Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Công chứng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Công chứng hợp đồng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, những giao dịch dân sự, thương mại diễn ra rất phổ biến, tuy nhiên không phải lúc nào những chủ thể cũng có thể trực tiếp tham gia mà việc thực hiện các giao dịch này sẽ thông qua đại diện theo ủy quyền. Hợp đồng uỷ quyền được coi là căn cứ pháp lý cho việc thực hiện các giao dịch do người đại diện theo ủy quyền thực hiện nhân danh người ủy quyền. Pháp luật quy định về các văn bản ủy quyền chính là công cụ thúc đẩy sự phát triển của các giao dịch dân sự.
Theo báo cáo tổng kết của công tác công chứng, chứng thực tại Uỷ ban nhân dân và các tổ chức hành nghề công chứng trong cả nước, nhất là ở những tỉnh, thành phố lớn cho thấy, việc công chứng, chứng thực văn bản uỷ quyền ngày càng tăng. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, việc soạn thảo, công chứng, chứng thực văn bản ủy quyền cũng như việc thực hiện văn bản uỷ quyền đã phát sinh một số vấn đề bất cập như căn cứ uỷ quyền, hình thức uỷ quyền, quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia giao kết hợp đồng ủy quyền,… Đây là những nguyên nhân dẫn đến việc tranh chấp hợp đồng ủy quyền, gây khó khăn trong việc áp dụng pháp luật cũng như việc giải quyết tranh chấp.
Để góp phần hoàn thiện những quy định của pháp luật về các văn bản ủy quyền và khắc phục những bất cập trong hoạt động công chứng các văn bản ủy quyền thì việc nghiên cứu làm sáng tỏ những quy định của pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động công chứng các văn bản ủy quyền là rất quan trọng. Qua việc nghiên cứu những quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng đề ra những giải pháp góp phần hoàn thiện những quy định của pháp luật liên quan đến công chứng văn bản ủy quyền.
Việc nghiên cứu làm sáng tỏ khái niệm, những quy định của pháp luật về công chứng hợp đồng ủy quyền cũng như thực tiễn áp dụng là một việc làm cần thiết, có nghĩa không chỉ trong nghiên cứu mà cả thực tiễn áp dụng nhất là trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài: “Công chứng hợp đồng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Luật Kinh Tế
2. Tình hình nghiên cứu đề tài Luận văn: Công chứng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam
Nước ta, đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu những quy định của pháp luật về những hợp đồng dân sự thông dụng. Năm 2008, tác giả Nguyễn Thị Lan Hương bảo vệ thành công luận văn Thạc sĩ Luật Dân sự với đề tài: “Hợp đồng uỷ quyền theo pháp luật Việt Nam”.
Ngoài ra, quy định về công chứng văn bản ủy quyền còn được đề cập trong một số bài viết được đăng trên các tạp chí chuyên ngành như: Tạp chí Nhà nước Pháp luật, Tạp chí Luật học, Tạp chí Toà án nhân dân, … Tuy nhiên, những bài viết này mới chỉ đề cập một cách khái quát, mang tính chất tham khảo hoặc nêu ra một số những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. Đến nay, vẫn chưa có công trình khoa học nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về các văn bản uỷ quyền.
Trong thời gian trước đây, cũng có một số tác giả nghiên cứu về các vấn đề khác nhưng có liên quan đến hợp đồng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam như:
Luận văn thạc sĩ: “Quan hệ đại diện theo ủy quyền trong hoạt động thương mại”, của Đinh Thị Thanh Thủy, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2004;
Luận văn thạc sĩ: :“Hợp đồng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam”, của Nguyễn Thị Lan Hương, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2008;
Luận văn thạc sĩ:“Hợp đồng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam”, của Nguyễn Thị Nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2017;
Ngoài ra, có khá nhiều bài viết đề cập đến hợp đồng ủy quyền được đăng trên các Báo, Tạp chí pháp luật như bài viết: “Đại diện theo uỷ quyền – Từ pháp luật nội dung đến Tố tụng dân sự” của ThS. Nguyễn Minh Hằng, Giảng viên Học viện Tư pháp đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp năm 2005, “Trao đổi một số vấn đề về văn bản ủy quyền” của Nguyễn Văn Phi, đăng trên Trang web Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ năm 2018, “Một số vấn đề ủy quyền tham gia tố tụng trong các vụ án dân sự” của Trương Vũ Linh đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử năm 2021, “Rủi ro cao khi vay tài sản bằng hình thức ký hợp đồng ủy quyền” của Hoài Trọng đăng trên Trang web Sở Tư pháp Bình Thuận năm 2021,… Tất cả các công trình nghiên cứu cũng như các bài viết nêu trên đều đề cập đến các khía cạnh khác nhau của hợp đồng ủy quyền. Tuy nhiên, những bài viết này mới chỉ đề cập một cách khái quát, mang tính chất tham khảo hoặc nêu ra một số những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. Đến nay, vẫn chưa có công trình khoa học nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về hợp đồng uỷ quyền.
Tuy nhiên, dưới góc độ chuyên ngành Luật kinh tế thì đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về “Công chứng hợp đồng ủy quyền theo pháp luật Việt nam hiện nay từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm rõ quy định của pháp luật về hợp đồng ủy quyền và kiến nghị giải pháp thực tiễn nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng ủy quyền trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn: Công chứng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam
Để hoàn thành mục tiêu nêu trên luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa cơ sở khoa học, thực tiễn về hợp đồng ủy quyền.
- Đánh giá tình hình thực hiện công chứng hợp đồng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đề xuất các giải pháp để hoàn thiện thực hiện công chứng hợp đồng ủy quyền.
- Phân tích, chỉ ra điểm hợp lý và chưa hợp lý của việc công chứng hợp đồng ủy quyền trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay;
- Kiến nghị định hướng và giải pháp cơ bản hoàn thiện pháp luật Việt Nam về công chứng hợp đồng ủy quyền trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Ủy quyền là một trong những giao dịch dân sự thông dụng, được hình thành rất sớm có vai trò, ý nghĩa quan trọng trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội như Dân sự, Hành chính, Tố tụng, Kinh tế, … Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ Luật kinh tế, tác giả không đi sâu nghiên cứu một cách đầy đủ, trọn vẹn những quy định của pháp luật Việt Nam về uỷ quyền. Đề tài, chủ yếu tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật về các văn bản uỷ quyền trong lĩnh vực dân sự, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn của CCV, người có trách nhiệm công chứng, chứng thực hợp đồng uỷ quyền trong trong hoạt động công chứng, chứng thực thường gặp. Mặt khác, qua việc nghiên cứu tác giả đề xuất một số giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho mọi cá nhân, tổ chức thực hiện hợp đồng uỷ quyền.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
- Về thời gian: năm 2020
- Về nội dung:
- Dựa trên chế định pháp lý về hợp đồng ủy quyền trong BLDS 2015 như quy định về quyền và nghĩa vụ của người ủy quyền, người được ủy quyền, quy định về chấm dứt hợp đồng ủy quyền, cơ chế ủy quyền lại, kết hợp với các quy định pháp luật về công chứng, chứng thực hợp đồng, và có liên hệ với chế định đại diện, đề tài nghiên cứu thực tiễn chủ yếu trong hoạt động công chứng, chứng thực hợp đồng ủy quyền.
- Quy trình thực hiện việc công chứng hợp đồng ủy quyền tại các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
- Đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật về công chứng hợp đồng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn: Công chứng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được trình bày dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lenin về nhà nước, pháp luật và những quan điểm của Đảng, Nhà nước về công chứng hợp đồng ủy quyền.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích kết hợp với bình luận được sử dụng để làm rõ quy định của pháp luật hiện hành về công chứng hợp đồng ủy quyền; Phương pháp tổng hợp nhằm khái quát hóa thực trạng áp dụng pháp luật về công chứng hợp đồng ủy quyền, qua đó đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật; Phương pháp tổng kết thực tiễn nhằm vận dụng nhuần nhuyễn giữa kiến thức quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật để làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu về công chứng hợp đồng ủy quyền.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn luận văn
Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện về các văn bản uỷ quyền theo pháp luật Việt Nam. Luận văn phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật hiện hành cũng như thực tiễn áp dụng tại các tổ chức hành nghề công chứng mà cụ thể là tại Thành phố Hồ Chí Minh. Qua đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật về văn bản ủy quyền. Những đóng góp của luận văn có giá trị không chỉ giúp cho hoạt động công chứng, chứng thực văn bản ủy quyền mà còn trong nghiên cứu khoa học; những kiến nghị, đề xuất của luận văn là cơ sở để ban hành những văn bản pháp luật có liên quan.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hợp đồng ủy quyền
Chương 2: Công chứng hợp đồng ủy quyền từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật công chứng hợp đồng ủy quyền và nâng cao hiệu quả thực hiện tại thành phố Hồ Chí Minh.
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN
1.1. Khái quát về đại diện theo ủy quyền Luận văn: Công chứng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam
1.1.1. Một số cách thức ủy quyền
1.1.1.1. Ủy quyền trong tố tụng dân sự
Để giải quyết một vụ án dân sự cần có sự tham gia của các đương sự với tư cách tham gia tố tụng khác nhau. Đương sự hoặc người đại diện của đương sự tham gia tố tụng dân sự tại Tòa án có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chính người đó nhất là trong trường hợp họ là người bị hạn chế hoặc bị mất năng lực hành vi tố tụng dân sự, cũng như việc làm rõ sự thật của vụ việc dân sự. Trong thực tiễn có những vụ án dân sự do chính đương sự tham gia hoặc ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng tại Tòa án. Tuy nhiên, không phải bất kỳ vụ án dân sự nào, người tham gia tố tụng cũng có quyền ủy quyền cho người khác. Chẳng hạn như đối với việc ly hôn, đương sự không được ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng. Trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ thì cha, mẹ, người thân thích là người đại diện (Khoản 2 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014).
Theo Điều 85 của BLTTDS 2015 thì người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền. Người đại diện có thể là cá nhân hoặc pháp nhân theo quy định của BLDS. Ngoài ra, trong khoản 4 tại điều này có quy định người đại diện theo ủy quyền theo quy định của BLDS là người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự.
Nhận thấy rằng người đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự. Căn cứ phát sinh đại diện theo ủy quyền là dựa trên sự ủy quyền của đương sự. Khác với người đại diện theo pháp luật và người đại diện do Tòa án chỉ định thì đương sự được đại diện là người có năng lực hành vi tố tụng nên người đại diện theo ủy quyền chỉ được tham gia tố tụng khi được đương sự ủy quyền thay mặt họ trong tố tụng dân sự [7].
Trong trường hợp người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức, chủ hộ gia đình không trực tiếp tham gia tố tụng mà ủy quyền cho luật sư hoặc người khác tham gia tố tụng thì người được ủy quyền cũng là người đại diện theo pháp luật, trường hợp này cũng đã phát sinh đại diện theo ủy quyền. Luận văn: Công chứng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam
Người đại diện thực hiện hành vi nhân danh người được đại diện. Do đó, cần phải có một giới hạn nhất định cho hành vi đó, giới hạn này cũng là phạm vi thẩm quyền đại diện. Phạm vi thẩm quyền của người đại diện theo ủy quyền được xác định trong chính văn bản ủy quyền. Người đại diện theo ủy quyền chỉ được phép thực hiện hành vi pháp lý trong khuôn khổ văn bản ủy quyền theo quy định. Việc xác lập văn bản ủy quyền và giải quyết các tranh chấp phát sinh phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật về hợp đồng ủy quyền.
Đại diện theo ủy quyền có hai trường hợp mà không được làm người đại diện quy định tại Khoản 2 Điều 87 của BLTTDS 2015. Bên cạnh đó, trong đại diện theo ủy quyền, pháp luật tố tụng dân sự còn quy định “cán bộ, công chức trong các ngành tòa án, kiểm sát, công an không được làm người đại diện trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp họ tham gia tố tụng với tư cách người đại diện cho cơ quan của họ hoặc với tư cách là người đại diện theo pháp.
Việc chấm dứt đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự và hậu quả của việc chấm dứt được quy định tại Điều 89 BLTTDS 2015, và cũng làm chấm dứt đại diện ủy quyền trong các trường hợp khoản 3 Điều 140 của BLDS 2015 như sau:
Điều 140: Thời hạn đại diện:
3.Đại diện theo ủy quyền chấm dứt trong trường hợp sau đây:
- Theo thỏa thuận;
- Thời hạn ủy quyền đã hết;
- Công việc được ủy quyền đã hoàn thành;
- Người được đại diện hoặc người đại diện đơn phương chấm dứt thực hiện việc ủy quyền;
Người được đại diện, người đại diện là cá nhân chết; người được đại diện, người đại diện là pháp nhân chấm dứt tồn tại;
- Người đại diện không còn đủ điều kiện quy định tại khoản 3 Điều 134 của Bộ luật này;
- Căn cứ khác làm cho việc đại diện không thể thực hiện được.
1.1.1.2. Ủy quyền trong tố tụng hình sự
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không có quy định nào đề cập đến vấn đề ủy quyền mà trong các điều luật quy định về người bị hại (Điều 62), nguyên đơn dân sự (Điều 63), bị đơn dân sự (Điều 64), người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (Điều 65) có đề cập đến người đại diện hợp pháp của họ. Người đại diện hợp pháp có thể là người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền. Như vậy, những người tham gia tố tụng bao gồm: Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án trong vụ án hình sự có quyền tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình bằng cách có thể ủy quyền thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình thông qua người đại diện nếu họ không muốn hoặc không có điều kiện tham gia tố tụng. Còn đối với những đương sự khác trong tố tụng hình sự như: Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người làm chứng được coi là bắt buộc phải tự mình tham gia trực tiếp vào các hoạt động tố tụng, không được ủy quyền cho người khác [8].
1.1.1.3. Ủy quyền trong tố tụng hành chính Luận văn: Công chứng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam
Về người đại diện trong tố tụng hành chính, kể từ ngày 01/7/2016 (ngày Luật Tố tụng hành chính có hiệu lực) thì việc cử người đại diện trong tố tụng hành chính trước Tòa án nhân dân phải theo đúng quy định tại Điều 60 của Luật này. Luật Tố tụng hành chính quy định các đương sự tham gia tố tụng hành chính có quyền ủy quyền bằng văn bản cho luật sư hoặc người khác đại diện cho mình tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cho mình (Khoản 11 Điều 55 Luật Tố tụng hành chính 2015). Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng hành chính phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, được đương sự hoặc người đại diện theo pháp luật của đương sự ủy quyền bằng văn bản (Khoản 3 Điều 60 Luật Tố tụng hành chính 2015), trừ những trường hợp Luật quy định không được làm người đại diện. Theo quy định hiện hành, người được ủy quyền thực hiện toàn bộ các quyền, nghĩa vụ tố tụng hành chính của người ủy quyền. Đồng thời, người được ủy quyền không được ủy quyền lại cho người thứ 3 (Khoản 5, Điều 60 Luật Tố tụng hành chính 2015).
Khoản 3 Điều 60 Luật Tố tụng hành chính quy định người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng hành chính phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, được đương sự hoặc người đại diện theo pháp luật của đương sự ủy quyền bằng văn bản. Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia tố tụng hành chính thì các thành viên có thể ủy quyền cho một thành viên hoặc người khác làm đại diện tham gia tố tụng hành chính.
Trường hợp người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thì người bị kiện chỉ được ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện. Người được ủy quyền phải tham gia vào quá trình giải quyết toàn bộ vụ án, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người bị kiện theo quy định của Luật này. Mục đích của quy định này theo lý giải của các nhà lập pháp là để bên bị kiện đánh giá chính xác, đầy đủ về quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, từ đó quyết định việc sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc quyết định đối thoại để giải quyết vụ án với người khởi kiện. Nếu ủy quyền cho cán bộ chuyên môn tham gia tố tụng thì họ không có thẩm quyền quyết định những vấn đề trên. Nhìn từ góc độ này thấy quy định tại Khoản 3 Điều 60 Luật tố tụng hành chính năm 2015 là rất tích cực, thể hiện sự tiến bộ của hoạt động lập pháp. Có như vậy mới bảo đảm thực hiện được nguyên tắc tranh tụng quy định tại Điều 18 Luật tố tụng hành chính năm 2015. Đồng thời nâng cao trách nhiệm của cơ quan hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính do mình ban hành hoặc thực hiện, hướng đến xây dựng một nền hành chính “phục vụ nhân dân”.
Như vậy, trong tất cả các vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hình sự, hành chính, hay trong những vụ việc khiếu nại, tố cáo, đương sự đều có thể ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện để thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong tố tụng, thực hiện quyền và nghĩa vụ trong khiếu nại, tố cáo thay cho mình (Riêng trong vụ án hình sự thì bên ủy quyền chỉ giới hạn trong một số đương sự).
1.1.2. Hợp đồng ủy quyền trong các giao dịch dân sự Luận văn: Công chứng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam
Đại diện ngoài tố tụng là đại diện để xác lập thực hiện giao dịch ngoài phạm vi tố tụng do Tòa án tiến hành. Hay nói cách khác đó chính là việc đại diện của một chủ thể nhân danh và vì lợi ích của chủ thể khác theo quy định của pháp luật hoặc theo ủy quyền để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, thương mại, lao động. Có hai hình thức đại diện gồm đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền. Đại diện cho pháp nhân, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành dân sự, cha mẹ đối với con chưa thành viên, người giám hộ với người được giám hộ là những trường hợp đại diện theo pháp luật còn đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập bằng hợp đồng ủy quyền theo quy định của BLDS và một số luật chuyên ngành (Luật Thương mại, Luật lao động, Luật công chứng,…).
Thông thường, khi tham gia vào các quan hệ dân sự thì chủ thể sẽ tự mình xác lập và thực hiện giao dịch dân sự. Nhưng có nhiều trường hợp vì những lý do khách quan bất khả kháng hoặc những lý do chủ quan như: đau ốm, đi nước ngoài,… mà chủ thể tham gia vào quan hệ dân sự không có mặt để có thể tự mình xác lập và thực hiện giao dịch đó.
Do đó, để hỗ trợ và bảo đảm quyền lợi cho các chủ thể trong giao dịch dân sự, pháp luật dân sự cho phép chủ thể này ủy quyền cho chủ thể khác thay mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ, đó chính là đại diện theo ủy quyền.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 134 BLDS 2015 thì “đại diện” được hiểu là việc người đại diện nhân danh và vì lợi ích của người được đại diện xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Đồng thời, theo quy định tại khoản 1 Điều 138 BLDS 2015 thì “đại diện theo ủy quyền” phải là việc chính chủ thể có quyền tự mình trao quyền cho chủ thể khác (đủ năng lực thực hiện) để thay mình tham gia vào các giao dịch dân sự.
Như vậy thì đại diện theo ủy quyền tức là việc một cá nhân, pháp nhân (bên đại diện) nhân danh và vì lợi ích của một cá nhân, pháp nhân khác (bên được đại diện) tiến hành xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự thông qua việc được bên được đại diện “trao quyền” hợp pháp.
1.2. Khái quát chung về hợp đồng ủy quyền Luận văn: Công chứng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam
1.2.1. Khái niệm hợp đồng uỷ quyền
Trong cuộc sống hằng ngày, không phải bất kỳ lúc nào cá nhân hoặc tổ chức có thể và buộc phải trực tiếp thực hiện công việc cũng như các quyền và nghĩa vụ của chính mình. Để hoàn tất một công việc nào đó, cá nhân hoặc tổ chức có thể nhờ hay giao lại cho người khác làm thay với danh nghĩa của chính mình. Đây chính là việc ủy quyền. Nói cách khác, ủy quyền là việc một người giao cho người khác nhân danh mình thực hiện công việc hoặc sử dụng quyền mà mình có được một cách hợp pháp, trong phạm vi được ủy quyền. Theo đó, văn bản ủy quyền được hiểu là văn bản thể hiện việc một người giao cho người khác thay mặt và nhân danh mình thực hiện công việc hoặc sử dụng quyền mà mình có được một cách hợp pháp.
Việc ủy quyền làm phát sinh quan hệ đại diện, theo đó, người được ủy quyền (người đại diện) nhân danh vì lợi ích của người ủy quyền (người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phạm vi đại diện được giao (Điều 134 và Điều 138 BLDS 2015), trường hợp pháp luật có quy định công việc đó không được ủy quyền, phải do chính người có quyền thực hiện. Do đó, về mặt nguyên tắc khi đã ủy quyền thì bên ủy quyền sẽ có quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do người được ủy quyền (người đại diện) xác lập trong phạm vi ủy quyền.
Kế thừa quy định của BLDS năm 1995, Điều 581 BLDS năm 2005 và và Điều 562 BLDS năm 2015 cũng đưa ra định nghĩa về hợp đồng ủy quyền, theo đó: “Hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền, bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.”
1.2.2. Hình thức của giao dịch ủy quyền được công chứng Luận văn: Công chứng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam
Xét về mặt hình thức, trước đây BLDS 2005 cho phép khi xác lập quan hệ ủy quyền, các bên được thỏa thuận và tự quyết định sử dụng hình thức lời nói hoặc bằng văn bản (có hay không có công chứng, chứng thực), nếu pháp luật không quy định việc ủy quyền phải thành văn bản . Ví dụ: Khi nhờ thực hiện các việc đơn giản trong sinh hoạt hàng ngày thì các bên chỉ thỏa thuận miệng với nhau và người nhận giúp đồng ý thực hiện. Đối với các công việc có tính quan trọng, cần đến sự bảo đảm an toàn về mặt pháp lý cho giao dịch (như nhờ quản lý nhà đất, nhờ người khác bán nhà, lĩnh tiền ngân hàng) thì ủy quyền thường được lập bằng văn bản và thậm chí còn phải được công chứng, chứng thực. Tuy nhên, BLDS 2015 không còn quy định hình thức ủy quyền do các bên thỏa thuận như trước đây, mà gián tiếp quy định về việc ủy quyền phải lập bằng văn bản khi quy định: “ Thời hạn đại diện được xác định theo văn bản ủy quyền” tại Khoản 1 Điều 140. Đồng thời, xuất phát từ quy định tại Khoản 1 Điều 2 LCC 2014, CCV chỉ có thể chứng nhận việc ủy quyền nếu được lập thành văn bản.
Xét về mặt bản chất, văn bản ủy quyền luôn là một mối quan hệ hợp đồng, được hình thành trên những nguyên tắc của quá trình giao kết hợp đồng dân sự. Nói cách khác, để phát sinh quan hệ ủy quyền và được công chứng thì các bên trong quan hệ này (bên ủy quyền và bên được ủy quyền) phải có thỏa thuận và thống nhất chí với nhau về tất cả nội dung của ủy quyền. Ý chí đơn phương của một bên không thể làm phát sinh quan hệ ủy quyền, để từ đó, ràng buộc quyền và nghĩa vụ của bên kia phải thực hiện công việc. Do đó, ủy quyền phải là quan hệ hợp đồng và chưa bao giờ là hành vi pháp lý đơn phương. Chính vì vậy, khi đề cập đến ủy quyền dưới hình thức văn bản, BLDS đã đề cập đến ủy quyền được lập thành hợp đồng ủy quyền.
Xuất phát từ tính thông dụng của ủy quyền trong đời sống. BLDS 2015 đã dành một mục (Mục 13) của chương XVI, bao gồm 8 điều luật, từ điều 562 đến Điều 569 được quy định về hợp đồng ủy quyền. Theo đó, “Hợp đồng ủy quyền là sự thảo thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền, bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”. Tương đồng, với quy định về hình thức ủy quyền bằng văn bản dưới dạng hợp đồng của BLDS, LCC 2014 cũng đã quy định việc công chứng đối với “Hợp đồng ủy quyền” tại Điều 55.
Tuy nhiên, bên cạnh hình thức ủy quyền bằng văn bản dưới dạng “Hợp đồng ủy quyền”, thì trong thực tiễn cuộc sống, hình thức ủy quyền bằng văn băn khác, dưới dạng “Giấy ủy quyền” cũng được sử dụng khá phổ biến. Mặc dù thuật ngữ “Giấy ủy quyền” không được đề cập trong BLDS, nhưng đã được pháp luật trực tiếp hoặc gián tiếp nói đến thông qua việc đề cập về một hình thức khác của văn bản ủy quyền (với tên gọi không phải là “Hợp đồng ủy quyền” ).
Trong lĩnh vực công chứng, việc công chứng hình thức ủy quyền bằng văn bản dưới dạng “Giấy ủy quyền” không phải là vấn đề mới. Trước đây, việc chứng nhận “Giấy ủy quyền” được quy định tại Điều 48 Nghị định 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về Công chứng, chứng thực:
- Việc uỷ quyền có thù lao, có nghĩa vụ bồi thường của bên được uỷ quyền hoặc để chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng bất động sản phải được lập thành hợp đồng.
- Việc uỷ quyền không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì không phải lập thành Hợp đồng uỷ quyền mà có thể được lập thành Giấy uỷ quyền và chỉ cần người uỷ quyền ký vào Giấy uỷ quyền”.
Sau này, nội dung chứng nhận đối với loại “Giấy ủy quyền” được gián tiếp đề cập đến khi Khoản 1 Điều 18 Nghị định 04/2013/NĐ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của LCC 2006 quy định: “Việc ủy quyền có thù lao, có nghĩa vụ bồi thường của bên được ủy quyền hoặc để chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng bất động sản phải được lập thành hợp đồng ủy quyền”. Luận văn: Công chứng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam
Mặc dù hình thức ủy quyền bằng văn bản dưới dạng “Giấy ủy quyền” được trực tiếp hay gián tiếp đề cập, nhưng hiện nay chưa có bất kỳ quy định nào xác định nội hàm hay bản chất pháp lý của loại văn bản này để phân biệt với loại văn bản ủy quyền dưới dạng: “Hợp đồng ủy quyền”. Theo cách quy định của các điều luật có liên quan, có thể thấy rằng pháp luật phân biệt hai dạng của văn bản ủy quyền ở yếu tố: Đối với “Giấy ủy quyền” thì chỉ cần người ủy quyền ký vào giấy (văn bản) là đủ không buộc hai bên phải cùng ký vào văn bản. Nói cách khác, nếu cả hai bên (bên ủy quyền và bên được ủy quyền) cùng ký vào văn bản ủy quyền thì được xác định là “Hợp đồng ủy quyền, nếu chỉ có bên ủy quyền ký vào văn bản thì được xác định là “Giấy ủy quyền”.
Chính vì vậy, đã có sự nhầm lẫn khi cho rằng “Giấy ủy quyền” là một dạng của hành vi pháp lý đơn phương, không cần phải có sự thỏa thuận của các bên. Thực chất, như đã nêu, ủy quyền chưa bao giờ là hành vi pháp lý đơn phương (đến nay, chưa có bất kỳ quy định nào xác định “giấy ủy quyền” thuộc về dạng hành vi pháp lý đơn phương. Quan hệ ủy quyền chỉ được xác lập khi có sự thống nhất ý chí của bên ủy quyền và bên được ủy quyền, thiếu đi ý chí một bên thì quan hệ ủy quyền vẫn chưa được xác lập và nội dung ủy quyền không có giá trị pháp lý rằng buộc trách nhiệm các bên phải thực thi.
Ví dụ: Ông A ủy quyền cho ông B đi lĩnh tiền lương hưu thay cho mình và được lập dưới hình thức “Giấy ủy quyền”, đã được công chứng. Cho dù giấy này thể hiện đầy đủ các nội dung thông tin về bên được ủy quyền, về công việc ủy quyền, thậm chỉ bên ủy quyền tự trình bày và cam kết việc ủy quyền đã được trao đổi và thống nhất trước bên được ủy quyền thì cho dù văn bản ủy quyền này đã được công chứng nhưng vẫn chưa đủ để phát sinh hiệu lực pháp lý ràng buộc trách nhiệm pháp lý đối với bên được ủy quyền phải thực hiện. Bên ủy quyền không thể khởi kiện buộc bên thực hiện công việc, bồi thường thiệt hại (nếu có) khi bên được ủy quyền không thực hiện công việc (do việc ủy quyền chưa có cơ sở thiện có sự đồng thuận của bên được ủy quyền).
Thông thường, sự đồng ý của người ủy quyền được thể hiện ra bên ngoài bằng chính hành vi tự nguyện thực hiện những công việc được ủy quyền của họ. Trong thực tế, văn bản ủy quyền dưới dạng: “Giấy ủy quyền” chỉ phát sinh hiệu lực pháp lý kể từ thời điểm bên được ủy quyền bắt đầu thực hiện công việc ủy quyền.
Như vậy, có thể thấy rằng, cho dù tên gọi “Hợp đồng ủy quyền” hay “Giấy ủy quyền” thì bản chất, chúng đề thuộc về chế định hợp đồng dân sự (không phải là hành vi pháp lý đơn phương).
Đến nay, các quy định trên về công chứng đối với hình thức “Giấy ủy quyền” trong Nghị định số 75/2000/NĐ-CP và Nghị định số 04/2013/NĐ-CP đã hết hiệu lực, đồng thời, LCC 2014 lại không đề cập đến hình thức ủy quyền bằng văn bản dưới dạng “Giấy ủy quyền”. Tuy nhiên, vấn đề về “Giấy ủy quyền” lại được pháp luật về chứng thực đề cập đến, nhưng dưới hình thức chứng thực chữ ký bên ủy quyền (mà không phải chứng thực dưới hình thức hợp đồng, giao dịch). Nhưng cho dù tên gọi của loại văn bản ủy quyền là gì đi chăng nữa, chúng đều là quan hệ hợp đồng, do đó, khi CCV chứng nhận vẫn phải tuân thủ các nguyên tắc, quy định của pháp luật dân sự về hợp đồng nói chung và về dạng hợp đồng ủy quyền nói riêng để thực hiện công chứng. Tuy nhiên, để đảm bảo an toàn cho các bên tham gia giao dịch, cơ quan chức năng nên hướng dẫn các bên lập hợp đồng ủy quyền để đảm bảo chặt chẽ, tránh rủi ro pháp lý về sau.
1.3. Giao kết hợp đồng ủy quyền Luận văn: Công chứng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam
1.3.1. Hình thức của hợp đồng ủy quyền
Hình thức là yếu tố pháp lý quan trọng của hợp đồng nói chung, có mối quan hệ với bản chất, nội dung, giá trị hiệu lực, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng và là phương tiện để diễn đạt ý chí của các bên cũng như để chứng minh sự tồn tại của hợp đồng. Hình thức của hợp đồng có ý nghĩa và vai trò rất quan trọng, đó là “Sự an toàn về mặt pháp lý trong quan hệ hợp đồng cũng như để bảo toàn chứng cứ và bảo vệ trật tự pháp luật, lợi ích xã hội, có những trường hợp hợp đồng giao kết phải tuân theo những hình thức pháp luật quy định, nếu không các bên tham gia giao kết sẽ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi” [12, tr.23, tr 38]
BLDS năm 1995 quy định hình thức hợp đồng ủy quyền bắt buộc phải lập thành văn bản, trong trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định thì hợp đồng ủy quyền phải công chứng, chứng thực. Đây là một quy định cứng, bắt buộc các chủ thể khi tham gia vào quan hệ đại diện theo ủy quyền đều phải lập thành văn bản dù cho công việc được ủy quyền có đơn giản hay phức tạp. Điều này dẫn đến một bất cập trên thực tế đó là: Theo quy định tại BLDS năm 1995 thì với những hợp đồng ủy quyền không được lập thành văn bản sẽ bị coi là vô hiệu vì không tuân thủ quy định về hình thức của hợp đồng.
Khắc phục bất cập của quy định trên, BLDS năm 2005 không quy định cụ thể hình thức của hợp đồng ủy quyền. Thay vào đó, hình thức của hợp đồng ủy quyền được áp dụng theo quy định tại Điều 401 về hình thức của hợp đồng dân sự nói chung. Đến BLDS 2015 vẫn giữ nguyên hình thức của hợp đồng uỷ quyền cụ thể như sau:
Điều 116 BLDS năm 2015 quy định: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” Luận văn: Công chứng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam
Điều 119 BLDS năm 2015 quy định: “Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản. Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó”.
Điều 562, BLDS năm 2015 quy định: “Hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền, bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.”
Hình thức của hợp đồng ủy quyền được áp dụng theo quy định chung về hình thức của hợp đồng dân sự. Hợp đồng ủy quyền có thể được thể hiện bằng hình thức như lời nói, bằng văn bản hoặc hành vi cụ thể khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định; trong trường hợp pháp luật quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy về hình thức. Tương ứng với từng loại việc thì hợp đồng ủy quyền có thể được thể hiện bằng dưới hình thức khác nhau. Việc xác định hình thức của hợp đồng ủy quyền căn cứ vào quy định của pháp luật, công việc ủy quyền và những giao dịch mà người được ủy quyền xác lập với người thứ ba.
Theo quy định hiện hành, việc ủy quyền có thể bằng lời nói, có thể bằng văn bản. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, việc ủy quyền này phải được lập thành văn bản thì mới có giá trị. Hiện nay, các trường hợp ủy quyền phải lập thành văn bản nằm rải rác ở các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, cụ thể như sau:
Chủ thể trong quan hệ dân sự có sự tham gia của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân (Khoản 1 Điều 101 BLDS 2015).
Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự thì các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Khi có sự thay đổi người đại diện thì phải thông báo cho bên tham gia quan hệ dân sự biết.
Trường hợp thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự không được các thành viên khác ủy quyền làm người đại diện thì thành viên đó là chủ thể của quan hệ dân sự do mình xác lập, thực hiện.
Thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo (Khoản 2, Điều 96 Luật hôn nhân gia đình 2014)
Thỏa thuận về việc mang thai hộ phải được lập thành văn bản có công chứng. Trong trường hợp vợ chồng bên nhờ mang thai hộ ủy quyền cho nhau hoặc vợ chồng bên mang thai hộ ủy quyền cho nhau về việc thỏa thuận thì việc ủy quyền phải lập thành văn bản có công chứng. Việc ủy quyền cho người thứ ba không có giá trị pháp lý.
Trong trường hợp thỏa thuận về mang thai hộ giữa bên mang thai hộ và bên nhờ mang thai hộ được lập cùng với thỏa thuận giữa họ với cơ sở y tế thực hiện việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì thỏa thuận này phải có xác nhận của người có thẩm quyền của cơ sở y tế này.
Điều tra vụ tai nạn lao động, sự cố kỹ thuật gây mất an toàn, vệ sinh lao động, sự cố kỹ thuật gây mất an toàn, vệ sinh lao động nghiêm trọng (Khoản 1 Điều 35 Luật An toàn vệ sinh lao động 2015)
Người sử dụng lao động có trách nhiệm thành lập Đoàn điều tra tai nạn lao động cấp cơ sở để tiến hành điều tra tai nạn lao động làm bị thương nhẹ, tai nạn lao động làm bị thương nặng một người lao động thuộc thẩm quyền quản lý của mình, trừ trường hợp đã được điều tra theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này hoặc tai nạn lao động được cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều tra theo quy định của pháp luật chuyên ngành.
Thành phần Đoàn điều tra tai nạn lao động cấp cơ sở gồm có người sử dụng lao động hoặc người đại diện được người sử dụng lao động ủy quyền bằng văn bản làm Trưởng đoàn và các thành viên là đại diện Ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc đại diện tập thể người lao động khi chưa thành lập tổ chức công đoàn cơ sở, người làm công tác an toàn lao động, người làm công tác y tế và một số thành viên khác.
Người được người sử dụng lao động ủy quyền quản lý lao động yêu cầu người lao động thực hiện công việc theo yêu cầu ngoài nơi làm việc hoặc ngoài giờ làm việc và người lao động này bị tai nạn lao động thì người lao động được hưởng chế độ bảo hiểm tai nạn lao động (Khoản 1 Điều 45 Luật An toàn vệ sinh lao động 2015).
Cá nhân uỷ quyền cho người khác làm thủ tục yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp số 1 (Khoản 3 Điều 45 Luật Lý lịch tư pháp 2009)
Trường hợp người yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp là cha, mẹ, vợ, chồng, con của người được cấp Phiếu lý lịch tư pháp thì không cần văn bản ủy quyền.
Chủ nợ có thể ủy quyền bằng văn bản cho người khác tham gia Hội nghị chủ nợ và người được ủy quyền có quyền, nghĩa vụ như chủ nợ (Khoản 1 Điều 77 Luật phá sản 2014)
Người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, chủ doanh nghiệp hoặc người đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán nếu không tham gia Hội nghị chủ nợ thì ủy quyền cho người khác tham gia. (Khoản 1 Điều 78 Luật phá sản 2014)
Người yêu cầu cấp bản sao trích lục hộ tịch, yêu cầu đăng ký các việc hộ tịch theo quy định uỷ quyền cho người khác thực hiện thay, trừ trường hợp đăng ký kết hôn, đăng ký lại việc kết hôn, đăng ký nhận cha, mẹ, con (Khoản 2 Điều 6 Luật hộ tịch 2014 và Điều 2 Thông tư 15/2015/TT-BTP)
(Lưu ý: Văn bản ủy quyền phải được công chứng, chứng thực; phạm vi uỷ quyền có thể gồm toàn bộ công việc theo trình tự, thủ tục đăng ký hộ tịch từ khi nộp hồ sơ đến khi nhận kết quả đăng ký hộ tịch). Luận văn: Công chứng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam
Trường hợp người được ủy quyền là ông, bà, cha, mẹ, con, vợ, chồng, anh, chị, em ruột của người ủy quyền thì văn bản ủy quyền không phải công chứng, chứng thực, nhưng phải có giấy tờ chứng minh mối quan hệ với người uỷ quyền)
Người đại diện theo pháp luật duy nhất của doanh nghiệp khi xuất cảnh khỏi Việt Nam ủy quyền cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình (Khoản 3 Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2014).
Chủ tịch Hội đồng thành viên vắng mặt hoặc không đủ năng lực để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình ủy quyền cho một thành viên thực hiện các quyền và nghĩa vụ của Chủ tịch Hội đồng thành viên theo nguyên tắc quy định tại Điều lệ công ty (Khoản 4 Điều 57 Luật doanh nghiệp 2014).
Chủ tịch công ty (doanh nghiệp nhà nước) vắng mặt ở Việt Nam trên 30 ngày ủy quyền bằng văn bản cho người khác thực hiện một số quyền, nghĩa vụ của Chủ tịch công ty (Khoản 7 Điều 98 Luật doanh nghiệp 2014).
Cổ đông ủy quyền cho người khác tham gia Đại hội đồng cổ đông (Khoản
Điều 140 Luật doanh nghiệp 2014)
Chủ tịch Hội đồng quản trị vắng mặt hoặc không thể thực hiện được nhiệm vụ của mình thì ủy quyền cho một thành viên khác thực hiện các quyền và nghĩa vụ của Chủ tịch Hội đồng quản trị theo nguyên tắc quy định tại Điều lệ công ty (Khoản 4 Điều 152 Luật Doanh nghiệp 2014)
Đương sự hoặc người đại diện theo pháp luật của đương sự ủy quyền tham gia tố tụng hành chính (Khoản 3 Điều 60, Khoản 6 Điều 205 Luật tố tụng hành chính 2015).
Đương sự ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng dân sự, trừ trường hợp ly hôn (Điều 86 BLTTDS 2015).
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở Việt Nam được nhận thừa kế thì ủy quyền cho người khác thuộc diện được nhận thừa kế quyền sử dụng đất nộp hồ sơ về việc nhận thừa kế tại cơ quan đăng ký đất đai để cập nhật vào sổ địa chính (Khoản 4 Điều 186 Luật đất đai 2013).
Người nhận thừa kế là Người Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở Việt Nam ủy quyền cho người trông nom hoặc tạm sử dụng đất và thực hiện nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về đất đai và quy định khác của pháp luật có liên quan (Khoản 5 Điều 186 Luật đất đai 2013).
1.3.2. Chủ thể giao kết hợp đồng uỷ quyền Luận văn: Công chứng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam
Hợp đồng nói chung là sự thỏa thuận giữa các bên về việc phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ. Chủ thể là một trong những điều kiện quan trọng để xác định hiệu lực của hợp đồng. Tùy từng loại hợp đồng mà điều kiện về chủ thể tham gia giao kết hợp đồng là khác nhau nhưng tất cả đều phải đáp ứng điều kiện cơ bản.
Điều 562 BLDS 2015 quy định Hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền, bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.
Trên cơ sở hợp đồng ủy quyền, người được ủy quyền đại diện cho người ủy quyền thực hiện các hành vi pháp lí trong phạm vi thẩm quyền. Vì vậy, đại diện theo ủy quyền có hai mối quan hệ pháp lí cùng tồn tại.
Quan hệ giữa người ủy quyền và người được ủy quyền. Người được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện các hành vi pháp lí trong phạm vi ủy quyền.
Quan hệ giữa người được ủy quyền với bên thứ ba của giao dịch. Người được ủy quyền với tư cách của người đã ủy quyền giao kết hoặc thực hiện các giao dịch dân sự với người thứ ba. Người được ủy quyền có những quyền và nghĩa vụ nhất định với người thứ ba của giao dịch.
Hợp đồng ủy quyền cũng giống như những hợp đồng dân sự khác, khi tham gia giao kết các chủ thể phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Vì vậy, khi tham gia giao kết hợp đồng thì người ủy quyền và người được ủy quyền phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự.
Đối với cá nhân, để tham gia vào giao dịch dân sự nói chung cần phải có đủ cả năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Năng lực pháp luật dân sự là khả năng của cá nhân đó có quyền dân sự và có nghĩa vụ dân sự. Năng lực hành vi dân sự là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự đó; Cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi dân sự hay không phụ thuộc vào độ tuổi và những đặc điểm về thể chất, tinh thần của từng cá nhân đó.
Bên cạnh đó, khi tham gia vào các quan hệ dân sự ngoài cá nhân còn có pháp nhân. Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 74 BLDS 2015: được thành lập theo quy định của BLDS, luật khác có liên quan, có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của BLDS, có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình và nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
1.3.2.1. Bên ủy quyền Luận văn: Công chứng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam
Bên ủy quyền là bên có nhu cầu thực hiện một hoặc một số công việc hay có nhu cầu tham gia vào các giao dịch nhưng không tự mình thực hiện công việc đó hoặc thấy rằng nếu tự thực hiện thì hiệu quả công việc không cao nên ủy quyền cho chủ thể khác phù hợp thay mình thực hiện công việc này.
Nếu bên ủy quyền là cá nhân thì phải có năng lực hành vi dân sự; Nếu là pháp nhân thì phải đáp ứng các điều kiện về mặt tổ chức và người trực tiếp giao kết hợp đồng dân sự phải là người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, hoặc là người đã được người đại diện theo pháp luật của pháp nhân ủy quyền và trong trường hợp này người đại diện theo pháp luật của pháp nhân chỉ được ủy quyền các công việc thuộc phạm vi thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật.
Người uỷ quyền phải có đủ quyền năng pháp lý đối với công việc mà họ muốn hoặc dự định giao cho người được uỷ quyền thực hiện. Quyền năng này phát sinh do những đặc điểm nhân thân riêng biệt của cá nhân người uỷ quyền (ví dụ: quyền tác giả đối với tác phẩm) hoặc những quyết định, xác nhận, công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cá nhân, tổ chức có liên quan. Trong một công việc cụ thể, pháp luật không quy định người ủy quyền có thể ủy quyền cho bao nhiêu người. Do đó, người ủy quyền có thể ủy quyền cho một hoặc nhiều người thực hiện công việc ủy quyền. Ví dụ: A có thể cùng ủy quyền cho B và C làm đại diện tại Tòa án. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định thì người ủy quyền chỉ có thể ủy quyền cho một người đó là trường hợp người được ủy quyền khi thực hiện hành vi sẽ triệt tiêu quyền của người ủy quyền. Ví dụ: X ủy quyền cho Y ký hợp đồng bán nhà với Z, khi Y đã ký hợp đồng nhân danh X thì X không thể ủy quyền cho người khác bán căn nhà của mình.
Như vậy, bên uỷ quyền là một chủ thể của hợp đồng uỷ quyền có thể là cá nhân, pháp nhân và chủ thể khác. Khi tham gia giao kết hợp đồng ủy quyền nếu bên ủy quyền là cá nhân thì phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự và năng lực giao kết, nếu là pháp nhân và chủ thể khác thì việc ủy quyền phải trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình và có quyền thực hiện những công việc mà mình ủy quyền.
1.3.2.2. Bên được ủy quyền
Đối với người được ủy quyền thì năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự là điều kiện bắt buộc để một người có thể là một bên trong hợp đồng ủy quyền. Người được ủy quyển bị chi phối bởi phạm vi và nội dung công việc ủy quyền; do đó, khi thực hiện công việc ủy quyền, người được ủy quyền không được vượt quá giới hạn ủy quyền. Để thực hiện công việc được ủy quyền, người được ủy quyền cần sự giúp đỡ của người khác.
Người được uỷ quyền phải có đủ khả năng thực hiện công việc (như là kỹ năng, kinh nghiệm nghề nghiệp, thuận tiện về vị trí địa lý, có chứng chỉ hoạt động đối với một số ngành, nghề bắt buộc,…) mà người uỷ quyền giao cho và họ phải tự nguyện đảm nhận việc được uỷ quyền đó.
1.3.3. Đối tượng của hợp đồng ủy quyền Luận văn: Công chứng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam
Theo quy định tại Điều 585 BLDS 1995, Điều 581 BLDS 2005 và Điều 562 BLDS 2015, thì đối tượng của ủy quyền là công việc mà bên được ủy quyền thực hiện (làm thay) cho bên ủy quyền theo thỏa thuận giữa hai bên. Công việc ủy quyền có đặc điểm như sau:
Công việc ủy quyền phải trong khuôn khổ và phải phù hợp với các quy định của pháp luật. Không phải người nào cũng có quyền ủy quyền cho người khác thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình nếu như công việc ủy quyền đó vi phạm pháp luật hoặc làm ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của người khác.
Ví dụ: Sau khi ly hôn, Tòa án đã giao cho người chồng trực tiếp nuôi con (chưa đến tuổi thành niên) nhưng do điều kiện phải đi công tác dài hạn ở nước ngoài nên người chồng đã ủy quyền cho bố mẹ đẻ của mình nuôi người con đó. Việc ủy quyền này không thể thực hiện được vì theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nếu người nuôi con không đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì có quyền yêu cầu Tòa án quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con (Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014).
Công việc ủy quyền phải trên cơ sở của sự tự nguyện thỏa thuận của bên ủy quyền và bên được ủy quyền. Về bản chất quan hệ ủy quyền là quan hệ hợp đồng dân sự, vì vậy nó được xác lập trên cơ sở của sự tự nguyện thỏa thuận của hai bên là bên ủy quyền và bên được ủy quyền. Do đó, trong trường hợp này chỉ có bên ủy quyền đứng ra lập giấy ủy quyền thì chính bản thân họ đã phải trao đổi, thỏa thuận để biết và phải biết rõ họ ủy quyền cho ai và người được ủy quyền đã đồng ý thực hiện công việc mà họ được giao. Ngược lại, người được ủy quyền khi thực hiện công việc ủy quyền cũng phải biết rõ được ai giao cho họ thực hiện công việc đó và việc họ thực hiện nội dung của giấy ủy quyền đã minh chứng cho việc họ đồng ý nhận thực hiện công việc do người ủy quyền giao cho.
Sự tự nguyện của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật về ủy quyền phải được thể hiện trong trạng thái không có sự ép buộc, đe dọa hoặc dối trá nào. Để xác định được điều đó thì CCV ngoài sự nhạy cảm, kinh nghiệm nghề nghiệp còn phải cố gắng tìm ra những điều trung thực ẩn sau những yêu cầu công chứng của đương sự. Tuy nhiên, một khi người yêu cầu công chứng đã cố ý gian dối trong thể hiện ý chí của họ thì việc họ lừa dối và không trung thực với CCV vẫn có thể xảy ra. Việc xác định ý chí tự nguyện của các chủ thể phải được CCV đặc biệt chú ý trong trường hợp người công chứng ủy quyền là người cao tuổi hoặc những người bị khó khăn trong việc thể hiện ý chí do bị khuyết tật như câm, điếc,…
1.3.4. Thời hạn của hợp đồng ủy quyền Luận văn: Công chứng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam
Điều 563 BLDS 2015 xác định: “Thời hạn ủy quyền do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định; nếu không có thỏa thuận hoặc pháp luật không có quy định thì hợp đồng ủy quyền có hiệu lực 01 năm, kể từ ngày xác lập việc ủy quyền.”
Vì vậy, khi dự thảo văn bản ủy quyền, CCV phải ghi rõ thời hạn ủy quyền trong văn bản ủy quyền. Thực tiễn cho thấy, có những việc ủy quyền không xác định rõ được thời hạn ủy quyền. Ví dụ: ủy quyền tham gia tố tụng tại Tòa án. Nếu như người ủy quyền đồng ý ủy quyền cho người được ủy quyền thay mặt mình tham gia tố tụng cho đến khi vụ án dân sự được giải quyết xong thì CCV thường ghi theo hướng sau: “Thời hạn ủy quyền từ ngày ký hợp đồng ủy quyền này hoặc giấy ủy quyền này đến khi vụ án được giải quyết, xét xử xong”. Nhiều trường hợp khác, CCV ghi một cách chung nhất như: “Thời hạn ủy quyền từ ngày ký hợp đồng ủy quyền hoặc giấy ủy quyền này đến khi công việc ủy quyền được thực hiện xong”.
1.3.5. Ủy quyền lại
Bên được ủy quyền chỉ được ủy quyền lại cho người khác nếu được bên ủy quyền đồng ý hoặc do sự kiện bất khả kháng nếu không áp dụng ủy quyền lại thì mục đích xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vì lợi ích của người ủy quyền không thể thực hiện được. Hình thức hợp đồng ủy quyền lại cũng phải phù hợp với hình thức hợp đồng ủy quyền ban đầu.
Ủy quyền là việc thực hiện công việc nhân danh người khác, do vậy ủy quyền lại phải được bên ủy quyền đồng ý hoặc pháp luật có quy định (quy định ở cấp độ là được ủy quyền lại mà không cần sự đồng ý của bên ủy quyền), tuy nhiên dù có hay không việc ủy quyền lại thì người được ủy quyền vẫn phải chịu trách nhiệm với người ủy quyền về công việc ủy quyền.
Hiện nay pháp luật dân sự Việt Nam không quy định về việc có thể ủy quyền lại bao nhiêu lần. Do đó, người được ủy quyền lại (là người thứ ba trong quan hệ với người ủy quyền và người được ủy quyền) được tiếp tục ủy quyền lại cho người thứ tư và người này lại ủy quyền tiếp tục cho người khác nữa.
Cần lưu ý là trong văn bản ủy quyền nếu bên ủy quyền đồng ý cho bên được ủy quyền được ủy quyền lại thì yêu cầu này phải ghi rõ trong văn bản ủy quyền. Trong trường hợp văn bản ủy quyền không ghi, điều đó có nghĩa là người được ủy quyền không được phép ủy quyền lại. Trong trường hợp này, người được ủy quyền muốn ủy quyền lại thì phải được sự chấp thuận bằng văn bản của người ủy quyền.
Hình thức của văn bản ủy quyền lại cũng phải phù hợp với hình thức của văn bản ủy quyền ban đầu, nghĩa là nếu văn bản ủy quyền ban đầu được công chứng, chứng thực thì văn bản ủy quyền lại cũng phải được công chứng, chứng thực.
Phạm vi ủy quyền lại cũng không được vượt quá phạm vi ủy quyền ban đầu, nghĩa là chỉ được ủy quyền lại những nội dung công việc mà bên ủy quyền được ủy quyền, nếu vượt quá phạm vi ban đầu thì phần vượt quá đó vô hiệu và không có hiệu lực đối với người ủy quyền.
Tóm lại, dường như việc ủy quyền lại là một bộ phận không thể tách rời của hợp đồng ủy quyền ban đầu. Nói một cách cụ thể hơn, nếu không xảy ra “sự kiện bất khả kháng” (Khoản 1 Điều 156 BLDS 2015) thì việc ủy quyền lại chỉ có thể được thực hiện khi có sự đồng ý, nhất trí của người ủy quyền đầu tiên.
1.4. Chấm dứt hợp đồng ủy quyền Luận văn: Công chứng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam
1.4.1. Các trường hợp chấm dứt hợp đồng ủy quyền
Hết hạn ủy quyền theo văn bản ủy quyền. Thời hạn ủy quyền do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định; nếu không có thỏa thuận và pháp luật không có quy định thì hợp đồng ủy quyền có hiệu lực một năm, kể từ ngày xác lập việc ủy quyền.
Công việc được ủy quyền đã hoàn thành. Được coi là hoàn thành khi công việc được thực hiện xong toàn bộ như thỏa thuận. Nếu không có thỏa thuận thì phải căn cứ vào mục đích của công việc ủy quyền để nhận định công việc đã hoàn thành hay chưa.
Bên ủy quyền hoặc bên được ủy quyền chết, bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dấn sự, mất tích hoặc đã chết.
Các bên cùng thỏa thuận thay đổi, hủy bỏ hay chấm dứt ủy quyền, cũng như hợp đồng dân sự khác, các bên tham gia có quyền thỏa thuận thay đổi, hủy bỏ và chấm dứt hợp đồng theo ý chí của các bên. Khi văn bản ủy quyền chấm dứt theo thỏa thuận của hai bên, những hợp đồng, giao dịch đã thực hiện trong phạm vi của ủy quyền giữa bên được ủy quyền và bên thứ ba vẫn có hiệu lực đối với bên ủy quyền.
1.4.2. Đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền Luận văn: Công chứng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam
Bên ủy quyền, bên được ủy quyền đơn phương chấm dứt thực hiện ủy quyền theo quy định tại Điều 569 BLDS 2015. Văn bản ủy quyền có đặc điểm riêng biệt là cả bên ủy quyền hoặc bên được ủy quyền khi tham gia văn bản ủy quyền đều có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện ủy quyền bất cứ lúc nào, không phụ thuộc vào bất cứ điều kiện hay nội dung nào đã thỏa thuận trong văn bản ủy quyền.
Tuy nhiên đối với ủy quyền có thù lao và không có thù lao thì có sự phân biệt trách nhiệm của các bên khi đơn phương chấm dứt ủy quyền. Đối với ủy quyền không có thù lao, bên đơn phương chấm dứt phải báo trước cho bên kia một thời gian hợp lý với mục đích đủ để bên kia chuẩn bị cho việc chấm dứt đó (ví dụ: tìm chọn người khác thay thế để tiếp tục công việc, tiếp nhận giấy tờ, tài liệu và tài sản liên quan…) Đối với ủy quyền có thù lao thì bên đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền phải bồi thường thiệt hại từ việc đơn phương chấm dứt đó cho bên kia. Ngoài ra, bên ủy quyền nếu đơn phương chấm dứt vẫn phải trả thù lao tương ứng với công việc mà bên được ủy quyền đã thực hiện.
Bên ủy quyền phải có nghĩa vụ thông báo bằng văn bản cho người thứ ba biết về việc bên ủy quyền đơn phương chấm dứt thực hiện ủy quyền. Nếu không thông báo thì hợp đồng, giao dịch giữa người được ủy quyền với người thứ ba vẫn có hiệu lực đối với bên ủy quyền, trừ trường hợp người thứ ba biết hoặc buộc phải biết về việc ủy quyền đã bị chấm dứt, nhưng người thứ ba vẫn cố tình giao kết, tham gia hợp đồng, giao dịch với người được ủy quyền. Trong trường hợp này thì người được ủy quyền và người thứ ba phải chịu trách nhiệm về việc giao kết hợp đồng.
1.5. Giá trị pháp lý của văn bản uỷ quyền Luận văn: Công chứng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam
Cũng như các văn bản công chứng, chứng thực khác, văn bản uỷ quyền khi đã được lập và chứng nhận, chứng thực tại cơ quan có thẩm quyền theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định thì đều có giá trị chứng cứ và giá trị thực hiện.
Tại Điều 5 LCC năm 2014 quy định: “1. Văn bản công chứng có hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng.
Hợp đồng, giao dịch được công chứ g có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác. 3. Hợp đồng, giao dịch được công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch được công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu…”.
Như vậy, không thể có người nào khác ngoài người được uỷ quyền là người có quyền và nghĩa vụ trong việc thực hiện những công việc đã thoả thuận và được ghi nhận trong văn bản uỷ quyền. Ngược lại, bằng văn bản uỷ quyền các bên xác lập quyền và nghĩa vụ của bên uỷ quyền đối với bên được uỷ quyền về những nội dung mà bên uỷ quyền đã cam kết và chịu trách nhiệm trong phạm vi uỷ quyền.
Giá trị thực hiện của văn bản uỷ quyền còn thể hiện ở việc chấp nhận của bên thứ ba khi bên thứ ba chấp nhận việc uỷ quyền đó và coi đó như là một thủ tục cần thiết để thực hiện công việc đã thoả thuận với bên có quyền. Luận văn: Công chứng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam
Trường hợp có tranh chấp trong việc thực hiện văn bản uỷ quyền thì các bên có liên quan căn cứ vào nội dung của văn bản uỷ quyền xem xét và tìm hướng giải quyết. Nếu không giải quyết được, mỗi bên có quyền yêu cầu toà án giải quyết. Khi đó giá trị pháp lý của văn bản uỷ quyền là chứng cứ có giá trị cao nhất để Toà án xem xét giải quyết sự việc tranh chấp này.
Điều kiện để văn bản uỷ quyền có giá trị pháp lý, ngoài những điều kiện bắt buộc chung về chủ thể như những người uỷ quyền và người được uỷ quyền phải có năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật thì nội dung của công việc uỷ quyền không trái với các quy định của pháp luật, đạo đức xã hội, đồng thời cũng không được xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người liên quan và những công việc này không phải là những việc mà pháp luật yêu cầu đương sự phải tự thực hiện hoặc pháp luật quy định không được uỷ quyền cho người khác thực hiện.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Về tổng quan, cuộc sống của con người trong xã hội được điều chỉnh bằng các quan hệ hợp đồng và hầu hết các nhu cầu của con người được đáp ứng thông qua mối quan hệ với những người khác. Để đáp ứng nhu cầu sống hoặc vì kinh doanh, người này có thể nhờ người kia hoặc ngược lại. Nhu cầu trong cuộc sống thì rất lớn, thời gian thì có hạn, năng lực mỗi người thì khác nhau, nên cần tới sự hành động của người khác cho lợi ích của mình. Vì vậy vấn đề đại diện được đặt ra.
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, những giao dịch dân sự thương mại diễn ra rất phổ biến. Tuy nhiên, không phải lúc nào chủ thể cũng có thể trực tiếp tham gia mà việc thực hiện các giao dịch này có thể thông qua đại diện theo ủy quyền. Hợp đồng ủy quyền được coi là căn cứ pháp lý để người đại diện thực hiện các giao dịch cho cá nhân hoặc tổ chức mà mình làm đại diện.
Đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa người đại diện và người được đại diện. Tức là dựa trên cơ sở tự do thỏa thuận, theo ý chí của các bên. Hình thức ủy quyền do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp pháp luật quy định việc ủy quyền phải được lập thành văn bản. Tùy tính chất của thẩm quyền đại diện mà hình thức có thể đơn giản hoặc phức tạp khác nhau. Luận văn: Công chứng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Khái quát hợp dồng ủy quyền thực tiễn tại Tp HCM