chế tối đa các hành vi trốn thuế và tránh thuế.
Hiệu quả về kinh tế – Xã hội thể hiện tiết kiệm được chi phí tuân thủ của NNT tức là tiết kiệm được thời gian, công sức, các chi phí khác cho việc thực hiện các thủ tục về thuế đồng thời phát huy vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế của thuế, khuyến khích phát triển kinh tế theo định hướng của Nhà nước, thúc đẩy sử dụng có hiệu quả các nguồn lực [18]
Hiện nay Tổng Cục Thuế chủ yếu dùng chỉ tiêu đánh giá mức độ hoàn thành dự toán được giao để đánh giá chất lượng QLT của từng Cục Thuế địa phương. Đây là chỉ tiêu phản ánh khách quan công tác thu thuế của các cơ quan thuế địa phương, là chỉ tiêu đơn giản, hiệu quả song cũng có những bất cập ở việc xây dựng kế hoạch thu NSNN cho từng địa phương là công việc rất khó chính xác, chưa sát nguồn thu trên địa bàn.
1.4. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ
1.4.1 Hệ thống chính sách, pháp luật thuế Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý thuế doanh nghiệp
Hệ thống chính sách, pháp luật thuế được áp dụng thống nhất đối với mọi thành phần kinh tế phải đảm bảo được sự động viên đóng góp bình đẳng và thực hiện công bằng xã hội. Hệ thống thuế phải thực sự khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi ngành nghề kinh doanh, các tổ chức và cá nhân bỏ vốn, lao động, đầu tư trang thiết bị và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật cho sản xuất kinh doanh theo quỹ đạo của kế hoạch nhà nước.
1.4.2 Tổ chức bộ máy quản lý thuế
Yếu tố này có vai trò quan trọng mang tính quyết định cho việc thực thi chủ trương, chính sách, bảo đảm thắng lợi cho công cuộc cải cách thuế. Hệ thống bộ máy quản lý thuế phải được kiện toàn, củng cố để có đủ điều kiện thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ của cả hệ thống thuế. Bộ máy quản lý thuế phải thống nhất từ trung ương đến địa phương, bảo đảm hiệu lực của cả hệ thống trong quá trình triển khai hệ thống chính sách thuế mới [7].
1.4.3 Công tác tin học
Khối lượng công việc quản lý thu thuế là rất lớn, chi phí rất cao và ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả thu ngân sách nhà nước. Phương pháp càng tiến bộ thì kết quả quản lý thu thuế càng cao. Do vậy, việc ứng dụng công nghệ tin học là một khả năng tốt nhất có tác dụng mạnh trong việc đẩy mạnh cải cách thuế và phát huy những tiến bộ của ngành thuế trong công tác quản lý và thu thuế hiện nay .
Đặc điểm của công tác quản lý thuế là phải quản lý trực tiếp đến từng đối tượng nộp thuế theo nhiều loại sắc thuế với số lượng đối tượng nộp thuế rất lớn mà theo quy định thì tất cả các chứng từ hoạt động kinh doanh, kê khai nộp thuế, căn cứ tính thuế, thông báo thuế phải lưu giữ là nguyên tắc bắt buộc. Do vậy, nếu làm bằng phương pháp thủ công thì sẽ cần rất nhiều nhân lực và chi phí cao. Mặt khác, sự sai sót, chậm trễ trong việc tính thuế và cung cấp thông tin để chỉ đạo hành thu sẽ có nhiều khả năng tạo ra kẽ hở để thất thu thuế, tiêu cực trong công tác quản lý thu thuế. Nếu ứng dụng tốt công tác tin học sẽ tự động hoá các khâu công việc và theo một quy trình chặt chẽ sẽ nâng cao tính pháp lý và hiệu quả sẽ rất tốt trong công tác quản lý hành thu thuế hiện nay [7].
1.4.4 Công tác tuyên truyền chính sách thuế
Các chính sách chế độ, luật, pháp lệnh về thuế chỉ có thể thực thi một cách đầy đủ, thống nhất khi công tác phổ biến giáo dục được triển khai sâu rộng trong quảng đại quần chúng. Mọi tổ chức, cá nhân cần phải biết đầy đủ các quy định, những việc phải làm và mức độ sẽ bị xử lý đối với từng hành vi trốn lậu thuế, không chấp hành nghiêm việc kê khai, đăng ký thuế; vi phạm về sử dụng hoá đơn chứng từ, sổ sách kế toán, dây dưa nợ đọng trốn thuế. Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về thuế còn có ý nghĩa nâng cao tính tự giác, ý thức về nghĩa vụ của công dân đối với nhà nước và sự kiểm tra giám sát của xã hội đối với việc thực thi các chính sách, pháp luật về thuế, đảm bảo tính công khai, công bằng xã hội [7].
1.4.5 Sự phối hợp giữa các ban ngành chức năng Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý thuế doanh nghiệp
Thuế là một trong những chính sách lớn của Đảng, Nhà nước. Là công cụ quan trọng để Nhà nước quản lý kinh tế, quản lý xã hội hay nói một cách khác thuế là một phạm trù kinh tế – chính trị tổng hợp, do đó thực hiện chính sách thuế không phải là công việc đơn phương của ngành thuế. Cần có sự phối hợp với các đoàn thể và cơ quan có liên quan để triển khai đồng bộ việc thi hành chính sách thuế với các chính sách khác và quản lý kinh tế- xã hội trên địa bàn [34]. Cần phát huy chức năng của các toà án hành chính kinh tế trong việc giải quyết các tranh chấp giữa cơ quan thuế và người nộp thuế bảo đảm tính khách quan trong việc thực hiện đầy đủ các quy định về thuế của nhà nước [34].
Trình độ nhận thức và ý thức chấp hành luật thuế của ĐTNT. Nhà nước đưa được công tác thuế vào quần chúng nhân dân là công việc rất quan trọng góp phần phát huy tác dụng của chính sách thuế; nâng cao tính pháp lý của hệ thống chính sách thuế; giáo dục tính tự giác về nghĩa vụ nộp thuế và quyền lợi được hưởng về thuế, tạo điều kiện giúp thuế trở thành công cụ mạnh mẽ trong trong điều khiển kinh tế quốc gia. Nếu trình độ nhận thức và ý thức chấp hành thuế của quần chúng nhân dân cao sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý thuế đồng thời qua sự phản hồi những vấn đề bất hợp lý sẽ góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về thuế [34].
Công tác kiểm tra, thanh tra của các cơ quan Nhà nước có vai trò đảm bảo công bằng trong xã hội và sự công minh của pháp luật. Nó làm tăng ý thức chấp hành nghĩa vụ nộp thuế của ĐTNT cũng như ý thức trách nhiệm của cán bộ thuế, góp phần ngăn chặn tình trạng tiêu cực, gian lận. Các trường hợp vi phạm phải xử lý kịp thời, nghiêm minh mới có tác dụng răn đe, giáo dục đối tượng vi phạm.
1.4.6 Quy trình quản lý thu thuế
Qui trình quản lý thu thuế qui định trình tự, thủ tục các bước công việc phải làm để quản lý thu thuế. Việc ban hành qui trình quản lý giúp cho cơ quan thuế chỉ đạo, điều hành hoạt động của cả hệ thống một cách thống nhất, khoa học, theo một trình tự hợp lý, đảm bảo tuân thủ đúng pháp luật thuế, thực hiện dân chủ hoá, công khai minh bạch và rõ ràng để các cán bộ thuế, đối tượng nộp thuế dễ thực hiện [36].
Tóm lại, công tác quản lý thu thuế có nhiều nhân tố tác động, chúng ta cần chú trọng đến những nhân tố cơ bản nhất, nhưng cũng không nên bỏ qua những yếu tố khác về kinh tế-xã hội và tác động của môi trường.
1.5 KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG KHU VỰC VÀ NƯỚC TA VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ
1.5.1 Kinh nghiệm của một số nước về công tác quản lý thuế Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý thuế doanh nghiệp
1.5.1.1 Thái Lan
Trong giai đoạn hiện nay, Tổng cục Thuế Thái Lan đang đặt tầm nhìn cho CQT là cung cấp dịch vụ tốt nhất cho NNT với các nhiệm vụ chủ yếu là thu đủ số thuế cho NSNN; tăng tính tuân thủ của ĐTNT và đề xuất thay đổi chính sách thuế với Bộ Tài chính để tăng năng lực cạnh tranh, phát triển của đất nước. Chiến lược phát triển của CQT Thái Lan chủ yếu dựa trên việc sử dụng công nghệ thông tin; xây dựng một xã hội tri thức, hệ thống quản lý tri thức điện tử của CQT và các cơ quan thu khác, tích hợp thành hệ thống quản lý tri thức chung của Bộ Tài chính và xây dựng các cơ sở về thuế vững chắc, cơ sở dữ liệu thông tin về NNT ổn định, lâu dài. Kết quả hoạt động trong các năm qua, cơ quan thu nội địa đã đóng góp 75,6% tổng thu NSNN, số thu tăng dần qua các năm, các chỉ số đo kết quả hoạt động của CQT cũng tăng dần qua các năm.[43]
Hệ thống khai thuế điện tử của CQT Thái Lan bắt đầu triển khai từ năm 2001. NNT có thể sử dụng hệ thống này để khai thuế điện tử qua mạng, qua tin nhắn và được hỗ trợ, hướng dẫn về cách sử dụng khai điện tử ngay trên hệ thống hoặc thông qua hệ thống thư điện tử, trung tâm dịch vụ hỗ trợ bằng điện thoại. Thông qua hệ thống thuế điện tử lợi ích đối với NNT là tiết kiệm thời gian; Hoàn thuế nhanh, hơn 90% hoàn thuế từ 1-5 ngày; Thuận tiện khi giao tiếp với CQT, đối với CQT tiết kiệm thời gian; tiết kiệm chi phí; chống tham nhũng. Với quốc gia, tăng số thu; tăng tính cạnh tranh trên trường quốc tế. Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý thuế doanh nghiệp
Để đạt được các thành tựu trên, CQT Thái Lan đã rút ra 3 yếu tố quan trọng dẫn đến thành công, đó là: Hoàn thiện tổ chức bộ máy của CQT theo nguyên tắc hiệu quả; dịch vụ hướng khách hàng là phục vụ NNT; mạnh dạn gạt bỏ các rào cản về thuế đối với NNT[43].
Mục tiêu đạt được của việc triển khai hệ thống khai thuế, nộp thuế điện tử của CQT Thái Lan:
- Tăng tính hiệu quả của công tác thu thuế;
- Tăng tính lựa chọn của NNT trong kê khai, nộp thuế;
- Giảm chi phí cho NNT;
- Tăng chất lượng xử lý của CQT;
- Thực hiện mục tiêu Chính phủ điện tử.
- Lợi ích của khai thuế, nộp thuế điện tử
- Về phía NNT dữ liệu có thể kiểm tra bằng máy tính; hoàn thuế nhanh hơn, dễ dàng hơn; xã hội điện tử.
- Về phía CQT tiết kiệm thời gian nhập, độ chính xác cao; Chính phủ điện tử; giảm thủ tục trong công việc; phục vụ nhu cầu của NNT, coi NNT là khách hàng của CQT.
Bài học kinh nghiệm
Yếu tố thành công của kê khai thuế điện tử không phải ở công nghệ mà ở việc làm cho NNT hiểu lợi ích của khai thuế điện tử và tin tưởng vào các cam kết của CQT. Sở dĩ CQT Thái Lan đã đạt được các kết quả khai thuế, nộp thuế điện tử là do đã đảm bảo hai vấn đề mấu chốt sau
Cải thiện việc hoàn thuế cho NNT tham gia hệ thống khai thuế, nộp thuế điện tử
Thời gian hoàn thuế rút ngắn: Trước khai điện tử, việc hoàn trong 3 tháng, hiện nay chỉ còn 15 ngày, tiến tới sẽ rút xuống còn 7 ngày (đối với thuế TNCN)
Xây dựng chỉ tiêu lựa chọn NNT hoàn nhanh. NNT không phải bổ sung thêm hồ sơ, nếu NNT đủ điều kiện sẽ được hoàn thuế rất nhanh chóng.
Xử lý nghiêm NNT gian lận trong việc hoàn thuế điện tử.
Đối với thuế GTGT nếu NNT đăng ký hoàn thuế, lịch sử tốt, CQT sẽ hoàn nhanh nhất trong vòng 15 ngày.
Giám sát cán bộ thuế có làm đúng như đã cam kết với doanh nghiệp hay không, làm cho doanh nghiệp tin tưởng vào CQT và sử dụng dịch vụ khai thuế điện tử.
Từ kinh nghiệm thực tế triển khai hệ thống khai thuế, nộp thuế điện tử của CQT Thái Lan, là một nước tương đối phát triển nhưng có điều kiện, hoàn cảnh tương đối gần với Việt Nam, các bài học kinh nghiệm rút ra của CQT Thái Lan trong việc triển khai hệ thống khai thuế, nộp thuế điện tử sẽ giúp ích rất nhiều cho CQT Việt Nam khi triển khai hệ thống này.
1.5.1.2 Nhật Bản Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý thuế doanh nghiệp
Để có được sự hiểu biết và tin tưởng trong công tác quản lý thu thuế, đồng thời phổ cập và nâng cao kiến thức về thuế trong dân chúng; nâng cao đạo lý nộp thuế, tăng tính tuân thủ pháp luật về thuế của NNT, cũng như các tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ làm thủ tục khai thuế, nộp thuế, Tổng cục Thuế Nhật Bản đã triển khai nhiều hình thức tuyên truyền, sử dụng một cách có hiệu quả các phương tiện thông tin đại chúng như: Tivi, Radio, Website. Tuy nhiên việc sử dụng hình thức tuyên truyền tùy thuộc vào sự thay đổi tình hình kinh tế xã hội từng giai đoạn. Hiện nay ở Nhật Bản đã dừng chương trình phát sóng trên Tivi, Radio và đang sử dụng Website để phục vụ cho công tác tuyên truyền về thuế. Đồng thời đến tháng 9/2007 đã sử dụng đại lý thuế là cá nhân 70.768 người; Đại lý thuế là pháp nhân 1.443 pháp nhân, kinh doanh dịch vụ làm thủ tục khai thuế [3,10]. Để nâng cao chất lượng cho công tác tuyên truyền, cải cách và hiện đại hoá ngành thuế, các tầng lớp nhân dân suy nghĩ một cách tích cực về cơ cấu thuế và mục đích nộp thuế, qua đó hiểu sâu sắc hơn về thuế – một công cụ nền tảng của đất nước, với mục đích nâng cao hiểu biết về công tác thuế vụ và đạo lý nộp thuế, hàng năm Tổng cục thuế Nhật Bản lấy 1 tuần từ ngày 11 ~ 17 tháng 11 làm “Tuần lễ suy nghĩ về thuế” để thực hiện chính sách tuyên truyền trưng cầu ý dân.
Xây dựng hệ thống Đại lý thuế
- Đại lý thuế là những chuyên gia về thuế, với công việc là hỗ trợ các đối tượng nộp thuế, có sứ mệnh là “người có chuyên môn về thuế, đứng trên lập trường độc lập và công bằng, dựa theo quan điểm của chế độ kê khai đóng thuế, có trách nhiệm đáp lại sự tín nhiệm của các đối tượng nộp thuế và đảm bảo hướng dẫn thực hiện nghĩa vụ đóng thuế theo quy định của pháp luật”[44].
- Lợi ích mang lại của hoạt động này:
- Đối với NNT tạo điều kiện thuận lợi nhất cho NNT, tiết kiệm được chi phí, thời gian đi lại; nâng cao tinh thần trách nhiệm cũng như tính ràng buộc pháp lý giữa NNT và Đại lý thuế, từ đó hạn chế được những sai phạm trong việc kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế.
- Đối với CQT tiết kiệm được chi phí, thời gian trong công tác thanh tra, kiểm tra thuế, chỉ tập trung thanh tra. kiểm tra đối với những Đại lý thuế có dấu hiệu vi phạm; thuận lợi cho việc triển khai thực hiện việc khai thuế, nộp thuế điện tử.
Bài học kinh nghiệm
Kinh nghiệm của Nhật Bản là người đi trước chúng ta hơn 50 năm, sẽ giúp Việt Nam nâng cao hơn nữa ý thức của NNT, tăng sự hiểu biết giữa NNT và CQT; xây dựng một hệ thống Đại lý thuế đủ mạnh để tiến đến việc khai thuế và nộp thuế bằng điện tử; đồng thời phổ cập, đào tạo và nâng cao kiến thức về thuế đối với học sinh, sinh viên – thế hệ kế tục của đất nước nhằm mục đích giáo dục ý thức nộp thuế một cách lành mạnh. Đồng thời kinh nghiệm đó còn giúp CQT các cấp giảm bớt thời gian, chi phí không cần thiết, tinh giản biên chế hành chính công, tăng cường lĩnh vực tư vấn dịch vụ tư, các tổ chức mang tính xã hội…. phục vụ đắc lực cho công cuộc cải cách và hiện đại hóa ngành thuế theo lộ trình đã đề ra, phù hợp với xu hướng hội nhập và phát triển, đưa ngành thuế của chúng ra tiến kịp ngành thuế Nhật Bản trong 10 năm tới.
1.5.2 Một số nét về công tác quản lý thuế ở nước ta
1.5.2.1 Những thành tựu đạt được Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý thuế doanh nghiệp
Công cuộc cải cách thuế từ năm 1990 (cải cách thuế bước 1: 1990-1995; cải cách thuế bước 2: 1996-2010) tiến hành trong bối cảnh có nhiều yếu tố không thuận lợi, đó là: Từ cơ chế quản lý nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường; tình hình kinh tế, chính trị thế giới không ổn định; nước ta chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực và châu Á; thiên tai lớn liên tiếp xảy ra; nhưng dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành TW Đảng, Quốc hội, Chính phủ; sự phối hợp chặt chẽ của các ngành các cấp; sự chuyển đổi năng động của các doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và cùng với sự trưởng thành của cơ quan quản lý thuế nên công cuộc cải cách thuế giai đoạn 1990 đến nay đã đạt được những thành tựu đáng kể
Về hệ thống chính sách thuế
Hình thành một hệ thống chính sách thuế bao quát được hầu hết các nguồn thu, áp dụng thống nhất đối với mọi thành phần kinh tế và từng bước thích ứng với yêu cầu chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính sách thuế gồm: 9 sắc thuế cơ bản (thuế giá trị gia tăng; thuế tiêu thụ đặc biệt; thuế xuất khẩu; thuế nhập khẩu; thuế thu nhập doanh nghiệp; thuế thu nhập cá nhân; thuế tài nguyên; thuế nhà đất; thuế chuyển quyền sử dụng đất). Ngoài ra, còn một số loại thu dưới hình thức phí và lệ phí.
Hệ thống chính sách thuế đã trở thành công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế góp phần thúc đẩy SXKD phát triển, khuyến khích đầu tư, khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước, kiềm chế lạm phát, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo. Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý thuế doanh nghiệp
Hệ thống chính sách thuế được ban hành dưới hình thức luật, pháp lệnh tạo cơ sở pháp lý cao để động viên một phần thu nhập của NNT vào NSNN làm cho dự toán NSNN luôn đạt và vượt mục tiêu đề ra. Nhờ đó đã bảo đảm nhu cầu chi thường xuyên, dành một phần tăng chi đầu tư phát triển, chi trả nợ, góp phần kiềm chế lạm phát ở mức độ cho phép.
Hệ thống chính sách thuế đã xoá bỏ sự chênh lệch về nghĩa vụ thuế giữa các thành phần kinh tế trong nước; thu hẹp chênh lệch về nghĩa vụ thuế giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài…tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng trong cơ chế thị trường.
Hệ thống chính sách thuế từng bước thể hiện tính đơn giản, rõ ràng, dễ thực hiện tạo điều kiện giảm chi phí hành chính thuế cho cả NNT và CQT.
Trong hợp tác quốc tế về thuế đã đạt được các thành tựu chủ yếu
Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thuế đã mở rộng hiểu biết, tích luỹ kinh nghiệm… ứng dụng chính sách thuế tiến tiến và quản lý thuế hiện đại của quốc tế vào hệ thống thuế Việt Nam. Qua đó, hệ thống chính sách thuế Việt Nam từng bước được hoàn thiện và phù hợp với yêu cầu hội nhập.
Chủ động thực hiện chính sách mở cửa để thu hút đầu tư, tự do hoá thương mại, thực hiện lộ trình cam kết về thuế với WTO, các nước ASEAN.
Đã đàm phán và ký Hiệp định tránh đánh thuế hai lần với hơn 58 nước, tạo cơ sở pháp lý để các nhà đầu tư nước ngoài, người nước ngoài đến Việt Nam kinh doanh sinh sống không bị đánh thuế trùng lắp, thực sự được hưởng chính sách ưu đãi thuế của Việt Nam, tạo môi trường thuận lợi khuyến khích thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam[43]
1.5.2.2 Những tồn tại trong công tác quản lý thuế
Đối với hệ thống chính sách thuế
- Hệ thống chính sách thuế còn nhiều mức thuế suất nên chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyên môn hoá và hợp tác hoá trong SXKD
- Một số chính sách thuế như thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt còn nặng về bảo hộ sản xuất trong nước.
- Hệ thống chính sách thuế chưa thực sự đảm bảo bình đẳng, công bằng xã hội về nghĩa vụ thuế, còn có sự phân biệt về thuế suất, điều kiện ưu đãi, mức, thời gian miễn giảm thuế giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; giữa người Việt Nam với người nước ngoài.
- Hệ thống chính sách thuế vẫn còn lồng ghép nhiều chính sách xã hội, còn nhiều mức miễn giảm thuế làm hạn chế tính trung lập, không đảm bảo công bằng giữa các đối tượng nộp thuế, dễ phát sinh tiêu cực, làm phức tạp công tác quản lý thuế.
- Nội dung các sắc thuế vẫn còn phức tạp, thủ tục hành chính thuế còn rườm rà, gây khó khăn cho NNT.
Đối với CQT: Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý thuế doanh nghiệp
Năng lực, trình độ quản lý thuế còn có những điểm chưa đáp ứng so với yêu cầu quản lý thuế hiện đại, khoa học, cụ thể là:
- Công tác thanh tra, kiểm tra xử lý các hành vi vi phạm về thuế của CQT chưa được đặt đúng tầm và chưa phù hợp với thực trạng của nước ta là trình độ dân trí thấp, nhận thức trách nhiệm pháp luật chưa cao. Chất lượng kiểm tra còn hạn chế, chưa phát hiện và có biện pháp ngăn chặn kịp thời hành vi gian lận trong việc tính thuế, kê khai thuế, gian lận trong hoàn thuế, miễn giảm thuế, nhất là trong hoàn thuế giá trị gia tăng. Chức năng và quyền hạn của thanh tra, kiểm tra thuế còn bị bó hẹp chưa trở thành công cụ có hiệu lực để chống thất thu ngân sách và răn đe, ngăn chặn các hành vi vi phạm về thuế.
- Việc tuyên truyền giáo dục, hướng dẫn giải thích chính sách thuế chưa thường xuyên, liên tục để nâng cao tính tuân thủ pháp luật về thuế.
- Ứng dụng công nghệ tin học trong việc quản lý thuế còn ở mức thấp, mới tập trung chủ yếu vào công việc quản lý về đăng ký thuế, cấp mã số thuế, quản lý biên lai, ấn chỉ; Đại bộ phận công việc quản lý thuế vẫn là thủ công, năng suất, hiệu quả quản lý thuế còn thấp dẫn đến hạn chế khả năng kiểm soát và quản lý thuế của CQT.
- Một bộ phận cán bộ quản lý thuế trình độ hiểu biết và thực thi về chính sách thuế còn hạn chế chưa đáp ứng yêu cầu quản lý hiện đại và yêu cầu cải cách hành chính trong quản lý thuế. Thái độ và phong cách ứng xử của cán bộ thuế còn một số trường hợp chưa thật tận tuỵ, công tâm, khách quan giữa lợi ích của Nhà nước với quyền lợi của NNT. Chưa trở thành người bạn đồng hành đáng tin cậy của các đối tượng nộp thuế trong việc thực hiện các luật thuế.
Đối với NNT
- Tình trạng trốn thuế, lậu thuế, gian lận về thuế, nợ đọng thuế còn diễn ra ở nhiều khoản thu, sắc thuế, ở các địa phương trong cả nước, vừa làm thất thu cho NSNN vừa không đảm bảo công bằng xã hội.
- Một số doanh nghiệp, hộ gia đình cá nhân kinh doanh cố ý tìm mọi thủ đoạn, dưới mọi hình thức gian lận các khoản tiền thuế phải nộp như kê khai khống để chiếm đoạt tiền hoàn thuế giá trị gia tăng từ NSNN.
Đối với các cơ quan chức năng và các tổ chức có liên quan
Một số cấp uỷ, chính quyền địa phương chưa có sự quan tâm đúng mức và chưa thực sự coi công tác thuế là nhiệm vụ của địa phương mình. Các cơ quan chức năng, các tổ chức, cá nhân có liên quan (như cơ quan địa chính, xây dựng, giao thông, công an, kiểm sát, ngân hàng, các cơ quan thông tin đại chúng…) ở từng nơi, từng lúc thiếu sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ và có hiệu quả với CQT trong việc cung cấp thông tin và áp dụng các biện pháp hỗ trợ để thu đầy đủ, kịp thời tiền thuế vào NSNN.
Tình hình trên một phần do CQT các cấp chưa chủ động; mặt khác các ngành, các cấp, các tổ chức, cá nhân chưa nhận thức rõ, đầy đủ vai trò và trách nhiệm của mình đối với nhiệm vụ thu ngân sách.
TÓM TẮT CHƯƠNG 1
Chương 1 đã giải quyết những vấn đề lý luận cơ bản về thuế, Luật quản lý thuế, quy trình quản lý thuế; Tổng kết kinh nghiệm của một số nước trên thế giới và trong nước về công tác quản lý thu thuế đồng thời rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng.
Để có cơ sở đánh giá hiệu quả công tác quản lý thu thuế, đề tài đã xây dựng được hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu. Ngoài ra đề tài cũng đánh giá tổng quan tình hình triển khai thực hiện Luật quản lý thuế và các vấn đề tồn tại trong quản lý thuế để từ đó đề xuất những giải pháp để hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý thuế doanh nghiệp
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Tổng quan công tác quản lý thuế của thành phố Huế